Tin Quân Sự - Blog tin tức Quân sự Việt Nam

Paracel Islands & Spratly Islands Belong to Viet Nam !

Quần Đảo Hoàng Sa - Quần Đảo Trường Sa Thuộc Về Việt Nam !

Thứ Sáu, 24 tháng 6, 2011

>> Học giả Trung Quốc yếu thế khi thảo luận về biển Đông





Các học giả thống nhất ở một điểm: Trung Quốc phải chịu trách nhiệm cho căng thẳng gia tăng.
Hai ngày thảo luận về an ninh hàng hải ở Biển Đông, các học giả quốc tế đặt nhiều câu hỏi về khả năng của những xung đột nóng và cuộc chạy đua vũ trang trên Biển Đông, khi các bên có xu hướng cứng rắn hơn.

Ai đang làm nổi sóng Biển Đông?

Các học giả Trung Quốc cho rằng chính Mỹ, và Việt Nam, Philippines gây căng thẳng ở Biển Đông. GS Tô Hạo nói rằng, phải có lí do gì mới xảy ra nhiều sự cố như vậy trên Biển Đông trong thời gian ngắn. Trung Quốc - Việt Nam từng hợp tác tốt trong quá khứ. Hẳn Việt Nam phải có hành động nào đó, và Trung Quốc đáp trả. (Việc đổ lỗi này không có gì mới, nếu nhìn vào những phát biểu chính thức của Trung Quốc sau các sự cố vừa qua - NV).

Một vị học giả khác cũng đến từ Trung Quốc thì cho rằng, chính Mỹ hậu thuẫn cho ASEAN nói riêng và Việt Nam nói chung trong việc nói cứng với nước này về Biển Đông. Có viên chức của Đại sứ quán Trung Quốc còn đặt thẳng câu hỏi cho học giả Việt Nam: "Nếu Mỹ không đứng đằng sau lưng, thì các anh có phản ứng mạnh như thế không?" (Trong khi đó, TS Trần Trường Thủy nói rõ: việc Việt Nam công khai những hành động của Trung Quốc là muốn Trung Quốc nghĩ lại, thay đổi cách hành xử).

Góc nhìn này không nhận được sự chia sẻ của các học giả quốc tế. Câu hỏi "có ai ở đây ủng hộ quan điểm của Trung Quốc" được đáp lại bằng tràng cười học giả, không hơn. Các học giả thống nhất ở một điểm: Trung Quốc phải chịu trách nhiệm cho căng thẳng gia tăng.Về việc các nước ASEAN kêu gọi Mỹ can dự ở biển Đông, TS Stein Tonnesson cho rằng "chuyện này hoàn toàn do lỗi của Trung Quốc, đặc biệt là do những hành vi của lực lượng hải giám nước này trong hai năm vừa rồi".



TNS John McCain tại buổi tiếp tân hội thảo. Ảnh: TT.


TNS John McCain đã "nói thẳng" sự thật "không mấy vui vẻ": Một trong những lực lượng chính làm cho các căng thẳng trên biển Đông trầm trọng hơn, và làm cho giải pháp hòa bình của các tranh chấp này khó khăn hơn để đạt được, đó là hành vi hung hăng của Trung Quốc và việc đòi chủ quyền lãnh thổ vô căn cứ mà họ tìm cách theo đuổi.

Còn GS Carl Thayer thì cho rằng Trung Quốc đang "trả đũa" Việt Nam vì vai trò của nước này trong việc quốc tế hóa vấn đề Biển Đông năm 2010 trên tư cách chủ tịch ASEAN. Hành động của Trung Quốc ở Bãi Cỏ Rong nhằm mục đích thăm dò xem liệu Hiệp định an ninh chung Mỹ - Philippines có giá trị hay không đối với cụm đảo Kalayaan.

Về việc Trung Quốc lựa chọn thời điểm cuối tháng 5 và đầu tháng 6 ngay trước và sau thềm hội nghị an ninh lớn ở Shangri-La, các học giả cho rằng chủ đích của Trung Quốc là để đo phản ứng của các nước, đặc biệt là Mỹ, đối với các động thái gây hấn của mình. Trên góc độ nào đó, Trung Quốc đã cảm thấy mình có khả năng thách thức trật tự mà Mỹ đang kiểm soát.

Đâu mới là bộ mặt thật của Trung Quốc?

Hiện nay, một mặt, giới lãnh đạo Bắc Kinh khi tiếp xúc với Mỹ (Tổng thống Obama vào tháng 1/2011 và Bộ trưởng Quốc phòng Robert Gates tại Shangri La) thể hiện quyết tâm kiềm chế, vì quan hệ chiến lược Mỹ - Trung. Mặt khác, Trung Quốc lại leo thang liên tục bằng các áp lực quân sự và phi quân sự lên Việt Nam và Philippines ở Biển Đông.

"Chúng ta thấy rõ sự khác biệt giữa lời nói và việc làm của Trung Quốc. Ngay sau những tuyên bố hòa bình của bộ trưởng quốc phòng Trung Quốc ở Shangri-La chỉ vài ngày, tàu Trung Quốc lại tiếp tục cắt cáp tàu Viking 2", ông Quý chỉ rõ.

Giới học giả tại hội thảo đặt câu hỏi: Đâu mới là bộ mặt thật của Trung Quốc (real China)?

Liệu Bắc Kinh có thực sự chân thành, hay chỉ sử dụng những lời ngọt ngào ở cấp lãnh đạo chính trị để lừa phỉnh Mỹ và ASEAN tin rằng sự leo thang dọa dẫm sẽ chấm dứt? Hay lãnh đạo nước này dùng quân sự để bắt các nước ASEAN yếu hơn nhượng bộ, và có lẽ, sau đó, sẽ là sự nhượng bộ từ Mỹ?

Vẫn không có câu trả lời rõ ràng cho những câu hỏi này, trong khi mối lo về các sự cố vẫn hiện hữu, khi tần suất các sự cố thời gian qua tăng đáng ngại.

Nếu Trung Quốc cứ tiếp tục những hành động lấn át, thì tình hình Ðông Nam Á sẽ rất bất ổn, vì "bất cứ một động thái nhỏ nào cũng có thể biến thành chuyện lớn", TS Đặng Đình Quý, Giám đốc Học viện Ngoại giao Việt Nam nói.

Cần tạo áp lực ngoại giao tổng hợp, tránh đối đầu

Theo GS Carl Thayer, cả Philippines và Việt Nam nên có các bước đi để tăng cường khả năng thực thi chủ quyền quốc gia ở vùng đặc quyền kinh tế của mỗi nước. Sự yếu kém của họ chỉ càng mời mọc Trung Quốc hành xử quyết đoán hơn.

Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là đối đầu bằng vũ lực với Trung Quốc. Bởi như lo ngại của không ít học giả, chủ nghĩa dân tộc lên cao ở Bắc Kinh và Hà Nội sẽ khiến leo thang mức độ tranh chấp, theo tính toán hoặc có thể, không chủ ý.

Hiện nay, Trung Quốc hăm dọa láng giềng, láng giềng hăm dọa lại. Thế nhưng, nếu Việt Nam cứng tới mức xảy ra xung đột nóng, Trung Quốc càng hưởng lợi nhiều, vị giáo sư người Úc này nói.

Theo ông, ASEAN và cộng đồng quốc tế phải đấu tranh về mặt ngoại giao với những hành xử quyết đoán mang tính hiếu chiến của Trung Quốc.

Cần tạo "áp lực ngoại giao tổng hợp" lên Trung Quốc trong hai hội nghị tới đây, ARF và Thượng đỉnh Đông Á để nước này tôn trọng cam kết của mình trong DOC.


Tàu hải giám Trung Quốc thường xuyên quấy nhiễu vùng biển thuộc chủ quyền các nước khác.


Trong khi bác bỏ khả năng chiến tranh, trao đổi tại hội thảo, GS Tô Hạo nhiều lần nhấn mạnh Việt Nam và Trung Quốc là anh em. Theo ông này, anh em thì cũng có khác biệt. Người anh lớn hơn, mạnh hơn, luôn muốn người em nghe lời mình còn người em lúc nào cũng bị áp lực ở dưới tầm che chở của anh, nên có tâm lí sợ anh là lẽ thường.

GS Carl Thayer lưu ý, Việt Nam cần hết sức cẩn trọng tính toán việc cứng rắn với Trung Quốc. Việt Nam phải học từ lịch sử của chính mình. Hơn ai hết, Việt Nam biết "quan hệ anh em" của hai nước vẫn xảy ra chiến tranh.

TS Trần Trường Thủy khẳng định, Việt Nam không muốn đứng ở phía đối đầu với Trung Quốc. Các học giả Việt Nam và ASEAN đều nhắc lại chủ trương theo đuổi giải pháp hòa bình trên Biển Đông, không sử dụng vũ lực hay đe dọa sử dụng vũ lực.

Luật sư Nguyễn Duy Chiến của Học viện Ngoại giao Việt Nam lại lưu ý: "Để giải quyết mâu thuẫn cần phải dựa trên những mâu thuẫn thật chứ không thể tạo ra mâu thuẫn giả để gây căng thẳng. Một số nước cố tình ngụy tạo mâu thuẫn giả ở vùng biển của nước khác".

Về phía Trung Quốc, TS Stein Tonneson cũng nhắn Giáo sư Tô Hạo: "Trong vòng 2 năm qua, Trung Quốc đã có thái độ hiếu chiến hơn với các nước láng giềng. Tôi buộc lòng phải quy trách nhiệm cho Bắc Kinh, và hy vọng là khi về nước, ông sẽ khuyên chính quyền ông nên xét kỹ lại chính sách sai lầm của mình, và cải thiện".

ASEAN đoàn kết đưa ra COC

Ông Dino Patti Djalal, Đại sứ Indonesia - nước chủ tịch ASEAN đương nhiệm, cho rằng: "Bất cứ điều gì xảy ra đều ảnh hưởng đến toàn bộ khu vực, đến toàn bộ các nước khác trong ASEAN". Cách giải quyết tốt nhất, theo ông, ASEAN phải tiếp tục xây dựng niềm tin.

Đó cũng là một trong ba nhân tố cấu thành của Tuyên bố chung của các bên về ứng xử trên biển Đông (DOC) và tiến đến xây dựng Bộ quy tắc về ứng xử của các bên trên biển Đông (COC).

Hiện nay, một DOC không có tính ràng buộc pháp lý đã không ngăn được căng thẳng gia tăng trên Biển Đông.

Tiến sĩ Peter Dutton cho rằng không bao giờ thiếu những ý tưởng để giải quyết vấn đề, mà chỉ thiếu ý chí chính trị. Ông nói: "Các bên đều phải có nhượng bộ về chính trị, nếu không sẽ dẫn đến việc nước mạnh hơn sẽ làm những gì có thể làm và nước nhỏ làm điều phải làm".

Theo ông Dino, COC hiện chỉ còn vướng một, hai điều và Indonesia sẽ cố thúc đẩy việc tiến tới ký kết COC. Việc ký COC sẽ giúp tình hình biển Đông diễn biến theo chiều hướng dễ nắm bắt và có thể kiểm soát được.

Một số người lạc quan, COC có thể ra đời vào dịp kỉ niệm 10 năm DOC. Thế nhưng, Gs Carl Thayer cho rằng, điều đó khó xảy ra trừ khi ASEAN duy trì được sự thống nhất, cố kết và cùng ở một điểm. Nhưng rõ ràng, có những thành viên ASEAN khá nhát, rụt rè.

"Chính các thành viên ASEAN cần xây dựng Hiệp định về các quy tắc ứng xử trên Biển Đông, và sau khi thông qua, có thể để mở cho các quốc gia không thành viên", GS Carl Thayer gợi ý.

Theo ông, các nước khác cần ủng hộ ASEAN trong nỗ lực đạt thỏa thuận về COC.

Đồng thời, theo TS Đặng Đình Quý, các bên cần thúc đẩy hợp tác về biển và quân sự dưới hình thức tuần tra chung, diễn tập chung với sự tham gia của Trung Quốc, ASEAN và các nước có liên quan; đồng thời các bên cần công khai, minh bạch, giảm mua sắm vũ khí và thực hiện các biện pháp xây dựng lòng tin.

Cơ chế "gác tranh chấp, cùng khai thác" không hiệu quả

Hầu hết các học giả đều nhận định rằng cơ chế “khai thác chung” đã không phát huy tác dụng, bởi các bên không thống nhất với nhau trong việc xác định đâu là khu vực tranh chấp, đâu là khu vực không có tranh chấp. Chuyên gia của VN và Philippines có cách tiếp cận khá giống nhau về việc nên xác định đâu là vùng biển, đảo tranh chấp và đâu là những vùng không có tranh chấp để có thể tiến hành khai thác chung. Theo ông Đặng Đình Quý, cách phân loại này sẽ “tạo môi trường an toàn cho các công ty dầu mỏ” cũng như là “hợp tác về hàng hải và quân sự để xây dựng niềm tin”.

Ông Henry S.Bensurto, tổng thư ký Ủy ban các vấn đề biển và đại dương thuộc Bộ Ngoại giao Philippines, cho biết nước này đang hoàn tất đề xuất về việc chia lô các khu biển để hình thành vùng biển hòa bình, hữu nghị. Theo phương án này, các vùng biển sẽ được chia ra làm các khu vực đang tranh chấp, khu vực chồng lấn có thể áp dụng “lưỡng chế độ” để cùng khai thác cũng như các khu vực không còn tranh chấp.

Mỹ ở đâu khi Trung Quốc tạo sự cố trên Biển Đông

Về phía Mỹ, bà Bonner Glaser, Giám đốc Ban Trung Quốc của CSIS cho hay, kế hoạch của Mỹ trong năm 2011 là thể hiện bức tranh hợp tác giữa Mỹ và Trung Quốc. Cả hai nước đều là thành viên của khu vực, có thể hợp tác với nhau. Đáng tiếc thay, các sự cố xảy ra liên tục. Có lẽ, Mỹ cần phải xem lại kế hoạch của mình.

Theo bà Bonner, hiện nay, nhiều nước muốn Mỹ phải đứng lên, một lần nữa cảnh báo Trung Quốc về những hành động hiếu chiến của mình, dù cũng có người nhấn mạnh, Mỹ - Trung cần hợp tác nhiều hơn.

GS Tô Hạo của Trung Quốc thì cho rằng, việc Mỹ tham gia một cách tích cực để giải quyết vấn đề tranh chấp Biển Đông cũng được Trung Quốc chào đón. Tuy nhiên "những can thiệp của Mỹ có nhiều khi không tích cực ở ĐNA và đó là lý do vì sao Trung Quốc không chào đón những can thiệp này".


Để Biển Đông không nổi sóng đòi hỏi các nước phải hành xử thiện chí và tôn trọng lẫn nhau.


Thế nhưng, TS Marvin Ott từ ĐH John Hopkins lại lo: "Khi một Trung Quốc hung hãn đang phải đối diện với một quốc gia duy nhất có thể lên tiếng mạnh nhất để chống lại tham vọng của họ, mà Mỹ không khuyên được Trung Quốc, thì tôi nghĩ chúng ta có một vấn đề lớn, và tương lai thật u ám".Theo ông, Trung Quốc "từng xem như Biển Ðông là ao nhà của mình từ năm 1949," và giờ đây trách nhiệm lớn nhất của Mỹ là tìm cách để tránh chiến tranh, duy trì ổn định thế giới.

TS Trần Trường Thủy, Học viện Ngoại giao Việt Nam chỉ ra một thực tế, năm 2002, không phải ngẫu nhiên Trung Quốc tham gia Tuyên bố của các bên về các nguyên tắc ứng xử trên Biển Đông, giúp khu vực có được gần thập kỉ tương đối ổn định. Thời điểm đó, Mỹ tuyên bố Đông Nam Á là mặt trận thứ 2 trong cuộc chiến chống khủng bố của Mỹ, khiến Trung Quốc xích lại gần, thân thiện hơn với Đông Nam Á.

Mới đây, tại ARF tháng 7/2010, sau khi 13 nước nêu vấn đề Biển Đông tại Hội nghị, và ủng hộ việc thực hiện DOC, sớm ra đời COC, và Mỹ tuyên bố lợi ích quốc gia ở Biển Đông, Trung Quốc áp dụng chính sách mềm hơn sau đó. Việc bắt ngư dân đòi tiền chuộc ít hơn, và Trung Quốc cũng ít dọa các tàu và công ty nước ngoài hợp tác với láng giềng. Trung Quốc cũng quay lại bàn đàm phán cùng ASEAN để bàn về DOC và hướng tới COC, dù những hành động có vẻ thiện chí này không diễn ra được bao lâu.

"Dù Mỹ không nói sẽ không tuyên bố ủng hộ cụ thể chủ quyền của ai, Mỹ cần lên tiếng rõ quan điểm của mình về việc Trung Quốc dựa vào đáy biển để đòi chủ quyền. Không nên để sự lập lờ, thiếu rõ ràng như hiện tại", ông Henry S. Bensurto, Tổng thư ký Ủy ban các vấn đề biển và đại dương thuộc Bộ Ngoại giao Philippines nói.

"Chính Mỹ được hưởng lợi lớn nhất nhờ trật tự quốc tế dựa trên luật lệ, đó là duy trì bởi quyền lực và sự lãnh đạo của Mỹ. Chúng ta từ bỏ vai trò đó là nguy hiểm cho thế giới và cho chính nước Mỹ", TNS John McCain nói.

[BDV news]


>> Báo Nga: Việt Nam đầu tư mạnh cho phòng không




Việt Nam sẽ đầu tư mạnh cho mua sắm và hiện đại hóa hệ thống phòng không tầm trung và tầm xa giai đoạn 2011-2014.
Hãng tin Armstrade (Nga) cho biết: Kế hoạch hiện đại hóa lực lượng phòng không Việt Nam đã được lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Bộ Quốc phòng thông qua, cùng với hải quân, không quân sẽ là những lực lượng được ưu tiên hàng đầu cho kế hoạch tiến thẳng lên hiện đại hóa.

Theo đó, Việt Nam sẽ đầu tư mạnh cho việc mua sắm các hệ thống tên lửa phòng không tầm trung, các hệ thống phòng không tầm xa nâng cấp của hệ thống S-300, cùng với một vài hệ thống tên lửa phòng không thế hệ mới của Nga, đồng thời, nâng cấp các hệ thống tên lửa phòng không được chuyển giao từ thời Liên Xô.



Dàn tên lửa S-300 của Việt Nam được nhập khẩu từ Nga: Cự ly phát hiện là 300 km, diệt mục tiêu cự ly gần là 5 km, cự ly xa là 150 km, độ cao 27.000 m và thấp nhất là 10m.
Trung tâm phân tích mua bán vũ khí toàn cầu TSAMTO của Nga nhận định rằng, việc ký kết các hợp đồng mua sắm hệ thống tên lửa phòng không mới sẽ được thực hiện trong giai đoạn 2011-2014.

TSAMTO cũng đưa ra bản nhận định về thị trường vũ khí của Nga giai đoạn 2011-2014. Trong đó tập trung nhấn mạnh đến thị trường tên lửa phòng không của Nga. Theo đó, giai đoạn 2011-2014, Nga sẽ bán ra toàn cầu khoảng 254 đơn vị tên lửa phòng không các loại, với giá trị khoảng 5,1 tỷ USD dù các đơn hàng cung cấp 16 hệ thống tên lửa phòng không tầm ngắn Tor-M1 cho Libya và các hợp đồng xuất khẩu tên lửa cho Syria, Yemen bị gián đoạn bởi những bất ổn chính trị và lệnh cấm của Liên Hợp Quốc áp đặt lên các quốc gia này. Trong thời gian tới các hợp đồng này nhiều khả năng sẽ không thực hiện được. Bù lại Nga đã có thêm các thị trường mới như Brazil, Arab Saudi.

Cùng với đó là kế hoạch hiện đại hóa lực lượng phòng không của Venezuela, Algeria, Ấn Độ, Georgia. Đặc biệt là kế hoạch hiện đại hóa lực lương phòng không của Việt Nam.

Trong danh sách các hệ thống tên lửa phòng không tầm xa xuất khẩu, S-300/S-400 của Nga cùng với Patriot PAC-3 và THAAD của Mỹ sẽ là hai đối thủ cạnh tranh chính trên thị trường vũ khí phòng không thế giới.

TSAMTO cũng đánh khá cao những nỗ lực tham gia thị trường xuất khẩu của hệ thống tên lửa FT-2000 biến thể xuất khẩu của hệ thống HQ-9 do Trung Quốc sao chép từ S-300 của Nga. Giá cả chính là điểm mạnh của hệ thống tên lửa do Trung Quốc sản xuất.

Cùng với nỗ lực giới thiệu hệ thống tên lửa phòng không Aster-30 của châu Âu, hiện tại FT-2000 của Trung Quốc cùng với S-300 của Nga, Patriot PAC-3 của Mỹ, Aster-30 của châu Âu đang tham gia đấu thầu cho chương trình cung cấp hệ thống tên lửa phòng không tầm xa cho Thổ Nhĩ Kỳ.

Dù có sự sụt giảm về giá trị, song giai đoạn 2011-2014, Nga tiếp tục dẫn đầu thế giới trong việc xuất khẩu các hệ thống tên lửa phòng không tầm xa. Vị trí thứ 2 thuộc về Mỹ, trong giai đoạn 2011-2014, Mỹ sẽ xuất khẩu khoảng 103 hệ thống tên lửa phòng không với giá trị 6,5 tỷ USD. Như vậy, Nga sẽ dẫn đầu thế giới về số lượng xuất khẩu trong khi đó Mỹ sẽ dẫn đầu về giá trị xuất khẩu.

[BDV news]


>> Nhật, Mỹ : Trung Quốc là mối đe dọa





Nhật Bản và Mỹ đã thống nhất “mục tiêu chiến lược chung” giữa hai quốc gia nhằm đối phó lại những động thái gia tăng quân sự của Trung Quốc.

Đây là tin tức mới được tiết lộ bởi Nhật báo Yomiuri xung quanh Hội nghị an ninh quốc phòng cấp cao Nhật Bản – Mỹ, được tổ chức tại Wasington hôm 21/6.Tham dự hội nghị có Ngoại trưởng Nhật Bản Matsumoto Takeaki, Bộ trưởng Quốc phòng Nhật Toshimi Kitazawa, Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton và Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Robert Gates.Dù không nêu đích danh nhưng cả Nhật và Mỹ đều ám chỉ “Trung Quốc là một mối đe dọa”, một nguồn tin từ chính phủ Nhật Bản cho biết.





Hai vị Bộ trưởng Quốc phòng Nhật Bản và Mỹ: ông Toshimi Kitazawa và ông Robert Gates

Tại cuộc họp, các Bộ trưởng đã bày tỏ mối quan tâm sâu sắc về sự gia tăng hoạt động hải quân của Trung Quốc gần đây. Họ cũng nhất trí tăng cường an ninh và hợp tác quốc phòng với Australia, Ấn Độ và Hàn Quốc, cũng như Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN).

Sau cuộc họp, 4 bộ trưởng đã đưa ra một tuyên bố chung bao gồm 24 mục tiêu chiến lược. Trong tuyên bố này chỉ rõ “những thách thức của môi trường an ninh không bền vững” tại khu vực châu Á Thái Bình Dương, coi giải quyết căng thẳng ở khu vực Đông Nam Á là vấn đề trọng điểm.

Hai bên cũng kêu gọi Trung Quốc “tuân thủ các nguyên tắc ứng xử quốc tế”, các quốc gia nên “nâng cao tính minh bạch”trong các hoạt động quân sự.

Ngoại trưởng Nhật Bản Matsumoto Takeaki bày tỏ ý kiến muốn Nhật Bản và Mỹ chủ động hỗ trợ các nước Đông Nam Á.

Đáp lại, Bộ trưởng Quốc phòng Robert Gates tại một cuộc họp báo bên lề cũng khẳng định Mỹ luôn duy trì sự hiện diện, nỗ lực bảo vệ hòa bình, ổn định trong khu vực Đông Á, ngay cả khi Trung Quốc nổi lên như một gã khổng lồ.

Một số nhà quan sát nói rằng Tokyo và Washington đã bắt đầu tìm cách xây dựng "một mạng lưới ngăn chặn Trung Quốc" tập trung vào mối quan hệ với các đồng minh trong khu vực.

[BDV news]


>> Trung Quốc 'giương lưỡi lê' trên mặt báo





Trong vài ngày gần đây, trên các tờ báo uy tín, được coi là “báo Đảng” của Trung Quốc liên tiếp có những bài viết cứng rắn, bày tỏ thái độ của quốc gia này về những căng thẳng trên biển Đông, bất chấp phản ứng kịch liệt từ dư luận quốc tế.
Mới đây nhất, ngày 21/6, Thời báo Hoàn Cầu đã có một bài xã luận có tên “Trung Quốc phải phản ứng lại những hành động khiêu khích của Việt Nam”. Thời báo Hoàn Cầu là phụ bản chính thống của Nhân dân nhật báo (People’s Daily) – tờ báo chính thức của Đảng Cộng sản Trung Quốc.

Bài xã luận đã đưa ra những tuyên bố cứng rắn nhất từ trước đến giờ, bao hàm cả những lời lẽ mang tính đe dọa quân sự. “Trung Quốc sẽ sử dụng mọi biện pháp cần thiết để bảo vệ lợi ích của mình trên biển Hoa Nam (cách Trung Quốc gọi biển Đông)”, sẵn sàng “sử dụng lực lượng hải giám để đối phó, và nếu cần, sẽ dùng lực lượng hải quân tấn công lại”. Thậm chí, bài xã luận này còn không ngần ngại tuyên bố “Trung Quốc tự tin để tiêu diệt các tàu xâm lược Việt Nam”. Đây không phải là tờ báo duy nhất đưa ra lý lẽ kiểu này, cùng ngày China Daily cũng đổ lỗi “nguồn gốc của tranh chấp trên biển Hoa Nam hiện nay là do những hành động đơn phương của Việt Nam và Philipppines”.




Bà Lý Hồng Mai.
Tác giả bài viết này còn đề nghị Trung Quốc trước hết phải nói rõ cho quốc tế biết lập trường của mình về vấn đề biển Đông, thứ hai là phải bám lấy nguyên tắc “cùng phát triển những vùng đang tranh chấp”, và thứ ba là chính phủ phải lập ra một cơ quan cao cấp về các vấn đề biển để phối hợp hành động, đồng thời khẳng định đường ranh giới hình chữ U (đường 9 đoạn bất hợp pháp trên Biển Đông). Trước đó, ngày 20/6, trên tờ Nhân dân nhật báo cũng có một bình luận của nữ ký giả Lý Hồng Mai tiêu đề “Việt Nam nên tỉnh giấc mộng dữ”.



Thứ trưởng ngoại giao Trung Quốc Trương Chí Quân.
Trong bài viết này, tác giả cho rằng Việt Nam nên “kiềm chế những tham vọng xa vời trên biển Hoa Nam, đừng hy vọng gắn bó với Mỹ. Lý do đơn giản là một khi Mỹ cảm thấy lợi ích riêng bị đe dọa sẽ sẵn sàng hy sinh lợi ích của các nước xung quanh vùng biển này”. Trung Quốc cũng đã ám chỉ khả năng dùng đến quân sự để giải quyết căng thẳng vài ngày trước đó.

Hôm 18/6,Văn Hối – tờ báo uy tín của Bắc Kinh - đã đăng bài xã luận có đoạn “Cho dù chủ trương giải quyết tranh chấp trên Biển Đông bằng phương thức hòa bình, nhưng Trung Quốc cũng đã làm tốt các công tác chuẩn bị cần thiết về mặt quân sự, có đủ quyết tâm và thực lực để bảo đảm lợi ích cốt lõi của đất nước không bị xâm phạm".

Trong bài viết có cụm từ “quyết không ngồi đó để nhìn” mà nhất định sẽ có đòn “phản kích mạnh mẽ", cho thấy thái độ kiên quyết, cứng rắn, không ngại sử dụng vũ lực của Bắc Kinh. Không chỉ thông qua những bài báo, ngày 22/6, Thứ trưởng ngoại giao Trung Quốc Trương Chí Quân một lần nữa yêu cầu Mỹ không can dự vào tranh chấp khu vực. “Tốt hơn hết Mỹ nên ngừng can thiệp vào tranh chấp ở Nam Hải (biển Đông), Washington nên để cho các nước liên quan tự giải quyết.

Bất kỳ sự tham gia nào của Washington cũng khiến tình hình thêm phức tạp”. Ngoài ra, vị thứ trưởng này tuyên bố Trung Quốc không hề gây hấn trên Biển Đông, họ rất quan tâm đến cái gọi là “hành động khiêu khích” của các bên ở vùng biển tranh chấp. Ông này cho rằng tốt hơn hết Mỹ nên đứng ngoài cuộc đối với những căng thẳng trên Biển Đông trong thời gian gần đây. Cùng với tiết lộ thử nghiệm tàu sân bay vào 1/7 tới , những tuyên bố ngày càng gay gắt từ phía Trung Quốc được cho là sự đáp trả lại việc các học giả quốc tế “chỉnh huấn” quốc gia này tại Hội nghị an ninh hàng hải quốc tế.
Những gì Trung Quốc nói, những việc Trung Quốc làm đã trưng cho thế giới thấy bản chất cái mà nước này gọi là “kiềm chế”, “phấn đấu vì hòa bình”. Một loạt động thái mới của Trung Quốc chắc chắn sẽ khiến sự căng thẳng trong khu vực ngày càng trầm trọng.

[BDV news]


Thứ Năm, 23 tháng 6, 2011

>> Trung Quốc làm 'dịu' tình hình biển Đông?





Trung Quốc sẽ lần đầu tiên thử nghiệm tàu sân bay Thi Lang vào1/7, một tờ báo Hong Kong đưa tin ngày hôm qua.


Thông tin được công bố trong bối cảnh các nước láng giềng đang lo lắng trước những căng thẳng trên biển Đông.

Tờ Thương mại Hong Kong hằng ngày cho biết, các hoạt động thử nghiệm sẽ diễn ra vào dịp lễ kỉ niệm 90 năm thành lập Đảng Cộng sản Trung Quốc. Tuy nhiên kế hoạch vẫn có thể thay đổi bởi các yếu tố thời tiết.

Trong một báo cáo hồi đầu tháng 6, ông Trần Bỉnh Đức, Tổng tham mưu trưởng Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc xác nhận tàu sân bay đang được trang bị, sửa chữa, tuy nhiên ông từ chối tiết lộ thời gian hoàn thiện.

Tờ báo này cũng tiết lộ tàu sân bay Thi Lang sẽ chính thức hoạt động vào ngày 1/10/2011 – ngày Quốc khánh Trung Quốc – sau khi công nhân hoàn thành việc lắp đặt hệ thống vũ khí, máy móc.



Tàu sân bay đầu tiên của Trung Quốc - Thi Lang - neo đậu tại cảng Đại Liên


Giới quân sự Trung Quốc hy vọng, "tàu sân bay sẽ biểu thị sức mạnh của hải quân Trung Quốc, răn đe các nước đang nhắm đến biển Đông, làm dịu những căng thẳng”, nguồn tin cho hay.

Nếu thực sự giới quân sự Trung Quốc nghĩ như vậy thì nhà bình luận người Mỹ Arthur Herman đã rất chính xác khi đưa ra nhận định: "Trung Quốc đang làm giảm hình ảnh một siêu cường đang nổi và có xu hướng trở thành kẻ bắt nạt vượt tầm kiểm soát".

Trung Quốc đã giành rất nhiều thời gian, công sức để cải tạo lại Varyang – một tàu sân bay cũ của Liên Xô được mua lại từ Ukraine năm 1998 – thành một chiếc tàu sân bay mới.

Khi mới mua về, con tàu chỉ là lớp vỏ rỉ sét, không có động cơ, không có vũ khí, các thiết bị quan trọng. Thử nghiệm là một hoạt động hết sức cần thiết trước khi đưa con tàu vào hoạt động chính thức.

Chương trình nâng cấp này đã được biết đến rộng rãi trong vài năm qua. Gần đây những hình ảnh công nhân dọn dẹp, làm việc trên con tàu hiện đang neo đậu tại phía Bắc cảng Đại Liên cũng được phát tán rộng rãi.

Trước đây, giới quan chức đã phát biểu tàu sân bay đầu tiên của Trung Quốc sẽ không đặt ra mối đe dọa cho các quốc gia khác mà chỉ nằm trong chiến lược phòng thủ của Bắc Kinh.

[BDV news]


>> Hạm đội Nam Hải của Trung Quốc





Nếu Đông Hải là hạm đội mạnh nhất thì Nam Hải SSF lại là hạm đội được ưu tiên trang bị nhiều tàu chiến mới nhất của Hải quân Trung Quốc.


Nam Hải là 1 trong 3 hạm đội thuộc Hải quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc PLAN. Thành lập vào tháng 9/1950, PLAN ra đời sau ngày thành lập nước Trung Quốc mới gần 1 năm (1/10/1949).

Được giao nhiệm vụ phụ trách vùng biển Đông (Trung Quốc gọi là Nam Hải), hạm đội Nam Hải là lực lượng chủ đạo trong việc bảo vệ lợi ích và đòi hỏi các yêu sách của Trung Quốc trong khu vực.

Trong lịch sử, hạm đội Nam Hải chính là lực lượng đã đánh chiếm bất hợp pháp quần đảo Hoàng Sa và một số đảo tại quần đảo Trường Sa của Việt Nam.

Lực lượng tàu tuần tra thuộc Cơ quan Hải giám Trung Quốc, có hạm đội Nam Hải "đứng sau" chính là lực lượng đang gây ra những căng thẳng, tạo tâm lý lo lắng cho các nước trong khu vực trên biển Đông.

Thời gian gần đây, hạm đội Nam Hải lại là lực lượng được nhận nhiều tàu chiến mặt nước mới nhất do công nghiệp đóng tàu Trung Quốc sản xuất.

Toàn bộ các tàu khu trục có tên lửa mới nhất loại Type-052C đều được biên chế về hạm đội Nam Hải. Tàu khu trục nhỏ mới nhất loại Type-054A/D cũng được ưu tiên cho hạm đội này. Trong tổng số 11 chiếc tàu khu trục nhỏ Type-054 mới có đến 8 chiếc được điều động biên chế cho hạm đội Nam Hải.

Loại tàu đổ bộ mới nhất, lớp Ngọc Chiêu, của công nghiệp đóng tàu Trung Quốc cũng được giao cho hạm đội Nam Hải. Không những thế, hạm đội Nam Hải còn "giúp đỡ" một đội tàu tuần tra hùng hậu thuộc lực lượng hải giám Trung Quốc.

Điều đó cho thấy, Trung Quốc coi biển Đông là một trong những địa bàn tối quan trọng trong chiến lược hướng ra biển lớn. Có ý kiến cho rằng, trong tương lai không xa, hạm đội Nam Hải sẽ trở thành lực lượng tác chiến mạnh nhất của Hải quân Trung Quốc.

Căn cứ chính của các tàu mặt nước của hạm đội Nam Hải được đóng tại Trạm Giang tỉnh Quảng Đông. Trong khi đó tất cả các tàu ngầm của hạm đội đóng tại căn cứ Du Lâm thuộc đảo Hải Nam, căn cứ tàu ngầm lớn nhất trong khu vực.

Theo một số nguồn tin không chính thức và qua một số bức ảnh chụp vệ tinh, một tàu ngầm hạt nhân hiện đại của hải quân Trung Quốc loại Type-093 đang hoạt động tại đây.

Tương lai, nhiều khả năng loại tàu ngầm hiện đại nhất của loại Type-094 cũng sẽ được điều động xuống làm nhiệm vụ tại hạm đội Nam Hải. Soái hạm của hạm đội Nam Hải là tàu chỉ huy Nam Xương AOR/AK 953. Thông tin về soái hạm của hạm đội Nam Hải gần như không được công bố.

Sau đây là danh sách các tàu chiến mặt nước và tàu ngầm trong biên chế của hạm đội Nam Hải:

- 2 chiếc tàu khu trục phòng không Type-052C (170 Lan Châu, 171 Hải Khẩu), 2 tàu khu trục Type-052B, (168 Quảng Châu, 169 Vũ H)án, 1 tàu khu trục Type-051B (176 Thẩm Quyến).
- 6 chiếc tàu khu trục Type-051 (161 Trường Sa – một địa danh trong nội địa Trung Quốc, 162 Nam Ninh, 163 Nam Xương, 164 Quế Lâm, 165 Trạm Giang, 166 Chu Hải).
- 8 chiếc tàu khu trục nhỏ Type-054 (530 Từ Châu, 529 Zhoushan, 570 Hoàng Sơn, 568 Chaohu, 571 Vân Thành, 569 Ngọc Lâm, 548 Ích Dương, 549 Thường Châu).
- 4 chiếc tàu khu trục Type-053H3 (564 Nghi Xương, 565 Ngọc Lâm, 566 Ngọc Khê, 567 Tương Phàn).
- 6 chiếc tàu khu trục Type-053H1G (558 Bắc Hải, 559 Khang Định, 560 Đông Quan, 561 Sán Đầu, 562 Giang Môn, 563 Phật Sơn). 4 chiếc tàu khu trục Type-052H1.
- 8 tàu ngầm điện diesle lớp Ming (lớp Minh), 4 tàu ngầm điện diesel lớp Romeo, 11 tàu đổ bộ thông thường Type-072II, 4 tàu đổ bộ lớp Type-073, đặc biệt là 1 chiếc tàu đổ bộ có sàn đáp cho trực thăng mới nhất Type-071 lớp Ngọc Chiêu mang số hiệu 998 Côn Lôn Sơn, cùng với 1 tàu bệnh viện.

Theo thông tin từ Jane’s Defence tàu ngầm hạt nhân chiến lược Type-094 lớp Jin (lớp Tấn) cũng đã được biên chế cho hạm đội Nam Hải.

Về không quân của hạm đội Nam Hải gồm có lữ đoàn không quân số 8, và số 9, với trang bị chính là các máy bay tiêm kích bom JH-7, đánh chặn J-8, tuần tra Y-8MPA, ném bom SH-5, 1 trung đoàn không quân độc lập sử dụng máy bay trực thăng.

Lữ đoàn thủy quân lục chiến số 1 và 164, 1 trung đoàn thiết giáp lội nước, 1 lữ đoàn radar bờ biển, 2 tiểu đoàn tên lửa chống tàu đất đối hải, 1 trung đoàn phòng không.

Một số hình ảnh về Hạm đội Nam Hải:



Type-052C tàu khu trục phòng không hiện đại nhất hải quân Trung Quốc.




Type-054 tàu khu trục nhỏ hiện đại nhất Hải quân Trung Quốc.




Tàu ngầm điện diesel lớp Ming đang neo đậu tại căn cứ trên đảo Hải Nam.




Tiêm kích bom JH-7 loại máy bay chiến đấu chủ lực của hạm đội Nam Hải.




Tàu đổ bộ hiện đại nhất Hải quân Trung Quốc, Type-071 lớp Ngọc Chiêu.




Tàu khu trục phòng không Type-052B tiền thân của loại 052C.




Hầm trú ẩn cho tàu ngầm trên đảo Hải Nam.


[BDV news]


>> Chùm ảnh tàu Hải quân Việt Nam thăm Trung Quốc





Sáng 21/6, hai tàu Hải quân nhân dân Việt Nam mang số hiệu HQ375 và HQ376 đã cập cảng thành phố Trạm Giang (Quảng Đông, Trung Quốc).


Sự kiện này bắt đầu chuyến thăm hữu nghị và giao lưu với Hải quân Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc.

Đây là lần thứ 2 kể từ năm 2009, Hải quân Nhân dân Việt Nam đưa tàu đến thăm Trung Quốc, nhằm tiếp tục phát triển mối quan hệ hợp tác láng giềng, hữu nghị truyền thống, tăng cường sự hiểu biết, tin cậy lẫn nhau giữa Quân đội và Hải quân hai nước.

Chuyến thăm cũng nhằm đáp lại các chuyến thăm Việt Nam của tàu Hải quân Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc tại Thành phố Hải Phòng tháng 12/2009 và thành phố Đà Nẵng tháng 11/2010.

Ra tận cảng đón tàu Hải quân Nhân dân Việt Nam có Thiếu tướng Trương Văn Đán, Phó Tham mưu trưởng Hạm đội Nam Hải và Đại tá Hoa Tiểu Bình, Phó chánh văn phòng Bộ tư lệnh Hạm đội Nam Hải.

Sau lễ đón tại cảng, Đoàn tàu Hải quân nhân dân Việt Nam thăm Trung Quốc do Đại tá Nguyễn Văn Kiệm, Phó Tham mưu trưởng Quân chủng Hải quân dẫn đầu đã đến chào xã giao Bộ tư lệnh Hạm đội Nam Hải.

Tiếp đoàn có Thiếu tướng Yêu Chí Lâu, Phó tư lệnh Hạm đội Nam Hải cùng các cơ quan chức năng.

Thay mặt Bộ tư lệnh Hạm đội Nam Hải, Thiếu tướng Yêu Chí Lâu, Phó tư lệnh Hạm đội Nam Hải nhiệt liệt chúc mừng Đoàn tàu Hải quân nhân dân Việt Nam đến thăm Trung Quốc, sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ của chuyến tuần tra liên hợp lần thứ 11 trên vùng biển vịnh Bắc Bộ.

Thiếu tướng Yêu Chí Lâu đánh giá đây là hoạt động không chỉ thể hiện tình hữu nghị mà còn nâng lên tầm cao mới về sự hợp tác và hiểu biết lẫn nhau giữa hải quân hai nước.

Phó tư lệnh Hạm đội Nam Hải đánh giá cao kết quả chuyến tuần tra liên hợp trên vùng biển Vịnh Bắc Bộ vừa qua; các hoạt động diễn tập, tìm kiếm cứu nạn và trao đổi thông tin với nhau. Hải quân Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc mong muốn hải quân hai nước có những hoạt động tích cực, thiết thực góp phần củng cố và thúc đẩy mối quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa hai nước Trung Quốc-Việt Nam.

Những vấn đề liên quan đến biển Đông, Thiếu tướng Yêu Chí Lâu cho rằng, Quân đội và Hải quân hai nước cần phải luôn giữ sự tỉnh táo, góp phần vào sự ổn định của khu vực.

Thay mặt Đoàn tàu Hải quân nhân dân Việt Nam thăm Trung Quốc, Đại tá Nguyễn Văn Kiệm, Phó tham mưu trưởng Quân chủng Hải quân chân thành cảm ơn sự đón tiếp nồng hậu và những tình cảm của cán bộ, chiến sĩ Hạm đội Nam Hải, đại diện cho tình cảm của cán bộ, chiến sĩ Quân giải phóng, Hải quân Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc dành cho đoàn, cho Quân đội nhân dân và Hải quân nhân dân Việt Nam.

Đại tá Nguyễn Văn Kiệm khẳng định: Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng có nhiều nét tương đồng về lịch sử, văn hóa, chính trị; nhân dân hai nước có truyền thống hữu nghị từ lâu đời, tình hữu nghị ấy đang được Đảng, Nhà nước và Quân đội, Hải quân hai nước giữ gìn, vun đắp để hy vọng phát triển tốt đẹp.

Điều đó đã được thể hiện trong các cuộc kháng chiến giải phóng, thống nhất đất nước của dân tộc mình, Việt Nam luôn nhận được sự giúp đỡ chí tình cả về vật chất và tinh thần của Đảng, Nhà nước, Quân đội và nhân dân Trung Quốc. Đảng, Chính phủ, Quân đội và nhân dân Việt Nam trân trọng ghi nhớ những tình cảm và sự giúp đỡ quý báu đó.

Trong những năm qua, hải quân hai nước đã có nhiều hoạt động thiết thực góp phần thúc đẩy mối quan hệ, tình hữu nghị ngày càng phát triển, trong đó có việc trao đổi các đoàn lãnh đạo, chỉ huy cấp cao của hải quân, ký kết thỏa thuận Tuần tra liên hợp trên vùng biển vịnh Bắc Bộ năm 2005 và đến nay đã tổ chức thành công 11 chuyến tuần tra liên hợp.

Hoạt động tuần tra liên hợp, đưa tàu hải quân đi thăm lẫn nhau, phối hợp diễn tập trên biển không những đã tạo điều kiện tốt để sĩ quan, thủy thủ hải quân hai nước giao lưu, trao đổi, học hỏi kinh nghiệm, tăng cường sự tin tưởng và hiểu biết lẫn nhau, mà còn nâng cao khả năng đối phó với các thách thức an ninh phi truyền thống của Hải quân hai nước, góp phần duy trì an ninh, trật tự trên vùng biển vịnh Bắc Bộ.

Chiều cùng ngày, Đoàn tàu Hải quân nhân dân Việt Nam đã đến chào xã giao chính quyền thành phố Trạm Giang, tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc) và dự tiệc chiêu đãi do Bộ tư lệnh Hạm đội Nam Hải tổ chức.

Dưới đây là một số hình ảnh về chuyến thăm tàu Hải quân Nhân dân Việt Nam ở Trung Quốc:







Tàu Hải quân Việt Nam cập cảng thành phố Trạm Giang (Quảng Đông, Trung Quốc).




Lãnh đạo Hạm đội Nam Hải đón Đoàn của tàu Hải quân nhân dân Việt Nam đến thăm Trung Quốc tại cảng Trạm Giang.




Thiếu tướng Yêu Chí Lâu, Phó tư lệnh Hạm đội Nam Hải tiếp đoàn và trao đổi quà lưu niệm.


[Vitinfo news]


>> A-201 - Điệp viên siêu đẳng




>> Phạm Xuân Ẩn và huyền thoại nghề báo khiến Mỹ 'chết sặc'


Ông là điệp viên duy nhất của tình báo Liên Xô trong Gestapo và là người duy nhất báo tin chính xác ngày giờ Đức xâm lược Liên Xô.

Điệp viên Wilhem Lehmann 12 năm dài đơn độc đối mặt với phản gián Đức.

Tháng 6/2009, Cục Tình báo đối ngoại Liên bang Nga SVR giải mật hồ sơ, lần đầu tiên công bố tên tuổi điệp viên A-201/Breitenbach - Willi Lehmann, một trong những nguồn tin quý giá nhất của Liên Xô thời Thế chiến II ở Đức.

Trong suốt 12 năm, Lehmann đã mạo hiểm tính mạng báo cáo về Moskva những tin tức đặc biệt giá trị về sự phát triển và củng cố chế độ phát xít, quy mô chuẩn bị chiến tranh nhằm nô dịch thế giới, tăng cường tiềm lực quân sự và các công trình nghiên cứu kỹ thuật tối tân của nước Đức phát xít.


Điệp viên Wilhem Lehmann.


Nhờ có Lehmann, tình báo Liên Xô đã nắm được những thông tin quan trọng về cơ cấu tổ chức, nhân sự, phương thức hoạt động của các cơ quan đặc vụ Đức.

Tình nguyện hợp tác

Siêu điệp viên A-201, mật danh Breitenbach của tình báo Liên Xô tên thật là Wilhelm (Willy) Lehmann. Ông sinh năm 1884 trong gia đình nhà giáo nghèo ở ngoại ô Leipzig.

Năm 17 tuổi, ông tình nguyện gia nhập và phục vụ trong Hải quân Đức 12 năm. Năm 1913, Willy giải ngũ, quay về Berlin và với sự giúp đỡ của người bạn cũ Ernst Kour làm việc trong cảnh sát chính trị mật, ông vào làm việc cho cảnh sát Berlin. Năm 1914, ông chuyển sang phòng phản gián cho đến khi cách mạng nổ ra ở Đức năm 1918.

Tháng 4/1920, Đức tái lập cảnh sát chính trị mật, Lehmann được đề bạt làm phó phòng, thực chất là người lãnh đạo phòng phản gián của sở cảnh sát Berlin.

Năm 1927, Lehmann sang làm ở bộ phận hồ sơ, nơi tập trung toàn bộ tin tức về các nhân viên sứ quán nước ngoài lọt vào tầm mắt của sở cảnh sát Berlin.

Năm 1929, Lehmann tình nguyện hợp tác với tình báo Liên Xô vì động cơ vật chất (ông cần tiền chu cấp cho vợ Margaret, cô bồ Florentina trẻ hơn vài chục tuổi và mê đánh cá ngựa, bản thân Lehmann bị bệnh đái đường nặng), vì ông có thiện cảm với người Nga và sau này là vì động cơ chính trị. Ông bắt đầu hoạt động với bí số А-201 và mật danh Breitenbach

Những tin tức vô giá

Từ năm 1930, một trong các nhiệm vụ của Breitenbach tại phòng phản gián Berlin là điều tra các nhân viên của cơ quan đại diện Liên Xô và chống tình báo kinh tế Liên Xô tại Đức. Tin tức do Breitenbach cung cấp đã cho phép tình báo Liên Xô nắm được các kế hoạch của phản gián Đức và áp dụng các biện pháp phòng ngừa bảo vệ các tình báo viên Liên Xô và các nguồn tin của họ.

Khi tình hình ngày càng phức tạp, bọn quốc xã chuẩn bị lên nắm quyền ở Đức, Breitenbach đã bắt quen với những tên đầu sỏ của đảng quốc xã, trong đó có Ernst Julius Röhm, chỉ huy các đơn vị xung kích quốc xã SA.

Sau khi Hitler lên nắm quyền vào tháng 2/1933, Breitenbach theo giới thiệu nhân vật số 2 của chế độ quốc xã trùm phát xít Hermann Goering, khi đó là thủ tướng Phổ, được chuyển sang Gestapo làm việc ngay từ khi cơ quan này được thành lập vào tháng 4/1933.

Tháng 5/1934, ông tình nguyện gia nhập SS và trở thành đảng viên quốc xã năm 1937. Ngày 30/6/1934, ông giúp Goering tổ chức thực hiện chiến dịch đẫm máu “Đêm của những con dao dài” thủ tiêu Ernst Röhm, các thủ lĩnh khác của SA vì thế ông được bọn quốc xã đầu sỏ rất tín nhiệm.

Thậm chí, nhân dịp năm mới 1937, ông cùng với 3 nhân viên Gestapo khác được tặng thưởng bức chân dung Adolf Hitler đóng khung bằng bạc có chữ ký của trùm phát xít.

Breitenbach đã trở thành lá chắn bảo vệ an toàn cho tình báo Liên Xô ở Đức. Ông đã kịp thời báo trước về tất cả các hành động của Gestapo, các vụ bắt giữ và khiêu khích có thể thực hiện đối với các đại diện, các tình báo viên vỏ bọc công khai và bất hợp pháp Liên Xô nên tình báo Liên Xô trong suốt thời gian này không hề biết đến đổ vỡ là gì.

Ông thường xuyên báo cho tình báo viên Liên Xô trực tiếp chỉ đạo ông là Vasily Zarubin về tất cả những thay đổi tình hình an ninh nội địa Đức, các hành động chính trị dự kiến, cuộc đấu tranh ngầm trong nhóm đầu sỏ phát xít.

Qua quan hệ với các nhân vật hàng đầu Gestapo, Breitenbach đã thu thập và báo cáo hồ sơ cá nhân chi tiết của các nhân vật phát xít đầu sỏ như Heinrich Muller, Walter Schellenberg, Heinrich Himmler, Reinhard Heydrich và các chỉ huy tình báo Đức khác.

A-201 đã cung cấp những tin tức đặc biệt giá trị về cơ cấu tổ chức, nhân sự của Gestapo (Cục IV, Tổng cục An ninh đế chế RSHA), hoạt động của Gestapo và tình báo quân sự Abwehr, hoạt động xây dựng quân đội Đức, các kế hoạch và ý đồ của Hitler đối với các nước láng giềng, khóa mã các mật điện liên lạc trong nội địa và hải ngoại của Gestapo. Nhờ vậy, tình báo Liên Xô có thể đọc được nội dung liên lạc nội bộ của Gestapo.

Hoạt động tình báo của Lehmann chuyển sang giai đoạn mới khi ông được chuyển sang phòng phản gián Gestapo phụ trách phản gián cho công nghiệp quốc phòng và xây dựng quân đội Đức.

Thời gian này, Đức đã chế tạo và bắt đầu thử nghiệm các loại tên lửa của nhà khoa học lừng danh Werner von Braun vào năm 1934 ở gần Berlin. Nhờ có Lehmann, Liên Xô đã nắm được thông tin về các tên lửa Max và Moritz, sau này dựa vào đó Đức chế tạo các tên lửa lừng danh FAW-1 và FAW-2.

Cuối năm 1935, Breitenbach đích thân tham dự thử nghiệm tên lửa đầu tiên của Đức sử dụng nhiên liệu lỏng FAW-1 tại trường thử ở Penemunde.

Năm 1940, các tên lửa này đã oanh tạc nước Anh. Breitenbach đã báo cáo chi tiết về các vụ thử tên lửa và thông tin mật về tên lửa này. Trên cơ sở đó, tình báo Liên Xô ngày 17/12/1935 đã soạn và gửi Stalin và ủy viên dân ủy quốc phòng Voroshilov báo cáo phân tích tình trạng ngành chế tạo tên lửa của Đức.

Trong giai đoạn này, Breitenbach còn cung cấp thông tin về các chương trình đóng tàu ngầm, chế tạo xe ô tô bọc thép, sản xuất các mặt nạ phòng độc mới, các nghiên cứu về xăng tổng hợp, cao su nhân tạo.

Hè năm 1936, Breitenbach được giao phụ trách phản gián cho nhiều hướng công nghiệp quốc phòng mới. Điệp viên bắt đầu cung cấp những tin tức quan trọng về sự phát triển công nghiệp quốc phòng Đức như việc bắt đầu đóng cùng lúc hơn 70 tàu ngầm và xây dựng nhà máy bí mật sản xuất chất độc quân sự thế hệ mới.

Điệp viên đã giao cho Zarubin bản sao chỉ thị mật liệt kê 14 loại vũ khí tối tân đang sản xuất hoặc thiết kế. Ông cũng lấy được bản sao báo cáo mật “Về tổ chức quốc phòng Đức năm 1937”. Tất cả các tài liệu này đã cho phép lãnh đạo Liên Xô đánh giá khách quan sức mạnh tấn công của quân đội Đức.

Ông cũng cung cấp tin về hoạt động của bọn quốc xã ở Áo, dự thảo hiệp ước hợp tác quân sự Đức-Nhật; mùa xuân 1941, ông báo tin Đức sắp xâm chiếm Nam Tư.

"Chiến tranh bắt đầu lúc 3 giờ sáng"

Cuối những năm 1930, tình hình ngày một căng thẳng khi Hitler đang chuẩn bị thôn tính các nước châu Âu và chuẩn bị chiến tranh thế giới mới. Thời gian này, ông hợp tác với Liên Xô chủ yếu vì động cơ lý tưởng, chứ ít quan tâm đến khía cạnh vật chất, dù với tính cách Đức, ông không từ chối các khoản thù lao.

Trong giai đoạn lịch sử khẩn thiết như vậy, ông hầu như mất liên lạc với tình báo Liên Xô. Năm 1937, Zarubin, sĩ quan tình báo đến Đức từ tháng 12/1933 để chỉ đạo ông, phải ngừng liên lạc với Breitenbach vì bị triệu hồi về nước.

Chiến dịch thanh trừng đối với tình báo Liên Xô đã bắt đầu. Tổ tình báo Berlin lúc đó chỉ còn lại duy nhất một cán bộ là Aleksandr Agayants.

Cuối tháng 11/1938, Agayants liên lạc lần cuối cùng với Breitenbach. Đầu tháng 12, Agayants phải nằm viện và không lâu sau thì qua đời. Ông mất liên lạc cho đến tháng 9/1940 khi ông gặp được Aleksandr Korotkov mới đến Berlin làm phó chỉ huy tình báo NKVD.



Đức mở màn xâm lược Liên Xô bằng chiến dịch Barbarossa.


Ngày 9/9/1940, tổ tình báo nhận được chỉ thị từ đích thân Ủy viên dân ủy Beria, trong đó nhấn mạnh: “Không được giao bất kỳ nhiệm vụ đặc biệt nào cho Breitenbach. Tạm thời phải lấy hết những gì nằm trong khả năng trực tiếp của anh ta và ngoài ra là tất cả những gì anh ta viết về hoạt động chống Liên Xô của các cơ quan tình báo, ở dạng tài liệu và báo cáo riêng của nguồn tin”.

Người chỉ đạo trực tiếp A-201 là Boris Nikolayevich Zhuravlev, một cán bộ tình báo trẻ vừa mới đến Berlin sau khi tốt nghiệp trường tình báo.

Breitenbach bắt đầu cung cấp một số lượng lớn tài liệu cho thấy Đức đang chuẩn bị cho cuộc chiến chống Liên Xô. Tháng 3/1941, ông báo cáo rằng, “Tổng đội III - Berlin”, đơn vị phụ trách hoạt động tình báo chống Liên Xô của tình báo quân sự Đức Abwehr đã được mở rộng khẩn cấp.

Trong phiên liên lạc ngày 28/5, A-201 báo cáo với Zhuravlev rằng, ông được lệnh khẩn cấp lên lịch trực suốt ngày đêm cho đơn vị mình.

Ngày 19/6, Lehmann gọi gặp khẩn cấp Zhuravlev và báo cáo: “Chiến tranh rồi. Tất cả đã được quyết định, không thể thay đổi được nữa. Chủ nhật, ngày 22. Ngay từ sáng sớm, lúc 3 giờ sáng. Trên toàn tuyến biên giới, từ nam lên bắc. Tuyên chiến sẽ chỉ là hình thức, cùng với quả bom đầu tiên”, sau đó xiết chặt tay Zhuravlev nói: “Vĩnh biệt đồng chí” rồi bước đi.

Ông Zhuravlev kể lại phiên liên lạc cuối cùng với Lehmann: “Tôi đã gặp Lehmann ở Berlin ngày 19/6/1941. Lần này, anh ấy rất lo lắng và ngay sau khi chào hỏi đã nói ngay là Gestapo đã nhận được mệnh lệnh nói rằng, ngày 22/6, lúc 3 giờ sáng, Đức sẽ khai chiến chống Liên Xô. Tôi cũng rất lo lắng khi tiếp nhận tin này, hai chân tôi thậm chí khuỵu xuống. Sau đó, chúng tôi chia tay, tôi lao về sứ quán, sau khi xử lý, tin này được gửi về Moskva”.

Đáng tiếc là khi nhận được bức điện này, Stalin đã viết bằng mực xanh lên báo cáo tình báo của Lehmann mấy chữ “thông tin giả”.

Sáng 22/6/1941, tòa nhà đại sứ quán Liên Xô trên phố Unter den Linden ở trung tâm Berlin đã bị nhân viên Gestapo vây kín. Tình báo Liên Xô mãi mãi mất liên lạc với Wilhelm Lehmann.

Cái chết bi tráng

Ngay sau khi chiến tranh kết thúc, chỉ huy tổ tình báo NKVD ở Đức Aleksandr Korotkov được giao nhiệm vụ tìm hiểu số phận của các điệp viên giá trị của NKVD bị mất liên lạc trong thời gian chiến tranh ác liệt, trong số đó có Breitenbach và các thành viên của “Dàn hợp xướng đỏ”.

Giữa tháng 6/1945, khi Berlin hoang tàn vẫn còn nghi ngút khói lửa, Korotkov tìm đến căn hộ của Margaret Lehmann và được bà cho biết, Willy Lehmann chồng bà đã mất tháng 12/1942, chỉ còn lại bình tro cốt và vật dụng cá nhân của ông. Bà không biết chi tiết gì về cái chết của chồng.

Tình báo Liên Xô, khi sục tìm các tài liệu trong trụ sở đổ nát của Gestapo tại số 8, phố Prinz Albrechtstrasse, đã phát hiện một phiếu hồ sơ cháy xém đề tên Wilhelm Lehmann, trên có ghi chú ông đã bị Gestapo bắt vào tháng 12/1942, nhưng không nêu nguyên nhân bắt giữ.

Dựa vào phiếu hồ sơ này cùng với các tài liệu thu được khác, Trung ương tình báo ở Moskva nhanh chóng xác định được nhân viên Gestapo bị xử tử chính là điệp viên Breitenbach.

Qua điều tra, tình báo đối ngoại Liên Xô đã biết được hoàn cảnh cái chết của A-201. Tháng 5/1942, điệp viên Beck (đảng viên cộng sản Đức Robert Bart, tự đầu hàng Hồng quân) của tình báo Liên Xô được tung vào Berlin để nối lại liên lạc và tiếp tục làm việc với Breitenbach. Nhưng Gestapo nhanh chóng lần ra tung tích và bắt giữ Beck. Không chịu nổi đòn tra, Beck đã khai ra quy ước liên lạc và những thông tin nhận diện điệp viên Breitenbach.

Gestapo lập tức báo cáo việc phát hiện điệp viên Liên Xô cho Heinrich Muller. Nhưng cả Himmler và Muller đã không dám báo cáo với Hitler việc một thanh tra hình sự kỳ cựu, đại úy SS chui sâu hoạt động cho Liên Xô hàng chục năm trời ngay trong lòng Gestapo.

Ngay trước lễ Giáng sinh năm 1942, Breitenbach bị triệu khẩn cấp tới cơ quan và mãi mãi không trở về. Ông đã bị Gestapo bí mật bắt giữ và thủ tiêu để tránh gây ra scandal ầm ĩ.

Trong bản tin nội bộ của Gestapo ngày 29/1/1943 có đăng thông báo “thanh tra hình sự Wilhelm Lehmann đã cống hiến đời mình cho quốc trưởng và đế chế vào tháng 12/1942”.

Một trong những điệp viên xuất sắc nhất của tình báo Liên Xô đã hy sinh bi thảm như thế. Wilhelm Lehmann không phải là người cộng sản, nhưng ông có cảm tình với nước Nga và nhân dân Nga. Cuộc đời, công lao đóng góp của ông vào chiến thắng chung trước chủ nghĩa phát xít xứng đáng sự thừa nhận và tưởng nhớ biết ơn.

Năm 1969, bà Margaret Lehmann, vợ của điệp viên A-201 đã được trao tặng tại Moskva chiếc đồng hồ vàng với dòng chữ “Kỷ niệm từ những người bạn Xô-viết”.

Năm 2010, nhân dịp kỷ niệm 65 năm ngày Chiến thắng Vĩ đại, ở Nga đã xuất bản cuốn sách “Điệp viên siêu đẳng” của sử gia tình báo Teodor Gladkov viết về điệp viên A-201/Breitenbach.

Và năm nay, đúng ngày Chiến thắng 9/5/2011, truyền hình Nga đã phát bộ phim truyền hình “Điệp viên A-201 - người của chúng ta trong Gestapo”.


[BDV news]


>> Nghệ thuật quân sự hải quân (kỳ 2)





Lực lượng Hải quân từ nhiệm vụ yểm trợ và tác chiến độc lập, đã hình thành lực lượng tác chiến mang tính chiến lược.

Chiến lược hải quân thời bình và thời chiến phản ánh trung thành đường lối chính trị của quốc gia, dân tộc với mục tiêu phát triển và bảo vệ lợi ích biển, đại dương.

Những yếu tố lịch sử của nghệ thuật quân sự Hải quân

Những thành tố đầu tiên của nghệ thuật quân sự Hải quân được hình thành từ rất lâu, khi xuất hiện các hạm đội và hoàn thiện cùng với sự phát triển của nền văn minh nhân loại, vũ khí trang bị và các mô hình tác chiến.

Thời kỳ chiếm hữu nô lệ, ở các nhà nước Hy Lạp cổ đại, La mã cổ đại và các nước khác, hạm đội được hình thành từ những tàu có mái chèo do nô lệ chèo thuyền. Chiến lược chiến tranh của các nước cổ đại đã để lực lượng hải quân như là lực lượng hỗ trợ và các hoạt động tác chiến của hải quân chủ yếu là vùng bờ biển.

Phương pháp tác chiến cổ điển vẫn là dùng mũi nhọn thân tầu để đâm và đổ bộ, đánh chiếm tàu đối phương. Chiến thuật duy nhất là các tàu chiến dàn hàng ngang và lao vào nhau, khả năng dành ưu thế ban đầu là kỹ năng điều khiển tàu của thuyền trưởng.

Một sự cố gắng đầu tiên trong xây dựng nghệ thuật quân sự Hải quân là tác phẩm của Vegetius thế kỷ thứ 5, có tên "Bản tóm tắt những đề xuất về tác chiến”. Trong bản tóm tắt này cùng với những hoạt động tác chiến khác ông đã đưa ra những giới thiệu sơ lược về phương pháp chiến đấu trên biển.



Trận hải chiến châu Âu thời phong kiến.


Châu Âu vào thời kỳ tiền phong kiến (đến thế kỷ thứ 10) hạm đội và nghệ thuật tác chiến trên biển chưa có những phát triển đáng kể.

Do sự phát triển mạnh mẽ về thương mại, trong thời kỳ chế độ phong kiến phát triển rực rỡ nhất ở châu Âu, kỹ thuật đóng tàu đã có những bước tiến mạnh mẽ.

Thế kỷ thứ 10 và 11 xuất hiện các tàu buồm, đồng thời là các thiết bị dẫn đường trên biển (la bàn, kính lục phân - dụng cụ đo độ cao mặt trời, để xác định vị trí con tàu, bàn đồ biển) cho phép tàu có thể đi dài ngày trên biển rộng. Từ thế kỷ 14, trên các tàu buồm được trang bị pháo thần công. Từ thế kỷ 15 – 16 bắt đầu chuyển hướng từ tàu có mái chèo sang sử dụng các tàu buồm, quá trình này kết thúc vào giữa thế kỷ 17.

Chiến lược quân sự hải quân hình thành vào thế kỷ 15 – 16, trong quân đội các nước thực dân như Italy, Bồ Đào Nha, sau đó là Anh, Pháp, và Hà Lan. Chiến lược xâm lược thuộc địa bằng hải quân đã nâng cao vị trí của hải quân trong chiến tranh, thay đổi tính chất sử dụng hải quân, đồng thời đặt lên vai của Hải quân nhiệm vụ độc lập như tiến công tàu hàng, chống cướp biến, cắt đứt các đường giao thông, liên lạc và vận tải đường biển, đồng thời bảo vệ các tuyến giao thông đường biển của quân mình. Tuy nhiên, nghệ thuật tác chiến chưa phát triển, vẫn gần giống với nghệ thuật tác chiến thời La mã cổ đại.



Thiết giáp hạm - buồm.


"Ngoại giao pháo hạm" thúc đẩy sự phát triển của hải quân

Thế kỷ thứ 17, đánh dấu sự hình thành các hạm đội thường trực chiến đấu, trở thành công cụ quan trọng cho chính sách "ngoại giao pháo hạm" của các nước phát triển.

Sự phát triển mạnh mẽ của pháo hạm, sử dụng hạm đội pháo hạm như một vũ khí quan trọng chính trong các cuộc chiến đấu trên biển trong chiến tranh Anh – Hà Lan thế kỷ 17, làm thay đổi căn bản tận gốc về biên chế lực lượng, cơ cấu tổ chức của hạm đội tàu buồm và nghệ thuật tác chiến của hải quân.

Đòn tấn công chủ lực dành cho các thiết giáp hạm có trang bị pháo cỡ nòng lớn và số lượng nhiều, các tàu khu trục frigate nhỏ, các thuyền có mái chèo trang bị pháo nhỏ và các tầu hỏa công (fire – ship) đóng vai trò hỗ trợ trong các cuộc chiến đấu trên biển và phong tỏa trên biển.

Cơ cấu tổ chức hạm đội đã phức tạp hơn, các tàu đã liên kết lại thành các liên đội tàu dưới sự chỉ huy thống nhất của một tàu chỉ huy (Flagship) liên đội. Đội hình tác chiến của liên đội trong hải chiến và của hạm đội là tuyến cơ động chiến đấu, cho phép các tầu có thể cơ động trong tuyến cơ động của liên đội.

Phương án tác chiến này cho phép sử dụng hiệu quả hỏa lực của pháo hạm được bố trí nhiều hành bên sườn tàu. Đâm tàu vào nhau sử dụng ngày càng ít hơn, phương pháp đổ bộ lên tàu đối phương vẫn được áp dụng khi sử dụng tàu buồm, tác chiến theo phương pháp tuyến cơ động chiến đấu được sử dụng trong suốt thế kỷ 17 và 18.

Một đóng góp quan trọng trong việc phát triển nghệ thuật quân sự Hải quân là nghệ thuật tác chiến của Hải quân Nga vào ¼ đầu thế kỷ 18 trong cuộc chiến tranh Bắc Âu, (Great Northern War năm 1700—1721) chống lại lực lượng Hải quân hùng mạnh của Thụy Điển.

Thay vì cùng với lực lượng của các nước phương Tây đổ bộ lên bờ, đánh phá đường vận tải của đối phương và một cuộc chiến tổng lực của các hạm đội. Vua Peter I đã áp dụng chiến thuật kiên quyết và chắc chắn, kết hợp tác chiến chặt chẽ giữa hải quân và lục quân đánh chiếm căn cứ hải quân của đối phương, lợi dụng hướng gió cơ động nhanh, tấn công hạm đội đối phương từ phía bên sườn, chia cắt đội hình tàu địch, bao vây và đổ bộ chiếm tàu.

Chiến thuật của vua Peter I đã được ghi vào "Điều lệnh tác chiến Hải quân năm 1720".

Giữa thế kỷ 18, pháo hạm đã có sự phát triển vượt bậc (tầm bắn xa hơn, khả năng xuyên và nổ phá mạnh hơn của đạn pháo, khả năng bắn chính xác hơn) do đó, đã xuất hiện những mâu thuẫn đối kháng trong tác chiến bằng phương thức tuyến cơ động chiến đấu cổ điển.



Vận động tác chiến của chiến hạm chống lại tuyến cơ động chiến đấu.


Đô đốc G.A.Spiridov, đô đốc F.F.Usacov (Nga) là 2 đô đốc đầu tiền trong thực tế hải chiến đã từ bỏ phương án tác chiến tuyến cơ động chiến đấu và đặt những bước đầu tiên cho phương án tác chiến hạm đội mới, vận động tác chiến chiều sâu.

Nghệ thuật hải chiến mới có đặc điểm khác hẳn so với phương án tác chiến trước đây là tính năng động cao trong tác chiến, quyết tâm đạt mục tiêu đã đặt trước, có sự phối hợp tốt giữa các lực lượng trong liên đội và đã có những thành công trong các trận hải chiến ở Kênh Chios năm 1770, Tendra 1790, và Mũi Hảo vọng năm 1971.

Những thử nghiệm đầu tiên của lý thuyết nghệ thuật quân sự Hải quân vận động tác chiến được phản ánh khá sâu sắc trong tác phẩm của người Anh J. Clerk "Kinh nghiệm hải chiến”, chương 1-4 xuất bản năm 1790 – 1797, được dịch ra tiếng Nga với tiêu đề " Hạm đội vận động chiến” năm 1803.

Trong tác phẩm ông đã tổng kết những nguyên nhân dẫn đến những thất bại của Hạm đội Anh trong nhưng trận đánh giữa thế kỷ 18, đề xuất những kiến nghị thay đổi chiến thuật tuyến cơ động chiến đấu bằng những chiến thuật vận động chiến trong Hải chiến.

Nhưng trong nghệ thuật tác chiến Hải quân của những cường quốc biển ( Anh, Pháp, Italy, Hà lan) chiến thuật tuyến vận động chiến đấu vẫn được áp dụng chủ đạo đến cuối thế kỷ 18.



Chiến thuật vận động tác chiến và tác chiến độc lập của chiến hạm.



Chiến thắng của đô đốc người Anh G. Nelson ở Aboukir năm 1798, Trafalgar năm 1805, đô đốc người Nga ở trận "Battle of Athos” với sự áp dụng chiến thuật vận động tác chiến linh hoạt đã khẳng định tính ưu việt của chiến thuật vận động tiến công.

Chiến thuật này được xem xét cùng với quá trình vận động tiến cồng của liên đội hạm tàu để sử dụng triệt để hỏa lực pháo hạm và phá hủy khả năng điều khiển hải lực của hạm đội đối phương, đã phát huy tối đa khả năng độc lập tác chiến của chiến hạm.

Chiến thuật vận động đã bổ xung thêm nội dung tác chiến độc lập của hải thuyền và xuất hiện những đòi hỏi rất cao đối với thuyền trưởng trong nghệ thuật điều khiển tàu và sử dụng hỏa lực pháo binh trong hải chiến.

[BDV news]


>> Trung Quốc khoe tên lửa chống hạm mới





Các trang mạng quốc phòng Trung Quốc đang xôn xao về một tên lửa chống hạm mới được cho là tốt hơn cả tên lửa của Nga.


Theo đó loại tên lửa chống hạm mới có tên gọi là YJ-85 hay C-805, giới quân sự Trung Quốc tự hào cho rằng, loại tên lửa chống hạm mới này còn ưu việt hơn cả các tên lửa chống hạm hiện đại nhất của Nga.

Qua thông tin kỹ thuật được công bố, điều làm cho tên lửa chống hạm C-805 đặc biệt nguy hiểm chính là tốc độ. Loại tên lửa chống hạm này được cho là có tốc độ lên đến Mach 3,5, do đó, việc đánh chặn tên lửa này gần như là điều không thể.

Về cấu hình khí động học của tên lửa C-805 tương tự như các biến thể trước đó của gia đình tên lửa chống hạm YJ8. C-805 là một biến thể nâng cấp của tên lửa chống hạm C-802A.



Tên lửa C-805 trong một lần bắn thử, cấu hình khí động học của C-805 hoàn toàn giống với tên lửa C-802A.


Tên lửa C-805 được giới thiệu là thiết kế theo công nghệ hiện đại và rất đa năng, có thể phóng từ máy bay, tàu chiến, tàu ngầm và bệ phóng di động trên bờ. Không chỉ vậy, độ chính xác chính là một điểm nỗi bật của loại tên lửa này.

Ngoài chức năng chính là chống hạm, tên lửa C-805 còn có thể sử dụng như một loại tên lửa hành trình tấn công mặt đất, các căn cứ quân sự và kho tàng ven biển.

Theo công bố, qua 8 lần thử nghiệm, C-805 đạt hiệu suất tiêu diệt mục tiêu 100%, tên lửa được thiết kế với khả năng tàng hình rất cao. Các loại radar hiện đại nhất gần như không bắt được tín hiệu của loại tên lửa này.

Giới quân sự Trung Quốc cho rằng, tên lửa chống hạm C-805 là một đối thủ đáng gờm của loại tên lửa Brahmos Nga - Ấn Độ hợp tác phát triển. "Nếu Brahmos là niềm tự hào của Ấn Độ, thì C-805 chính là niềm tự hào của người Trung Quốc", một ý kiến trên mạng Trung Quốc nhận xét.



Tên lửa C-805 thực ra là bản nâng cấp của C-802A (trong ảnh tên lửa C-802A tại triển lãm Chu Hải năm 2006)


Các thông số kỹ thuật được công bố cho thấy, tên lửa C-805 có đường kính 670mm, dài 8 mét, trọng lượng 3 tấn, tầm bắn hiệu quả 380km.

Tên lửa C-805 mang theo đầu đạn nặng 300kg, hệ thống dẫn đường được trang bị bộ cảm biến tinh vi, có khả năng phát hiện và bám theo các mục tiêu liên tục thay đổi vị trí. Tên lửa chống hạm C-805 được phát triển bởi Học viện công nghệ điện cơ khí HaiYing.

Theo một số thông tin rò rỉ trên trang Deagel, tên lửa chống hạm C-805 sử dụng hệ thống dẫn đường dựa kết hợp hệ thống định vị toàn cầu kiểu GPS và một radar có khả năng lập bản đồ để bay theo kiểu men theo địa hình TERCOM.

Sự phát triển của C-805 được cho là để đối phó lại với chương trình phát triển tên lửa chống hạm tầm xa của Mỹ. Nhiều khả năng loại tên lửa chống hạm mới này đã được đưa vào biên chế Hải quân Trung Quốc vào năm 2010. Theo một báo cáo được đăng tải bởi Afcea, tên lửa chống hạm C-805 đã được trang bị cho tàu khu trục Type-052C.

Với sự ra đời của tên lửa chống hạm C-805, giới quân sự Trung Quốc tự tin tuyên bố: "C-805 đã “soán ngôi” của tên lửa chống hạm P-270 Moskit được trang bị trên các tàu khu trục hạng Sovremenny mà Trung Quốc mua từ Nga. Đồng thời, C-805 trở thành loại tên lửa chống hạm tốt nhất trong biên chế Hải quân Trung Quốc, và là loại tên lửa chống hạm tốt nhất khu vực. Cùng với Nga, Trung Quốc là nước sản xuất nhiều biến thể tên lửa chống hạm nhất thế giới".

Có thể nói, tung ra các thông số "khủng" về uy lực của vũ khí nội địa (tự thiết kế, sản xuất dựa vào các mẫu tương tự của nước ngoài) trở thành "truyền thống" của ngành công nghiệp quốc phòng Trung Quốc và là nét đặc trưng của các mạng quân sự nước này. Trong quá trình đó, các thành tựu của công nghệ quốc phòng Nga thường được đem ra làm mốc so sánh. Mỗi lần vượt được người thầy, người bạn đã dìu dắt mình (trên mạng ảo), người Trung Quốc lại thấy rất tự hào. Cách thể hiện hẳn là liều thuốc tinh thần được nhiều cư dân mạng Trung Quốc ưa chuộng.

[BDV news]


>> Mỹ kết án tử hình với 'Bóng ma trên biển'





Hải quân Mỹ đã quyết định cắt làm sắt vụn chiến hạm độc đáo Sea Shadow (Bóng ma trên biển), được đóng trong thập niên 1980 theo công nghệ tàng hình.


Sea Shadow là tàu chiến tàng hình đầu tiên trên thế giới. Công nghệ tàng hình đòi hỏi tạo ra cho vật thể hình dáng hình học sao cho tán xạ tối đa sóng radar. Ngoài ra, còn có các vật liệu đặc biệt để bảo vệ tàu tàng hình trước radar. So với các tàu thông thường, tầm phát hiện tàu tàng hình chỉ bằng 1/3 nên tạo ra ưu thế chiến lược trong tác chiến.

Hai mạn của tàu Sea Shadow được thiết kế nghiêng tạo một góc 45 độ và tựa trên các phao ngầm dưới nước, đáy tàu được nâng lên trên mặt nước. Tàu được trang bị thiết bị bảo vệ tăng cường, tạo ra quanh tàu một đám mây bụi nước, làm cho nó khó bị radar và các sensor nhiệt phát hiện. Tất cả các mối hàn trên thân cũng được phủ bằng hợp chất đặc biệt.

Sea Shadow đã được thử nghiệm ban đêm để tránh các vệ tinh do thám của Liên Xô. Nhưng Hải quân Mỹ đã không thể giữ kín hoàn toàn bí mật của mình. Năm 1995, một trong các kỹ sư tham gia chế tạo Sea Shadow đã bị bắt và kết án vì bán bí mật quân sự.


Sea Shadow xuất cảng.


Sau mấy năm thử nghiệm, Lầu Năm góc kết luận, dù chỉ chạy ở tốc độ thấp, tàu này cũng dễ bị radar phát hiện, các bức màn nước cũng chẳng giúp ích gì. Vì thế với chi phí đóng và khai thác 195 triệu USD, Sea Shadow bước vào ngõ cụt trong phát triển công nghệ hải quân.

Sea Shadow nổi danh khi được sử dụng trong thập niên 1990 để quay bộ phim “Ngày mai không lụi tàn” (Tomorrow never dies) trong loạt phim về điệp viên 007 James Bond, phát hành năm 1997. Theo cốt chuyện, một tàu tàng hình thuộc về trùm truyền thông Elliot Carver và khi ở trong hải phận Trung Quốc đã được sử dụng để khiêu khích một cuộc xung đột quân sự giữa Trung Quốc và Anh.

Sau bộ phim này, con tàu thử nghiệm Sea Shadow chẳng dùng được vào việc gì nữa. Hải quân Mỹ đã hy vọng một tư nhân nào đó mua lại con tàu, song cuối cùng họ chẳng tìm được khách hàng nào mặc dù tuyên bố tiêu hủy con tàu đã thu hút nhiều sự quan tâm.



Mô hình của tàu quái dị Sea Shadow.

Dù có sẵn tiền thì chẳng phải tư nhân nào cũng có thể mua Sea Shadow. Người ta không thể để nó trong sân một ngôi nhà bình thường vì nó dài gần 48m, rộng hơn 30m và nó cũng không được bảo quản cẩn thận cho lắm.

Một đại diện của nhà sản xuất Lockheed Martin cho biết, trong 4-5 năm gần đây, con tàu không hề được bảo quản, sửa chữa vì thế việc tu sửa nó phải do khách mua tàu tự lo.

Năm 2009, người ta đã thảo luận vấn đề chuyển giao tàu Sea Shadow cho bảo tàng, song không bảo tàng hải quân nào tỏ ý muốn nhận lấy vật trưng bày độc đáo này. Dẫu sao hiện thời chưa phải là mất tất cả vì đại diện Hải quân Mỹ Chris Johnson nói rằng, cho đến phút cuối vẫn có thể tìm ra người mua.


[BDV news]


>> Nhật, Mỹ công bố chương trình hợp tác quốc phòng mới





Nhật và Mỹ vừa tuyên bố tiếp tục hợp tác trong chương trình phòng thủ tên lửa và những vấn đề an ninh chung.


Nhật Bản và Mỹ vừa ký cam kết tiếp tục hợp tác với nhau trong chương tình phòng thủ tên lửa, an ninh mạng, lĩnh vực không gian cũng như mở rộng chia sẻ thông tin tình báo, giám sát và các hoạt động thăm dò.

"Chúng tôi đã nhất trí về một khung hợp tác sản xuất để chuyển phòng thủ tên lửa đánh chặn cho các bên thứ ba, tăng cường hợp tác về trợ giúp nhân đạo và cứu trợ thiên tai cũng như lĩnh vực không gian và an ninh mạng", Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Robert Gates nói trong cuộc họp ngày 21/6.




Trong chương trình lá chắn tên lửa, bộ trưởng Quốc Phòng của Nhật và Mỹ quyết định sẽ nghiên cứu kỹ thêm các vấn đề trước khi chuyển bản thiết kế tên lửa chống tên lửa SM-3 Block IIA cho các công ty sản xuất. Hai nước đồng ý cử ra Ủy ban chung về vũ khí và kỹ thuật quân sự để giám sát các hoạt động chuyển giao này.

Nhật và Mỹ cũng đồng ý thúc đẩy đối thoại về đa dạng hóa nguồn cung cấp các nguồn tài nguyên quan trọng, vật liệu bao gồm năng lượng và đất hiếm.

Tuyên bố của Ủy ban tư vấn an ninh Mỹ - Nhật cũng cho biết 2 bên đồng ý mở rộng các hoạt động đào tạo, tập huấn chung cũng như tiếp tục các hoạt động nghiên cứu chung của 2 bên.

Ngoài ra, 2 nước tiếp tục mở rộng và chia sẻ thông tin tình báo, các dữ liệu giám sát và trinh sát để ngăn chặn và chủ động đối phó với các tình huống khác nhau trong khu vực.

Mỹ cũng tái khẳng định sẽ bảo vệ Nhật Bản cũng như hòa bình và an ninh trong khu vực bằng cả những cách thông thường và lực lượng hạt nhân. Cụ thể, Mỹ cam kết sẽ điều chỉnh thế trận phòng thủ khu vực để giúp Nhật giải quyết những thách thức như sự gia tăng của công nghệ hạt nhân, tên lửa đạo đạo và các mối đe dọa đang phát triển khác đến từ không gian, đại dương và internet.

Trong lĩnh vực không gian, 2 quốc gia thừa nhận tiềm năng hợp tác trong tương lai trong việc xây dựng hệ thống vệ tinh dẫn đường, nâng cao nhận thức về không gian dưa trên các vùng hàng hải và việc sử dụng các bộ cảm biến. 2 Bộ trưởng cũng nhất trí tăng cường khả năng phục hồi các cơ sở hạ tầng quan trọng bao gồm cả việc bảo mật hệ thống thông tin.

Đặc biệt, nhiều thỏa thuận chiến lược giữa Nhật và Mỹ có liên quan đến các hoạt động gần đây của Trung Quốc và Triều Tiên. Theo đó, Trung Quốc đã phát triển tên lửa đạn đạo chống tàu sân bay mà Mỹ xem là mối đe dọa cho hải quân nước này. Đồng thời, Triều Tiên cũng được xem có những bước thành công trong việc chế tạo tên lửa đạn đạo mang đầu đạn hạt nhân.

Ngoài ra, 2 bên cũng đặt nhiều sự quan tâm tới các thử nghiệm của hệ thống chống vệ tinh của Trung Quốc trong những năm gần đây.


[BDV news]


Thứ Tư, 22 tháng 6, 2011

>> Ấn Độ chi 100 tỷ rupee mở rộng căn cứ hải quân





Hải quân Ấn Độ đã sẵn sàng chi khoảng 100 tỷ rupee cho dự án mở rộng căn cứ hải quân chiến lược Karwar tại bang Karnataka. Tàu sân bay INS Vikramaditya, tàu ngầm tấn công Scorpene các một số tàu chiến khác dự kiến sẽ được đặt tại căn cứ này trong tương lai.


Tuyên bố được đưa ra vào thời điểm Ấn Độ đang phải đối mặt với khả năng Trung Quốc có thể sử dụng cảng biển nước sâu Gwadar tại Pakistan làm nơi triển khai tàu chiến. Cảng Gwadar của Pakistan được Trung Quốc giúp đỡ xây dựng từ thập kỷ trước và kéo dài cho tới bây giờ.




Trước đó, thông tin này được Bộ trưởng Quốc phòng Pakistan Ahmed Mukhtar khẳng định khi công khai tuyên bố Islamabad đã yêu cầu Bắc Kinh xây một căn cứ hải quân tại Gwadar, tạo ra lối vào trực tiếp tới khu vực vùng Vịnh.

Mặc dù, Trung Quốc sau đó đã nhanh chóng phủ nhận không quan tâm gì đến việc thiết lập một căn cứ hải quân tại Gwadar, nhưng vai trò lo lớn của Bắc Kinh trong việc xây dựng các cảng ở Bangladesh, Myanmar và Sri Lanka lại khẳng định nỗ lực của Trung Quốc trong việc thực hiện chiến lược “chuỗi ngọc trai” của nước này tại khu vực Ấn Độ Dương.

Pakistan có 5 căn cứ hải quân và cảng biển lớn tại Gwadar, Ormara, Karachi, Pasni và Jiwani, trong khi đó căn cứ Karwar của Ấn Độ là căn cứ hải quân lớn thứ ba sau Mumbai và Visakhapatnam, thuộc bờ biển phía Đông.

“Sau một thời gian trì hoãn, Bộ quốc phòng đã chuẩn bị một báo cáo giải trình cho Ủy ban An ninh Nội các (CCS) về giai đoạn 2A của dự án “Seabird” tại Karwar sau khi điều chỉnh báo cáo dự án chi tiết”, một quan chức cho hay.

Dự án Seabird vẫn còn nhùng nhằng do sự trì hoãn lâu dài, và rắc rối khác liên quan đến vấn đề ngân sách kể từ khi được phê duyệt vào năm 1985 với chi phí ban đầu là 3,5 tỷ rupee. Giai đoạn 1 đã hoàn thành với tổng chi phí là 2,63 tỷ rupee, cho phép hải quân đặt 11 tàu chiến tại Karwar.

Trong gia đoạn 2, ngoài vai trò là cảng cho tàu neo và cập bến, Karwar còn là một căn cứ không quân, kho vũ khí, xưởng sửa chữa và đóng tàu, và hầm chứa tên lửa. Mục tiêu cuối cùng nhằm đặt khoảng 50 tàu chiến lớn tại Karwar sau khi giai đoạn 2B hoàn tất.

Sau khi hoàn tất công việc xây dưng, Hải quân Ấn Độ sẽ triển khai hai nhóm chiến đấu trên tàu sân bay INS Vikramaditya 44.570 tấn và tàu sân bay nội địa 40.000 tấn, dự kiến sẽ được biên chế vào 2015. Karwar là một căn cứ quan trọng cho hoạt động của lực lượng hải quân Ấn Độ tại Ấn Độ Dương và xa hơn nữa.


[Vitinfo news]


>> Học giả quốc tế bác bỏ 'đường lưỡi bò' của Trung Quốc





Nhiều học giả quốc tế phản bác các lập luận của Trung Quốc về "cơ sở lịch sử" của đường lưỡi bò, trong Hội thảo quốc tế về an ninh Biển Đông đang diễn ra tại Washington, Mỹ.


Sau khi ông Su Hao, Phó Giám đốc Trung tâm nghiên cứu quốc tế của Đại học Ngoại giao Bắc Kinh, có bài phát biểu về tuyên bố chủ quyền cũng như chính sách của Trung Quốc tại Biển Đông, ông Termsak Chalermpalanupap, Giám đốc phụ trách chính trị và an ninh của Ban Thư ký ASEAN, lên tiếng: "Tôi không cho rằng Công ước của Liên hợp quốc về luật biển (UNCLOS) công nhận lịch sử là cơ sở để tuyên bố chủ quyền".

Đảo Đá Lớn thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Ảnh: TTXVN.


Theo Vietnamplus, giáo sư Peter Dutton thuộc Đại học Hải quân Mỹ, không đồng tình với cách giải thích của Trung Quốc về ý nghĩa của đường lưỡi bò liên quan tới lịch sử. Ông nói: "Về quyền tài phán đối với các vùng biển, lịch sử không liên quan gì cả, mà phải tuân theo UNCLOS."

Tiến sỹ Dutton cũng nói rằng việc dùng lịch sử để giải thích chủ quyền làm xói mòn các quy tắc của UNCLOS.

Nhà nghiên cứu nổi tiếng, giáo sư Carlyle Thayer từ Học viện Quốc phòng Australia nói rằng việc học giả Trung Quốc sử dụng "di sản lịch sử" để giải thích về tuyên bố chủ quyền một lần nữa bộc lộ việc thiếu cơ sở pháp lý theo luật quốc tế trong tuyên bố chủ quyền này.

Cũng liên quan đến khía cạnh luật quốc tế, bà Caitlyn Antrim, Giám đốc Ủy ban Pháp quyền Đại dương của Mỹ, khẳng định tuyên bố đường 9 đoạn (đường lưỡi bò) không có cơ sở theo luật quốc tế bởi cơ sở lịch sử là rất yếu và rất khó bảo vệ.

Bà Antrim nói: "Tôi không hiểu Trung Quốc tuyên bố cái gì trong đường lưỡi bò đó. Nếu họ tuyên bố chủ quyền với các đảo do đường ấy bao quanh, thì câu hỏi đặt ra là họ có chứng minh được chủ quyền với các đảo đó hay không. Nếu Trung Quốc có tuyên bố chủ quyền với các đảo từ 500 năm trước, nhưng sau đó lại bỏ trống thì tuyên bố chủ quyền trở nên rất yếu. Đối với các đảo không có cư dân sinh sống thì họ chỉ có thể tuyên bố lãnh hải, chứ không thể tính vùng đặc quyền kinh tế từ các đảo đó."

Trong phiên thảo luận buổi chiều 20/6, các học giả Bonnie Glaser của Mỹ, Trần Trường Thủy của Việt Nam, Carl Thayer của Australia và Ian Storey của Singapore đã trình bày về các diễn biến gần đây trên Biển Đông, đưa ra cách giải thích cho các sự kiện này.

Trước câu hỏi của học giả Trung Quốc về việc tại sao các sự kiện giữa tàu Trung Quốc và tàu thăm dò của Việt Nam lại xảy ra vào thời điểm này, tiến sĩ Trần Trường Thủy nói: "Đây cũng là câu hỏi của chúng tôi. Tại sao tàu Trung Quốc lại cắt cáp tàu thăm dò của Việt Nam vào thời điểm ngay trước khi diễn ra nhiều sự kiện quan trọng như Hội nghị Shangri-la".

Tại hội thảo, ngoài các học giả còn có bài phát biểu của Thượng nghị sĩ John McCain, cựu Giám đốc Tình báo Quốc gia John Negroponte và một số quan chức của Mỹ.

Về tình hình tại Biển Đông, Thượng nghị sĩ McCain nói: "Một trong nhưng nguyên nhân chính làm xấu thêm những căng thẳng tại Biển Đông và khiến cho việc giải quyết hòa bình các tranh chấp tại đây trở nên khó khăn hơn là thái độ hiếu chiến của Trung Quốc và tuyên bố chủ quyền mà Trung Quốc muốn thúc đẩy."

Hội thảo sẽ tiếp tục trong buổi sáng ngày 21/6 với các phiên thảo luận về tính hiệu quả của các khuôn khổ và cơ chế an ninh trên biển hiện nay cho Biển Đông và các đề xuất chính sách nhằm thúc đẩy an ninh trong khu vực.

[Vnexpress news]



Copyright 2012 Tin Tức Quân Sự - Blog tin tức Quân Sự Việt Nam
 
Lên đầu trang
Xuống cuối trang