Tin Quân Sự - Blog tin tức Quân sự Việt Nam: Bí mật quân sự

Paracel Islands & Spratly Islands Belong to Viet Nam !

Quần Đảo Hoàng Sa - Quần Đảo Trường Sa Thuộc Về Việt Nam !

Hiển thị các bài đăng có nhãn Bí mật quân sự. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Bí mật quân sự. Hiển thị tất cả bài đăng

Chủ Nhật, 19 tháng 5, 2013

>> Mỹ cũng từng có ý định tấn công hạt nhân Trung Quốc năm 1958

Trung tuần tháng 8/1958, 5 chiếc máy bay ném bom B-47 của không quân Mỹ bố trí tại căn cứ quân sự trên đảo Guam đã được đặt trong tình trạng sẵn sàng chiến đấu, chỉ cần nhận lệnh là vút lên trời bay đi thực hiện sứ mệnh hủy diệt nhằm vào khu vực Hạ Môn (Trung Quốc). Tuy nhiên, đến phút cuối, Tổng thống Mỹ khi đó là Dwight Eisenhower đã không đồng ý với đề xuất của Lầu Năm góc. Tại sao vậy.

>> Liên Xô từng có ý định tấn công hạt nhân Trung Quốc ? (Phần 1)

Trở lại với thời điểm tháng 8/1958, bóng mây chiến tranh vần vũ ở eo biển Đài Loan. Nhằm giáng đòn sấm sét vào cái gọi là "Hiệp ước phòng thủ chung" mà Oasinhtơn đã ký với nhà cầm quyền Đài Bắc, Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc đã tập kết một lượng lớn binh lực ở tiền tuyến Phúc Kiến.

17 giờ 30 phút ngày 23/8, hàng vạn khẩu pháo của Trung Quốc đồng loạt khai hỏa bắn phá dữ dội vào những mục tiêu quan trọng của quân Quốc dân Đảng như "Bộ tư lệnh phòng vệ Kim Môn" và trận địa pháo binh. Cả thế giới dồn sự quan tâm chú ý vào Kim Môn, nơi chỉ cách Hạ Môn (Trung Quốc) 18 hải lý (khoảng 33 km) về phía Tây.


Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Máy bay ném bom B-47 của Mỹ.

Việc Trung Quốc tấn công quần đảo Kim Môn làm cho Mỹ trở tay không kịp. Do trước đó, không quân Mỹ đã điều một lực lượng lớn đi ứng phó với cuộc khủng hoảng Libăng, nên không có cách nào bố trí binh lực ở khu vực biển Đài Loan theo hiệp ước đã ký với Tưởng Giới Thạch.

Trong bối cảnh đó, Chủ tịch Hội đồng tham mưu liên quân Mỹ, tướng không quân Nathan F. Twining (ảnh), người từng chủ trương sử dụng vũ khí hạt nhân cứu quân Pháp đang bị vây khốn ở Điện Biên Phủ (Việt Nam), đã ra sức cổ súy cho ý tưởng cực đoan: ra đòn hạt nhân nhằm vào Trung Quốc đại lục.

Trung tuần tháng 8/1958, 5 chiếc máy bay ném bom B-47 của không quân Mỹ bố trí tại căn cứ quân sự trên đảo Guam đã được đặt trong tình trạng sẵn sàng chiến đấu, chỉ cần nhận lệnh là vút lên trời bay đi thực hiện đòn đánh hạt nhân chiến thuật nhằm vào khu vực Hạ Môn (Trung Quốc).

Mệnh lệnh từ Bộ chỉ huy không quân chiến lược Mỹ chỉ rõ: một khi xung đột leo thang, 5 chiếc máy bay ném bom B-47 mang theo những quả bom hạt nhân chiến thuật tương đương lượng nổ khoảng 10.000-15.000 tấn thuốc nổ TNT thả xuống Hạ Môn.

Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Tướng Twining.

Tuy nhiên, trong cuộc họp với các quan chức chủ chốt của Nhà Trắng và Lầu Năm góc ngày 25/8, Tổng thống Eisenhower đã quyết định "không sử dụng vũ khí hạt nhân ở khu vực biển Đài Loan mà dùng sức mạnh vũ khí thông thường trợ giúp Đài Loan".

Bốn ngày sau, Eisenhower ra lệnh cho lực lượng tác chiến hỗn hợp không quân (CASF) chi viện cho vùng Viễn Đông và một lần nữa khẳng định lại với Twining rằng "cho dù Kim Môn có bị pháo kích ác liệt tới đâu, chúng ta cũng không phải vội vàng sử dụng vũ khí hạt nhân".

Tư tưởng chỉ đạo của Eisenhower đã gặp phải sự phản đối của nhiều tướng lĩnh Mỹ, trong đó có tướng không quân Lawrence Kuter, một trong những tác giả của bản kế hoạch tấn công hạt nhân. Tướng Lawrence Kuter cho rằng quyết định "phản ứng có giới hạn" (không sử dụng vũ khí hạt nhân) của Eisenhower là một "thảm họa", "hoặc là người Mỹ sử dụng loại vũ khí hiệu quả nhất của mình (vũ khí hạt nhân) hoặc là không nên can dự vào cuộc xung đột trên biển Đài Loan".

Tại sao Tổng thống Mỹ Eisenhower đưa ra một quyết định đi ngược lại ý muốn của những tướng lĩnh "diều hâu"?

Thứ nhất, truớc khi cuộc xung đột trên biển Đài Loan xảy ra, Liên Xô đã tuyên bố bắt đầu từ ngày 31/3/1958 sẽ đơn phương chấm dứt tất cả các hình thức thử nghiệm vũ khí hạt nhân. Muốn giành được thế chủ động trên mặt trận ngoại giao, đương nhiên, Mỹ phải hạn chế sử dụng vũ khí hạt nhân ở khu vực biển Đài Loan.

Bên cạnh đó, việc Mỹ sử dụng vũ khí hạt nhân tấn công Hạ Môn không chỉ gây thiệt hại cho Trung Quốc mà còn cho cả Đài Loan, đồng thời có thể dẫn đến khả năng leo thang xung đột hạt nhân trên toàn thế giới. Đặc biệt, sau khi chứng kiến những hậu quả khủng khiếp gây ra cho thường dân ở hai thành phố Hiroshima và Nagasaki (Nhật Bản), nhân loại cực lực lên án việc sử dụng loại vũ khí dã man, tàn bạo này.

Việc Mỹ một lần nữa sử dụng vũ khí hạt nhân triệt hạ đối phương sẽ chỉ làm cho làn sóng chống Mỹ cao thêm, gián tiếp trợ giúp Liên Xô giành được sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế.

Cuối cùng, vào năm 1958, tuy thời kỳ "trăng mật" trong quan hệ Xô-Trung sắp kết thúc, nhưng những chia rẽ giữa hai bên chưa công khai hóa. Ngày 31/7/1958, Bí thư thứ nhất Đảng Cộng sản Liên Xô Nikita Sergeyevich Khrushchev thăm Bắc Kinh. Kết hợp với việc Trung Quốc pháo kích Kim Môn, người ta cho rằng Mátxcơva ngầm ủng hộ Bắc Kinh tấn công Kim Môn.

Cho dù Eisenhower đã sớm vạch ra chiến lược trả đũa toàn diện trước mối đe dọa hạt nhân của Liên Xô, nhưng rõ ràng người Mỹ không có được 100% tin tưởng vào khả năng giành chiến thắng trong một cuộc chiến tranh hạt nhân với Liên Xô. Hơn nữa, ngày 7/9, Khrushchev đã gửi thư cho Eisenhower cảnh cáo rằng: "Trong thời đại của vũ khí hạt nhân, tên lửa siêu thanh và các loại vũ khí với uy lực chưa từng có, các hạm đội hải quân từng làm mưa làm gió trên biển về cơ bản chỉ thích hợp cho những chuyến thăm quan mang tính lễ tân, đó là chưa nói tới việc chúng sẽ trở thành mục tiêu tấn công của các loại tên lửa".

Rõ ràng, Khrushchev đang ám chỉ tới việc Eisenhower khi đó đã ra lệnh cho Hạm đội 7 tới eo biển Đài Loan "tuần tra". Khrushchev nhấn mạnh: "Trong bối cảnh sự lũng đoạn hạt nhân của Mỹ không còn, việc Mỹ vẫn còn có ý đồ sử dụng vũ khí hạt nhân đe dọa nước khác là hoàn toàn không có hy vọng". Vì vậy, cho dù Eisenhower muốn sử dụng vũ khí hạt nhân tấn công Hạ Môn thì cũng không thể không xem xét đến việc khi đó Trung Quốc và Liên Xô vẫn đang cùng một phe.

(Tổng hợp)

>> "Quân nhân Xô viết là thủy thủ anh hùng, các quân nhân Mỹ - các thủy thủ vô dụng" ?

Có lẽ đó là trường hợp chưa từng có với cả Liên Xô và Mỹ trong thời kỳ căng thẳng sau đại chiến thế giới lần thứ II. Hơn nữa, sự việc này đã diễn ra khi cuộc chiến tranh Lạnh giữa các cường quốc thế giới đã đến hồi kết.

>> Liên Xô từng có ý định tấn công hạt nhân Trung Quốc ? (Phần 1)

Câu chuyện của cuộc va chạm bắt đầu khi người Mỹ liều lĩnh xâm phạm lãnh hải của Liên Xô. Những chiến sĩ Hải quân Liên Xô thực sự đã dạy cho các tầu xâm lấn một bài học nhớ đời.

Đó là một cuộc đối đầu vũ trang thực sự ngoài khơi bờ biển bán đảo Crimea. Trong cuộc đối đầu này có sự tham dự của tàu tuần dương "Yorktown" và tàu khu trục "Caron" Mỹ, phía Liên Xô là chiến hạmchống ngầm loại lớn ""Bezzavetnyi – Quên mình" và khinh hạm tuần biển SKR-6.

Thủy thủ của hải quân Xô viết đã giành được thắng lợi cả về thực tế hoàn thành nhiệm vụ và ý chí tinh thần, theo đúngnghĩa của chiến thắng, xua đuổi những chiến hạm Mỹ đã xâm phạm biên giới biển của Liên Xô. May mắn cho tất cả, sự việc đã kết thúc bình yên, không nổ súng, mặc dù cuộc xung đột quân sự, có vẻ như trong một vài phút, có thể là không thể tránh được. Đạn đã được nạp vào buồng nòng của các pháo hạm với cả hai bên, tên lửa sẵn sàng trên bệ phóng, ngư lôi cũng đã được mở khóa an toàn ống phóng.


Sau sự cố này, báo chí Mỹ lần đầu tiên gọi quân nhân Xô viết là thủy thủ anh hùng, và các quân nhân Mỹ - các thủy thủ vô dụng.
Nhưng câu chuyện này không được bắt đầu vào năm 1988, mà hơn hai năm trước đó. Vào năm 1986, chiếc tàu tuần dương Mỹ "Yorktown" và tàu khu trục "Caron", đi qua eo biển Bosphorus và eo biểnDardanelles thuộc biển Địa Trung Hải, đã vượt qua hải phận trên vùng nước bờ biển của Liên Xô từ phía Feodosiya. Nhưng lúc đó Bộ tư lệnh Hải quân đã không có được sự kiên quyết cần thiết, hoặc sự nhạy bén tình huống để đuổi người Mỹ ra khỏi vùng biển Liên bang Xô viết .

Đô đốc Vladimir Tchernavin mới nhận nhiệm vụ là Tổng tư lệnh Hải quân được vài tháng, và có thể, lúc đó ông không có một chút kinh nghiệm trong sự kiện tầu chiến của Mỹ trắng trợn (không thể có cách nói nào khác) xâm phạm lãnh hải của Liên Xô, để có được các mệnh lệnh mạnh mẽ, quyết đoán điều hành các đơn vị thuộc quyền .

Nhưng khi lực lượng tình báo tối mật của Liên Xô thông báo về kế hoạch đầu năm 1988, Hải quân Mỹ sẽ lặp lại các cuộc xâm phạm lãnh hải Xô viết với mưu đồ kích động chính trị và gây bạo động , ông đã không ngần ngại báo cáo với Tổng bí thư Đảng CS Nga Mikhail Gorbachev: "Kế hoạch cần phải ngăn chặn một cách quyết liệt và không khoan nhượng".

Như đã được ghi lại trong các biên niên sử của thời gian đó, M. Gorbachev chỉ nhún vai, nhưng không nói một lời nào để trả lời. Nhưng cái nhún vai của ông ta được vị Tổng tư lệnh lực lượng Hải quân Xô viết hiểu như là một kiểu “carte blansh– tùy ý định liệu”. Và như vậy, tháng 2 năm 1988.

Những người bạn xấu xa cũ, chiếc tàu tuần dương "Yorktown" và tàu khu trục "Caron" lại xâm phạm Biển Đen, nhưng lần này từ hướng hải cảng quân sựSevastopol. Và cuộc xâm phạm lãnh hải của Xô viết diễn ra rất ngang ngược và phô trường, loại bỏbất kỳ nghi ngờ nào về những ý định tốt đẹp của các ông bạn bên kia đại dương mang đến vùng nước Liên xô.

Ở đây, có lẽ, điều đáng chú ý là Công ước quốc tế về Vận tải biển, được Chính phủ Liên Xô kỹ vào giữa những năm tám mươi, có cho phép các tầu quân sự đi qua vùng nước (phụ) thuộc lãnh hải của quốc ven biển. Nhưng chỉ trong trường hợp đặc biệt, với mục đích rút ngắn hải trình và bắt buộc phải thi hành hàng loạt những yêu cầu khắt khe. Có nghĩa không phải là để thực hiện nhiệm vụ trinh sát, tình báo, không cho phép các máy bay trên boong tầu được cất, hạ cánh, không tiến hành các hoạt động diễn tập (dù là không sử dụng đạn thật) và không có những hành vi làm cho các quốc gia ven biển phải nghi ngại. Nhưng Công ước chưa được Liên Xô phê chuẩn vào năm 1988, điều này chắc chắn các sĩ quan hải quân và lính thủy Mỹ biết rất rõ.

Tuyến đường hoạt động hai chiếc tầu chiến hiện đại của Mỹ trong vùng lãnh hải của Liên bang Xô viết thể hiện rất rõ ràng là đang tiến hành các hoạt động trinh sát, thăm dò. Hải quân Mỹ đang đi theo một lộ trình hoàn toàn không vì mục đích rút ngắn tuyến đường hải hành của họ mà thể hiện rõ ý đồ đi dọc theo vùng nước ven bờ biển một cách có ý thức.

Chiến hạm của Hạm đội Biển Đen tầu chống ngầm Dự án 1135 "Bezzavetnyi" vừa trở về từ một chuyến hải hành sáu tháng ở Địa Trung Hải. Thủy thủ đoàn đã được huấn luyện và rèn luyện kỹ càng, có kinh nghiệm cơ động trong các vùng nước ven biển của nhiều quốc gia nước ngoài. Tư lệnh trưởng lực lượng Hải quân của Liên Xô và tư lệnh Hạm đội Biển Đen quyết định giao nhiệm vụ cho "Bezzavetnyi": bám sát và theo dõi những hành động củahai tàu chiến Mỹ, hiểu rõ mục đích ý đồ của các chiến hạm này.


Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Chiến hạm chống ngầm Bezzavetnyi.

Cùng lái tầu song song với các chiến hạm Mỹ, nhiều lần tầu chiến của Liên Xô trên kênh thông tin quốc tế đã cảnh báo Mỹ: "Các ông đang vi phạm lãnh hải của Liên Xô". Các cảnh báo tương tự được lặp đilặp lại bằng tín hiệu semaphore được đánh bằng cờ hiệu.

Tầu chiến Mỹ trả lời một cách mơ hồ đại loại như, "Được rồi" và tiếp tục theo quỹ đạo của mình. Khi đó, sau khi báo cáo, thuyền trưởng của "Bezzavetnyi " Đại úy hạng 2 Vladimir Bogdashin nhận được mệnh lệnh: chèn đẩy các tàu Mỹ ra khỏilãnh hải của Liên bang Xô viết.

Chỉ đạo hành động, các lãnh đạo chỉ huy bộ tư lệnh hạm đội hướng dẫn phương án : để tạo ra va chạm lớn thậm chí nghiêm trọng và gây ra những thiệt hại đáng kể cho tàu chiếnMỹ, thả neo bên phải và giữ neo trong tình trạng treo lơ lửng trên xích neo dưới lỗ thả neo mạn phải. Nhưvậy, phần mũi tầu cao của "Bezzavetnyi" và cái neo treo lủng lẳng ở mũi tầu cơ bản sẽ xé tan và quét đitất cả những gì nằm trên boong và rơi vào tầm quét của neo tầu khi "Bezzavetnyi" chèn đè vào tầu tuần dương của Mỹ.

Sau đó, thuyền trưởng nhận được mệnh lệnh cụ thể và rõ nét: "Một lần nữa cảnh báo người Mỹ: hành vi xâm phạm vùng lãnh hải của Liên Xô là không thể chấp nhận được. Chúng tôi có lệnh đẩy chiến hạm của các ông, bao gồm cả sẵn sàng cho hành động va chạm và đâm tầu. Hãy cảnh báo tất cả nội dung bằng loa công suất lớn với hai thứ tiếng – Tiếng Nga và tiếng Anh...". Cảnh báo được phát đi với công suất lớn nhất, nhưng người Mỹ chỉ trả lời một câu gì đó khó hiểu, và tiếp tục theo hành trìnhcủa mình mà không thay đổi hướng.

Cũng phải nói thêm, lượng giãn nước của "Bezzavetnyi" ít hơn so với "Yorktown" tới 3 lần (3200 tấn so với 9600tấn). Chỉ một sai lầm nhỏ có thể dễ dàng bị tầu tuần dương của Mỹ đè bẹp như vỏ trứng.

Giải pháp trong tình huống này sẽ chỉ có một - giáng một loạt đòn đánh vào mạn tàu Mỹ. Lịch sử của Hải quân hiện đại chưa bao giờ có tình huống như thế này. Chiến hạm của Liên Xô xông thẳng vào va chạm mà không có giáp bảo vệ . Lúc đầu cả hai tầu chiến của Liên xô và Mỹ đều nằm trên hai đường hải trình song song.

Tuần dương "Yorktown" đã tăng vòng quay tạo ra làn sóng lớn, ngăn chặn chiến hạm Liên xô tiếp cận gần tầu của họ. "Bezzavetnyi " tăng tốc độ và nhanh chóng tiếp cận tầucủa Mỹ từ mạn bên trái. Theo đường thông tin nội bộ, thủy thủ đoàn của tàu " Bezzavetnyi " được thông báo tàu sẽ va chạm mạnh với tầu của Mỹ.

Trong tầu, tất cả các khoang ngăn cách được đóng kín. ... "Bezzavetnyi " bẻ lái phải và hạ neo bên phải xuống lơ lừng, các mỏ neo xòe ra bên ngoài tua tủa như móng vuôt. Sau này mới xác định được rằng, ban chỉ huy của tàu tuần dương Mỹ hoàn toàn không hiểu được hành động của các tàu Liên Xô, nhỏ hơn nhiều về kích thước và lượng giãn nước.

Những thủy thủ Mỹ không trực chiến và thực hiện nhiệm vụ tập trung ở thượng tầng cầu tầu, chụp ảnh, vẫy tay ​​và la hét gì đó vui vẻ. Nhìn sự ồn ào vô tư của thủy thủ Mỹ, sự thoải mái của họ, sự tự tin thái quá và thờ ơ kiêu căng đã khẳng định sự coi thường quá giới hạn đối với chiến hạm của Liên Xô. Cuộc đối đầu đạt đến cao trào. "Bezzavetnyi" đã tiếp cận được "Yorktown," còn tầu tuần biểnSKR-6 tiếp cận bên mạn phải của "Caron".

Để yểm trợ và tăng sức ép hơn nữa, hai chiếc máy bayTU-95 và máy bay BE-12 mang tên lửa chống tầu treo dưới cách được lệnh xuất kích. Trên "Yorktown"đài radar dẫn đường vẫn quay liên tục và đài radar giám sát hàng không vẫn hoạt động, thông báo tình huống nguy hiểm cho thuyền trưởng của tàu tuần dương. Nhưng cho đến khi đó các sĩ quan chỉ huy Mỹ vẫn không hiểu được, người Nga có khả năng làm được điều gì! "Yorktown" vẫn duy trì hướng lái tầu trên vùng nước lãnh hải của Liên xô.

Theo như một bài viết đã được đăng trên báo chí nước ngoài về sự cố hi hữu này cú tấn công đầu tiên " Bezzavetnyi " giáng thẳng vào "Yorktown" ở phần giữa, trên khu vực cầu thang. Toàn bộ lan can bị quét bay, cuốn vào nhàu nát, các thủy thủ"yorktauntsev" choáng váng vì tiếng sắt thép va chạm. Chiếc neo ba tấn, bị kéo lê trên cạnh boong của tàu tuần dương, gây lên những cú va quyệt và vết lõm sâu hoắm.

Một giây tiếp theo, chiếc neo nặng nề đứt xích và rơi xuống biển. Như bị gió thổi từ cầu tầu trên boong thượng, các thủy thủ Mỹ biến mất. Có thể nghe thấy được trên "Yorktown", rú còi báo động khẩn cấp, tất cả các thủy binh chạy về vị trí chiến đấu.

Sau cú đánh đầu tiên, thân tầu " Bezzavetnyi "bị đẩy sang trái, đuôi tầu đập mạnh vào mạn tầu tuần dương, nơi có các thùng container với tên lửa chống tàu "Harpoon", làm bẹp bốn container. Xuất hiện nguy cơ móp méo với các ống phóng ngư lôi của tầu “Bezzavetnyi”. Chuyển lái đột ngột vào vị trí “hết lái phải", " Bezzavetnyi " quay mũi tầu lạitấn công va chạm và húc chéo vào vùng khoang chiến đấu. Cú đánh thứ hai vào chiến hạm Mỹ thực sựrất mạnh.

"Yorktown" rung chuyển, và "Bezzavetnyi" trong một một thời điểm nào đó đã nghiêng mạn đến 13 độ. Độ chìm đuôi tầu đạt 4 độ. Trong thời điểm tiếp theo, thân tầu "Bezzavetnyi " tiếp tục quét sạchkhỏi "Yorktown" tất cả mọi thứ trên đường va chạm của nó: cột lan can, trụ buộc neo tầu, cổ ống thoát không khí, những tấm tôn lá đóng tầu và các phần nhô ra mạn tầu, biến tất cả thành phế liệu kim loại.

Dưới những chùm tia lửa hoa cà hoa cải do va chạm sắt thép bắn tóe ra, trong một vài giây nghe lạnh buốt ngực bới âm thanh của các cấu trúc bị phá hủy và rạn nứt.Có thể nhìn thấy các miếng sơn bay tung tóe ra khỏi sắt thép, khói bốc khét lẹt do ma sát – cho đến khi mũi tàu chiến Liên xô trượt xuống khỏi mạn tầu Mỹ. Sau cú va cham và đâm dữ dội vào tầu tuần dương, cuối cùngchỉ huy chiến hạm Mỹ mới đánh giá được mức độ vô cùng nguy hiểm của tình huống vừa xảy ra.


Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Sơ đồ hoạt động tác chiến của chiến hạm Liên Xô.

"Yorktown" lập tức chuyển lái phải và chạy hết tốc độ. Một lúc sau, tầu tuần dương của Mỹ đã thoát ra khỏi lãnh hải của Liên Xô vào vùng biển quốc tế. Tất cả hoạt động "chèn đè" đã diễn ra không quá mười lăm phút. "Yorktown" đã lấn sâu vào vùng biển thuộc lãnh hải Liên Xô khoảng 2,5 dặm, "Caron" - gần bảy dặm. Trong khi " Bezzavetnyi " chiến đấu với tầu "Yorktown," tàu tuần biển SKR-6 cũng tấn công đe dọa tương tự vào mạn tầu của "Caron", tuy nhiên, vì trọng lượng giãn nước nhỏ, nên không gây được tổn thất đáng kể.
Trên "Yorktown" khoảng các tầng ở giữa, xuất hiện một đám cháy, các thủy thủ Mỹ mặc áo chống cháy chạy hỗn loạn trên boong, kéo theo các đường ống phun nước, cố gắng dập một khu vực nào đó đang bốc lửa.

"Bezzavetnyi " hải hành thêm một khoảng thời gian nữa, không rời tầm nhìn khỏi các tàu chiến Mỹ.Sau đó lại tăng tốc độ và bơi một vòng "chiến thắng danh dự " xung quanh "Yorktown" và "Caron". "Yorktown" dường như đã chết - không còn một ai có mặt trên boong và cầu tầu. " Bezzavetnyi " kéo hết tốc độ, kiêu hãnh lướt qua các tầu của Mỹ, và, như không có chuyện gì xảy ra, hướng mũi tầu về quân cảng Sevastopol.

Theo tin từ các nguồn nước ngoài, sau khi vụ việc xảy ra, "Yorktown" phải neo đậu sửa chữa tại một xưởng đóng tàu vài tháng. Thuyền trưởng của tàu tuần dương đã bị sa thải và bị đưa về làm việc ở văn phòng do hành động thụ động và để cho ​​chiến hạm của Liên Xô dành quyền chủ động. Quốc hội Mỹ đã đóng băng gần nửa năm ngân sách của Lực lượng Hải quân Mỹ.

Gorbachev – dù trước đây đã tỏ ra yếu đuối - (sau khi nhận được báo cáo "đã điều chỉnh" của Tư lệnh trưởng Hải quân Chernavin) đã ca ngợi lòng dũng cảm của các thủy thủ hạm đội Biển Đen - một sự kiện chưa từng có. Sau này, thuyền trưởng "Bezzavetnyi" Vladimir Bogdashin, người đã giáng "một đòn choáng váng" vào tàu tuần dương Mỹ và cả hải quân Mỹ, được thăng chức và kết thúc sự nghiệp hải quân của mình với quân hàm chuẩn đô đốc. Tuy nhiên, ông đã nhận được danh hiệu đó tại thời điểm không còn là hải quân Liên Xô nữa, mà là Lực lượng Hải quân Liên bang Nga.

Thứ Sáu, 10 tháng 5, 2013

>> Bí mật máy bay Hàn Quốc bị bắn hạ trên bầu trời Liên Xô

Trong thời kỳ chiến tranh lạnh giữa Liên Xô và Mỹ, đã có một vụ việc chiếc máy bay chở khách của Hàn Quốc bị bắn rơi tại Liên Xô năm 1983 làm xôn xao dư luận thế giới lúc bấy giờ.

>> Bí mật cuộc diễn tập quân sự lớn nhất của Liên Xô năm 1979


Chiếc KAL-007 xấu số

Chuyến bay mang số hiệu 007 của hãng hàng không quốc gia Hàn Quốc – Korean Airlines (còn được các hãng thông tấn gọi là KAL-007 hoặc KE-007) đã bị 1 chiếc tiêm kích đánh chặn Su-15 của Liên bang Xô Viết (USSR) thuộc không quân USSR bắn hạn khi tiến quá sâu và không phận đảo Moneron, phía tây Sakhalin vào tối ngày 1 tháng 9 năm 1983.

Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Chiếc Boeing 747 xấu số của Korean Airlines

Người lái chiếc Su-15 và bắn tên lửa hạ chiếc KAL-007 là Đại úy Gennadi Osipovich là một sĩ quan không quân dày dạn kinh nghiệm thuộc lực lượng phòng không phía Đông của không quân Xô Viết. Khi bị bắn hạ, trên KAL-007 có tất cả 246 hành khách và 23 thành viên phi hành đoàn trên máy bay, đáng nói là có cả nghị sĩ Lawrence McDonald, một trong những chính khách nổi bật thuộc Đảng Dân Chủ, thuộc Hạ viện Hoa kỳ. Chiếc máy bay Boeing-747 mang số hiệu KAL-007 bị bắn hạ khi bay từ New York, Hoa Kỳ đến Seoul, Hàn Quốc.

Chiếc KAL-007 xuất phát từ sân bay Quốc tế Kenedy, có dừng tại Anchorage (miền Nam bang Alaska để tiếp nhiên liệu và xử lý một vài trục trặc kĩ thuật của máy bay).

Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Chiếc Su-15 Flagon do đại úy Gennadi Osipovich đã hạ chiếc KAL-007

Khi cả thế giới biết đến vụ việc, USSR đã ngay lập tức phủ nhận vụ việc là tai nạn của hệ thống phòng thủ quân đội Xô Viết. Ngay khi chiếc Su-15 xác nhận bắn hạ mục tiêu, Bộ Chính Trị USSR đã lập tức họp khẩn cấp và thông báo vụ việc bắn hạ KAL-007 là lỗi từ phía Hoa Kỳ bởi đây là một trường hợp xâm nhập không phận USSR có chủ ý từ trước với động cơ tổ chức là một cuộc điều tra của Hiệp hội hàng không dân dụng Quốc tế (ICAO), nhằm tuồn lực lượng tình báo CIA vào USSR, bên cạnh đó là khả năng tấn công của Hoa Kỳ dưới lớp vỏ một cuộc điều tra của ICAO. Những báo cáo này đã được công bố chỉ 8 năm sau khi USSR sụp đổ.

Trong thời gian này, căng thẳng giữa USSR và phía NATO, Hoa Kỳ leo thang và đẩy lên đỉnh điểm đến khi vụ việc KAL-007 xảy ra, bên cạnh đó là tầng lớp đối lập và chống lại USSR ở một số quốc gia dân chủ và đặc biệt là Hoa Kỳ. Theo quan điểm từ phe đối lập Đảng Cộng Hòa thì vụ việc chưa bao giờ được giải quyết ổn thỏa giữa 2 bên, bên cạnh đó sau vụ việc liên tục có những chỉ trích từ Hoa Kỳ và NATO nhằm vào USSR.

Tuy nhiên, USSR vẫn giữ lập trường của riêng mình là không cho phép bất kỳ một cuộc điều tra nào từ các phái đoàn hay từ các tổ chức hòa bình trên toàn thế giới. Thế nên vẫn chưa có lời giải đáp nào cho việc KAL-007 đi lạc vào không phận USSR, gây nên rất nhiều tranh cãi cho đến nay và cuối cùng mọi việc đã được giải đáp khi Cơ quan hàng không Liên bang Nga (FKA) và Cơ quan hàng không Hoa Kỳ cùng ICAO thu nhặt các mảnh vỡ và cả hộp đen của chiếc máy bay xấu số. Nguyên nhân được kết luận là từ lỗi kỹ thuật của máy bay và lỗi kỹ thuật từ phi công.

KAL-007 là một chiếc máy bay dân dụng Boeing 747-230B “Jumbo Jet” với khả năng chở được 270 hành khách. Được mua bởi Hãng hàng không quốc gia Hàn Quốc từ Hãng Boeing vào ngày 28 tháng 1 năm 1972 với số hiệu xuất xưởng là CN20559/186, nó được đăng ký tại Cục hàng không quốc gia Hàn quốc với mã hiệu HL7442.

Mọi chuyện từ năm 1972 cho đến năm 1983 khá thuận lợi với chiếc Boeing 747 cỡ lớn này. Nó đã chở được 130 lượt hành khách trong suốt thời gian hoạt động cho đến ngày 1 tháng 9 năm 1983 khi chỉ còn là những mảnh vụn trên không lưu quần đảo Peninsula, Nga.

Ngày định mệnh

Một ngày trước khi bị bắn hạ tại Moneron, Sakhalin, vào lúc 0h theo giờ quốc tế (UTC) tại New York, chiếc KAL-007 rời cửa đón khách số 15 tại sân bay quốc tế Kenedy, thành phố New York, mang theo 246 hành khách, đã có 10 hành khách không lên máy bay vì những lý do như sức khỏe hay hủy lịch bay. Cơ trưởng của KAL-007 là Chun Byung In, cơ phó là Lee Da Hae. Trên chiếc Boeing 747 gồm có 105 người mang quốc tịch Hàn Quốc, 65 người mang quốc tịch Hoa Kỳ, 67 người còn lại mang các quốc tịch khác nhau như Nhật Bản, Đài Loan, Philipines, Hongkong….

Theo lịch trình, KAL-007 sẽ đáp xuống Seoul vào lúc 13h UTC vào ngày 31 tháng 8 năm 1983.

Tuy nhiên, nó đã phải hạ cánh xuống sân bay Anchorage để tiếp nhiên liệu và kiểm tra một số lỗi kỹ thuật từ bộ phận lái tự động. Sau 4 tiếng đồng hồ tại Anchorage, KAL-007 tiến vào đường băng số 2 và nhận được lệnh cho phép cất cánh từ trạm không lưu (ATC) Anchorage:

- Korean 007 sẵn sàng cất cánh

- Korean Airlines Flight 007, các bạn có thể cất cánh ngay, đường băng đã trống. Tôi nhắc lại các bạn có thể cất cánh ngay tại đường bay số 2.

- Đã nghe rõ!

Chiếc KAL-007 đã cất cánh ngay sau đó vào lúc 13:01 theo giờ quốc tế (UTC), nó nhận được thông báo từ đài kiểm soát không lưu Anchorage chuyển hướng 220 độ

- KAL-007. Đây là đài kiểm soát không lưu, lên độ cao 310m và quay sang bên trái hướng thẳng 220 độ.

- Nghe rõ 220 độ, lên 310m và giữ nguyên độ cao.

90 giây sau, đài không lưu đưa ra chỉ dẫn cho KAL-007: “Hướng về phía Bethel ngay khi các bạn có thể”. (Bethel là một thành phố thuộc bang Alaska). Khi bay qua Bethel, nó sẽ được trạm Bethel hướng dẫn bay qua khu vực phía Bắc khoảng 80km trên đường băng hướng thẳng đến Tokyo, đây là khu vực ranh giới giữ 2 bán cầu đông và tây nằm trên biển phía Bắc Thái Bình Dương giữa 2 khu vực Alaska của Hoa Kỳ và quần đảo Sakhalin của USSR.

KAL-007 được trạm không lưu Bethel chỉ dẫn theo hướng R-20 (Romeo-20) và điều chỉ ở chế độ bay tự động. Theo ghi nhận từ hộp đen thì tại thời điểm Cơ trưởng In bật chế độ lái tự động đã kích hoạt kèm theo 3 chế độ khác là HEADING (giữ độ cao và tiến thẳng), VOR/LOC (liên lạc chủ động bằng VHF đa hướng), ILS (hệ thống bánh đáp tự động) và INS (hệ thống dẫn đường quán tính). Ngay khi đó, chế độ HEADING được kích hoạt.

Thông thường, nếu HEADING được kích hoạt, nó sẽ bay theo chỉ dẫn của INS để có thể đổi hướng liên tục theo sự điều khiển của phi công. Và mọi tác động sẽ được hệ thống quản lý INS ghi nhận và chuyển cho bộ phận quản lý hành trình trên chiếc Boeing-747. Nếu như lỗi từ bộ phận INS thì chiếc máy bay sẽ bay thẳng với khoảng cách 13.9km tính từ khi xâm phạm không phận USSR.
Nhưng trên thực tế, nó đã bay vào khá sâu quần đảo Sakhalin và cụ thể là đang ở trên không phận của đảo Monero nên giả thuyết lỗi phát sinh từ hệ thống INS bị bác bỏ. Tuy nhiên, nếu chiếc máy bay bay vào không phận USSR 13.9km do lỗi từ hệ thống INS thì chố độ bay HEADING sẽ ngay lập tức chuyển thành INS để tự động chuyển hướng sang Tokyo nhờ các thiết lập hành trình từ sân bay quốc tế Kennedy. Tại chế độ bay HEADING, hệ thống sẽ tự động kích hoạt ILS để có thể hạ cánh tự động theo các chỉ dẫn từ hệ thống quản lý hành trình bay bởi các vector được thiết lập từ trước.

Khi xảy ra sự cố, hệ thống liên lạc VHF từ sân bay Anchorage đang trong giai đoạn bảo dưỡng nên tạm thời ngừng hoạt động. Thay vào đó, hệ thống NOTAM (hệ thống tự động thông báo cho phi hành đoàn) đã được kích hoạt. Nhưng đây cũng không phải là nguyên do của vụ tai nạn bởi cơ trưởng In có thể liên tục kiểm tra đường bay của KAL-007 và đưa nó trở về đúng đường bay ban đầu nhờ hệ thống kiểm soát hành trình trên Boeing-747.

Vào lúc 13:50 UTC khi KAL-007 cách bờ biển Kamchatka Peninsula 200km về phía Đông Bắc, cơ trưởng In đã liên lạc với đài kiểm soát không lưu Anchorage thông qua trạm Bethel:

- Anchorage, đây là Korean Air 007, bạn có nghe rõ không?

- Rõ, cứ bay thẳng đi KAL-007. Tôi nhắc lại, cứ bay thẳng.

Và cứ thế KAL-007 đã bay thẳng vào khu vực quần đảo Peninsula, lỗi có lẽ từ chế độ HEADING đã không được kiểm soát bởi INS. Trên thực tế đây hoàn toàn là lỗi từ các phi công khi không kiểm tra đường bay khi nó sắp vào vùng cấm bay của USSR. Cứ như vậy, chiếc KAL-007 đã tiến thẳng vào không phận của USSR và vào lúc 18:26 UTC, nó đã tiến đến đảo Monero của USSR...

Thứ Tư, 1 tháng 5, 2013

>> Trận đánh thần tốc giải phóng Trường Sa năm 1975

Sáng 29/4/1975, một ngày trước khi giang sơn liền một mối, Trường Sa - một phần máu thịt của Tổ quốc - được giải phóng. Chỉ với hơn 200 chiến sĩ đặc công đi trên 3 tàu không số, đội quân của những “Yết Kiêu thời đại Hồ Chí Minh” đã làm chủ Trường Sa.

>> Nắm chắc thời cơ tạo thế, lực vững chắc cho Tổ quốc

Với những trận đánh xuất quỷ nhập thần dưới nước từng lập nhiều chiến công, Đoàn 126 đặc công hải quân (HQ) được giao nhiệm vụ giải phóng Trường Sa. Những người lính đặc công xác định khó mấy cũng quyết đi, xa mấy cũng quyết đến và địch có mạnh mấy cũng quyết thắng. “Nếu không giải phóng được Trường Sa, anh em quyết không về!” - họ quả quyết

Mật lệnh khẩn cấp

Ngày 5/4/1975, chấp hành chỉ thị của Bộ Tổng Tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh, Bộ Tư lệnh Quân chủng HQ: Tranh thủ thời cơ có lợi nhất để giải phóng các đảo ở Trường Sa, kiên quyết không để lực lượng nào khác đến đánh chiếm trước ta. Cùng lúc, Phó Tư lệnh Quân chủng HQ Hoàng Hữu Thái cũng nhận được mật lệnh của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, yêu cầu HQ tổ chức lực lượng, bằng mọi giá đánh chiếm và giải phóng các đảo do quân đội Việt Nam Cộng hòa chiếm giữ trên quần đảo Trường Sa.

Sau khi Quân chủng HQ xác định sử dụng tàu của Đoàn 125 và bộ đội đặc công của Đoàn 126 tiến công giải phóng Trường Sa, một vị chỉ huy ngay lập tức được triệu tập: Đoàn trưởng Đoàn 126 Mai Năng, người dẫn đầu đội quân tinh nhuệ từng đánh hơn 300 trận ở chiến trường Cửa Việt - Quảng Trị.


Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Tàu của Đoàn 125 đưa lực lượng đặc công hải quân ra giải phóng Trường Sa. Ảnh: TƯ LIỆU

Thiếu tướng Mai Năng nhớ lại: “Ban đầu, tôi không biết sẽ nhận nhiệm vụ giải phóng Trường Sa. Sau khi gặp Phó Tư lệnh Hoàng Hữu Thái, tôi cảm thấy trọng trách rất lớn, rất thiêng liêng”. Lĩnh ấn ra trận tiền trên biển, Đoàn trưởng Mai Năng liền phổ biến nhiệm vụ đặc biệt quan trọng và khẩn cấp mà Đoàn 126 được giao.

Những người lính đặc công HQ xác định đây là trận đánh cuối cùng, khó mấy cũng quyết đi, xa mấy cũng quyết đến và địch có mạnh mấy cũng quyết thắng. “Nếu không giải phóng được Trường Sa, anh em quyết không về!” - các chiến sĩ dày dạn kinh nghiệm, từng hàng trăm trận vào sinh ra tử, quả quyết với vị chỉ huy.

Dù rất tin ở khả năng của đoàn đặc công HQ nhưng Phó Tư lệnh Hoàng Hữu Thái vẫn băn khoăn bởi đây là nhiệm vụ đột xuất, các chiến sĩ lại chưa từng được huấn luyện phương pháp đổ bộ và đánh đảo. Thiếu tướng Mai Năng nhớ lại: “Tôi nói với anh Thái đặc công HQ từng đánh tàu, cầu, cảng… rất nhiều nhưng đánh đảo thì đây là lần đầu tiên nên nhiệm vụ giải phóng Trường Sa không hề đơn giản. Anh Thái nghe vậy liền trăn trở: “Thế liệu có giải phóng được không?”. Tôi suy nghĩ vài giây rồi quả quyết: “Được, nhưng phải có cách đánh mới”.

Phương pháp mà Đoàn trưởng Mai Năng phổ biến cho các chiến sĩ của mình là vừa trinh sát vừa tấn công hỏa lực. “Thời gian rất gấp nên không thể trinh sát trước rồi đánh sau” - ông giải thích.

Làm chủ quần đảo

Vị chỉ huy cánh quân giải phóng Trường Sa năm nào nay đã sắp bước sang tuổi 90 nhưng vẫn minh mẫn và nhớ từng chi tiết trận đánh. Thiếu tướng Mai Năng cho biết khi đó, ông đã tham mưu cho Bộ Chỉ huy Tiền phương của Quân chủng HQ ra một chỉ thị quan trọng.

“Ban đầu, Bộ Chỉ huy tiền phương yêu cầu đồng thời tấn công giải phóng cùng lúc các đảo. Tuy nhiên, với lực lượng chỉ có 3 tàu lại chưa quen đánh đảo, tôi nhận định việc tấn công cùng lúc là không ổn. Bởi lẽ, ta sẽ không kịp ổn định lực lượng để giữ đảo và địch có thể chiếm lại. Vì thế, tôi đề nghị đánh từng đảo, giữ vững, sau đó tấn công các chỗ khác” - ông nhớ lại.

Sau khi giải phóng Song Tử Tây, lực lượng đặc công HQ tiếp tục lấy đảo này làm bàn đạp để giải phóng các đảo còn lại. Đến 9 giờ ngày 29/4, quân ta làm chủ đảo Trường Sa Lớn, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà Quân ủy Trung ương giao cho HQ.

Ngay sau khi Trường Sa giải phóng, Đảng ủy Quân sự Trung ương và Bộ Quốc phòng đã có bức điện khen thưởng Quân chủng HQ và đơn vị trực tiếp đánh đảo, cho rằng đây là chiến công xuất sắc của lực lượng đặc công. “Một mình đặc công HQ thì chúng tôi có tài giỏi mấy cũng không thể hoàn thành nhiệm vụ. Những chiếc tàu của Đoàn 125 cũng có công rất lớn, bên cạnh đó là lực lượng bộ binh của Quân khu 5” - vị chỉ huy trận chiến giải phóng Trường Sa năm nào cho biết.

Cuốn Lịch sử Hải quân Nhân dân Việt Nam do NXB Quân đội Nhân dân ấn hành năm 1985 đánh giá: “Thực hiện thắng lợi nhiệm vụ giải phóng vùng biển và hải đảo chẳng những có ý nghĩa quan trọng đối với Chiến dịch Hồ Chí Minh mà còn tạo tiền đề nghiên cứu cho quân chủng về tổ chức, sử dụng lực lượng phòng thủ và bảo vệ vùng biển, hải đảo sau này trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc”.

Trận chiến để đời

Sau khi chỉ huy lực lượng đặc công HQ giải phóng Trường Sa, Thiếu tướng Mai Năng tiếp tục chỉ huy lực lượng giải phóng các đảo ở vùng biển phía Nam Tổ quốc. Sau này, ông còn tham gia chiến đấu ở biên giới Tây Nam, biên giới phía Bắc rồi trở thành tư lệnh Binh chủng Đặc công đến đầu những năm 1990.

Trải qua nhiều trận đánh một mất một còn, cùng những người lính của mình cận kề cái chết nhưng vị tướng anh hùng vẫn cho rằng trận chiến giải phóng Trường Sa là đáng nhớ nhất trong đời binh nghiệp của ông. “Chúng ta đã giữ vững chủ quyền ở Trường Sa và làm chủ một vùng biển rộng lớn” - ông tự hào.


(DVO)

Thứ Năm, 21 tháng 3, 2013

>> Giải mật cuộc chiến biên giới Xô - Trung năm 1969

Nhiều năm về trước, cuộc xung đột biên giới giữa bộ đội biên phòng Xô viết và PLA (quân đội TQ), có nhiều điều ít được biết tới về cuộc xung đột này. Dưới đây là toàn cảnh một trận đánh ác liệt từ những chiến sĩ biên phòng – cách mà giới truyền thông quốc tế vẫn gọi là xung đột vũ trang biên giới.

>> Nhìn lại chiến tranh biên giới Việt - Trung 1979
>> Bí mật cuộc diễn tập quân sự lớn nhất của Liên Xô năm 1979


Lịch sử và địa lý của đảo Damanski

Damanski (Trân Bảo đảo theo cách gọi của người Trung Quốc) - hòn đảo nhỏ không có người ở trên sông Ussuri. Chiều dài khoảng 1500-1700 m, chiều rộng khoảng 500 m. hòn đảo nằm cách bờ là 47 mét tính từ phía Trung Quốc và 120 mét tính từ bờ bên Liên bang Xô viết. Tuy nhiên, theo thỏa thuận với Bắc Kinh vào năm 1860 và bản đồ được vẽ vào năm 1861, đường biên giới giữa hai nước đã chạy dài không phải trên đường trục tâm của dòng sông Ussuri mà chạy theo bờ sông bên Trung Quốc. Như vậy, hòn đảo trên thực tế lịch sử là một phần không thể tách rời của lãnh thổ Liên Xô.

Vào giữa năm 1968, những cái đầu nóng của Bộ tổng tham mưu PLA với mục đích tạo sức ép giải quyết vấn đề biên giới giữa CCCP và Trung Quốc đã vạch ra kế hoạch triển khai một đòn tấn công quân sự đủ mạnh trên khu vực biên giới Suifenhe. Tại khu vực này, các khu đồn trú của bộ đội biên phòng CCCP nằm gần với lãnh thổ Trung Quốc và việc đánh chiếm các đồn biên phòng này trên lý thuyết hoàn toàn không gặp khó khăn. Để giải quyết bài toán này, các đơn vị chiến đấu của quân đoàn 16 PLA được lệnh hành quân đến khu vực biên giới Suifenhe. Mục tiêu cần lấn chiếm đầu tiên được lựa trọn là là đảo Damaski. Theo khẳng định của một cán bộ thuộc Viện hàn lâm khoa học xã hội Trung Quốc ông Lý Dân Huệ, khu vực Damask được lựa chọn không phải là ngẫu nhiên.

Thứ nhất: Trong các cuộc đàm phán về đường biên giới, dường như Đảo Damaski có vẻ nghiêng về phía Trung Quốc, do đó, có thể phản ứng của Liên bang Xô Viết sẽ không quá gay gắt và quyết liệt. Thứ hai – Đảo Damaski nằm dưới quyền kiểm soát của quân đội Xô viết mới bắt đầu từ năm 1947, điều đó cho thấy, hiệu quả của các hoạt động lấn chiếm biên giới sẽ lớn hơn nhiều, so với các khu vực đang tranh chấp khác. Đồng thời, tại khu vực Damaski, Liên bang Xô viết chưa xây dựng được một khu vực phòng thủ biên giới đủ độ tin cậy về sức mạnh và cơ sở vật chất, điều cần thiết để tiến hành một đòn giáng trả dựa trên sức mạnh tổng hợp của các lực lượng.

25 Tháng 1 năm 1969, nhóm sĩ quan tham mưu của Quân khu Thẩm Dương đã hoàn thiện bản kế hoạch tác chiến mang tên "Trừng phạt". Để thực hiện được kế hoạch này, kiến nghị phải sử dụng lực lượng chủ công là 3 đại đội bộ binh và một số các đơn vị yểm trở và dự bị thê đội 2, bí mật triển khai trên khu vực đảo Damaski. Ngày 19 tháng 2 năm 1969, kế hoạch tác chiến mang tên “Trừng phạt” được phê chuẩn bởi Bộ tổng tham mưu PLA, thống nhất với Bộ Ngoại giao Trung quốc và nhận được sự đồng thuận của các nhà lãnh đạo cao cấp chính phủ.

Theo chỉ lệnh của Bộ tổng tham mưu PLA, lực lượng bộ đội biên phòng Trung Quốc được bổ xung thêm một trung đội tăng cường, tổ chức thành từ 2 – 3 nhóm tuần tiễu. Thành công của hành động quân sự dựa trên cơ sở của yếu tố bất ngờ. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, bước triển khai tiếp theo là đưa toàn bộ lực lượng tham chiến nhanh chóng thu dọn chiến trường, rút lui về tuyến phòng thủ đã chuẩn bị trước đồng thời khẳng định chủ quyền trên đảo bằng truyền thông.


Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Các quân nhân PLA với trước tác Mao Trạch Đông trên tay đang khẩu chiến với các sĩ quan biên phòng Liên xô trên biên giới.

Trong đó, đặc biệt quan trọng là lấy chứng cứ buộc tội quân đội Xô viết về các hành động xâm lấn “ vũ khí trang bị, các bức ảnh chụp”….

Sự kiện xung đột trên Damaski diễn ra như sau:

Vào đêm ngày mồng 1 rạng ngày mồng 2 tháng 3 năm 1969. Một lực lượng binh sĩ và sĩ quan lớn Trung Quốc bí mật tập hợp bên kia biên giới, bờ bên Trung Quốc của sông Ussri. Sau này đã xác định được, đó là một tiểu đoàn tăng cường của PLA, quân số gần 500 người biên chế thành 5 đại đội, hỏa lực chi viện gồm có 2 khẩu đội súng cối và 1 khẩu đội pháo. Hỏa lực đi cùng có pháo không giật, súng máy hạng nặng và súng máy hạng trung (thượng liên), súng phóng lựu chống tăng RPG-2 model Trung Quốc. Tiểu đoàn được biên chế trang bị đầy đủ cho chiến đấu. Theo các nguồn tin thu được sau này, các đơn vị này được huấn luyện đặc biệt nửa năm để tiến hành các hoạt động tác chiến trên đường biên. Cũng trong đêm đó 3 đại đội bộ binh quân số khoảng 300 người bí mật triển khai đội hình phòng thủ dọc theo đường bờ dốc tự nhiên. Tất cả các quân nhân Trung Quốc đều mặc áo choàng ngụy trang, vũ khí được chuẩn bị sao cho không gây tiếng động (buồng nòng được tưới pha-ra-phin, lưỡi lê được bọc bằng giấy, để không làm lóe sáng ban đêm).

Trận địa hỏa lực gồm có 2 khẩu đội súng cối 82-mm và một khẩu đội pháo binh (cỡ nòng -45 mm), kết hợp với súng đại liên cỡ nòng lớn, trận địa được bố trí sao cho có thể tiến hành phát huy hỏa lực vào vũ khí, phương tiện cũng như binh lực của quân đội Liên Xô bằng đường ngắm trực tiếp. Các trận địa súng cối (theo phân tích kết quả trận đánh) cũng được lấy tọa độ bắn rất chính xác từ trước. Trên toàn bộ hòn đảo, hỏa lực của tất cả các hỏa khí được tổ chức để có thể tạo ra một lưới lửa dầy đặc trên toàn bộ tiền duyên tiểu đoàn, có chiều sâu từ 200m đến 300 m.

2 tháng 3 vào lúc 10.20 (theo giờ địa phương ) từ trạm quan sát của Liên xô, ban chỉ huy biên phòng nhận được thông báo có hai nhóm quân nhân có quân số là 18 và 12 người, xuất phát từ trạm gác Hùng Sa. Hai nhóm quân nhân tiến về phía biên giới Xô viết với ý đồ thách thức rõ rệt.Đồn trưởng đồn biên phòng "Nhiznhie Mikhailovka" thượng úy Ivan Strelnikov nhận được mệnh lệnhngăn chặn và trục xuất những người Trung Quốc, cùng với một chiến sĩ lính biên phòng trên xe bộ binh cơ giới BTR-60PB (№ 04) và hai chiếc xe ô tô quân sự di chuyển cơ động về hướng những kẻ xâm phạm biên giới. Tính huống cũng được thông báo cho hai trạm trưởng hai trạm canh gác biên phòng hai bên sườn khu vực là B. Bubenin và Soroxov. Đồn trưởng đồn biên phòng "Kulebyakiny copki" nhận được mệnh lệnh yểm trợ cho phân đội của thượng úy Ivan Strelnikov.

Có thể nhận thấy rằng, mặc dù gần một tuần quân đội PLA cơ động binh lực số lượng lớn trong khu vực liền kề với khu vực biên giới, cùng với những hoạt động chuẩn bị đường hành quân cơ động về khu vực biên giới, nhưng từ Bộ tư lệnh quân khu Thái Bình dương hầu như không có một động thái tăng cường các hoạt động cảnh giới như tăng cường lực lượng cho các trạm biên phòng hoặc tiến hành các hoạt động điều nghiên, giám sát của các lực lượng trinh sát, tình báo quân đội. Hơn thế nữa, vào ngày Trung Quốc tấn công, biên chế của đồn "Nhiznhie Mikhailovka" chỉ có 1/2 quân số, cũng trong ngày đó theo biên chế có 3 sĩ quan chỉ huy, có mặt tại chỗ chỉ có Thượng úy Ivan Strelnikov, ở đồi biên phòng "Kulebyakiny sopki" quân số có mặt sẵn sàng chiến đấu có lớn hơn.

10.40 giờ, thượng úy I. Strelnikov tiến đến vị trí các quân nhân Trung Quốc xâm phạm biên giới chủ quyền, ra lệnh cho các chiến sĩ sẵn sàng, súng ở tư thế Mang và triển khai đội hình hàng ngang. Các chiến sĩ biên phòng chia ra thành hai tốp. Tốp thứ nhất do thượng úy I. Strelnikov chỉ huy, tốp thứ hai có 13 chiến sĩ do hạ sĩ Rabotri chỉ huy, có nhiệm vụ bảo vệ phía bên sườn của I. Strelnikov từ phía bờ sông phía Trung Quôc. Nhóm của I. Strelnikov trên khoảng cách 20 m tiến đến gần các quân nhân Trung Quốc. Thượng úy I. Strelnikov giải thích với bên quân nhân PLA về biên giới và yêu cầu họ quay trở về địa phận Trung Quốc.



Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Bức ảnh cuối cùng, được chụp bởi N. Petrov, Các quân nhân PLA tản ra các vị trí khác nhau và chỉ sau 1 phút, đã bắn thẳng vào các chiến sĩ biên phòng Xô viết. 2 tháng 2 năm 1969.

Đừng đằng sau chỉ huy trường là binh nhất N. Petrov, anh chụp ảnh và quay phim ghi lại các bằng chứng xâm phạm biên giới của các quân nhân PLA. Chụp một số các bức ảnh bằng máy ảnh Zorky – 4, sau đó bắt đầu quay phim. Đúng thời điểm đó một quân nhân PLA ra hiệu, hàng quân thứ nhất của PLA tản ra khỏi vị trí, hàng quân thứ hai hạ súng bắn thẳng vào đội hình của binh lính biên phòng Xô viết trên khoảng cách khoảng từ 1-2m. Tổ chiến sĩ biên phòng bao gồm Thượng úy J. Strelnikov, Thượng úy N.Buinevich thuộc Cục công tác đặc biệt, phòng số 57 lực lượng canh phòng biên giới., các binh sĩ N. Petrov, Vetrich, A. Jonas, V. Izotov, Alexander Shestakovhy sinh tại chỗ. Cùng lúc, từ phía hướng đảo Damaski, hỏa lực tập trung từ súng máy hạng nặng, tiểu liên, súng phóng lựu bắn thẳng vào tốp biên phòng xô viết còn lại. Một số chiến sĩ hy sinh tại chỗ, số còn lại phân tán và chiếm vị trí bắn trả. Nhưng do địa hình hoàn toàn trống trải, họ nhanh chóng bị bắn hạ, nhưng binh sĩ bị thương bị diệt bằng lưới lê. Cả hai tốp chiến sĩ biên phòng chỉ còn lại một chiến sĩ sống sót – binh nhất Gennady Serebrov. Anh bị thương ở tay, chân, lưng và bị đâm bằng lưỡi lê và bị ngất. Các chiến sĩ biên phòng - lính thủy của lữ đoàn tuần tiễu trên sông, khi đến chi viện cho phân đội của I. Strelnikov đã phát hiện ra và đưa về quân y viện.

Cũng vào thời điểm đó, phân đội của hạ sĩ Yu. Babanski tiếp cận trận địa, bị chậm lại so với phân đội của I. Strelnikov trên đường do xe bị trục trặc kỹ thuật. Lính biên phòng phân tán chiếm lĩnh vị trí chiến đấu và khai hỏa nhằm về phía binh sĩ của PLA. Đáp trả đợt phản công, binh lính PLA tập trung hỏa lực súng cối, súng máy hạng nặng và tiểu liên. Đặc biệt, các trận địa súng cối tập trung hỏa lực vào lớp băng xung quanh xe BTP và ô tô. Kết quả là một xe GAZ 69 bị bắn tan tành, một xe GAZ-66 bị hư hỏng nặng. Sau đó mấy phút, xe BTP№ 4 cùng kíp xe đến kịp chi viện cho Babanski. Hỏa lực dữ dội từ tháp pháo trên xe đè bẹp các điểm hỏa lực của đối phương, giúp cho năm chiến sĩ còn sống sót từ đội của Babanski thoát ra khỏi lưới lửa dày đặc.

Sau 10 – 15 phút chống trả dưới hỏa lực vượt trội nhiều lần của đối phương, tiếp cận trận địa là phân đội cơ giới của đội biên phòng số 1 thuộc đồn biên phòng "Kulebyakiny sopki" dưới quyền chỉ huy của thượng úy B. Bubenin.



Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Các chiến sĩ biên phòng đội số 1, tham gia chiến đấu trong các trận đánh ngày 02 và 15 tháng 3 trên đảo Damaski.1969.

Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Sơ đồ tác chiến ngày 2 tháng 2 năm 1969.

“Đổ bộ từ xe BTR, ẩn nấp ở sườn phía đông của bờ sông, chúng tôi triển khai đội hình chiến đấu hàng ngang và xông lên đảo - V. Bubenin kể lại - Khoảng 300m trước chúng tôi là nơi đã xảy ra thảm họa. Nhưng chúng tôi không biết điều đó. Chúng tôi có 23 người. Theo đội hình chiến đấu chúng tôi tiến về phía tiếng súng đang thưa thớt dần. Khi chúng tôi đi được khoảng 50 m, chúng tôi phát hiện, từ sườn dốc tự nhiên trên đảo, một trung đội binh sĩ PLA ồ ạt tấn công. Họ vừa la hét, vừa chạy và bắn. Khoảng cách giữa binh sĩ xô viết và PLA khoảng 150 – 200 m và nhanh chóng rút ngắn lại. Tôi không nghe thấy tiếng nổ, chỉ nhìn thấy từ nòng súng đối phương chớp lửa liên tục. Hiểu là bắt đầu trận đánh, nhưng lại cho rằng không phải sự thật, họ chỉ bắn đạn mã tử và dọa chúng tôi".

Hỏa lực phản kích của phân đội Bubenin thật dữ dội, đợt tấn công quyết liệt của PLA bị đẩy lùi ra phía sau sườn dốc che khuất tự nhiên trên đảo. Thượng úy Bubenin trúng thương, ra lệnh cho bộ đội lên xe, và quyết định đi vòng quanh đảo, tấn công từ phía sau đối phương.

"Lực lượng PLA rất đông – V. Bubenin thuật lại – họ ồ ạt nhẩy từ trên bờ sông dốc đứng xuống sông băng và xông thẳng lên đảo. Khoảng cách đến đối phương là 200 m. Tôi ra lệnh khai hỏa toàn bộ hỏa lực trên xe từ súng máy 14,5mm và 7,62mm. Sự xuất hiện của xe BTR ngay sau hậu phương khiến các binh sĩ PLA sững sờ, đến nối cả đám đông đang chạy đột ngột đứng sững lại, như vấp phải tường đá. Họ hoàn toàn bị choáng mất vài giây, đến nỗi không kịp cả bắn. Hỏa lực súng máy và súng bộ binh trên xe tạo thành một trận mưa đạn, khoảng cách giữa binh sĩ PLA và xe rút ngắn rất nhanh. Binh sĩ PLA vỡ trận, lớp bị đạn bắn gục, lớp quay trở lại bờ sông, cố gắng trèo lên rồi bị trượt xuống. Các sĩ quan PLA bắn thẳng vào những người lính rút lui để buộc họ lao vào trận đánh. Tình hình thật sự hỗn loạn, xe BTR và quân lính của PLA quấn lấy nhau trong một trận hỗn chiến giữa xe và người ở ngay bên bờ của đảo Damaski.

Mặc dù rất nhiều chiến sĩ biên phòng đã hy sinh, bản thân V. Buberin bị thương lần thứ 2, nhưng trận đánh vẫn diễn ra khốc liệt. Chuyển sang xe BTR thứ hai do xe số 1 bị hỏng, Buberin lại đánh tạt sườn đội hình tấn công của đối phương, đợt tấn công thứ hai bất ngờ đã tiêu diệt trạm chỉ huy tiền phương của tiểu đoàn PLA và sinh lực địch cũng bị tổn thất rất nhiều.

Trung tâm của trận địa là tiểu đội do Trung sĩ Ivan Larechkin chỉ huy, bình nhất Plekhanov Peter Kuzma Kalashnikov, Sergei Rudakov, Nicholas Smelov. Ở bên cánh phải, chỉ huy chiến đấu làTrung sĩ Alexei Pavlov. Trong bộ phận của anh có: Quản trị trưởng Victor Korzhukov, bình nhấtAlex Zmeev, Alex Sursev, Vladimir Izotov, Islamgali Nasretdinov, Ivan Vetrich, Alexander Yunhin, Vladimir Legotina, Peter Velichko và những quân nhân khác.

Đến 14.00 giờ cùng ngày, lực lượng biên phòng Xô viết đã chiếm lại đảo. Theo các bản tin chính thức, trong hơn hai giờ chiến đấu quyết liệt, bên PLA tổn thất 248 binh sĩ và sĩ quan, trong trận đánh này 31 chiến sĩ biên phòng đã hy sinh, hơn 20 người bị thương ở các cấp độ, quản trị trưởng Pavel Akylov bị bắt và bị bắn chết, xác bị ném trả cho lực lượng biên phòng.

Cuộc tấn công của quân đội Trung Quốc vào lực lượng biên phòng Liên xô đã gây lên phản ứng dữ dội trong chính quyền Liên bang Xô viết và các lãnh đạo Lực lượng vũ trang. 2 tháng 3 năm 1969. Chính quyền CCCP gửi công hàm cho chính quyền Trung Quốc, trong công hàm đã lên án quyết liệt hành động xâm phạm chủ quyền này. Trong đó có đoạn viết: “"Chính phủ Liên Xô dành cho mình quyền hành động quyết liệt nhằm ngăn chặn các hành động khiêu khích trên đường biên giới Liên Xô-Trung Quốc và cảnh báo chính phủ Trung Quốc rằng, mọi trách nhiệm đối với hậu quả của chính sách thiếu thận trọng với sự leo thang xung đột vũ trang trên biên giới giữa Trung Quốc và Liên Xô, thuộc về chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa" Nhưng phía Trung Quốc đã bỏ qua bức công hàm nghiêm khắc này.

Để ngăn chặn mọi hành động khiêu khích quân sự có thể tiếp tục leo thang, trong khu vực của các đồn biên phòng "Nhiznhi Mikhailovka" và "Kulebyakiny sopki" được điều đến từ lực lượng dự bị của quân khu biên giới Thái bình dương các đơn vị cơ giới ( hai đại đội bộ binh cơ giới, 2 trung đội xe tăng và khẩu đội cối 120 mm. Đơn vị bộ đội biên phòng số 57 được biên chế thêm một biên đội máy bay trực thăng Mi-4 thuộc phi đội máy bay biên phòng Ussuri. Vào đêm ngày 12 tháng 3 các đơn vị thuộc sư đoàn bộ binh cơ giới số 135 của Quân khu Viễn đông do tướng Nhesov chi huy bao gồm: trung đoàn BBCG số 199, trung đoàn pháo binh, tiểu đoàn xe tăng độc lấp 152, tiểu đoàn trinh sát độc lập số 131 và tiểu đoàn pháo phản lực Grad BM-21. Ở đây, bộ tư lệnh biên phòng quân khu Thái Bình dương đã ra lệnh thành lập cụm quân lực cấp chiến dịch và bổ nhiệm phó tư lệnh trưởng quân khu, đại tá G.Sechkinym.

Đồng thời cùng với những hoạt động tăng cường sức mạnh phòng thủ biên giới, đã tiến hành tích cực các hoạt động trinh sát thu thập thông tin. Theo những kết quả đạt được từ trinh sát, bao gồm cả trinh sát đường không và trinh sát vũ trụ, PLA tập trung vào khu vực đảo Damaski các lực lương rất lớn – chủ yếu là bộ binh và pháo binh. Ở chiều sâu 20 km so với đường biên đã xây dựng kho tàng quân sự, sở chỉ huy và điều hành tác chiến cùng với các công trình khác. Ngày 7 tháng 3 trên hướng Damaski và Kirkin đã xác định được lực lượng PLA tập trung đến 1 trung đoàn bộ binh cơ giới với các trang thiết bị tăng cường. Trong khoảng 10 – 15 km tính từ đường biên giới trinh sát phát hiện đến 10 khẩu đội pháo cỡ lớn. Ngày 15 tháng 3 phát hiện trên hướng Guberovski có một tiểu đoàn bộ binh, trên hướng Imacki – một trung đoàn cũng với xe tăng tăng cường, trên hướng Patenleymonov 2 tiểu đoàn tăng cường, trên hướng Pavlovo – fedorov một tiểu đoàn. Tổng số quân lực Trung Quốc tập trung trong khu vực tác chiến tuyến biên giới lên đến một sư đoàn cơ giới đi cùng với các phương tiện tác chiến tăng cường.

Trong những ngày này, phía PLA cũng tăng cường các hoạt động trinh sát mục tiêu, sử dụng cả các máy bay trinh sát. Phía Liên xô không triệt phá các hoạt động trinh sát của đối phương, cho rằng, nếu thấy được thực lực từ phía quân đội Xô viết. PLA sẽ chấm dứt các hoạt động khiêu khích. Nhưng điều đó đã không xảy ra.

Ngày 12 tháng 3 một cuộc gặp giữa đại diện của lực lượng biên phòng Xô viết và đại diện của lực lượng biên phòng Trung Quốc đã được thực hiện. Trong cuộc gặp, sĩ quan biên phòng Hutou của Trung Quốc, dựa vào trước tác Mao Trạch Đông, đã tuyên bố sẽ sử dụng vũ lực mạnh mẽ đối với lực lượng biên phòng đang canh giữ đảo Damaski của Liên xô để bảo vệ chủ quyền của Trung Quốc.

Ngày 14 tháng 3 vào hồi 11.15 các trạm quan sát xô viết phát hiện được một cụm binh lực PLA lớn đang cơ động về hướng đảo Damaski. Hỏa lực của súng máy đã ngăn chặn lực lượng này và toán quân buộc phải quay lại phía bờ của Trung Quốc.

Vào lúc 17.30 hai tốp lính PLA từ 10-15 người đã tiếp cận hòn đảo và bố trí các hỏa điểm trong đó có 4 súng máy và các vũ khí khác. 18.45, lực lượng PLA chiếm lĩnh bàn đạp tấn công ngay phía sau các hỏa điểm được củng cố vững chắc.

Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Sơ đồ tác chiến ngày 15 tháng 2 năm 1969.

Để ngăn chặn các đòn tấn công tiếp theo. 6.00 ngày 15 tháng 3 một lực lượng cơ động mạnh của đơn vị biên phòng dưới quyền chỉ huy của đại tá E. Yanshin (45 người được trang bị cả súng phóng lựu) trên 4 xe BTR-60pb. Yểm trợ cho lực lượng là thê đội dự bị bộ đội biên phòng – 80 người (thuộc trường Trung cấp Biên phòng của đơn vị biên phòng số 69 Quân khu biên giới Thái bình dương) trên 7 xe BTR-60pb cùng với súng phóng lựu đạn gaz hơi cay và súng máy hạng nặng.

10.05 cùng ngày, lực lượng PLA triển khai đánh chiếm đảo, hỏa lực của 3 khẩu đội súng cối dọn bãi bao trùm lên toàn bộ hòn đảo từ 3 hướng khác nhau, nhằm vào tất cả các khu vực của hòn đảo và bờ sông, nơi nghi ngờ binh sĩ biên phòng Xô viết có thể ẩn nấp.

Phân đội của E. Yanshina bắt đầu trận đánh:

"…trong xe chỉ huy ngột ngạt tiếng gầm rú của động cơ, tiếng nổ, khói xe và khói thuốc súng-Yanshin nhớ lại- Tôi nhìn ngang, Sylzenco (xạ thủ súng máy) vất cả áo lông, áo khoác, một tay nhấn cò súng, một tay cởi cúc cổ áo quân phục…anh chàng đứng phắt dậy, gạt bỏ ghế ngồi và đứng xả đạn vào đội hình tiến công của đối phương…..


Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Chỉ huy trưởng phân đội cơ động mạnh của đơn vị biên phòng số 57 đại tá E.I.Yanshin cùng với các chiến sĩ biên phòng của mình, 15 tháng 3 năm 1969.

“…Gần như không ngoái lại, xạ thủ Sulzenco giơ tay cho băng đạn mới. Xạ thủ số 2 Kruglov phải cố gắng lắm mới kịp nạp đạn. Tất cả đều im lặng, hiểu nhau qua hành động. Tôi ra lệnh – bình tĩnh, tiết kiệm đạn, đồng thời quay kính quan sát chiến trường, chỉ thị mục tiêu. Quân đội PLA, bất chấp lưới lửa dày đặc, tiếp tục đổ dồn lên tấn công. Hết đợt này đến đợt khác…Trong tiếng nổ, khói bụi của mìn và đạn pháo các xe bộ binh cơ giới khác hoàn toàn không thể nhìn thấy. Tôi ra lệnh không dùng mật khẩu: Tôi tiến công, Mankovsky và Klyge bắn che, yểm hộ sau lưng. Lái xe Smelov vào số và đạp gaz hết cỡ, xe chồm lên, vượt qua lưới lửa ngăn chặn, với tay lái điêu luyện, Smelov cơ động ngoằn ngoèo tránh các hố đạn pháo và đạn cối, xông thẳng vào đội hình tiến công của đối phương, tạo điều kiện cho hỏa lực trên xe. Đột ngột, súng máy im bặt, Sylzenco ngẩn người trong chốc lát. Nạp đạn, lên đạn và nhấn cò điện – chỉ phát một. Quân PLA ồ ạt xông đến. Sylzenco mở khóa nòng, sửa lại lẫy đẩy đạn. Đóng nắp hộp khóa nòng và nhấn cò. Hỏa lực của súng máy gần như trực diện vào đối phương. Tôi ra lệnh cho Smelov- Tiến-và đợt tấn công tiếp theo bị đẩy lùi.

Bị tổn thất một số chiến sĩ và mất 3 xe BTR, Yanshin buộc phải lùi lại bên bờ sông, đến 14.40 thay đổi biên chế và các xe BTR đã bị hỏng, bổ sung cơ số đạn đầy đủ, Yanshin lại tiếp tục tổ chức tấn công và đánh bật đối phương ra khỏi các vị trí địch chiếm được. Tăng cường thêm lực lượng dự bị, PLA tổ chức hỏa lực dữ dội của súng cối, pháo và súng máy hạng nặng vào các xe BTR. Kết quả là 1 xe BTR trúng một loạt đạn cối và pháo bắn trực diện, 7 chiến sĩ hy sinh tại chỗ. Sau mấy phút chiếc xe BTR thứ 2 bốc cháy. Thượng úy L. Mankovsky, bắn che cho đồng đội rút lui bằng súng máy trên xe, đã không thoát ra được và bị cháy cùng với xe. Trong vòng vây còn lại một xe BTR, trung úy Kluga chỉ huy. Xe kiên cường chiến đấu và cơ động linh hoạt, phải sau gần nửa giờ, phát hiện điểm yếu trong tuyến chiến đấu của đối phương, xe BTR đột phá rất mạnh, chọc thủng vòng vây và trở về đội hình chiến đấu. .

Trong thời gian cuộc chiến đấu diễn ra quyết liệt, một đại đội xe tăng 9 chiếc T-62 hành quân đến khu vực chiến sự. Ban chỉ huy trận đánh quyết định sử dụng phương án đòn đột kích từ phía sau đảo, sử dụng tình huống mà V. Bubenin đã thành công trong ngày 2 tháng 3. Trung đội xe T-62 do đại tá D.Leonov chỉ huy trưởng đơn vị bộ đội biên phòng Imansk. Nhưng đòn đột kích không thành công, lần này, lực lượng PLA đã sẵn sàng đón chờ tình huống. Khi các xe tăng xô viết tiến đến gần bờ sông phía Trung Quốc, hỏa lực dày đặc và tập trung của súng cối, pháo và súng chống tăng lập tức chùm lên các xe. Xe chỉ huy đầu tiên bị bắn vỡ hệ thống chuyển động và mất khả năng cơ động, hỏa lực lập tức đổ dồn lên xe bị trúng đạn. Các xe còn lại của trung đội vừa bắn vừa lùi về tuyến chiến đấu bên bờ bên này của biên giới. Mọi biện pháp cứu hộ và giải thoát cho xe bị hỏa lực súng bộ binh của PLA đẩy lùi. Đại tá D. Leonnov trúng thương vùng tim, hy sinh tại xe.

Mặc dù đã có những tổn thất nặng nề về binh lực, Matxcova vẫn chưa quyết định đưa lực lượng quân đội vào tham chiến. Quan điểm của Trung tâm rất rõ ràng. Khi trận đánh đang được tiến hành bởi lực lượng biên phòng, mọi vấn đề ngoại giao đều có thể đưa về Xung đột biên giới, dù có sử dụng vũ khí. Đưa lực lượng quân đội thường trực vào trận, sẽ làm tăng thêm cường độ xung đột, có thể trở thành xung đột vũ trang và chiến tranh nhỏ khu vực. Nếu xét đến những cái đầu nóng trong PLA, có thể xảy ra một cuộc chiến tranh lớn – giữa 2 nước có sở hữu vũ khí hạt nhân.

Tình hình chính trị đã quá rõ ràng với tất cả mọi người. Nhưng tình huống xảy ra, khi ngay bên cạnh mình các chiến si biên phòng hy sinh, còn các đơn vị chiến đấu thì khoanh tay bàng quang quan sát, cảm giác hoàn toàn không dễ chịu, sự không quyết liệt của lãnh đạo đất nước và quân đội đã gây lên sự bất bình và tức giận.

“Lực lượng quân đội kết nối vào mạng thông tin biên phòng, và tôi nghe thấy, các chỉ huy đơn vị kêu réo cấp trên của mình do không kiên quyết – Chủ nhiệm chính trị phân đội biên phòng Imanski trung tá A.D. Konstantinov nhớ lại – họ muốn lao vào trận đánh, nhưng bị trói buộc cả chân lẫn tay vì những chỉ lệnh bất động từ cấp trên. "

Khi từ vùng chiến sự có báo cáo về hai xe BTR của phân đội Yanshin bị bắn cháy, phó tham mưu trưởng ban tham mưu đội Grodekovski thiếu tá P. Kosinov quyết định tự mình nhận trách nhiệm cá nhân, trên 1 xe BTR xông vào trận tiếp ứng. Tiến đến sát 2 xe bị cháy, anh dùng xe của mình để che chắn cho kíp xe của các xe bị bắn cháy thoát khỏi vùng hỏa lực dày đặc. Nhưng khi rút lui, chính xe của Kosinov cũng bị bắn cháy, Kosinov bị thương cả vào hai chân và bị ngất. Các chiến sĩ biên phòng lôi được anh vào vùng an toàn, tưởng đã hy sinh nên đưa vào khu vườn, nơi tập trung tử sĩ. Rất may, khi bác sĩ quân y biên phòng kiểm tra thi thể liệt sĩ, phát hiện trong mắt anh đồng tử chưa bị rãn ra, xác định Kosinov vẫn sống, đã ra lệnh cho trực thăng cứu hộ đưa anh về Khabarovsk.

Matxcova vẫn im lặng, tư lệnh trưởng quân khu Viễn Đông, trung tướng O.Losik đã dũng cảm ra một quyết định duy nhất hỗ trợ lực lượng biên phòng. Lệnh cho Sư đoàn trưởng sư đoàn BBCG 135 chế áp binh lực đối phương bằng hỏa lực pháo binh sư đoàn, sau đó sử dụng tiểu đoàn 2 thuộc trung đoàn bộ binh cơ giới số 199 và các đơn vị của đoàn biên phòng số 57 đẩy lùi đối phương khỏi biên giới Liên bang Xô viết.

17.10 trung đoàn pháo binh và tiểu đoàn pháo phản lực Grad của sư đoàn BBCG 135 cùng với khẩu đội súng cối 120 mm của trung tá D. Krupeynikov khai hỏa. Trận tập kích hỏa lực kéo dài 10 phút. Đòn tấn công được tính vào chiều sâu đến 20 km. (theo một thông tin khác, vùng tập kích là khu vực có diện tích 10km chiều rộng và 7 km chiều sâu trên lãnh thổ Trung Quốc). Kết quả của đợt tập kích là toàn bộ lực lượng thê đội dự bị, kho tàng, trang thiết bị quân sự, các trạm cung cấp đạn và cơ sở vật chất cho tiền duyên cùng với binh lực của PLA bị tổn thất nặng nề, không có khả năng phục hồi. Cùng lúc, lực lượng chủ công bao gồm 5 xe tăng T-62, 12 xe BTR-60PB, đại đội 4 và đại đội 5 BBCG thuộc tiểu đoàn 2 trung đoàn BBCG số 135 (chỉ huy – đại tá A.Smirnov) phối hợp với một phân đội cơ giới mạnh của bộ đội biên phòng tấn công lên đảo. Binh sĩ PLA cố gắng chống trả, nhưng dưới hỏa lực dữ dội đành rút lui về phía biên giới.

Trong trận đánh ngày 15 tháng 3 năm 1969, đã hy sinh 21 chiến sĩ biên phòng, 7 chiến sĩ BBCG (lực lượng thường trực chiến đấu), 42 chiến sĩ biên phòng bị thương. PLA mất khoảng 600 người. Trong toàn bộ cuộc xung đột trên đảo Damaski Hồng quân mất 58 người. PLA tử thương gần 1000 binh sĩ. 50 quân nhân PLA bị bắn do đã bỏ chạy hoặc rút khỏi trận đánh. Hồng quân có 94 quân nhân bị thương, PLA khoảng vài trăm người.

Trận đánh kết thúc, 150 cán bộ chiến sĩ lực lượng biên phong được nhận các phần thưởng cao quý của nhà nước Xô viết. 5 quân nhân được nhân danh hiệu Anh hùng Liên bang Xô viết (Đại táD.V. Leonov – liệt sĩ, Thượng úy I.I Strelnikov – liệt sĩ, Thượng úy B. Bubenin, Hạ sĩ Yu.V.Babanski, tiểu đội trưởng tiểu đội hỏa lực thuộc trung đoàn BBCG số 199 Hạ sĩ V.V.Orekov). 3 người được nhận huân chương Lenin ((Đại tá A.D. Konstantinov, Trung sĩ V. Kanygin , Trung tá E. Yanshin) 10 người được nhận huân chương Cờ đỏ, 31 người nhận huân chương Sao đỏ, 10 người nhân Huân chương Vinh quang hạng III, 63 người – huy chương Vì lòng dũng cảm; 31 người – huy chương “ Vì thành tích trong chiến đấu”.

Trung Quốc tuyên bố dành thắng lợi trong xung đột biên giới vùng Damaski và thắng lợi thuộc về vũ khí trang bị PLA. 10 quân nhân PLA được tặng danh hiệu Anh hùng. Trong thông cáo chính thực của Bắc Kinh về sự kiện Damaski có nội dung như sau:

"2 tháng 3 năm 1969. Một nhóm quân nhân biên phòng Liên xô có số lượng khoảng 70 người, với 2 xe bộ binh cơ giới, một xe vận tải và một xe ô tô hạng nhẹ, đã xâm phạm đảo Trân Bảo thuộc Quận Hồ Lâm, Tỉnh Hắc Long Giang, tiêu diệt đội tuần tra biên giới của Trung Quốc, và tấn công gây tử vong nhiều chiến sĩ thuộc lực lượng biên phòng của ta. Hành động vô nhận đạo này đã buộc các chiến sĩ quân đội Trung hoa phải có hành động tự vệ.

15 tháng 3 năm 1969. Liên Xô, phớt lờ nhiều lần cảnh cáo của nhà nước Trung hoa, đã tiến hành các hoạt động tấn công, xâm chiếm đảo Trân Bảo với lực lượng lên tới 20 xe tăng, 30 xe bọc thép và 200 binh sĩ cùng với sự yểm trợ của không quân.

Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Yu.V. Babansky (bên phải) trong buổi lễ trao tặng huân chương tại điện Kremlin. Tháng 4 năm 1969.

Với lòng dũng cảm và ý chí quyết tâm cao, lực lượng quân đội và dân quân tự vệ đảo Trân Bảo đã đã đánh bại 3 đợt tấn công của quân đội Liên xô. Ngày 17 tháng 3 năm 1969, quân địch với lực lượng xe tăng, xe cứu kéo và bộ binh đã cố gắng lôi chiếc xe tăng bị quân ta bắn cháy về biên giới. Nhưng hỏa lực dữ dội của pháo binh Trung Quốc đã tiêu diệt một phần lớn lực lượng địch, số còn lại rút lui về phía bên kia biên giới Liên xô.

Sau trận xung đột vũ trang tại khu vực đảo Damaski, trên khu vực phòng thủ còn lại một tiểu đoàn bộ binh cơ giới, một tiểu đoàn xe tăng độc lập và tiểu đoàn pháo phản lực BM-21 “Grad”. Đến tháng 4 năm 1969, trong khu vực phòng thủ còn lại 1 tiểu đoàn BBCG và sau một thời gian ngắn cũng cơ động về nơi đóng quân cố định. Tất cả mọi con đường dẫn đến đảo Damaski từ phía Trung Quốc đều bị gài mìn phòng thủ dày đặc.

Trong thời gian này, chính phủ Liên bang Xô viết tiến hành những hoạt động nhằm điều chỉnh tình hinh bằng các giải pháp chính trị.

15 tháng 5 năm 1969, Nhà nước CCCP gửi cho phía Trung Quốc một bản tuyên bố, trong đó nghiêm khắc cảnh báo ngăn chặn các hoạt động khiêu khích trên tuyến biên giới hai nước. Trong công hàm có đoạn nêu rõ: “ nếu tiếp tục tiến hành các hoạt động xâm chiếm chủ quyền lãnh thổ thiêng liêng của đất nước Xô Viết, toàn thể Liên bang Xô viết và quần chúng nhân dân sẽ kiên quyết bảo vệ và giáng cho kẻ xâm lược những đòn quyết liệt".

Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Tang lễ thượng úy I.I Strelnikova tháng 3 năm 1969.

29 tháng 4 Chính quyền Xô viết tiếp tục đưa công hàm, nội dung có đề nghị phía Trung Quốc nối lại nhưng cuộc đàm phán về biên giới đã bị đứt đoạn từ năm 1964, đề nghị phía Trung Quốc kiềm chế các hoạt động khiêu khích trên tuyến biên giới, có thể gây thêm phức tạp cho tình hình đối ngoại chính trị giữa hai nước. Phía Trung Quốc không trả lời bức công hàm nói trên. Hơn nữa, Mao Trạch Đông, ngày 15 tháng 4 trong cuộc hội thảo với các đại biểu về những kết quả và thành tích đạt được của cuộc cách mạng văn hóa, đã nhắc lại những sự kiện xảy ra và kêu gọi chuẩn bị cho chiến tranh. Lâm Bưu trong báo cáo đọc tại Đại hội Đảng cộng sản toàn quốc lần thứ 9 (tháng 4 năm 1969) đã quy tội Liên xô liên tục xâm phạm biên giới Trung Quốc bằng vũ lực” Đồng thời cũng khẳng định định hướng Trường kỳ cách mạng và chuẩn bị chiến tranh.

Ngày 11 tháng 4 năm 1969 Bộ Ngoại giao Liên bang Xô viết gửi cho Bộ Ngoại giao Trung Quốc một công hàm, trong đó có đề nghị nối lại các cuộc đàm phán giữa các đại diện toàn quyền của cả hai nước CCCP và Trung Quốc, đồng thời tuyên bố sẵn sàng bắt đầu đàm phán vào bất cứ thời điểm nào, thuận lợi cho phía Trung Quốc.

14 tháng 4 trong công hàm trả lời, Bộ ngoại giao Trung Quốc thông báo rằng, những đề xuất của Bộ ngoại giao CCCP, liên quan đến việc giải quyết tình hình trên biên giới Trung Xô, sẽ được “nghiên cứu kỹ lưỡng và sẽ có trả lời trong thời gian tới".

Trong thời gian “nghiên cứu và trả lời” những xung đột vũ trang và khiêu khích quân sự vẫn tiếp tục diễn ra.

23 tháng 4 năm 1969 một đơn vị vũ trang của PLA xâm nhập biên giới của Liên bang Xô Viết, chiếm lĩnh đảo № 262 trên sông Amua, gần với khu dân cư Kalinovka. Đồng thời một lực lượng vũ trang khác được tập trung trên bờ sông Amua phía Trung Quốc.

2 tháng 5 năm 1969 trong khu vực của ngôi làng nhỏ Dulaty ở Kazakhstan lại xuất hiện một xung đột vũ trang biên giới. Nhưng lần nay các chiến sĩ biên phòng Xô viết đã sẵn sàng cho một cuộc xâm nhập và khiêu khích. Trước khi xảy ra khiêu khích, đơn vị biên phòng Makanchi đã được tăng cường lực lượng. Đến mồng 1 tháng 5 năm 1969 đơn vị biên phòng đã có 14 đội biên phòng cơ động, mỗi đội có 50 cán bộ chiến sĩ (Riêng đội biên phòng "Dulaty" - 70 người) và phân đội biên phòng cơ động mạnh (182 người) trên 17 xe BTR -60pb. Ngoài ra trên đoạn biên giới quản lý, khu vực đồn Macanchi tập trung một tiểu đoàn xe tăng độc lập của quân khu, theo kế hoạch liên kết phối hợp với các đơn vị quân đội, có thêm một đại đội BBCG và một đại đội Tăng, một trung đội súng cối chi viện hỏa lực thuộc đơn vị liên kết phối hợp lấy từ trung đoàn BBCG số 215 (đồn Vaxta) và một tiểu đoàn từ trung đoàn BBCG số 369 khu vực nông trường Druzba.

Các đơn vị tổ chức canh gác trên các điểm cao, lực lượng trinh sát tiền tiêu trên xa ô tô và kiểm tra, kiểm soát liên tục các tuyến đường, dải phân cách hai bên biên giới. Công lao chính của tinh thần cảnh giác cao độ của các đơn vị quân đội – biên phòng Xô viết thuộc về tư lệnh trưởng quân khu vùng biên giới phía Đông, trung tướng M.K.Merculov. Ông không những đã thực hiện các giải pháp nhằm tăng cường khả năng kiểm soát, ngăn chặn từ hướng Dylatin bằng các lực lượng của mình, mà còn đạt được yêu cầu tăng cường cảnh giác và liên kết phối hợp với bộ tư lệnh quân khu Turkestan.

Tình huống xảy ra như sau: Sáng ngày 2 tháng 5, phân đội tuần tra phát hiện một đàn cừu di chuyển qua biên giới Trung – Xô. Tiếp cận khu vực xảy ra tình huống, phân đội phát hiện một đội quân PLA quân số khoảng 60 người, Để ngăn chặn khả năng chắc chắn có chạm súng, phân đội biên phòng yêu cầu tăng cường thêm 3 phân đội bộ đội biên phòng từ các đội liền kề, đồng thời yêu cầu đại đội BBCG của trung đoàn BBCG số 369 cùng với một trung đội xe tăng và 2 phân đội biên phòng cơ động mạnh. Hoạt động triển khai ngăn chặn được sự yểm trợ ngay tức khắc của trung đoàn không quân cường kích ném bom, có căn cứ tại Ycharale, đồng thời báo động chiến đấu các đơn vị ở các khu vực gần là các trung đoàn bộ binh cơ giới và pháo binh, 2 tiểu đoàn pháo phản lực Grad và hai tiểu đoàn súng cối.

Để điều hành chuẩn xác các hoạt động sẵn sàng chiến đấu, ngay tức khắc được tổ chức cụm quân lực tác chiến liên hợp dưới quyền chỉ huy của Tham mưu trường quân khu biên giới Viễn đông, thiếu tướng Kolodyazhny , đóng tại đồn biên phòng Dylata. Đồng thời cũng là sở chỉ huy tiền phương của quân khu, dưới quyền chỉ huy của thiếu tướng G.N. Kutki.

16.30 Bộ đội biên phòng Xô viết bắt đầu tăng áp lực đẩy đối phương, cũng được tăng cường lực lượng hỗ trợ ra khỏi biên giới CCCP. Quân đội PLA, nhận thấy khả năng sẵn sàng chiến đấu và hỏa lực vượt trội nhiều lần từ phía đối phương, buộc phải lùi bước dần ra khỏi biên giới Liên xô. Tình huống được giải quyết cuối cùng bằng con đường ngoại giao từ ngày 18 tháng 5 năm 1969.

Ngày 10 tháng 6 tại khu vực sông Tasty trong vùng Semipalatinsk, một nhóm quân nhân PLA đột nhập sâu vào lãnh thổ Liên xô đến 400 m và khai hỏa từ súng tiểu liên vào lực lượng biên phòng. Lực lượng biên phòng xô viết lấp tức đáp trả, sau khi đấu súng các quân nhân PLA quay về biên giới phía Trung Quốc.

Ngày 8 tháng 7 năm 1969 một nhóm quân nhân Trung Quốc vượt biên giới, nấp trên đảoGoldinsky thuộc lãnh thổ Liên bang trên sông Amua và tấn công bằng súng tiểu liên và lựu đạn vào nhóm công nhân đường sông xô viết, cập đảo để sửa chữa các biển báo, kết quả một người chết, ba người bị thương.

Các tình huống xung đột trên đảo Damaski cũng liên tục diễn ra. Theo lời kể lại của chính V.Bubenin, vào những tháng cuối của mùa hè sau sự kiện xung đột vũ trang, có tới hơn 300 trường hợp buộc phải sử dụng vũ khí để chống lại các hoạt động khiêu khích. Tình huống tương tự như trong chiến tranh. Cho đến tận thời điểm, vào trung tuần tháng 6 năm 1969 tại khu vực Damaski lần thứ hai xuất hiện hệ thống pháo phản lực Grad dành cho thử nghiệm đến từ Baikonur (Đoàn trắc thủ thuộc đơn vị 44245, chỉ huy – thiếu tá A.A. Shumilin).

Trong đội trắc thủ pháo phản lực ngoài các quân nhân lực lượng pháo binh, còn có các chuyên gia về không gian vũ trụ của các chương trình tác chiến trên khoảng không thượng tầng khí quyển. Trong đó có: JK Razumovsky, chỉ đạo kỹ thuật tổ hợp chuyên gia về Mặt Trăng, Papazian- chủ nhiệm kỹ thuật tổ hợp chuyên gia kỹ thuật tên lửa, A. Tasha- chỉ huy trưởng kỹ thuật chế tạo tổ hợp radar Vega, LeonidKuchma – sau này là tổng thống nước cộng hòa Ucraina, lúc đó là chuyên gia kỹ thuật của cục nghiên cứu thử nghiệm, Kozlov- chuyên gia đo xa bằng sóng vô tuyến,.I A. Soldatov – kỹ sư thử nghiệm tên lửa và các chuyên gia kỹ thuật hàng không vũ trụ và tên lửa khác. Thử nghiệm pháo phản lực Grad được kiểm soát bởi ủy ban chuyên trách cao cấp của nhà nước, đứng đầu là tư lệnh trưởng các lực lượng tên lửa Kamanin.

Khả năng, các thử nghiệm pháo phản lực của thiếu tá A.A. Shumilin được thực hiện với mục đích thúc đẩy phía Trung Quốc bắt đầu các cuộc đàm phán hòa bình nhằm giải quyết những vấn đề tranh chấp. Dù sao đi nữa, ngày 11 tháng 9 năm 1969 trong thời gian thực hiện các cuộc đàm phán bí mật giữa thủ tướng chính phủ liên bang Xô viết ông A. Kosygin với thủ tướng Chu Ân Lai tại Bắc Kinh, đã đạt được thỏa thuận tiến hành các cuộc đàm phán chính thức về các vấn đề biên giới Liên xô – Trung Quốc, các cuộc đàm phán này bắt đầu vào ngày 20 tháng 10 năm 1969.

Nhưng một tháng trước khi có cuộc gặp cấp cao giữa hai nhà nước đã xảy ra một cuộc xung đột lớn trên đường biên giới và cướp đi hàng chục mạng quân nhân.

>> Bí mật cuộc diễn tập quân sự lớn nhất của Liên Xô năm 1979

Vào năm 1979, Liên Xô đã khẳng định kiên quyết với những thế lực đầy tham vọng: Quân đội và nhân dân Xô Viết sẵn sàng sử dụng các giải pháp cuối cùng để thực hiện nghĩa vụ quốc tế của mình với Việt Nam.

>> Nhìn lại chiến tranh biên giới Việt - Trung 1979



Trong rất nhiều trường hợp khác nhau, các nước phải tiến hành nhưng hoạt động quân sự nhằm giải quyết những vấn đề xung đột chính trị mà các biện pháp ngoại giao thông thường không thể giải quyết vấn đề. Nhưng trong lịch sử đấu tranh, có rất nhiều những tình huống mà những xung đột căng thẳng giữa các nước trên thế giới có thể được giải quyết bằng phương pháp phô diễn sức mạnh quân sự và khả năng sẵn sàng sử dụng sức mạnh đó.

Hơn một lần Liên bang Xô Viết đã sử dụng khả năng biểu dương sức mạnh quân sự để ngăn chặn những thảm họa chiến tranh. Một trong những tình huống đó là năm 1979, Kremlin đã có những hành động quyết liệt biểu dương sức mạnh của các lực lượng vũ trang và khả năng sẵn sàng sử dụng sức mạnh đó để giải quyết những mâu thuẫn chính trị. Và chính sự quyết liệt đó đã ngăn chặn một cuộc chiến tranh lớn ở khu vực Đông Nam Á.

Diễn tập bắn đạn thật – là những hoạt động huấn luyện chiến đấu của các lực lượng vũ trang các nước với mục đích làm tăng khả năng sẵn sàng chiến đấu, khả năng điều hành tác chiến và liên kết phối hợp, đồng thời cũng kiểm tra thử nghiệm vũ khí trang bị phương tiện chiến tranh trên chiến trường. Nhưng trên thực tế diễn tập có bắn đạn thật là biểu dương sức mạnh quân sự nhằm mục đích răn đe, ngăn chặn hoặc thể hiện khả năng sẵn sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang. Đồng thời, diễn tập cũng là phương thức nhằm đưa các đơn vị quân đội vào trạng thái sẵn sàng tiến hành một cuộc chiến tranh.

Một trong những yếu tố nhanh chóng làm tỉnh lại những nhà chính khách đã mê muội bởi tham vọng chính trị, với sự tự tin thái quá về khả năng của mình, đó là cho họ thấy được sức mạnh quân sự mà trong trường hợp họ vẫn không tự nhìn nhận lại tình huống, họ sẽ phải đối đầu trực diện. Thực hiện được điều đó thì phô diễn sức mạnh quân sự phải thật sự hiệu quả.

Kinh nghiệm phô diễn sức mạnh quân sự nhằm đạt được mục đích chính trị, thông thường nước Mỹ hay nghiên cứu và áp dụng vào thực tiễn. Nhưng trong thực tế đấu tranh trên thế giới, Liên bang Xô viết vào năm 1979 đã triển khai sức mạnh quân sự của mình một cách quyết liệt và hiệu quả, khiến cho một cường quốc trên thế giới như Trung Quốc buộc phải chùn tay, còn cả thế giới nín thở với sự khủng khiếp chờ đợi ngày “D”.

Xung đột biên giới năm 1979

Sau khi quân tình nguyện Việt Nam cùng với các lực lượng yêu nước Campuchia tiến hành các chiến dịch quân sự chống lại lực lượng quân sự Khơ me Đỏ và chính quyền Pol Pot. Sức ép mọi mặt lên nhà nước Việt Nam ngày càng tăng cả về ngoại giao, kinh tế, quân sự...

Trên tuyến biên giới phía bắc Việt Nam, lực lượng đối phương đã triển khai một tập đoàn quân: Thê đội một 15 sư đoàn bộ binh, thê đội 2 – 6 sư đoàn dã chiến. Dự bị chiến dịch có 3 sư đoàn. Tổng thể cụm quân lực triển khai các hoạt động tác chiến trên biên giới có thể tăng cường đến 29 sư đoàn. Rạng sáng ngày 17 tháng 2, đội quân khổng lồ này ồ ạt tấn công trên toàn tuyến...

Cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc năm 1979 (theo cách gọi của người Việt Nam) chính thức nổ ra...

Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Năm 1979. Các trung đoàn máy bay chiến đấu từ lãnh thổ của Ucraina và Belarussia cơ động di chuyển đến sân bay của Mông cổ. Ảnh: Cơ sở dữ liệu “VKO” Matxcova

Liên bang Xô Viết quyết định thực hiện sứ mệnh vô cùng khó khăn trong điều kiện tình huống phức tạp và nguy cơ bùng nổ chiến tranh trên diện rộng – thiết lập lại sự công bằng và hòa bình trên bán đảo Đông Dương bằng phương pháp biểu dương sức mạnh quân sự. Nhưng với những cái đầu nóng, thực hiện giải pháp nửa vời và không quyết liệt là không thể, mà còn thúc đẩy quốc gia mang tư tưởng nước lớn muốn 'dạy một bài học' cho nước khác tiến hành cuộc chiến tranh ác liệt hơn. Matxcơva đã quyết định hành động rất cứng rắn và quyết liệt ngay từ ban đầu.

Cuộc diễn tập lớn nhất trong lịch sử quân sự thế giới

Các hoạt động biểu dương sức mạnh và ý chí được quyết định vào đầu tháng 3 năm 1979. Trong giai đoạn từ ngày 12 đến ngày 26 tháng 3 ( với mục đích tạo áp lực quân sự lên Trung Quốc do những hành động gây chiến chống lại nước láng giềng) theo quyết định của Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Liên xô, trên tất cả các quân khu vùng biên giới phía Đông, trên lãnh thổ Mông Cổ và trên biển Thái bình dương tiến hành cuộc diễn tập hiệp đồng quân binh chủng và diễn tập hải quân có sử dụng đạn thật.

Trong cuộc diễn tập lớn nhất trong lịch sử quân sự có sử dụng lực lượng của 20 sư đoàn binh chủng hợp thành và không quân. Quân số tham gia diễn tập lên đến 200 nghìn quân nhân, 2600 xe tăng, 900 máy bay và 80 chiến hạm. Cuộc diễn tập bắt đầu từ thời điểm động viên lực lượng và đưa các đơn vị thường trực chiến đấu từ thường xuyên lên toàn bộ. Từ lực lượng dự bị động viên điều động 52 nghìn quân nhân dự bị động viên hạng 1, động viên từ các cở sở thuộc ngành Nông nghiệp hơn 5 nghìn xe ô tô các loại.

Những đợt diễn tập lớn nhất được thực hiện tại Mông Cổ, trong diễn tập có sự tham gia của 6 sư đoàn BBCG và Tăng thiết giáp, 3 trong số các đơn vị được điều động từ Siberia và Zabaikalia. Ngoài ra trên lãnh thổ Mông Cổ tham gia diễn tập có 2 lữ đoàn, 3 sư đoàn không quân chiến trường, các đơn vị và phân đội đặc chủng tăng cường.

Ngoài ra, cũng trong giai đoạn đó, đồng thời tiến hành các hoạt động diễn tập thực binh của các lực lượng trên vùng Viến đông và Đông Kazakhstan, có sự tham gia của các đơn vị binh chủng hợp thành và các đơn vị không quân, phối hợp với lực lượng Biên phòng.

Trong tiến trình diễn tập đã thực hiện nội dung liên kết phối hợp giữa các lực lượng. Các đơn vị và phân đội trong điều kiện khí hậu và môi trường khắc nghiệt đã tiến hành cơ động trên khoảng cách rộng lớn, từ Siberia đến Mông Cổ (hơn 2000 km).

Các đơn vị được tổ chức biên chế thành đơn vị chiến đấu ngay trên tầu hỏa, được vận chuyển bằng đường không. Cụ thể, sư đoàn ĐBĐK từ Tula được vận chuyển vào khu vực Chita trên quãng đường dài 5,5 nghìn km bằng máy bay vận tải quân sự một đợt bay trong thời gian 2 ngày. Các trung đoàn máy bay chiến đấu từ lãnh thổ của Ucraina và Belarusia được cơ động trực tiếp đường không đến các sân bay của Mông cổ.

Trên những khu vực biên giới với Trung Quốc, các đơn vị phòng thủ biên giới triển khai phác thảo các kế hoạch tổ chức phòng ngự, đánh chặn các đòn tấn công xâm phạm khu vực biên giới, kế hoạch phản kích các đòn tấn công và kế hoạch phản công.

Trên các vùng biển phía Đông và Nam Trung Quốc có gần 50 chiến hạm của hạm đội Thái Bình dương, trong đó có 6 tầu ngầm, tiến hành các hoạt động sẵn sàng chiến đấu và đồng loạt triển khai diễn tập các hoạt động tác chiến nhằm tiêu diệt lực lượng hải quân đối phương. Riêng vùng biển Primorie tiến hành diễn tập đổ bộ đường biển.



Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Trên các vùng biển phía Đông và Nam Trung Quốc có gần 50 chiến hạm của hạm đội Thái Bình dương, trong đó có 6 tầu ngầm đang thực hiện nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu.

Một trong những mối quan tâm đặc biệt là kinh nghiệm triển khai các cụm quân công kích chủ lực của Lực lượng Không quân trên biên giới với Trung Quốc, do đặc thù có ưu thế vượt trội về không quân, như một phương tiện tác chiến tầm xa, “phi tiếp xúc”. Trong giai đoạn ngày nay sẽ là yếu tố quan trọng làm nguội đi những cái đầu nóng của người láng giềng đầy tham vọng mà không tự lượng sức mình.

Theo các kế hoạch diễn tập, đã tiến hành tổ chức biên chế các cụm chủ lực hàng không công kích của các trung đoàn không quân trên các quân khu gần biên giới Trung Quốc. Các tập đoàn máy bay chiến đấu chuyển sang vị trí đóng quân cố định trong khu vực miền Đông, không chỉ là từ các quân khu lân cận, mà cả từ Pricarpathian trên quãng đường bay dài tới 7000km trong vòng hai ngày.

Vấn đề không phải là vài chục chiếc máy bay chiến đấu, được rút ra từ các phân đội bay sẵn sàng chiến đấu thường xuyên, mà là các trung đoàn bay đầy đủ theo biên chế. Cùng với các máy bay chiến đấu, các máy bay vận tải vận chuyển luôn cả các đơn vị hậu cần kỹ thuật, các trang thiết bị, kỹ thuật dự trữ và cơ sở vật chất dự phòng theo biên chế.

Có những thời điểm trên không trung cùng lúc bay hàng chục trung đoàn không quân chiến trường. Ngay sau khi các đơn vị không quân hạ cánh, các đơn vị và phân đội không quân lập tức nhận nhiệm vụ và triển khai tham gia huấn luyện diễn tập. Trong quá trình tiến hành các hoạt động chuyển quân và diễn tập chiến đấu tiến công, các kíp lái đã cơ động hơn 5000h, sử dụng hơn 1000 quả bom và tên lửa.

Một khối lượng khổng lồ vũ khí trang bị, phương tiện chiến đấu, cơ sở vật chất, vận chuyển từ Liên bang Xô viết, đã giải quyết toàn bộ vấn đề về trinh sát đường không của địch trên lãnh thổ Việt Nam. Một bộ phận không quân đảm bảo vận tải trên lãnh thổ Việt Nam. Thành quả và khối lượng không thể tưởng tượng được của hàng không vận tải quân sự đã thực hiện trên cầu hàng không được thiết lập giữa CCCP và Việt Nam.

Trong khuôn khổ chương trình diễn tập và vận chuyển khí tài chiến đấu trong không đầy một tháng đã tiến hành cơ động 20 nghìn quân nhân của lực lượng vũ trang Việt Nam, hơn 1000 đơn vị (unit) trang thiết bị chiến đấu, 20 máy bay quân sự và máy bay trực thăng, hơn 3 nghìn tấn vũ khí trang bị, đạn và cơ sở vật chất phục vụ chiến tranh.

Liên bang Xô Viết đã thực hiện sứ mệnh cao cả của mình, bằng sự giúp đỡ của tinh thần đồng chí, tăng cường sức mạnh quân sự cho quân đội nhân dân Việt Nam bằng giải pháp cung cấp khí tài quân sự. Trong giai đoạn đầu tiên của cuộc xung đột vũ trang đến tháng 3 năm 1979 theo đường vận tải biển đã chuyển đến Việt Nam hơn 400 xe tăng và xe thiết giáp, xe bộ binh cơ giới, 400 khẩu pháo và súng cối, 50 tổ hợp pháo phản lực Grad BM-21, hơn 100 khẩu pháo phòng không, 400 tổ hợp tên lửa phòng không vác vai và hàng nghìn tên lửa, 800 súng chống tăng RPG-7, 20 máy bay tiêm kích.

Ngoài vũ khí trang bị, Liên bang Xô Viết còn cung cấp các hệ thống trang thiết bị đặc chủng và các dây truyền sửa chữa xe máy công trình phục vụ bảo dưỡng và sửa chữa trang thiết bị, phương tiện chiến tranh. Tất cả các trang thiết bị, phương tiện chiến tranh và hệ thống sửa chữa, bảo hành trang thiết bị đi cùng đó đều được chuyển đến trong vòng một tháng. Vũ khí, trang thiết bị kỹ thuật đều trong trạng thái sẵn sàng chiến đấu và có thể đưa vào chiến đấu được ngay. Toàn bộ trang bị kỹ thuật, phương tiện chiến tranh được kiểm tra bởi các đoàn kiểm tra kỹ thuật nghiêm khắc nhất, để chuẩn bị đã điều động các chuyên gia, trong thực tế đã khai thác sử dụng triệt để các trang thiết bị đó và có kinh nghiệm sâu sắc về khai thác sử dụng.

Như vậy, các phương tiện chiến đấu, từ các phương tiện vận tải, không cần có sự chuẩn bị bổ sung, có thể đưa thẳng vào chiến trường. Đây thật sự là một kỳ tích của hệ thống hậu cần, kỹ thuật, vận tải của quân đội Xô viết cả về tốc độ cung cấp và vận tải trang bị, số lượng vũ khí trang bị, khả năng sẵn sàng chiến đấu của vũ khí trang bị khi cơ động trên hàng chục ngàn km đường biển.

Trong thời gian diễn ra cuộc tập trận tổng lực của quân đội Vô Viết, người Trung Quốc căng thẳng theo dõi mọi diễn biến và có thể đánh giá được, thật sự họ đang ở trong một tình huống nghiêm trọng như thế nào? Đến mức họ không dám đưa lực lượng quân đội của họ từ vị trí đóng quân ra biên giới Xô – Trung.

Ngoài biên giới, các phương tiện thông tin đại chúng tập trung toàn bộ sự chú ý, theo dõi và đưa ra những phỏng đoán về cuộc diễn tập quân sự, lớn nhất trong lịch sử chiến tranh hiện đại, diễn ra trong khu vực châu Á. Các hoạt động diễn ra rất quyết liệt, theo đúng thực tế chiến trường chứ không hề có cảm giác “tình huống giả định, một bước tiến – hai bước lùi”. Và áp lực chiến tranh nặng nề đè lên thế lực hiếu chiến, buộc họ phải suy nghĩ tỉnh táo và kiềm chế tối đa..


Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Trữ lượng dầu, tiêu hao trong thời gian thực hiện các hoạt động diễn tập và giúp đỡ Việt nam, Bộ quốc phòng Liên bang Nga phải phục hồi lại dự trữ trong vòng hai năm.

Không đạt được những mục tiêu chính trị, tổn thất nặng nề về binh lực, ngày 5 tháng 3 năm 1979, Bộ máy lãnh đạo nước lớn ở châu Á quyết định rút quân khỏi lãnh thổ láng giềng. Quyết định đó bị thúc đẩy bởi hàng loạt các yếu tố chính trị và quân sự, bất ngờ và choáng váng trước sự kiên cường và sức mạnh của Việt Nam và một phần có thêm sự ủng hộ kiên quyết của Matxcơva đối với Hà Nội.

Liên Xô yêu cầu ngay lập tức chấm dứt hành động xâm lược vô nhân đạo, khả năng sẵn sàng tiến hành các hoạt động quân sự mạnh nhất trên khu vực phía Đông; những mâu thuẫn và bất đồng chính kiến ngay trong nội bộ nhà cầm quyền nước lớn kia; sự phản ứng mạnh mẽ của thế giới tiến bộ và yêu chuộng hòa bình; sự xuất hiện rõ nét những điểm yếu trong công tác huấn luyện và tiến hành các chiến dịch, thực hành các trận đánh của lực lượng sĩ quan chỉ huy quân đội PLA; trong biên chế các loại vũ khí, trang thiết bị hiện đại, phương tiện chiến tranh, khó khăn nghiêm trọng trong công tác vận tải cơ sở vật chất, hậu cần kỹ thuật.

Các cuộc tấn công chấm dứt từ ngày 20 tháng 3 bắt đầu rút quân trên toàn bộ các hướng chủ yếu. Cuộc rút lui được che chắn bởi hỏa lực dữ dội của pháo binh và các cuộc tấn công nghi binh. Trong quá trình rút quân, PLA sử dụng triệt để hỏa lực ngăn chặn của pháo binh, súng cối, gài mìn trên các tuyến đường, phá hoại cầu cống, hủy diệt các khu nông trại, hợp tác xã, làng mạc và khu dân cư.

Cuối tháng 3, Trung Quốc công khai tuyên bố đã rút hoàn toàn quân đội nhưng cuộc đấu tranh giằng co giữa đôi bên còn kéo dài đến tận năm 1989 mới chấm dứt.

Các hành động chính trị quân sự quyết liệt của Liên xô, được thực hiện dưới hình thức chuẩn bị quân sự toàn diện cho cuộc tấn công vào lãnh thổ Trung Quốc, đã đạt được những kết quả mong muốn về chính trị.

Cuộc diễn tập đã đạt được những mục tiêu quân sự cần thiết. Sức mạnh quân sự của Liên bang Xô Viết phô diễn trong cuộc tập trận bắn đạn thật quy mô lớn là một yếu tố đã góp phần chấm dứt những mưu toan nước lớn, những ý đồ trong vai trò “anh cả” và tham vọng điều khiển châu lục, buộc Trung Quốc nhìn lại ngay chính lực lượng quân sự của mình và những tham vọng của một "đại quốc".

Việt Nam đã tăng cường đáng kể sức mạnh quân sự, đủ để bảo vệ đất nước và đường lối chính trị độc lập của mình trên trường thế giới.

Quân đội Liên bang Xô Viết đã chứng minh được khả năng sẵn sàng chiến đấu cao nhất, đáp ứng được những yêu cầu tác chiến hiện đại và sẵn sàng hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và thực hiện nghĩa vụ quốc tế.

(Tổng hợp Internet)

Thứ Ba, 7 tháng 8, 2012

>> Tại sao Nhật không thoát khỏi thảm họa bom nguyên tử ?

Việc quân đội Nhật ỉm bức mật điện từ Stockholm đã gây ra tổn thất nặng nề cho Nhật Bản, nhất là các trận ném bom nguyên tử hai thành phố Hiroshima và Nagasaki.

>> Bí mật thiết kế tàu sân bay Nga trong tương lai (Phần 1)


Một trong những bí ẩn trong lịch sử ngoại giao Nhật Bản là liệu Tokyo có biết Stalin đã hứa với Roosevelt và Churchill tại Hội nghị Yalta rằng, Liên Xô sẽ tham chiến chống Nhật Bản hay không.

Theo tờ báo Sankei Shimbun của Nhật Bản, người ta đã tìm thấy trong kho lưu trữ của Anh những thông tin khẳng định, tình báo quân sự Nhật vào mùa xuân năm 1945 đã thu được thông tin về việc tại Hội nghị Yalta Stalin hứa với các nước đồng minh sẽ tham chiến chống Nhật Bản 2-3 tháng sau khi đánh bại nước Đức Hitler.

Quan điểm chính thức của Chính phủ Nhật trong một thời gian dài là “Liên Xô đã tấn công Nhật Bản một cách bất ngờ, các thỏa thuận Yalta Tokyo chỉ biết vào năm 1946”. Đa số các nhà sử học Nhật Bản cho rằng, Tokyo đã không biết quyết định của Stalin cho đến sau khi chiến tranh kết thúc và do đó, Nhật đã hy vọng đến tận giây phút cuối cùng là Moskva sẽ đóng vai trò một bên trung gian và mở cuộc đàm phán hòa bình với Mỹ. Tuy nhiên, có những dấu hiệu cho thấy tình báo Nhật đã biết thỏa thuận đã đạt được tại Yalta.

Quan điểm chính thức đó của Nhật đã bị những tiết lộ của bà Yuriko Onodera, vợ của nhà tình báo nổi tiếng của Nhật, Trung tá (các nguồn khác nói là Thiếu tướng) Makoto Onodera, Tùy viên quân sự tại cơ quan đại diện ngoại giao Nhật Bản ở Stockholm trong những năm chiến tranh, phủ nhận.

Trong hồi ký xuất bản vào năm 1985 của mình, bà Yuriko vốn làm nhiệm vụ nhân viên cơ yếu tại cơ quan đại diện ngoại giao Nhật, khẳng định, chính bà đã mã hóa báo cáo tình báo về nội dung những thỏa thuận mật về Nhật Bản đạt được ở Yalta, trong đó có việc Liên Xô sẽ tham chiến chống Nhật.

Bà Yuriko xác nhận rằng, bức điện mã có nội dung đó vào giữa tháng 2/1945 đã được gửi về Trung ương tình báo Nhật cho Phó Tổng tham mưu trưởng quân đội Nhật Hoàng, Trung tướng Hikosaburo Hata. Bà Yuriko nhớ lại: “Tôi đã mã hóa bức điện này với tâm trạng phiền muộn và sau đó gửi nó về Tokyo”. Người cung cấp tin cho Tùy viên quân sự Nhật là điệp viên người Ba Lan có bí danh Ivanov hoạt động ở London, Anh, nơi điệp viên này được ông Makoto Onodera phái đến để thu thập các tin tức cần thiết.


http://nghiadx.blogspot.com
Makato Onodera, Tùy viên quân sự Nhật Bản tại Stockholm, cùng các sĩ quan Đức thăm cứ điểm Fjell Festning ở Nauy, ngày 26/12/1942. Ảnh: ww2db.com

Trong bài báo của Sankei Shimbun có nêu rằng, theo các tài liệu được tìm thấy, tình báo Nhật đã nhận được tin tức về các thỏa thuận ở Yalta từ những nhân vật nằm trong “chính phủ Ba Lan lưu vong”. Đồng thời, cũng có những thông tin chỉ ra rằng, tình báo Nhật đã hợp tác với tình báo Đức để thu thập tin tức về Hội nghị Tam cường ở Yalta.

>> Bí mật siêu tên lửa tối tân của Quân đội Nga

Việc “bức điện mã của Onodera” quả thực đã về đến Tokyo đã được sĩ quan Cục Tình báo Bộ Tổng tham mưu Nhật Eijo Hori và Trưởng Phòng Liên Xô của Cục Tình báo này Hayashi Saburo xác nhận. Họ cho rằng, thông tin có tầm quan trọng sống còn này đã bị Cục Tác chiến Bộ Tổng tham mưu Nhật cố tình ỉm đi. Ngoài ra, người ta cũng nêu giả thiết Bộ Tư lệnh quân đội Nhật vốn khăng khăng đòi chiến đấu bảo vệ nước Nhật “cho đến người Nhật cuối cùng” không muốn báo cáo tin Liên Xô sẽ tham chiến với giới chính trị gia cấp cao vì lo ngại điều đó sẽ củng cố quan điểm của những chính trị gia ủng hộ tìm kiếm hiệp định hòa bình với Mỹ và Anh.

http://nghiadx.blogspot.com
Nếu bức mật điện Stockholm không bị ỉm đi, chiến tranh có thể đã kết thúc sớm hơn... Trong ảnh: Phái đoàn Nhật Bản tại lễ ký văn bản đầu hàng đồng minh trên chủ lực hạm USS Missouri ngày 2/9/1945. Ảnh: battleshipoperations.bravehost.com

Tuy nhiên, với những bằng chứng hiện có, có cơ sở để cho rằng, ban lãnh đạo cao nhất của Nhật Bản mặc dù vậy vẫn đã biết cam kết tham chiến chống Nhật của Stalin sớm hơn, thậm chí ngay sau khi Hội nghị Yalta kết thúc. Một chuyện khó có thể là sự trùng hợp ngẫu nhiên là vào ngày 14/2/1945, chỉ hai ngày sau khi Hội nghị Yalta kết thúc, Hoàng thân Fumimaro Konoye, chính trị gia đầy thế lực của Nhật Bản, người từng ba lần đứng đầu Chính phủ Nhật, đã vội vã đệ trình Nhật Hoàng Hirohito một bản báo cáo mật hối thúc Nhật Hoàng “kết thúc chiến tranh càng nhanh càng tốt”. Nguy cơ “Liên Xô can thiệp” đã được nêu như lý do chính để Nhật Hoàng nên đưa ra quyết định đó.

Ông Konoye viết: “Thần cảm thấy thất bại của chúng ta trong cuộc chiến, đáng tiếc là không thể tránh khỏi… Mặc dù thất bại hiển nhiên sẽ gây tổn hại cho hệ thống chính trị quốc gia của chúng ta…, nhưng chỉ riêng thất bại quân sự không thôi không gây ra nguyu cơ đặc biệt đối với bản thân sự tồn tại của hệ thống nhà nước của chúng ta. Từ góc độ duy trì thể chế quốc gia, đáng lo sợ nhất không hẳn là bản thân sự thất bại trong cuộc chiến mà là cuộc cách mạng cộng sản có thể xảy ra sau thất bại.

Sau khi suy xét kỹ càng, thần đi đến kết luận rằng, tình hình trong nước và ngoài nước ở thời điểm hiện tại đang nhanh chóng đưa đất nước ta đi đến một cuộc cách mạng cộng sản… Bề ngoài, điều này thể hiện ở hoạt động bất thường của Liên Xô... Mặc dù về mặt chính thức, Liên Xô chủ trương không can thiệp vào công việc nội bộ của các nước châu Âu, nhưng trong thực tế họ là can thiệp tích cực nhất trong công việc nội bộ của các nước này và đang cố gắng giành được sử ủng hộ chính trị của quần chúng cho mô hình Xô-viết. Các ý định của Liên Xô ở Đông Á cũng giống hệt như thế... Những suy nghĩ về những tình huống đó dẫn tới kết luận rằng, đang tồn tại một nguy cơ nghiêm trọng về sự can thiệp của Liên Xô vào tình hình nội bộ của Nhật Bản trong tương lai gần”.

Báo cáo này cho thấy, Konoye đã biết ý định của Liên Xô can thiệp chống Nhật Bản. Ý chính của báo cáo là Nhật bản nên đầu hàng Mỹ và Anh trước khi Liên Xô tham chiến bởi vì “công chúng ở các nước này chưa bắt dầu đòi thay đổi hệ thống chính trị của chúng ta (Nhật Bản)”.

http://nghiadx.blogspot.com
... và Nhật Bản lẽ ra đã có thể tránh được trận ném bom nguyên tử. Ảnh: Daily Mail

Ngày 15/2/1845, các nhà lãnh đạo tình báo Nhật đã báo cáo với Hội đồng Chiến tranh tối cao rằng, “Liên Xô có ý định giành cho mình quyền bỏ phiếu quyết định các vấn đề về tương lai Đông Á”. Họ cảnh báo rằng, vào mùa xuân năm 1945, Liên Xô có thể xé bỏ hiệp định trung lập Xô-Nhật và tham gia cùng các đồng minh trong cuộc chiến chống Nhật Bản. Hôm sau, ngoại trưởng Mamoru Shigemitsu đã tấu trình với Nhật Hoàng Hirohito về việc này: “Sự tồn tại của nước Đức quốc xã chỉ còn tính bằng ngày. Hội nghị Yalta đã tái xác nhận sự đoàn kết của Anh, Mỹ và Liên Xô”. Vị ngoại trưởng đã khuyến nghị Hirohito đừng trông cậy vào hiệp định trung lập với Liên Xô. Cựu Thủ tướng Nhật, Tướng Hideki Tojo, người cầm đầu nội các đã phát động cuộc chiến tranh Thái Bình Dương, cũng cảnh báo Nhật Hoàng về khả năng Liên Xô tham chiến chống Nhật khi đánh giá khả năng đó là 50/50”.

Hoàn toàn có thể giả thiết rằng, tình báo Nhật đã biết được các điều kiện để Liên Xô tham chiến chống Nhật, trong đó có mong muốn của Moskva giành lại các vùng lãnh thổ ở Viễn Đông từng thuộc về nước Nga. Bằng chứng cho giả thiết đó là danh sách những nhượng bộ do Chính phủ Nhật soạn thảo mà Tokyo định đề xuất với Chính phủ Liên Xô để đổi lấy việc Liên Xô tuân thủ sự trung lập. Những nhượng bộ chính trong danh sách này là chuyển giao cho Liên Xô Nam Sakhalin và quần đảo Kuril.

Có bằng chứng cho thấy, thông tin họ có được về ý định của Stalin hỗ trợ đồng minh ở Đông Á làm cho Nhật Bản cực kỳ lo sợ. Ngày 15/2/1945, ngoại trưởng Nhật đã cử Tổng lãnh sự Nhật ở Cáp Nhĩ Tân, Miyakawa đến Đại sứ quán Liên Xô ở Tokyo với một sứ mệnh khẩn cấp có mục đích rõ ràng là moi thêm thông tin về Hội nghị Yalta. Mặc dù Đại sứ Liên Xô Yakov Malik nói rằng, Hội nghị Yalta đã tập trung vào các vấn đề châu Âu, điều này chẳng làm giảm bớt mấy sự lo sợ của Nhật bản.

Tôn trọng các cam kết của mình ở Yalta, Liên Xô đã nhanh chóng bắt đầu chuyển quân đến Viễn Đông. Việc đó không thoát khỏi sự chú ý của ban lãnh đạo Nhật vì họ thường xuyên nhận được tin tình báo về sự tái bố trí của Hồng quân Liên Xô. Ví dụ, vào giữa tháng 4/1945, các sĩ quan Nhật làm việc tại sứ quán Nhật ở Moskva đã báo cáo về Tokyo: “Trong những ngày 12-15, các đoàn tàu hỏa chạy theo tuyến đường sắt xuyên Siberia hàng ngày... Việc Liên Xô tham chiến chống Nhật bản là không thể tránh khỏi. Họ sẽ mất khoảng 2 tháng để vận chuyển cỡ 20 sư đoàn gì đó”. Bộ tư lệnh Đội quân Quan Đông cũng báo cáo thông tin tương tự.

Vào đầu mùa hè, tình hình cho thấy Chính phủ Nhật ngày càng khó có khả năng ngăn chặn Liên Xô tham chiến. Ngày 6/1/1945, Hội đồng Chiến tranh tối cao Nhật đã nghe một báo cáo phân tích tình hình cực kỳ bi quan: “Liên Xô đang áp dụng các biện pháp chuẩn bị cơ sở ngoại giao cho cuộc can thiệp quân sự có thể xảy ra chống Đế quốc (Nhật). Đồng thời, họ đang đẩy mạnh các công tác chuẩn bị chiến tranh ở Viễn Đông. Rất nhiều khả năng là Liên Xô sẽ khai chiến chống Nhật Bản... Liên Xô có thể tham chiến chống Nhật vào mùa hè hay mùa thu”.

Với những bằng chứng nêu trên, ý kiến cho rằng, Chính phủ Nhật không biết chi tiết của các thỏa thuận Yalta tận cho đến sau khi chiến tranh kết thúc là không thuyết phục và không được chấp nhận như một sự thật lịch sử. Những tuyên bố đó được Nhật đưa ra khi họ phát động chiến dịch đòi lại “các vùng lãnh thổ phía bắc”, tức là quần đảo Nam Kurils vốn được trao cho Liên Xô sau khi chiến tranh kết thúc.

Sẽ không phải là nói ngoa khi coi việc che giấu và đúng hơn là hủy “bức điện mã Onodera” đã định đoạt số phận của nước Nhật và dân tộc Nhật. Tờ Sankei Shimbun đã nêu ý kiến về vấn đề này của ông Ryujo Tajima, giáo sư Đại học tổng hợp Keio của Nhật Bản. Ông Ryujo Tajima cho rằng, thông tin về việc Liên Xô chuẩn bị tham chiến lẽ ra đã có thể đẩy nhanh việc chấm dứt chiến tranh. Ông nói: “Quyết định muộn màng chấm dứt chiến tranh đã dẫn đến trận ném bom nguyên tử, Liên Xô tham chiến và chiếm giữ “các vùng lãnh thổ phía bắc”. Điều đó một lần nữa đặt ra vấn đề về trách nhiệm của ban lãnh đạo tối cao của Nhật Bản lúc đó”.

(Nguồn :: BDV)
Copyright 2012 Tin Tức Quân Sự - Blog tin tức Quân Sự Việt Nam
 
Lên đầu trang
Xuống cuối trang