Tin Quân Sự - Blog tin tức Quân sự Việt Nam: Hồ sơ mật

Paracel Islands & Spratly Islands Belong to Viet Nam !

Quần Đảo Hoàng Sa - Quần Đảo Trường Sa Thuộc Về Việt Nam !

Hiển thị các bài đăng có nhãn Hồ sơ mật. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Hồ sơ mật. Hiển thị tất cả bài đăng

Chủ Nhật, 19 tháng 5, 2013

>> Mỹ cũng từng có ý định tấn công hạt nhân Trung Quốc năm 1958

Trung tuần tháng 8/1958, 5 chiếc máy bay ném bom B-47 của không quân Mỹ bố trí tại căn cứ quân sự trên đảo Guam đã được đặt trong tình trạng sẵn sàng chiến đấu, chỉ cần nhận lệnh là vút lên trời bay đi thực hiện sứ mệnh hủy diệt nhằm vào khu vực Hạ Môn (Trung Quốc). Tuy nhiên, đến phút cuối, Tổng thống Mỹ khi đó là Dwight Eisenhower đã không đồng ý với đề xuất của Lầu Năm góc. Tại sao vậy.

>> Liên Xô từng có ý định tấn công hạt nhân Trung Quốc ? (Phần 1)

Trở lại với thời điểm tháng 8/1958, bóng mây chiến tranh vần vũ ở eo biển Đài Loan. Nhằm giáng đòn sấm sét vào cái gọi là "Hiệp ước phòng thủ chung" mà Oasinhtơn đã ký với nhà cầm quyền Đài Bắc, Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc đã tập kết một lượng lớn binh lực ở tiền tuyến Phúc Kiến.

17 giờ 30 phút ngày 23/8, hàng vạn khẩu pháo của Trung Quốc đồng loạt khai hỏa bắn phá dữ dội vào những mục tiêu quan trọng của quân Quốc dân Đảng như "Bộ tư lệnh phòng vệ Kim Môn" và trận địa pháo binh. Cả thế giới dồn sự quan tâm chú ý vào Kim Môn, nơi chỉ cách Hạ Môn (Trung Quốc) 18 hải lý (khoảng 33 km) về phía Tây.


Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Máy bay ném bom B-47 của Mỹ.

Việc Trung Quốc tấn công quần đảo Kim Môn làm cho Mỹ trở tay không kịp. Do trước đó, không quân Mỹ đã điều một lực lượng lớn đi ứng phó với cuộc khủng hoảng Libăng, nên không có cách nào bố trí binh lực ở khu vực biển Đài Loan theo hiệp ước đã ký với Tưởng Giới Thạch.

Trong bối cảnh đó, Chủ tịch Hội đồng tham mưu liên quân Mỹ, tướng không quân Nathan F. Twining (ảnh), người từng chủ trương sử dụng vũ khí hạt nhân cứu quân Pháp đang bị vây khốn ở Điện Biên Phủ (Việt Nam), đã ra sức cổ súy cho ý tưởng cực đoan: ra đòn hạt nhân nhằm vào Trung Quốc đại lục.

Trung tuần tháng 8/1958, 5 chiếc máy bay ném bom B-47 của không quân Mỹ bố trí tại căn cứ quân sự trên đảo Guam đã được đặt trong tình trạng sẵn sàng chiến đấu, chỉ cần nhận lệnh là vút lên trời bay đi thực hiện đòn đánh hạt nhân chiến thuật nhằm vào khu vực Hạ Môn (Trung Quốc).

Mệnh lệnh từ Bộ chỉ huy không quân chiến lược Mỹ chỉ rõ: một khi xung đột leo thang, 5 chiếc máy bay ném bom B-47 mang theo những quả bom hạt nhân chiến thuật tương đương lượng nổ khoảng 10.000-15.000 tấn thuốc nổ TNT thả xuống Hạ Môn.

Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Tướng Twining.

Tuy nhiên, trong cuộc họp với các quan chức chủ chốt của Nhà Trắng và Lầu Năm góc ngày 25/8, Tổng thống Eisenhower đã quyết định "không sử dụng vũ khí hạt nhân ở khu vực biển Đài Loan mà dùng sức mạnh vũ khí thông thường trợ giúp Đài Loan".

Bốn ngày sau, Eisenhower ra lệnh cho lực lượng tác chiến hỗn hợp không quân (CASF) chi viện cho vùng Viễn Đông và một lần nữa khẳng định lại với Twining rằng "cho dù Kim Môn có bị pháo kích ác liệt tới đâu, chúng ta cũng không phải vội vàng sử dụng vũ khí hạt nhân".

Tư tưởng chỉ đạo của Eisenhower đã gặp phải sự phản đối của nhiều tướng lĩnh Mỹ, trong đó có tướng không quân Lawrence Kuter, một trong những tác giả của bản kế hoạch tấn công hạt nhân. Tướng Lawrence Kuter cho rằng quyết định "phản ứng có giới hạn" (không sử dụng vũ khí hạt nhân) của Eisenhower là một "thảm họa", "hoặc là người Mỹ sử dụng loại vũ khí hiệu quả nhất của mình (vũ khí hạt nhân) hoặc là không nên can dự vào cuộc xung đột trên biển Đài Loan".

Tại sao Tổng thống Mỹ Eisenhower đưa ra một quyết định đi ngược lại ý muốn của những tướng lĩnh "diều hâu"?

Thứ nhất, truớc khi cuộc xung đột trên biển Đài Loan xảy ra, Liên Xô đã tuyên bố bắt đầu từ ngày 31/3/1958 sẽ đơn phương chấm dứt tất cả các hình thức thử nghiệm vũ khí hạt nhân. Muốn giành được thế chủ động trên mặt trận ngoại giao, đương nhiên, Mỹ phải hạn chế sử dụng vũ khí hạt nhân ở khu vực biển Đài Loan.

Bên cạnh đó, việc Mỹ sử dụng vũ khí hạt nhân tấn công Hạ Môn không chỉ gây thiệt hại cho Trung Quốc mà còn cho cả Đài Loan, đồng thời có thể dẫn đến khả năng leo thang xung đột hạt nhân trên toàn thế giới. Đặc biệt, sau khi chứng kiến những hậu quả khủng khiếp gây ra cho thường dân ở hai thành phố Hiroshima và Nagasaki (Nhật Bản), nhân loại cực lực lên án việc sử dụng loại vũ khí dã man, tàn bạo này.

Việc Mỹ một lần nữa sử dụng vũ khí hạt nhân triệt hạ đối phương sẽ chỉ làm cho làn sóng chống Mỹ cao thêm, gián tiếp trợ giúp Liên Xô giành được sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế.

Cuối cùng, vào năm 1958, tuy thời kỳ "trăng mật" trong quan hệ Xô-Trung sắp kết thúc, nhưng những chia rẽ giữa hai bên chưa công khai hóa. Ngày 31/7/1958, Bí thư thứ nhất Đảng Cộng sản Liên Xô Nikita Sergeyevich Khrushchev thăm Bắc Kinh. Kết hợp với việc Trung Quốc pháo kích Kim Môn, người ta cho rằng Mátxcơva ngầm ủng hộ Bắc Kinh tấn công Kim Môn.

Cho dù Eisenhower đã sớm vạch ra chiến lược trả đũa toàn diện trước mối đe dọa hạt nhân của Liên Xô, nhưng rõ ràng người Mỹ không có được 100% tin tưởng vào khả năng giành chiến thắng trong một cuộc chiến tranh hạt nhân với Liên Xô. Hơn nữa, ngày 7/9, Khrushchev đã gửi thư cho Eisenhower cảnh cáo rằng: "Trong thời đại của vũ khí hạt nhân, tên lửa siêu thanh và các loại vũ khí với uy lực chưa từng có, các hạm đội hải quân từng làm mưa làm gió trên biển về cơ bản chỉ thích hợp cho những chuyến thăm quan mang tính lễ tân, đó là chưa nói tới việc chúng sẽ trở thành mục tiêu tấn công của các loại tên lửa".

Rõ ràng, Khrushchev đang ám chỉ tới việc Eisenhower khi đó đã ra lệnh cho Hạm đội 7 tới eo biển Đài Loan "tuần tra". Khrushchev nhấn mạnh: "Trong bối cảnh sự lũng đoạn hạt nhân của Mỹ không còn, việc Mỹ vẫn còn có ý đồ sử dụng vũ khí hạt nhân đe dọa nước khác là hoàn toàn không có hy vọng". Vì vậy, cho dù Eisenhower muốn sử dụng vũ khí hạt nhân tấn công Hạ Môn thì cũng không thể không xem xét đến việc khi đó Trung Quốc và Liên Xô vẫn đang cùng một phe.

(Tổng hợp)

Thứ Hai, 13 tháng 5, 2013

>> Liên Xô từng có ý định tấn công hạt nhân Trung Quốc ? (Phần 1)

Sau một thời gian dài mâu thuẫn, tháng 3/1969, quan hệ giữa Liên Xô (trước đây) và Trung Quốc cuối cùng cũng bùng lên thành xung đột vũ trang.

Trong các ngày 2, 15 và 17/3/1969, quân đội hai nước liên tục nã súng vào nhau. Máu đã đổ và khủng khiếp hơn, nó suýt đặt hai nước trước bờ vực của một cuộc chiến tranh hạt nhân vô tiền khoáng hậu.

>> Nga yếu thế nếu xảy ra chiến tranh với Trung Quốc?
>> Theo báo Nhật : Nga - Trung rút cuộc vẫn đối đầu


Kỳ 1: Nút thắt nguy hiểm

Sau khi xung đột vũ trang bùng phát ở khu vực tranh chấp (đảo Trân Bảo -theo cách gọi của Trung Quốc; đảo Damansky - theo cách gọi của Liên Xô), Mátxcơva đã có những phản ứng hết sức quyết liệt. Thậm chí, phái cứng rắn trong quân đội Liên Xô do Bộ trưởng Quốc phòng, Nguyên soái A. A. Grecho và trợ lý Bộ trưởng, Nguyên soái V. I. Chuikov cầm đầu chủ trương "loại bỏ vĩnh viễn" mối đe dọa Trung Quốc bằng cách sử dụng tên lửa tầm trung mang đầu đạn hạt nhân của quân khu Viễn Đông đánh đòn “phẫu thuật ngoại khoa” nhằm vào các mục tiêu quân sự, chính trị trọng yếu của Trung Quốc.


Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Khu vực tranh chấp Trung Quốc và Liên Xô năm 1969.

Ngày 20/8, nhận được lệnh từ Mátxcơva, Đại sứ Liên Xô tại Oasinhtơn A. Dobrynin khẩn cấp tới gặp Cố vấn an ninh quốc gia Mỹ H. A. Kissinger, thông báo ý định sử dụng đòn đánh hạt nhân tấn công Trung Quốc và đề nghị phía Mỹ cho biết ý kiến về vấn đề này. Dụng ý của Cremli đã rõ ràng: nhân lúc quan hệ Trung-Mỹ khi đó cũng rất căng thẳng nếu có ra tay "triệt hạ" Bắc Kinh chí ít là Mỹ cũng giữ vị trí trung lập. Sáng sớm hôm sau, Kissinger vội vã tới Nhà Trắng, vừa gặp Tổng thống Nixon liền rút trong cặp ra mấy tờ giấy viết kín chữ đặt lên bàn nói: "Tổng thống hãy xem. Mátxcơva muốn sử dụng vũ khí hạt nhân tấn công Bắc Kinh. Tối hôm qua, Đại sứ A. Dobrynin đã cùng tôi thảo luận chuyện này suốt đêm. Một số nhân vật ở Cremli quyết định dùng tên lửa hạt nhân để loại trừ mối đe dọa từ Trung Quốc và họ muốn biết ý kiến của chúng ta".

Sau khi tham khảo ý kiến của những quan chức cấp cao của Nhà Trắng, Tổng thống Nixon cho rằng mối uy hiếp lớn nhất đối với các nước phương Tây đến từ Liên Xô, sự tồn tại của một nước Trung Quốc lớn mạnh phù hợp với lợi ích chiến lược của phương Tây. Liên Xô sử dụng tên lửa hạt nhân tấn công Trung Quốc đương nhiên sẽ buộc Bắc Kinh phải ra đòn trả đũa. Lúc đó, ô nhiễm hạt nhân sẽ trực tiếp ảnh hưởng tới sự an toàn của 250.000 quân Mỹ đóng ở châu Á. Điều đáng sợ nhất là, một khi Liên Xô chứng tỏ được uy lực hạt nhân của mình, "con gấu Bắc cực" này sẽ khiến cả thế giới run sợ, thậm chí là quy thuận và ngọn cờ lãnh đạo thế giới do Mỹ dựng lên sẽ chẳng còn tác dụng tập hợp lực lượng nữa.

Sau khi xem xét thấu đáo, cân nhắc kỹ càng, Oasinhtơn cho rằng chỉ cần Mỹ phản đối, Liên Xô sẽ không sử dụng vũ khí hạt nhân và tình thế này buộc Mỹ phải nhanh chóng thông báo ý đồ của Liên Xô cho Trung Quốc biết. Nhưng đây là một công việc cực kỳ khó khăn. Bởi 20 năm qua, quan hệ Mỹ-Trung vẫn chìm trong căng thẳng, nếu trực tiếp thông báo, chưa chắc Trung Quốc đã tin, thậm chí còn cho rằng người Mỹ lại giở trò gì mới. Cuối cùng, người Mỹ cũng tìm được một biện pháp hữu hiệu vừa có thể gián tiếp thông báo cho Trung Quốc, vừa dễ ăn dễ nói với Liên Xô.
Ngày 28/8, tờ "Ngôi sao Oasinhtơn", một tờ báo thường thường bậc trung của Mỹ đưa tin: Liên Xô có ý định ra đòn tấn công hạt nhân theo kiểu “phẫu thuật ngoại khoa” đối với Trung Quốc. Bài báo viết: "Theo một nguồn tin đáng tin cậy, Liên Xô có ý định sử dụng tên lửa tầm trung mang đầu đạn hạt nhân có sức công phá tương đương vài triệu tấn thuốc nổ TNT tiến hành tấn công kiểu phẫu thuật ngoại khoa nhằm vào căn cứ phóng tên lửa Tửu Tuyền, Tây Xương, căn cứ thử nghiệm hạt nhân La Bố Bạc và những thành phố công nghiệp quan trọng của Trung Quốc như Bắc Kinh, Trường Xuân, Yên Sơn...

Sau khi nghe Chu Ân Lai báo cáo tin này, Mao Trạch Đông nói: "Chẳng phải là Liên Xô muốn có một cuộc đại chiến hạt nhân ư! Bom nguyên tử rất lợi hại, nhưng kẻ hèn này không sợ". Đồng thời, Mao Trạch Đông quả quyết đưa ra phương châm "đào hang sâu, tích lương thực nhiều, không xưng bá". Cả nước nhanh chóng bước vào trạng thái sẵn sàng chiến đấu, nhiều nhà máy xí nghiệp chuyển sang sản xuất trang thiết bị quân sự, nền kinh tế quốc dân bắt đầu chuyển sang phục vụ chiến tranh, hàng loạt công xưởng chuyển tới khu vực đồi núi hiểm trở, nhân dân các thành phố lớn như Bắc Kinh, Trường Xuân bắt tay đào công sự ngầm... Trung Quốc đã sẵn sàng đối phó với một cuộc chiến tranh hủy diệt.

Thứ Sáu, 10 tháng 5, 2013

>> Bí mật máy bay Hàn Quốc bị bắn hạ trên bầu trời Liên Xô

Trong thời kỳ chiến tranh lạnh giữa Liên Xô và Mỹ, đã có một vụ việc chiếc máy bay chở khách của Hàn Quốc bị bắn rơi tại Liên Xô năm 1983 làm xôn xao dư luận thế giới lúc bấy giờ.

>> Bí mật cuộc diễn tập quân sự lớn nhất của Liên Xô năm 1979


Chiếc KAL-007 xấu số

Chuyến bay mang số hiệu 007 của hãng hàng không quốc gia Hàn Quốc – Korean Airlines (còn được các hãng thông tấn gọi là KAL-007 hoặc KE-007) đã bị 1 chiếc tiêm kích đánh chặn Su-15 của Liên bang Xô Viết (USSR) thuộc không quân USSR bắn hạn khi tiến quá sâu và không phận đảo Moneron, phía tây Sakhalin vào tối ngày 1 tháng 9 năm 1983.

Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Chiếc Boeing 747 xấu số của Korean Airlines

Người lái chiếc Su-15 và bắn tên lửa hạ chiếc KAL-007 là Đại úy Gennadi Osipovich là một sĩ quan không quân dày dạn kinh nghiệm thuộc lực lượng phòng không phía Đông của không quân Xô Viết. Khi bị bắn hạ, trên KAL-007 có tất cả 246 hành khách và 23 thành viên phi hành đoàn trên máy bay, đáng nói là có cả nghị sĩ Lawrence McDonald, một trong những chính khách nổi bật thuộc Đảng Dân Chủ, thuộc Hạ viện Hoa kỳ. Chiếc máy bay Boeing-747 mang số hiệu KAL-007 bị bắn hạ khi bay từ New York, Hoa Kỳ đến Seoul, Hàn Quốc.

Chiếc KAL-007 xuất phát từ sân bay Quốc tế Kenedy, có dừng tại Anchorage (miền Nam bang Alaska để tiếp nhiên liệu và xử lý một vài trục trặc kĩ thuật của máy bay).

Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Chiếc Su-15 Flagon do đại úy Gennadi Osipovich đã hạ chiếc KAL-007

Khi cả thế giới biết đến vụ việc, USSR đã ngay lập tức phủ nhận vụ việc là tai nạn của hệ thống phòng thủ quân đội Xô Viết. Ngay khi chiếc Su-15 xác nhận bắn hạ mục tiêu, Bộ Chính Trị USSR đã lập tức họp khẩn cấp và thông báo vụ việc bắn hạ KAL-007 là lỗi từ phía Hoa Kỳ bởi đây là một trường hợp xâm nhập không phận USSR có chủ ý từ trước với động cơ tổ chức là một cuộc điều tra của Hiệp hội hàng không dân dụng Quốc tế (ICAO), nhằm tuồn lực lượng tình báo CIA vào USSR, bên cạnh đó là khả năng tấn công của Hoa Kỳ dưới lớp vỏ một cuộc điều tra của ICAO. Những báo cáo này đã được công bố chỉ 8 năm sau khi USSR sụp đổ.

Trong thời gian này, căng thẳng giữa USSR và phía NATO, Hoa Kỳ leo thang và đẩy lên đỉnh điểm đến khi vụ việc KAL-007 xảy ra, bên cạnh đó là tầng lớp đối lập và chống lại USSR ở một số quốc gia dân chủ và đặc biệt là Hoa Kỳ. Theo quan điểm từ phe đối lập Đảng Cộng Hòa thì vụ việc chưa bao giờ được giải quyết ổn thỏa giữa 2 bên, bên cạnh đó sau vụ việc liên tục có những chỉ trích từ Hoa Kỳ và NATO nhằm vào USSR.

Tuy nhiên, USSR vẫn giữ lập trường của riêng mình là không cho phép bất kỳ một cuộc điều tra nào từ các phái đoàn hay từ các tổ chức hòa bình trên toàn thế giới. Thế nên vẫn chưa có lời giải đáp nào cho việc KAL-007 đi lạc vào không phận USSR, gây nên rất nhiều tranh cãi cho đến nay và cuối cùng mọi việc đã được giải đáp khi Cơ quan hàng không Liên bang Nga (FKA) và Cơ quan hàng không Hoa Kỳ cùng ICAO thu nhặt các mảnh vỡ và cả hộp đen của chiếc máy bay xấu số. Nguyên nhân được kết luận là từ lỗi kỹ thuật của máy bay và lỗi kỹ thuật từ phi công.

KAL-007 là một chiếc máy bay dân dụng Boeing 747-230B “Jumbo Jet” với khả năng chở được 270 hành khách. Được mua bởi Hãng hàng không quốc gia Hàn Quốc từ Hãng Boeing vào ngày 28 tháng 1 năm 1972 với số hiệu xuất xưởng là CN20559/186, nó được đăng ký tại Cục hàng không quốc gia Hàn quốc với mã hiệu HL7442.

Mọi chuyện từ năm 1972 cho đến năm 1983 khá thuận lợi với chiếc Boeing 747 cỡ lớn này. Nó đã chở được 130 lượt hành khách trong suốt thời gian hoạt động cho đến ngày 1 tháng 9 năm 1983 khi chỉ còn là những mảnh vụn trên không lưu quần đảo Peninsula, Nga.

Ngày định mệnh

Một ngày trước khi bị bắn hạ tại Moneron, Sakhalin, vào lúc 0h theo giờ quốc tế (UTC) tại New York, chiếc KAL-007 rời cửa đón khách số 15 tại sân bay quốc tế Kenedy, thành phố New York, mang theo 246 hành khách, đã có 10 hành khách không lên máy bay vì những lý do như sức khỏe hay hủy lịch bay. Cơ trưởng của KAL-007 là Chun Byung In, cơ phó là Lee Da Hae. Trên chiếc Boeing 747 gồm có 105 người mang quốc tịch Hàn Quốc, 65 người mang quốc tịch Hoa Kỳ, 67 người còn lại mang các quốc tịch khác nhau như Nhật Bản, Đài Loan, Philipines, Hongkong….

Theo lịch trình, KAL-007 sẽ đáp xuống Seoul vào lúc 13h UTC vào ngày 31 tháng 8 năm 1983.

Tuy nhiên, nó đã phải hạ cánh xuống sân bay Anchorage để tiếp nhiên liệu và kiểm tra một số lỗi kỹ thuật từ bộ phận lái tự động. Sau 4 tiếng đồng hồ tại Anchorage, KAL-007 tiến vào đường băng số 2 và nhận được lệnh cho phép cất cánh từ trạm không lưu (ATC) Anchorage:

- Korean 007 sẵn sàng cất cánh

- Korean Airlines Flight 007, các bạn có thể cất cánh ngay, đường băng đã trống. Tôi nhắc lại các bạn có thể cất cánh ngay tại đường bay số 2.

- Đã nghe rõ!

Chiếc KAL-007 đã cất cánh ngay sau đó vào lúc 13:01 theo giờ quốc tế (UTC), nó nhận được thông báo từ đài kiểm soát không lưu Anchorage chuyển hướng 220 độ

- KAL-007. Đây là đài kiểm soát không lưu, lên độ cao 310m và quay sang bên trái hướng thẳng 220 độ.

- Nghe rõ 220 độ, lên 310m và giữ nguyên độ cao.

90 giây sau, đài không lưu đưa ra chỉ dẫn cho KAL-007: “Hướng về phía Bethel ngay khi các bạn có thể”. (Bethel là một thành phố thuộc bang Alaska). Khi bay qua Bethel, nó sẽ được trạm Bethel hướng dẫn bay qua khu vực phía Bắc khoảng 80km trên đường băng hướng thẳng đến Tokyo, đây là khu vực ranh giới giữ 2 bán cầu đông và tây nằm trên biển phía Bắc Thái Bình Dương giữa 2 khu vực Alaska của Hoa Kỳ và quần đảo Sakhalin của USSR.

KAL-007 được trạm không lưu Bethel chỉ dẫn theo hướng R-20 (Romeo-20) và điều chỉ ở chế độ bay tự động. Theo ghi nhận từ hộp đen thì tại thời điểm Cơ trưởng In bật chế độ lái tự động đã kích hoạt kèm theo 3 chế độ khác là HEADING (giữ độ cao và tiến thẳng), VOR/LOC (liên lạc chủ động bằng VHF đa hướng), ILS (hệ thống bánh đáp tự động) và INS (hệ thống dẫn đường quán tính). Ngay khi đó, chế độ HEADING được kích hoạt.

Thông thường, nếu HEADING được kích hoạt, nó sẽ bay theo chỉ dẫn của INS để có thể đổi hướng liên tục theo sự điều khiển của phi công. Và mọi tác động sẽ được hệ thống quản lý INS ghi nhận và chuyển cho bộ phận quản lý hành trình trên chiếc Boeing-747. Nếu như lỗi từ bộ phận INS thì chiếc máy bay sẽ bay thẳng với khoảng cách 13.9km tính từ khi xâm phạm không phận USSR.
Nhưng trên thực tế, nó đã bay vào khá sâu quần đảo Sakhalin và cụ thể là đang ở trên không phận của đảo Monero nên giả thuyết lỗi phát sinh từ hệ thống INS bị bác bỏ. Tuy nhiên, nếu chiếc máy bay bay vào không phận USSR 13.9km do lỗi từ hệ thống INS thì chố độ bay HEADING sẽ ngay lập tức chuyển thành INS để tự động chuyển hướng sang Tokyo nhờ các thiết lập hành trình từ sân bay quốc tế Kennedy. Tại chế độ bay HEADING, hệ thống sẽ tự động kích hoạt ILS để có thể hạ cánh tự động theo các chỉ dẫn từ hệ thống quản lý hành trình bay bởi các vector được thiết lập từ trước.

Khi xảy ra sự cố, hệ thống liên lạc VHF từ sân bay Anchorage đang trong giai đoạn bảo dưỡng nên tạm thời ngừng hoạt động. Thay vào đó, hệ thống NOTAM (hệ thống tự động thông báo cho phi hành đoàn) đã được kích hoạt. Nhưng đây cũng không phải là nguyên do của vụ tai nạn bởi cơ trưởng In có thể liên tục kiểm tra đường bay của KAL-007 và đưa nó trở về đúng đường bay ban đầu nhờ hệ thống kiểm soát hành trình trên Boeing-747.

Vào lúc 13:50 UTC khi KAL-007 cách bờ biển Kamchatka Peninsula 200km về phía Đông Bắc, cơ trưởng In đã liên lạc với đài kiểm soát không lưu Anchorage thông qua trạm Bethel:

- Anchorage, đây là Korean Air 007, bạn có nghe rõ không?

- Rõ, cứ bay thẳng đi KAL-007. Tôi nhắc lại, cứ bay thẳng.

Và cứ thế KAL-007 đã bay thẳng vào khu vực quần đảo Peninsula, lỗi có lẽ từ chế độ HEADING đã không được kiểm soát bởi INS. Trên thực tế đây hoàn toàn là lỗi từ các phi công khi không kiểm tra đường bay khi nó sắp vào vùng cấm bay của USSR. Cứ như vậy, chiếc KAL-007 đã tiến thẳng vào không phận của USSR và vào lúc 18:26 UTC, nó đã tiến đến đảo Monero của USSR...

Thứ Bảy, 4 tháng 5, 2013

>> Quân cảng Cam Ranh - Quân át chủ bài của Việt Nam

Sau chuyến thăm cảng Việt Nam của Bộ trưởng Quốc phòng Nga Sergei Shoigu, cảng Cam Ranh vốn đã không chỉ một lần trở thành phần thưởng trong cuộc tranh đấu giữa các đại cường một lần nữa lại nằm trong trường nhìn của chúng ta.

>> Quân cảng Cam Ranh, điều ít biết



Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com

Nhiều dấu hiệu chỉ ra rằng, ở hiệp đấu này của ván cờ lớn giữa Nga và Mỹ, người chiến thắng tạm thời là Nga, quốc gia đang nỗ lực đáng kể để xúc tiến lợi ích của mình trong khu vực.

Tuy nhiên, liệu nước Mỹ có từ bỏ mộng báo thù? Xuất phát từ những lợi ích quan trọng sống còn của mình, Việt Nam sẽ ứng xử thế nào? Cuối cùng, khi ầm ĩ lắng xuống, tất cả những điều này sẽ ảnh hưởng thế nào đến an ninh của Trung Quốc?


Mỹ sẽ thực hiện những hành động ráo riết nhất để giành lấy Cam Ranh

Trên khắp châu Á và cả thế giới này, thật khó tìm được một hải cảng như Cam Ranh: trong vẻn vẹn chưa đầy 100 năm, vịnh này đã kịp nằm trong tay cả người Mỹ, cả trong tay Liên Xô. Trong thập kỷ 1960-1970, trong thời gian chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam, đây là căn cứ hậu cần lớn nhất của Mỹ trong khu vực; khi người Mỹ rút quân, tại đây cũng đã thiết lập căn cứ hải quân lớn nhất của Liên Xô. Vậy đây là hải cảng như thế nào? Tại sao nó lại có tầm quan trọng như thế?

Chúng ta hãy nhìn lên vị trí địa lý của căn cứ này. Nó nằm ở bờ biển đông nam của Việt Nam, ở chót của doi đất nhô ra Biển Đông. Ngay đối diện, đằng sau nhiều kilômet không gian biển là vịnh Subic của Philippines. Từ Cam Ranh có thể với tay là tới cả eo biển Luzon lẫn eo biển Malacca, hải cảng này nằm trên tuyến đường biển Hongkong-Singapore.

Vịnh Cam Ranh được hai bán đảo bao bọc từ hai mặt, tạo ra một vũng tàu trong và một vũng tàu ngoài tiện lợi. Vũng trong được che chắn tốt cả với gió biển lẫn những con mắt người ngoài. Các hòn đảo nằm ở phần ngoài của vũng như đảo Bình Ba tạo ra vật che chắn tiện lợi, tạo điều kiện cho phòng thủ. Ngay từ thời còn quân Mỹ đồn trú, ở Cam Ranh đã xây dựng một sân bay và một hải cảng hiện đại. Quân đội Liên Xô có mặt ở đây sau đó còn hoàn thiện hơn nữa toàn bộ cơ sở hạ tầng địa phương, biến Cam Ranh trở thành hẳn một cảng lớn có khả năng tiếp nhận cùng lúc hơn 100 quân hạm có lượng giãn nước gần 10.000 tấn, cũng như các tàu sân bay.

Liên quan đến Nga, mong muốn trở lại Cam Ranh được giải thích bởi một số lý do. Một là, Moskva cần trở lại Ấn Độ Dương và châu Á-Thái Bình Dương càng nhanh càng tốt để lấy lại cho mình vinh quang quá khứ khi một lần nữa trở thành cường quốc biển đích thức ở nghĩa đầy đủ của từ này.

Vị trí chiến lược của Cam Ranh và hạ tầng hoàn chỉnh có thể là sự hỗ trợ lớn cho nước Nga khi cho phép Nga bảo vệ các lợi ích địa-chiến lược của mình ở toàn vùng Đông Nam Á. Nếu như Nga thực sự khôi phục được căn cứ hải quân của mình ở đây thì đây sẽ là bước tiến quan trọng nhất trên hướng này.

Hai là, việc triển khai một đồn binh Nga tại Cam Ranh sẽ cho phép Nga hạn chế ảnh hưởng của Mỹ ở Nam Á. Điều chẳng còn là bí mật với ai là đa số các nước ở Đông Nam Á nghiêng về Mỹ và thiết lập sự hợp tác chặt chẽ với Mỹ trong lĩnh vực quân sự. Tuy nhiên, bởi lẽ mũi nhọn của chính trị Mỹ vẫn hướng đến khu vực châu Á-Thái Bình Dương, sự hiện diện quân sự của Mỹ ở khu vực sẽ chỉ có tăng lên. Bởi vậy, Moskva cho rằng, chỉ với điều kiện Nga có chỗ đứng vững chắc ở vịnh Cam Ranh, họ sẽ có lực lượng và khả năng đối kháng với Mỹ ở khu vực này.

Ba là, Nga hy vọng bằng cách trở lại Cam Ranh tạo ra cú hích mới cho sự hợp tác giữa Moskva và Hà Nội trong lĩnh vực quân sự, điều đặc biệt quan trọng nếu lưu ý đến tiềm năng hợp tác to lớn trong lĩnh vực mua bán vũ khí. Quy mô mua bán vũ khí giữa Nga và Việt Nam sẽ chỉ có tăng; có thể, trong tương lai, Việt Nam thậm chí sẽ là khách hàng lớn thứ hai của công nghiệp quốc phòng Nga, sau Ấn Độ.

Nếu nói về chuyện tại sao Mỹ muốn quay lại Cam Ranh, thì ở đây, mọi thứ còn đơn giản và rõ ràng hơn nữa. Như vậy, Mỹ sẽ không chỉ gia tăng sự hiện diện quân sự của mình trong khu vực, mà còn có được khả năng kiềm chế sức mạnh quân sự của Trung Quốc. Một số chuyên gia trong lĩnh vực quân sự thậm chí tuyên bố rằng, toàn bộ thực chất của việc triển khai đồn binh Mỹ ở Cam Ranh chính là bảo vệ lợi ích của Mỹ ở Biển Đông và eo biển Đài Loan. Chúng ta hãy nhìn lên bản đồ. Các căn cứ quân sự Mỹ ở Yokosuka, Nhật Bản và Pusan, Hàn Quốc hay ở Singapore - tất cả chúng cung cấp cho Mỹ đường tiếp cận đến “các điểm nóng” ở Biển Đông, cho phép cầm giữ cả khu vực trong một nắm đấm. Tuy nhiên, Cam Ranh còn cho phép làm được nhiều hơn thế: nắm giữ căn cứ ở đây, bạn sẽ kiểm soát được tuyến đường biển then chốt nối Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương.

Nếu người Mỹ giành được Cam Ranh, thì chuỗi căn cứ hải quân của họ đang kiểm soát Thái Bình Dương sẽ còn trở nên hoàn thiện hơn nữa. Bởi vậy, hiện nay, khi mà Mỹ đang khua chiêng gõ mõ om xòm về sự trở lại châu Á của mình, họ không chỉ không thể quên Cam Ranh, mà trái lại họ sẽ thực hiện những hành động ráo riết nhất để giành nó vào tay.

Nếu nói về Việt Nam, thì đối với họ, Cam Ranh là khả năng tăng cường sự hiện diện quân sự ở Biển Đông, là đòn bẩy tác động mà nhờ đó Hà Nội có thể bảo vệ lợi ích biển của mình. Hy vọng thu được không ít lợi ích từ liên minh với Nga, Việt Nam đồng thời tích cực ve vãn các cường quốc khác để cố gắng thu được lợi ích tối đa từ việc ký kết liên minh, lẫn từ sự hợp tác trong lĩnh vực quân sự. Theo các thông tin hiện có, trong mấy năm gần đây, với sự trợ giúp của Nga, Việt Nam đã tăng cường đáng kể Hải quân và Không quân của mình; mũi dùi của chiến lược đó hiển nhiên là hướng ra Biển Đông. Trong chỉ vài năm qua, Hà Nội đã nhận được từ Moskva 2 tàu hộ vệ tên lửa lớp Gepard, cũng như mua sắm 1 tiểu đoàn tên lửa bờ biển Bastion trang bị tên lửa Oniks. Chỉ trong một năm 2012, Việt Nam đã mua của Nga tổng cộng 24 máy bay tiêm kích Su-30MKV/Su-30MK2, cũng như 12 tiêm kích Su-27SK/Su-27UBK, trở thành khách hàng mua máy bay Sukhoi lớn nhất trên toàn Đông Nam Á.

Ngoài Nga, Việt Nam còn cật lực ve vãn cả Mỹ. Có tin Washington hiện tại đang suy tính khả năng nới lỏng lệnh cấm bán vũ khí Mỹ cho Việt Nam. Các nhà phân tích khẳng định rằng, đây không chỉ là chuyện lợi ích từ việc bán vũ khí Mỹ: nên nhớ rằng, đối với nước Mỹ dưới sự lãnh đạo của Obama đã chọn đường lối “trở lại châu Á”, việc có được Cam Ranh có thể là bộ phận quan trọng nhất của chiến lược quốc gia Mỹ.

Đồng thời, tình thế đó mang lại lợi ích không chỉ có lợi cho Mỹ, mà ở ý nghĩa nào đó là lợi cả cho Việt Nam, bởi lẽ, bằng cách đó, Hà Nội có thể bảo đảm an ninh cho Cam Ranh trong bất kỳ cuộc xung đột nào ở Biển Đông.

Điều mà chúng ta có thể tin chắc là bất kể cụ thể là ai sẽ trở lại Cam Ranh, tất cả điều này sẽ chỉ làm phức tạp hơn nữa tình hình xung quanh cuộc tranh chấp ở Biển Đông bởi lẽ số lượng các yếu tố ảnh hưởng đến việc gia quyết định tăng lên chứ chưa nói đến cả cái giá lẫn sự phức tạp của các chiến dịch bảo vệ lợi ích của Trung Quốc ở Biển Đông cũng sẽ tăng lên. Việc đánh giá cả mức độ đe dọa cũng trở nên khó khăn hơn. Tất cả những điều này cần có sự chú ý sát sao nhất từ phía Trung Quốc.


(Nguồn: Wang Bin // Trung Quốc Thanh niên báo, ngày 12.4.2013, inosmi, 16.4.2013.)

Thứ Tư, 1 tháng 5, 2013

>> Su-24MR - "Kẻ" làm giật mình tàu sân bay lớn nhất của Mỹ

Máy bay trinh sát phản lực Su-24MR của Nga đã bất ngờ tiếp cận, phóng "giả" (tên lửa) dọa tàu sân bay USS Kitty Hawk của Hải quân Mỹ.

>> Tiêm kích Su-35 bị chuyên gia Trung Quốc "dìm hàng"


Ngày 15/11/2000, Quân đội Nga tiết lộ một thông tin gây sốc, tiêm kích đa năng Su-27 và máy bay trinh sát Su-24MR của họ đã qua mặt được hệ thống radar trinh sát trên tàu sân bay USS Kitty Hawk (Mỹ) để thực hiện một cuộc viếng thăm chiếc “siêu hạm” này trên vùng biển Nhật Bản.

Tàu sân bay thông thường lớn nhất thế giới

USS Kitty Hawk (CV-63) là một trong những “siêu hạm” và cũng là chiếc tàu sân bay phục vụ lâu nhất trong Quân đội Mỹ. Nó được hạ thủy năm 1961 và đã trải qua 3 lần đại tu vào năm 1977, 1982 và 1988. Ngoài ra, nó còn được bảo dưỡng trong một thời gian khá dài ở xưởng đóng tàu hải quân ở Philadenphia năm 1987. Kết quả của lần bảo dưỡng này đã kéo dài tuổi thọ của chiếc tàu này từ 30-50 năm.

Tàu Kitty Hawk có lượng giãn nước toàn tải 82.000 tấn, dài 319m. Tàu sử dụng động cơ tuốc bin khí cho phép đạt tốc độ tối đa 61km/h. Có thể nói, trước khi nghỉ hưu năm 2009, Kitty Hawk được xem là “ông vua” về kích thước trong thế giới tàu sân bay thông thường.


Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Tàu sân bay thông thường lớn nhất thế giới USS Kitty Hawk.

Trên tàu Kitty Hawk được trang bị 4 máy phóng thủy lực cùng 4 đường băng cho máy bay cất hạ cánh. Tổng chiều rộng mặt sàn sân bay trên tàu là 76,8 m.

Với thân hình đồ sộ, Kitty Hawk mang được tới 85 máy bay các loại (gồm 40 tiêm kích F/A-18E/F; 4 máy bay tấn công điện EA-6B; 4 máy bay cảnh báo sớm E-2C…) và biên chế thủy thủ đoàn gần 6.000 người.

Những kẻ đột nhập

Su-27 là một loại máy bay tiêm kích hạng nặng do hãng Sukhoi (Nga) sản xuất. Máy bay được tích hợp nhiều trang bị điện tử tối tân gồm radar tầm xa, tổ hợp ngắm quang – điện.

Máy bay có khả năng mang tới 8 tấn vũ khí trên 10 giá treo gồm các loại tên lửa không không tầm ngắn, tầm trung cùng bom và rocket. Ngoài ra, nó còn được trang bị 1 pháo 30 mm với 150 viên đạn dùng cho không chiến tầm cực gần.

Còn Su-24MR là biến thể máy bay làm nhiệm vụ trinh sát của cường kích cánh cụp cánh xòe Su-24.

Trong thân Su-24MR được trang bị một thiết bị trinh sát BKP-1 cùng với các thiết bị chụp ảnh tự động AP-402M nằm ở hai bên thân và bụng máy bay. Sau khoang lái được gắn hệ thống trinh sát hồng ngoại. Với thiết kế hiện đại, Su-24MR có thể trực tiếp xử lý các tin tức thu được sau đó chuyển về trạm tình báo mặt đất.

Su-24MR có một ưu điểm đặc biệt là khả năng duy trì vận tốc siêu âm ở độ cao thấp và năng lực tác chiến trong mọi điều kiện thời tiết. Bên cạnh đó, loại máy bay này cũng có thể mang theo tên lửa và tấn công các mục tiêu mặt đất từ độ cao 1.300m hoặc mang vũ khí hạt nhân chiến thuật.

Với những khả năng này, từ khi chính thức biên chế trong không quân, Su-24MR đã được khối NATO đánh giá là một chiếc máy bay trinh sát nguy hiểm.

Nhận thấy khả năng thâm nhập tầm thấp của Su-24MR, Quân đội Nga đã lên kế hoạch cho máy bay này “viếng thăm” tàu sân bay Mỹ với một chiếc Su-27 hộ tống.


Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Máy bay trinh sát phản lực Su-24MR của Không quân Nga.

Theo tài liệu Quân đội Nga: những điều chưa biết, ngày 9/11/2000, một chiếc Su-27 cùng trinh sát cơ Su-24MR được lệnh bí mật cất cánh từ căn cứ không quân của Trung đoàn Không quân Trinh sát độc lập số 11 với nhiệm vụ đặc biệt: “Bất ngờ viếng thăm tàu sân bay USS Kitty Hawk của Hạm đội 7 – Mỹ đang hoạt động trong vùng biển Nhật Bản”.

Để thực hiện chuyến viếng thăm, các máy bay Nga đã sử dụng các thiết bị gây nhiễu và ngụy trang để lặng lẽ tiếp cận tàu sân bay Kitty Hawk. Khi mục tiêu đã có thể nhìn rõ bằng mắt thường, các thiết bị theo dõi, cảnh giới trên tàu sân bay Mỹ vẫn không hề hay biết.

Thấy thời cơ thuận lợi, viên phi công lái Su-24MR cho máy bay lấy độ cao rồi bổ nhào xuống tàu sân bay rồi nhấn nút phóng tên lửa (giả định), sau đó kéo cần điều khiển và thoát ly khỏi vùng nguy hiểm.

Cuộc viếng thăm bất ngờ của 2 chiếc máy bay Nga đã khiến người Mỹ một phen hú vía. Vì họ có tất cả các phương tiện hiện đại để phát hiện đối phương từ xa nhưng đã trở thành mù lòa khi không hề phát hiện được 2 chiếc máy bay lạ đang di chuyển về phía mình.

Thứ Sáu, 9 tháng 11, 2012

>> Chiến tranh Falklands (Kỳ 2)

Vai trò của tư lệnh chiến dịch và những bài học

Kinh nghiệm quý báu của cuộc chiến này được các cường quốc hải quân, đặc biệt là Mỹ, vận dụng để hoàn thiện hạm đội của mình.

>> Bài học từ cuộc chiến Falklands(Kỳ 1)


Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Đô đốc John Woodward
Vai trò của người chỉ huy trong bất kỳ chiến dịch hay cuộc hành quân nào cũng đều có ý nghĩa quyết định hay gần như thế. Nhất là trong một chiến dịch phức tạp và đặc thù như thế này. Tuy nhiên, người ta cũng thấy sự xung đột giữa tiền phương chiến trường đại dương với Bộ Hải quân Anh.

Trường hợp với Đô đốc Woodward còn đặc biệt trầm trọng hơn về tâm lý bởi bối cảnh, hầu như đến cuối chiến dịch, vị trí của ông vẫn ở “trạng thái treo”, một thứ tư lệnh chiến dịch tạm quyền. Các chỉ huy cấp trên tinh quái đã để ông ở tình trạng “kiễng chân” và bất kỳ lúc nào cũng sẵn sàng thay thế ông bằng một đô đốc “hai sao” dày dạn hơn và “xứng đáng” hơn. Nhưng điều đó cũng không cản trở Bộ Hải quân Anh vắt kiệt năng lực của Woodward.

Còn nếu ông Woodward thành công, như thực tế đã diễn ra thì Bộ Hải quân Anh có cớ để khiêm tốn nói rằng, trường hợp Woodward một lần nữa khẳng định rằng, mỗi đô đốc của họ dù là trẻ nhất, khi bị bất ngờ rút từ bất kỳ vị trí nào cũng sẵn sàng cầm đầu lực lượng viễn chinh và giành thắng lợi trong cuộc chiến tranh ở bất cứ đâu, dù ở tận đầu bên kia của thế giới.

Thật may là Đô đốc Woodward đã vượt qua một cách xứng đáng cả thử thách tâm lý không đơn giản này khi cho thấy những nét và phẩm chất của một đô đốc chân chính.

Vậy gánh nặng trọng trách của vị tư lệnh là thế nào? Ngay ở giai đoạn chiến khai, bão tố đã gạt phăng người ra ngoài mạn tàu, các trực thăng thì rơi xuống biển, một máy bay chở khách chút xíu nữa thì bị bắn hạ vì bị nhầm là máy bay trinh sát Argentina hàng ngày quấy nhiễu. Vị đô đốc chắc chắn vẫn run sợ nhớ lại cho đến hôm nay.

Về ông Woodward thì nay người ta thường nói rằng, ông đã dẫn dắt cuộc chiến tranh máy tính đầu tiên trong lịch sử. Điều đó có thể hiểu theo những cách khác nhau. Tác giả bài viết đương thời từng “lang thang” trên tàu ngầm nguyên tử lớp Projekt 671RTM giữa vịnh Persique và vịnh Aden, giữa Seychelles và các vùng biển lân cận, nên dễ hiểu hơn đặc điểm của vũ khí trang bị có máy tính là như thế nào, độ tin cậy ra sao.

Phức tạp một cách vô lý và còn chưa đủ tin cậy, các hệ thống này thường tùy ý làm sững sờ các chuyên gia và các cấp chỉ huy. Ở đó lại thường xuyên thiếu làm mát, đi cùng với nó là độ ẩm 100%, muối biển lập tức sùi lên trên các tiếp điểm và giắc cắm. Trong khi đó, hỏa lực bắn loạt bằng vũ khí chủ yếu và hỏa lực phòng vệ phải tiếp nối đúng lúc và không thể tránh né, chứ không phải khi các chuyên gia sẵn sàng sau khi khởi động lại hệ thống 2 lần, 4 lần. Bởi vậy, tôi sẽ không bao giờ quên các chuyên gia máy tính và thủy âm của mình, họ là những chuyên gia do Chúa ban cho. Đằng sau họ không bao giờ có sự chậm trễ hay thậm chí trở ngại nào. Ở Falklands, những vấn đề đó bị trả giá bằng sự tồn vong của các con tàu và binh sĩ. Hoàn cảnh tàu khu trục HMS Coventry (D118) bị tiêu diệt cho thấy rõ điều đó.

Vậy vị tư lệnh có thể tác động tới vấn đề này tới mức nào? Trong mọi trường hợp, người chỉ huy không thể thờ ơ mà phải liên tục kiện toàn các thành phần của thế trận chiến đấu, các thủ đoạn và phương pháp giải quyết các nhiệm vụ phòng không và phòng thủ tên lửa. Cần bắt đầu từ việc lên quyết tâm chiến dịch của vị tư lệnh trong khi hoàn toàn thiếu thông tin, mà người ta gọi là “quyết định trên yên ngựa”. Việc hầu như không nội dung nào trong quyết tâm chiến dịch bị Bộ Hải quân Anh bác bỏ nói lên chất lượng quyết tâm của tư lệnh, cũng như sau đó là công tác soạn thảo kế hoạch chiến đấu.

Việc thực hiện kế hoạch này mà không cho phép sai thời hạn quá một ngày đêm cũng bộc lộ một nét khác trong tính cách của vị tư lệnh: sự cương quyết trong thực hiện kế hoạch chiến tranh. Đằng sau sự cương quyết đó này là sự thận trọng, chính xác rất cao trong hoàn thành toàn bộ các biện pháp cho phép kịp thời chuyển sang giai đoạn hành động tiếp theo.


Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Người hùng Woodward 30 năm sau chiến tranh Falklands

Nói lên nhiều điều về tính cách và phong cách chỉ huy của vị đô đốc là thái độ của vị tư lệnh đối với những người có trách nhiệm trực tiếp hay gián tiếp về những tổn thất nặng nề của hạm đội như hạm trưởng khu trục hạm Sheffield - một ví dụ về thái độ cẩu thả vô lối - và hạm trưởng khu trục hạm HMS Coventry - bằng việc cơ động tàu không thống nhất tại thời điểm máy bay Argentina tấn công đã che khuất hướng bắn bắn của hệ thống tên lửa phòng không Sea Wolf từ tàu HMS Brilliant (F90), tạo điều kiện cho máy bay Argentina đột phá và tấn công tiêu diệt tàu HMS Coventry.

Woodward đã cho họ có quyền mệt mỏi vì chiến đấu liên miên và những hậu quả của nó. Hơn nữa, các hành động của tàu Coventry, của vị hạm trưởng và thủy thủ đoàn tàu này trước đó là không thể chê trách và dũng cảm.

Điểm nổi bật ở Woodward là việc sẵn sàng chiến đấu bằng những lực lượng sẵn có trong tay ông và cương quyết bảo vệ quan điểm của mình với cấp trên.

Sự kiên định và ý chí sắt đã của người chỉ huy nhằm đạt mục tiêu đã thể hiện đặc biệt rõ trong việc tiến hành trinh sát chống thủy lôi các tuyến đường hành quân tới điểm đổ bộ bằng các tàu chiến. Ông hiểu rằng, các sự kiện chính của cuộc chiến sẽ khai diễn sau khi đổ bộ. Cũng không thể không nhắc đến sự kiềm chế, thận trọng của vị tư lệnh Anh khi ông không hăng máu ham đánh để giữ các tàu sân bay ở ngoài tầm với của các máy bay Super Étendard của Argentina.

Để kết thúc bản phân tích về vai trò và vị trí của người chỉ huy, cần một lần nữa nhắc đến gánh nặng lịch sử của sứ mệnh cực kỳ phức tạp và trọng trách của vị tư lệnh chiến dịch Falklands. Lần đầu tiên trong 37 năm hòa bình sau chiến tranh, chính Đô đốc Woodward đã phải bảo vệ uy tín của hạm đội Anh, người thủy binh Anh và vị đô đốc Anh.

Một kết luận quan trọng nữa là hệ thống đào tạo hạm trưởng của Hải quân Anh với việc thử thách toàn diện ở nhiều vị trí phục vụ đã hoàn toàn chứng minh được giá trị của mình.

Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Quân Anh trên quần đảo Falklands

Những bài học, kết luận và tiết lộ

Những tư liệu thực tế phong phú mà kinh nghiệm cuộc chiến này mang lại đã được các cường quốc hải quân vận dụng một cách khác nhau để hoàn thiện các chương trình xây dựng hạm đội, vũ khí hải quân, các thủ đoạn và phương thức sử dụng các lực lượng của hạm đội. Điều thật kỳ lạ là vận dụng chúng ở mức độ cao nhất là Hải quân Mỹ, ở mức độ ít hơn nhiều là Hải quân Liên Xô và Hải quân Anh.

Trận chiến Falkland đã xác nhận một giả thiết rằng, một cuộc xung đột cường độ cao, trong đó dù cho một bên tham chiến là cường quốc hạt nhân, thì chắc chắn vẫn diễn ra ở phương án phi hạt nhân. Điều đó đặt ra vấn đề mức độ đủ và trình độ vũ khí trang bị có tính chiến thuật. Việc ngành đóng tàu sau Thế chiến II giải quyết vấn đề trọng lượng lâu nay bằng cách sử dụng các hợp kim nhẹ cho phần thượng tầng và các kết cấu khác của tàu sao cho với lượng giãn nước hạn chế lại có thể dành được nhiều không gian hơn cho vũ khí đã khiến lính thủy Anh phải trả giá đắt.

Trong tất cả các trường hợp tàu Anh bị tiêu diệt trong chiến đấu đều xảy ra hỏa hoạn lớn. Kim loại nhẹ của phần thượng tầng bốc cháy và tan chảy làm cho việc cứu hỏa trở nên cực kỳ khó khăn. Các vật liệu ngăn cách bằng polymer cũng không chịu được lửa.

Tỏ ra mờ nhạt đến mức đáng kinh ngạc khi so với các lực lượng khác là các tàu ngầm nguyên tử Anh, nhất là khả năng tìm kiếm mục tiêu và tấn công của chúng. Các kết luận lập tức được rút ra: nay các tên lửa chống hạm đã được triển khai ngay cả trên các tàu ngầm diesel và phi hạt nhân và được phóng từ ống phóng lôi.

Cuộc xung đột đã chứng minh một cách hùng hồn rằng, mối nguy hiểm lớn nhất là các phương tiện tiến công đường không có khả năng hoạt động ở độ cao nhỏ và cực nhỏ. Toàn bộ kho tên lửa phòng không của hạm đội Anh (không dưới 4 loại) đã không thể bảo vệ chắc chắn chống các phương tiện tiến công đường không bay thấp. Không có hệ thống radar phát hiện tầm xa, hạm đội ngày nay chẳng thể làm gì trên biển.

Người Mỹ đã rút ra được kết luận nên đã chế tạo hệ thống Aegis và kiên trì cải tiến nó thành một vũ khí phòng thủ tên lửa. Nền tảng của bản thân khái niệm tác chiến của Hải quân Mỹ chính là các máy bay báo động sớm AWACS và Hawkeye liên tục bay trên đất liền và biển cả.

Những bài học của cuộc khủng hoảng đặt ra một cách thẳng thừng vấn đề về tính cấp thiết và ưu thế của các hệ thống vũ khí trước các mẫu vũ khí đơn nhất hoàn thiện nhất như một cách tiếp cận để giải quyết các nhiệm vụ chiến đấu. Khí tài bảo đảm bay đêm, radar hoàn thiện hơn và các tên lửa Mỹ Sidewinder đã bảo đảm ưu thế của máy bay Sea Harrier trên không trước các máy bay hiện đại nhất của Argentina mới mua từ Pháp, Thụy Điển và Israel.

Không lâu sau cuộc xung đột Falklands, các hệ thống trinh sát-tiến công hiệu quả cao đã xuất hiện hàng loạt ở Mỹ.

Người ta chỉ có thể nhận ra cuộc khủng hoảng về ngư lôi đã bắt đầu trong quá trình chiến sự ở Falklands. Do không tự tin vào độ tin cậy của các ngư lôi mới Tigerfish, Hải quân Anh đã phải dùng ngư lôi МК-8 thời Thế chiến II tấn công mục tiêu duy nhất bị đánh chìm bằng vũ khí tàu ngầm. Ở phía bên kia, chiếc tàu ngầm của Argentina trang bị ngư lôi МК-37 của Mỹ cũng liên tục thất bại với vũ khí ngư lôi.

Thực tế cho thấy hiệu quả chống ngầm của lực lượng đặc nhiệm Anh thấp một cách bất ngờ. Một tàu ngầm Argentina đã chạy lang thang khá lâu giữa các hạm tàu Anh và thậm chí còn định tấn công chúng mà không ai phát hiện được!

Kinh nghiệm đó có ý nghĩa gì đối với Hải quân Liên Xô hồi đó và Hải quân Nga hiện nay? Không được quên là Hải quân Liên Xô/Nga và hạm đội Anh có một điểm chung là cả hai đều giải quyết vấn đề cực kỳ trọng yếu là “không quân hóa” theo cùng một cách. Chỉ có Anh và Liên Xô là thành công trong việc chế tạo máy bay chiến đấu cất/hạ cánh thẳng đứng và đường băng ngắn. Ngay cả Mỹ với tiềm lực hàng không-vũ trụ vô hạn cũng đành chịu thất bại trong lĩnh vực này. Điều đó đã mang lại những lợi ích chưa từng có trong lĩnh vực vũ khí hải quân.

Việc lao vào cuộc chạy đua mệt mỏi, tốn kém và nói chung là vô vọng nhằm đóng và trang bị cho các tàu sân bay khổng lồ trở nên không còn cần thiết nữa. Vấn đề xây dựng một hạm đội cân đối trong một quãng thời gian đáng kể đã có được cơ hội hiện thực hóa gần như ở phương án động viên.

Một máy bay cất cánh đường băng ngắn và hạ cánh thẳng đứng vốn được cho là không phải là máy bay chiến đấu đúng nghĩa khi hoạt động trong một hệ thống đã dễ dàng giành ưu thế trước các máy bay chiến đấu “thật sự” của đối phương. Dĩ nhiên, Harrier của Anh đã tỏ ra thành công hơn nhiều Yak-38 của Liên Xô trước hết nhờ động cơ duy nhất mạnh mẽ. Nhưng Liên Xô cũng từng tiến gần đến việc có được không chỉ những máy bay loại này tốt nhất, mà còn là máy bay siêu âm có triển vọng to lớn.

Tính không nhất quán đáng sợ trong xây dựng hạm đội Nga xuất phát từ một cơ cấu sai lệch cuối cùng đã không cho phép Hải quân Nga có được lực lượng không quân trên hạm như một binh chủng thường trực và cuối cùng là đạt được sự cân đối hằng mong muốn. Cuộc sống cho thấy, thế giới đang trở lại với ý tưởng này.

Hạm đội Hoàng gia Anh sẽ cực kỳ hùng mạnh với việc đưa vào biên chế tàu sân bay mới Queen Elizabeth, các khu trục hạm Type 45 (Daring) và các tàu ngầm nguyên tử đa năng mới với trang bị vũ khí mới. Bởi lẽ, Hải quân Anh vẫn được trang bị một tư duy hải quân tiên tiến nhất, điều được khẳng định một cách thuyết phục bởi kết quả của cuộc xung đột Falklands.

Thứ Bảy, 13 tháng 10, 2012

>> Hồ sơ vũ khí hạt nhân Trung Quốc (Kỳ 1)

Trung Quốc là quốc gia sở hữu kho vũ khí hạt nhân lớn thứ ba trên thế giới. Vậy nước này đã dùng phương cách gì để đạt được thành tựu đó?

>> Lộ diện vũ khí hạt nhân chiến lược của Trung Quốc



Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Cha đẻ bom nguyên tử Trung Quốc Tiền Tam Cường.
“Không thể bằng lòng khi không có vũ khí hạt nhân”

Dù là người đi sau, nhưng với phương châm bằng mọi cách, dốc toàn bộ trí và lực để đạt được mục đích của mình, vậy chúng ta biết gì về “hành trình” đến với vũ khí nguyên tử của Trung Quốc?

Ngay từ những năm đầu thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, các nhà lãnh đạo quân sự và chính trị nước này đã ý thức rằng, Trung Quốc cần phải có một lực lượng vũ trang mạnh với vũ khí hiện đại, bao gồm vũ khí hạt nhân.

Mao Trạch Đông từng tuyên bố: “Trong thế giới ngày nay chúng tôi không thể bằng lòng khi không có nó (vũ khí hạt nhân)…, thế giới phương Tây tỏ thái độ coi thường Trung Quốc bởi vì chúng tôi không có bom nguyên tử, chỉ có lựu đạn”.

Để thực hiện tham vọng sở hữu vũ khí hạt nhân, đầu năm 1950, Trung Quốc thành lập Viện Hàn lâm Khoa học và Tiền Tam Cường trở thành Phó Giám đốc đầu tiên của Viện này. Ông này được coi là cha đẻ của bom nguyên tử Trung Quốc.

Vậy, Tiền Tam Cường là ai? mùa hè năm 1937, Tiền Tam Cường được Bắc Kinh đưa đi nghiên cứu sinh ở Viện radium, ĐH Paris. Sự nghiệp nghiên cứu khoa học của ông được nhà khoa học Frederic Joliot-Curie dẫn dắt.

Năm 1940, Tiền Tam Cường đã bảo vệ thành công luận án của mình và tiếp tục làm việc ở Pháp. Từ những thành tích xuất sắc của mình, năm 1947, nhà khoa học này đã được trao giải thưởng của Viện Hàn Lâm Khoa học Pháp. Năm sau ông trở về Trung Quốc.

Ngoài Tiền Tam Cường, dự án phát triển hạt nhân của Trung Quốc cũng có sự tham gia của hàng trăm nhân tài hoa kiều. Trong số họ phải kể đến hai nhà vật lý Ganpan Wang và Zhao Zhongyang từ ĐH Illionois, sau nhiều năm sinh sống ở nước ngoài đã có mặt tại Trung Quốc trong thời kỳ đầu của dự án phát triển hạt nhân. Chính họ đã mang rất nhiều bí mật hạt nhân và những kinh nghiệm đúc rút từ thực tế ở nước ngoài về cho quê hương.

Mùa xuân năm 1953, đoàn đại biểu của Viện hàn lâm Khoa học Trung Quốc có chuyến “công du” đến Liên Xô để mở rộng kiến thức về công nghệ hạt nhân.

Chuẩn bị đón đoàn khách Trung Quốc, Chủ tịch Viện hàn lâm Khoa học Liên Xô, Viện sĩ Alexamder Nesmeyanov đã khuyên các cơ quan có thẩm quyền phải cận trọng khi làm việc với phái đoàn Trung Quốc và Tiền Tam Cường, chỉ giới thiệu một số công trình khoa học có tính chất chung chung mà không giới thiệu vấn đề định hướng.

Tháng 10/1954, lần đầu tiên Mao Trạch Đông đề nghị Moscow giúp Bắc Kinh chế tạo vũ khí hạt nhân nhân dịp Nikita Khushchev viếng thăm Bắc Kinh. Khi đó, Khushchev đã không đưa ra bất kỳ lời hứa đảm bảo nào, hơn nữa Nikita Khushchev còn khuyên Mao Trạch Đông nên từ bỏ dự án hạt nhân vì Trung Quốc chưa có nền tảng khoa học kỹ thuật, công nghiệp và tiềm lực kinh tế cần thiết.

Cũng trong thời gian ấy, niềm tin của các nhà lãnh đạo quân sự và chính trị Trung Quốc về sự cần thiết sở hữu vũ khí hạt nhân ngày càng lên cao, nhất là trong bối cảnh nước này tham gia cuộc chiến ở Triều Tiên (1950-1953) và xung đột Trung - Mỹ leo thang ở eo biển Đài Loan (năm 1958).

Các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã nhận thức mối đe dọa từ phía Mỹ khi họ có thể sử dụng bom nguyên tử, chính vì thế, tại cuộc họp mở rộng của ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc ngày 15/1/1955, Mao Trạch Đông đã đưa ra chỉ thị: Trung Quốc phải phát triển bom nguyên tử với sự giúp đỡ của Liên Xô hoặc là không có sự tham gia của Liên Xô.

Khrushchev nhượng bộ

Nhằm tăng cường nguồn tài nguyên uranium thô (sẽ nhận được theo cam kết từ phía Trung Quốc trong trao đổi để giúp đỡ về việc thăm dò uranium) ngày 20/1/1955, Liên Xô nhất trí ký thỏa thuận với Trung Quốc về kế hoạch cùng nhau nghiên cứu địa chất ở Tân Cương và phát triển mỏ uranium.

Việc tìm kiếm mỏ uranium, ngoài sự tham gia của các chuyên gia Liên Xô và Trung Quốc còn có một số nhà khoa học đến từ Đông Âu. Địa điểm đầu tiên tìm thấy nguồn trữ lượng uranium là ở khu vực Tây - Bắc Trung Quốc (Tân Cương) và nơi đây cũng đã bắt đầu triển khai công tác khai thác mỏ từ năm 1957.


Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Chủ tịch Trung Quốc Mao Trạch Đông (trái) và Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô Khruschev.

Tiếp theo, ngày 7/4/1956, hai bên đã ký một thỏa thuận. Theo đó, Liên Xô sẽ cung cấp viện trợ để xây dựng các công trình dân sinh và quân sự, gồm tuyến đường sắt từ Aktoga đến Lanzhuo (Lan Châu) để chuyên chở các trang thiết bị của Trung tâm thử nghiệm vũ khí nguyên tử đầu tiên ở Lop Nor.
Mùa đông 1956, Đảng Cộng sản Trung Quốc quyết định “phát triển năng lượng hạt nhân”. Trong dự án này có hai lĩnh vực cơ bản, chế tạo tên lửa chiến lược và vũ khí nguyên tử. Từ năm 1956-1967, tất cả các tinh hoa của nền khoa họcTrung Quốc và hơn 600 nhà khoa học Liên Xô đã làm việc theo kế hoạch phát triển khoa học đầy tham vọng này.

Kế hoạch này gồm phát triển ứng dụng năng lượng nguyên tử vào mục đích hòa bình, nghiên cứu công nghệ phản lực, chế tạo công nghệ bán dẫn và phát triển máy tính …Để thực hiện những kế hoạch này, Bắc Kinh yêu cầu Liên Xô và các nước “hỗ trợ một cách toàn diện và nhanh chóng”.

Ngoài ra, thời gian đó, Liên Xô đã cam kết xây dựng hàng trăm nhà máy công nghiệp Quốc phòng ở Trung Quốc. Tuy nhiên, điều mà Bắc Kinh muốn Liên Xô giúp đỡ đầu tiên đó là việc phát triển trong lĩnh vực hạt nhân và quốc phòng. Tình hình bất ổn ở Ba Lan và Hungary xảy ra năm 1956 cũng khiến cho Khrushchev rất cần sự hỗ trợ từ phía Trung Quốc về mặt chính trị, do đó đã quyết định mở rộng hợp tác với Trung Quốc. Trước đó Khrushchev vừa trải qua cuộc “sàng lọc” nội bộ với Molotov và những người thân cận, chính vì thế Khrushchev muốn Mao có mặt trong Đại hội Đảng Cộng Sản tại Moscow năm 1957. Khrushchev muốn thành công trong quan hệ với Trung quốc để tăng cường vị thế của mình ở Liên Xô, và nhà lãnh đạo Trung Quốc đã rất khôn khéo sử dụng tình thế này. Mao tuyên bố sẽ đến Liên Xô chỉ sau khi ký kết thỏa thuận kỹ thuật - quân sự, bao gồm cả việc chuyển giao nguyên liệu và mô hình để Trung quốc sản xuất vũ khí nguyên tử. Vì thế, ngày 15/10/1957, Trung - Xô đã đặt bút ký thỏa thuận chuyển giao công nghệ sản xuất vũ khí hạt nhân cho Trung Quốc. Moscow chỉ từ chối chuyển giao các tài liệu liên quan đến xây dựng tầu ngầm hạt nhân.

Theo phương tiện truyền thông Trung Quốc, khi đó Liên Xô cũng đã cung cấp hai mẫu tên lửa tầm ngắn đất đối đất cho phía Trung Quốc. Đây là cách mà người Trung Quốc đạt được mục đích tiếp cận với công nghệ chế tạo vũ khí hạt nhân của Liên Xô. Cũng từ đó, bắt đầu từ năm 1958, Trung Quốc sẽ là nơi đến của các nhà khoa học hạt nhân Liên Xô. Trong giai đoạn 1950-1960, đã có khoảng 10.000 các chuyên gia ngành công nghiệp hạt nhân Liên Xô đến làm việc tại Trung Quốc, với sự giúp đỡ của các chuyên gia Liên Xô, đã lựa chọn, xây dựng bãi thử nghiệm hạt nhân Lop Nor.

Vào tháng 9/1958, các nhà khoa học Liên Xô đã giúp đỡ để khởi động lò phản ứng thí nghiệm hạt nhân nước nặng đầu tiên của Trung Quốc và xây dựng máy gia tốc thực nghiệm. Đồng thời Liên Xô đã tiếp nhận và đào tạo 11.000 chuyên gia và 1.000 nhà bác học cho Trung Quốc.

Thứ Hai, 4 tháng 6, 2012

>> Con tàu bí ẩn nhất Hải quân Liên Xô

Cuối những năm 1950 cùng với việc tạo ra các đầu đạn hạt nhân và các phương tiện mang thế hệ mới, Liên Xô đã đạt được thế cân bằng với Mỹ và Phương Tây.


Mỹ đã không còn nằm ngoài tầm với của tên lửa Liên Xô. Sự cân bằng hạt nhân giữa hai siêu cường đã được duy trì, nhưng sau 5 năm, đã thay đổi về số lượng và chất lượng.

Tên lửa đẩy đã được cải tiến thành tên lửa đạn đạo tầm xa và thử nghiệm thành công về tầm xa và độ chính xác của cuộc tấn công được thực hiện từ lãnh thổ Liên Xô. Thông thường, việc theo dõi hành trình bay của tên lửa đạn đạo được thực hiện bởi các trạm đo lường trên mặt đất.

Tuy nhiên, do những yêu cầu bức thiết đặt ra từ các vấn đề giám sát và quản lý không gian trong điều kiện mới, một trong những viện nghiên cứu lâu đời nhất của Bộ Quốc phòng – Trung tâm nghiên cứu khoa học số 4, bắt đầu công việc nghiên cứu xây dựng các trạm đo lường tương tự trên biển và đại dương. Kết quả hướng tới sẽ là phương tiện trang bị các thiết bị trắc thám lớn với hình hài bên ngoài là con tàu khổng lồ mang các chảo ăng ten lớn.

Đầu năm 1958, lãnh đạo Liên Xô quyết định thành lập bộ phận chỉ huy đo lường hải quân và đo lường phức tạp, để hiện thực hoá dự án nghiên cứu, được biết đến với tên gọi Đoàn thám hiểm thuỷ văn Thái Bình Dương Liên Xô.

Với danh nghĩa là thám hiểm thuỷ văn đại dương, đoàn đã hoạt động ở khắp các khu vực Thái Bình Dương, thậm chí tiến sát quần đảo Hawai của Mỹ. Hải quân Mỹ luôn theo sát hoạt động của đoàn tàu này, nhưng không thể biết chính xác các nhiệm vụ mà nó đang thực hiện.

Thậm chí ngay trong số thuỷ thủ đoàn cũng là những “thành phần phức tạp”. Họ đều là những chuyên gia giỏi trong các lĩnh vực, nhưng hầu như đều là các nhóm làm việc độc lập, không được hỏi hoặc trao đổi về công việc của nhau. Nhóm này không bao giờ biết chỉ huy có nhóm kia là ai và họ tuân lệnh cơ quan nào. Các tướng lĩnh quân đội Liên Xô cũng không được biết về những chuyến hành trình của Đoàn thám hiểm này.

Ban đầu, Đoàn thám hiểm đặc biệt bao gồm các tàu Sibir, Sakhalin, Suchan (sau này đổi tên thành Spassk) và Chukotka.

Nhiệm vụ chính của đoàn thám hiểm Thủy văn Thái Bình Dương:

- Đo đường bay của tên lửa đạn đạo chiến lược ở tất cả các khu vực;
- Xác định tọa độ của điểm rơi đầu đạn;
- Giám sát công việc của các cơ chế cấu trúc hạt nhân;
- Chặn bắt, giải mã và xử lý dữ liệu từ xa;
và kiểm soát quỹ đạo từ xa của các đối tượng không gian;
- Tập trung thông tin liên lạc với các phi hành gia.

Tăng cường lực lượng bằng Project 1914

Để phục vụ cho công tác, Tổng cục thông tin liên lạc không gian Liên Xô đã đặt đóng 3 tàu đo lường viễn thám thế hệ mới gồm: Marshall Nedelin, Marshal Krylov và Akademik Nikolay Pilyugin, với tên gọi chung Project 1941. Nhà máy đóng tàu Admiralty là đơn vị thực hiện dự án này.

Do tầm quan trọng của đối tượng được xây dựng và để giải quyết tốt hàng loạt nhiệm vụ đặt ra Ban lãnh đạo Liên Xô đã quyết định thành lập Hội đồng Điều phối liên ngành, trong đó bao gồm các thứ trưởng của các Bộ chủ chốt, đứng đầu Hội đồng Thứ trưởng Bộ công nghiệp đóng tàu L.N.Rezunov.

Ngày 19/11/1977 Marshall Nedelin chính thức được khởi đóng và 4 năm sau đó được hoàn thành và hạ thủy. Hai năm tiếp theo con tàu được hoàn thiện và thử nghiệm. Tốc độ thử nghiệm đạt được 22,8 hải lý/h.

Thử nghiệm kiểm tra đã được tiến hành trong hai giai đoạn: đầu tiên, chủ yếu ở vùng biển Baltic và giai đoạn thứ hai ở Thái Bình Dương.

Marshall Nedelin là chiếc tàu đầu tiên của Project 1941 và cũng là chiếc tàu đầu tiên do Liên Xô tự sản xuất hoàn toàn để thực hiện các nhiệm vụ liên quan đến thăm dò không gian. Đây cũng là lần đầu tiên một nhà máy phát điện với tổng công suất 22.000 kW được lắp đặt trên con tàu mặt nước.

Liên Xô cũng lập ra một Uỷ ban chính phủ về tiếp nhận tàu Marshal Nedelin do Phó Tham mưu trưởng Hải quân, Phó Đô đốc E.I.Volobuev đứng đầu. Ủy ban bao gồm đại diện từ các cơ quan khác nhau liên quan đến việc phát triển dự án.

Việc đóng và vận hành một con tàu của lớp này là một thời điểm bước ngoặt đối với Bộ tư lệnh Hải quân, khi mang đến cơ hội nâng cao trình độ công nghệ của các doanh nghiệp và khả năng kiến thức liên quan đến lĩnh vực công nghệ mới lạ này.

Con tàu cuối cùng của lớp này mang tên Viện sĩ Nikolay Pilyugin, được khởi đóng ngày 12/4/1988 thuộc dự án 19510.

Năm 1991 nó được hạ thủy, nhưng do hoàn cảnh chính trị-kinh tế phức tạp lúc đó việc hoàn thiện đã bị ngưng lại. Sau đó được bán cho một doanh nghiệp Italy để làm tàu du lịch.



http://nghiadx.blogspot.com
 Marshall Nedelin Project 1914 do phòng thiết kế Baltsudoproekt đảm trách, dưới sự chủ trì của kiến trúc sư trưởng D.G. Sokolov.


http://nghiadx.blogspot.com
Marshall Nedelin được thiết kế để phục vụ cho các mục đích thử nghiệm, theo dõi và khai thác các hệ thống không gian và tên lửa mới, tìm kiếm, cứu hộ phi hành đoàn và các đối tượng, tàu do thám không gian hạ cánh xuống mặt nước ở các khu vực đại dương trên thế giới; phát hiện tàu chiến, tàu ngầm và máy bay, nghiên cứu hải dương học và thủy văn, chuyển tiếp tất cả các loại thông tin.


http://nghiadx.blogspot.com


http://nghiadx.blogspot.com
Để giải quyết tất cả những vấn đề này, tàu được trang bị các dụng cụ đo lường hiện đại có hiệu suất cao, hệ thống thông tin liên lạc, radar phát thanh, radar trinh sát, dẫn đường và vũ khí khí tượng thuỷ văn. Ngoài ra, để có khả năng thực hiện các nhiệm vụ phức tạp trong tương lai, như sự phát triển của công nghệ mới, các công trình sư Liên Xô đã thiết kế dự phòng thêm các diện tích bổ sung trên tàu.


http://nghiadx.blogspot.com

Năm 1982, bắt đầu đóng con tàu thứ hai của lớp này - Marshal Krylov Project 19141, thực tế chỉ là một dự án giống nhau, việc thêm vào 1 con số chỉ mang tính hình thức.

http://nghiadx.blogspot.com
Con tàu mới đã được thử nghiệm thành công ở Biển Baltic và ngày cuối cùng của năm 1989 đã được giao cho phía đặt hàng.

http://nghiadx.blogspot.com

Cả hai tàu đã được gửi đến Thái Bình Dương và do chính quyền vùng Petropavlovsk-Kamchatsk quản lý về mặt hành chính. Trong ảnh: Phần đầu tàu Marshal Krylov.

http://nghiadx.blogspot.com
Phía sau là sân bay trực thăng và nhà chứa với hai chiếc trực thăng thường trực. Con tàu có các phương tiện tiện nghi đủ để đảm bảo cuộc sống và làm việc dài ngày trên biển cho gần 450 thành viên thuỷ thủ đoàn, gồm một phòng tắm hơi, hai hồ bơi, một phòng tập thể dục và một đơn vị y tế. Trong ảnh: Trực thăng cất cánh từ tàu Marshal Krylov.

http://nghiadx.blogspot.com
Con tàu cuối cùng của lớp này mang tên Viện sĩ Nikolay Pilyugin, được khởi đóng ngày 12/4/1988.

http://nghiadx.blogspot.com

http://nghiadx.blogspot.com
Đến ngày 23/8/1991 con tàu đã được hạ thuỷ. Tuy nhiên, do bối cảnh chính trị và kinh tế Liên Xô lúc đó việc hoàn thiện tàu Viện sĩ Nikolay Pilyugin đã bị ngừng lại.

http://nghiadx.blogspot.com

Sau đó con tàu này được bán cho đối tác Italy để chuyển thành tàu du lịch cao cấp. Trong ảnh: Radisson Seven Seas Cruises (Nassau); Builder: 1999, T. Mariotti, Genoa. She was built on the incomplete hull of the AKADEMIK NIKOLAY PILYUGIN, Russia.

Chủ Nhật, 13 tháng 5, 2012

>> Tìm hiểu máy bay do thám U-2

Thường thì khi một tên gián điệp biết hành tung bại lộ hắn sẽ tìm cách "cao chạy xa bay" và sẽ chẳng bao giờ quay lại nơi đó nếu không được phép. Nhưng máy bay do thám U-2, một loại gián điệp người ta có thể nhìn thấy nhưng không thể nào bắt được.




http://nghiadx.blogspot.com
Máy bay do thám U-2
Máy bay do thám

Sử dụng máy bay để trinh thám và chụp ảnh gián điệp bắt đầu được sử dụng rộng rãi từ thế chiến thứ hai. Có điều, lúc ấy chưa có máy bay gián điệp chuyên dùng nên tất cả phi công đều sợ đảm nhận nhiệm vụ này.

Sau chiến tranh thế giới thứ hai, thế giới bước sang một cuộc chiến mới, "Chiến tranh lạnh" thực chất nó là cuộc chạy đua vũ trang giữa hai cường quốc quân sự Liên Xô - Mỹ. Người ta tìm mọi cách, mọi hình thức để uy hiếp lẫn nhau, nghiên cứu và chế tạo các loại vũ khí hủy diệt hàng loạt.

>> Chiêm ngưỡng các máy bay do thám Trung Quốc của Mỹ

Khi nghe tin Liên Xô đã chế tạo thành công bom nguyên tử, nước Mỹ sống trong tâm trạng sợ hãi, người ta sợ "ưu thế” vũ khí hạt nhân của Liên Xô. Năm 1953, Liên Xô cho nổ "quả bom khinh khí" đầu tiên càng làm cho tâm lý sợ hãi nhanh chóng tăng lên.

Tổng thống Aixenhao cũng rất đau đầu về việc này. Năm 1954, trước mắt ông chợt loé ra một tia sáng - Bộ Không quân đã trình lên ông dự án chế tạo máy bay trinh sát tầng cao, nhưng đồng thời họ cũng cho rằng loại máy bay này “vĩnh viễn không thể chế tạo được".

Dưới sự bảo vệ của hệ thống an ninh nghiêm mật, một chiếc máy bay với những đường nét sắc sảo và gọn ghẽ, cuối cùng đã được chế tạo. Chiếc máy bay thần kỳ này, chính là chiếc U-2 nổi tiếng thế giới sau này.

“Thiên sứ" bắt đầu cuộc đời gián điệp vào ngày 4/7/1956, lần đầu tiên nó bay vào vùng trời Liên Xô. Sau đó, cứ thế liên tục làm chuyện đó vì Liên Xô khi đó chưa chế tạo được thứ vũ khí nào bắn rơi được máy bay gián điệp "tít trên chín tầng mây", đành "nhìn lên trời than thở" mặc cho "Thiên sứ tự do bay ngao du trên bầu trời của mình suốt 4 năm và thu thập được vô cùng nhiều những tin tức tình báo quý giá.

Ban đầu để tránh lỡ không may xảy ra sóng gió ngoại giao, Mỹ thuê một số phi công đã được thẩm tra và huấn luyện chu đáo để lái U2, thực hiện nhiệm vụ gián điệp. Nhưng về sau Quốc hội lại e ngại mức độ trung thực của những người này, sợ rằng họ tiết lộ những điều cơ mật của nước Mỹ, nên lại giao cho phi công Mỹ đảm nhiệm nhiệm vụ trinh sát.

Sự mất tích bí ẩn

Sáng sớm tinh mơ ngày 1 tháng 5 năm 1960, phi công gián điệp Mỹ Francis Gary Powers nhận mật lệnh do thám trên lãnh thổ Liên Xô. Để che giấu hành trình của chuyến bay, người ta tạo cho nó một lệnh bay rất bình thường như thường lệ, xuất phát từ sân bay Peshawa của Pakixtan bay sang một sân bay nào đó trên lãnh thổ Thổ Nhĩ Kỳ.

>> Iran, máy bay do thám và cuộc chiến tình báo

Nhưng thực ra Francis Gary Powers đã nắm được lịch bay thực sự và kế hoạch bay từ trước. Ngay cả bộ phận tự động bay của chiếc U-2 cũng đã được cài đặt lịch trình bay ngay trước khi Powers cất cánh vài phút. Bay trinh sát tầm cao nội địa Liên Xô.

Việc bay do thám gián điệp như thế này Powers đã thực hiện vài lần. Những lần trước Powers đã từng bay đến những khu vực chỉ cách Mátxcơva vài dặm Anh, nhưng lần này Powers sẽ phải vào sâu hơn nữa, tới vùng trời eo biển Baren để chụp ảnh. Cấp trên yêu cầu Powers phải thực hiện nhiệm vụ bay đến ba mục tiêu quan trọng.

Thứ nhất là Tairatham ở vùng sa mạc, ở đó có căn cứ tên lửa khổng lồ của Liên Xô, thứ hai là trạm phóng tên lửa Sphiêđrôpscơ, thứ ba là căn cứ không quân, hải quân Liên Xô Áckhanghem và Muốcmanscơ. Địa điểm chỉ định bay về là sân bay Pê tô, Na Uy.

Nhưng Powers đâu có ngờ đây là chuyến bay gián điệp cuối cùng của cuộc đời hắn.

Vừa kịp thông báo về trung tâm đang bị tên lửa đối phương tấn công thì một tiếng nổ dữ dội làm Powers tối tăm mặt mũi, chiếc U-2 cắm thẳng đầu xuống đất quay như chong chóng. Power chẳng còn nghĩ gì đến mệnh lệnh phải nhấn nút hủy máy bay trước khi nhảy dù, lúc này hắn chỉ còn nghĩ đến việc duy nhất là cứu lấy mạng sống của hắn.

Quyết công phá U-2

Thực ra, ngay từ tháng 7/1956, khi lần đầu tiên Mỹ cho U-2 bay vào lãnh thổ Liên Xô trinh sát, quân đội Liên Xô đã phát hiện ra vị khách không mời mà đến này. Nhưng do không có hoả lực đạt tới tầng cao như vậy, họ đành chỉ "nhìn trời than thở".

Sau đó, để hạ được một chiếc U-2, hạ gục uy thế của đối phương, quân đội Liên Xô đã bỏ ra không biết bao công sức.

Trước khi xảy ra vụ Power không lâu, Mỹ đã ba lần cho máy bay U-2 bay tới trạm phóng tên lửa Sphêđrốpscơ. Lần thứ nhất vì thời tiết xấu không thể nào chụp ảnh được, bay đến nửa đường đành quay về, lần thứ hai cũng vì "không nhìn thấy gì" mà toi công, lần thứ ba vào ngày 9/4, U-2 đã chụp được những tấm ảnh quan trọng về trung tâm tên lửa Tairatham, khi quay về bị quân đội Liên Xô phát hiện.

Cho nên ngày 1/5 khi Power hành động, quân đội Liên Xô đã sẵn sàng đón đánh, họ bố trí chu đáo mạng lưới hỏa lực, chỉ còn chờ U-2 dẫn xác đến.

>> Hồ sơ các vụ Mỹ do thám Trung Quốc

Vũ khí chính của lưới hoả lực quân đội Liên Xô là tên lửa đất đối không "SAM-2". Nhưng, tầm bắn xa nhất của "SAM-2" vẫn không đạt tới độ cao của máy bay U-2 Mỹ. Cho nên, dù đã đem nó trang bị cho bộ đội phòng không khi U-2 bay vào Liên Xô, thì cũng ích gì.

Trong thời gian dài ấy, người ta vẫn thắc mắc không hiểu nổi: Máy bay của Power bị rơi là do trục trặc kỹ thuật hay là người Liên Xô đã có được loại tên lửa có thể bắn hạ U-2? Điều bí ẩn này mãi tới năm 1960 mới được phơi bày sau khi một điệp viên cao cấp Liên Xô là Patolesky phản bội.

Lúc đó người Mỹ mới biết bộ phận hiển thị độ cao trên chiếc máy bay của Power đã bị điệp viên của Liên Xô gắn thiết bị đặc biệt gây ra sự sai lệch về chỉ số trên chiếc đồng hồ đo độ cao nên bản thân Power khi đó thì vẫn đinh ninh cho rằng anh ta bị bắn hạ khi đang bay ở độ cao trên 20.000m.

Thứ Bảy, 12 tháng 5, 2012

>> G.K.Zhukov : tư lệnh của các chiến dịch lớn

Nhân dịp kỷ niệm 67 năm chiến thắng CN Phát xít, Đất Việt xin giới thiệu bài viết về nguyên soái G.K.Zhukov, thiên tài quân sự có đóng góp quan trọng trong Thế chiến II.


Tuổi ấu thơ nghèo khó và chí tự học

Sinh ngày 1/2/1896 trong một gia đình nông dân nghèo ở làng Strenkovka, tỉnh Kluga. 12 tuổi làm thợ học việc ở một cửa hàng đồ da. 19 tuổi, năm 1915 nhập ngũ, phục vụ trong một đơn vị kỵ binh Sa hoàng, tham gia đại chiến I (1914-1918). Sau Cách mạng tháng Mười Nga 1917, gia nhập Hồng quân và trở thành một sĩ quan kỵ binh ưu tú. 27 tuổi giữ chức trung đoàn trưởng và năm 42 tuổi là Phó Tư lệnh Quân khu Belorusia.

Những dòng ngắn ngủi trên chỉ mong phác họa đôi chút về chân dung vị Nguyên soái lừng danh của Đại chiến II, Georgi Konstantinovich Zhukov. Thực ra trước thềm 1939, ông đã trải qua hơn 40 năm đầy gian khổ. Hồi ức "Nhớ lại và suy nghĩ" của ông phát hành năm 1969, 5 năm trước khi qua đời, cho ta biết rõ hơn quá trình hình thành một bản lĩnh, một nhân cách hiếm có.


http://nghiadx.blogspot.com
Chân dung Nguyên soái Zhukov.

“Bảy tuổi đã cùng người lớn đi cắt cỏ, cố quá sức nên làm tay phồng lên... xấu hổ không dám nói với ai cả, cố hết sức chịu đựng và đến mùa gặt lúa mì... hấp tấp đưa liềm vào ngón tay út bên trái... đã bao nhiêu năm qua, vết sẹo ở đấy vẫn còn nhắc tới...”.

Ông được đi học mấy năm ở trường làng, năm 12 tuổi lên Moscow làm ở cửa hàng đồ da, từ 7h sáng đến 7h tối, có một tiếng buổi trưa để nghỉ ăn cơm. Vất vả như vậy nhưng ông vẫn kiên trì học thêm buổi tối về tiếng Nga, toán, địa lý, đọc sách khoa học phổ thông....

Tháng 6/1915, nước Nga tổn thất nhiều trên các mặt trận, đến đợt tổng động viên, ông lên đường. Một sự kiện quan trọng diễn ra trong đời binh nghiệp: Ngày 27/2/1917, ông gia nhập hàng ngũ Cách mạng.

Tháng 8/1918, ông phục vụ trong đoàn kỵ binh 4, sư đoàn kỵ binh Moscow của Hồng quân. Mùa xuân năm 1923 ông nhận nhiệm vụ chỉ huy trong đoàn, đây là cương vị đã rèn luyện để ông có nhiều kinh nghiệm về huấn luyện, điều hành sau này.

Ông lần lượt đảm nhiệm các chức vụ sư đoàn trưởng, quân đoàn trưởng trong những năm sau và đến năm 1938 làm Phó Tư lệnh quân khu Belarusia.

Ngày 2/6/1939, ông bay sang Mông Cổ để cùng các đơn vị quân đội nước này đánh bại quân Nhật ở Khankhin Gôn, chiến dịch kéo dài đến 30/8/1939, ngay trước khi quân Đức đánh vào Ba Lan mở đầu Đại chiến II.

Đầu tháng 5/1940, ông nhận quân hàm Đại tướng, giữ chức Tư lệnh quân khu đặc biệt Kiev, khi được I.V.Stalin hỏi về kinh nghiệm ở Khankhin Gôn, ông nói: “... Cuộc chiến đấu ở Khankhin Gôn là một trường học kinh nghiệm chiến đấu lớn”.

Tư lệnh của các chiến dịch lớn

Đầu năm 1941, ông là Tổng tham mưu trưởng quân đội, ở cương vị này, ông thể hiện tầm nhìn chiến lược của một thiên tài quân sự.

Đêm 21, rạng 22/6/1941, Đức tấn công toàn tuyến biên giới Liên Xô, 13.000 giờ ngày 22/6 ông được cử tới Tây nam làm đại diện Tổng hành dinh, 40 phút sau ông ngồi trên máy bay và sực nhớ ra “chưa ăn gì từ hôm qua”. Từ đó là những ngày đêm liên tục chỉ huy các chiến dịch lớn và đều chiến thắng.

Sau này, khi được hỏi chiến dịch nào ghi nhớ nhất, ông trả lời không do dự: Chiến dịch Moscow (30/9/1941-20/4/1942) một chiến dịch Liên Xô ở vào thế rất bất lợi, đã kiên cường phòng ngự, mưu trí phản công.

Quân Đức lúc đầu có lợi thế rất lớn: chiếm toàn bộ các nước Cộng hòa của Liên Xô: Litva, Latvia, Extonia và phần lớn Belorusia, Ukraine.

Tháng 9/1941, Đức sử dụng cụm tập đoàn quân trung tâm gồm 3 tập đoàn quân dã chiến và 3 tập đoàn quân tăng với 1.800.000 quân, 1.700 xe tăng, 14.000 pháo và cối, 1.390 máy bay mở cuộc tấn công quy mô với mật danh “Giông tố”, theo hai hướng nam, Bắc hòng tiến vào thủ đô Moscow.

Giai đoạn phòng ngự (30/9/1941-5/12/1941), Quân đội Liên Xô đã đánh trả quyết liệt khiến quân Đức tổn thất nặng nề, nhưng chúng vẫn chọc thủng được tuyến phòng ngự để tiến về sông Moscow, còn ở phía Nam thì bị chặn lại.

Cuối tháng 11, đầu tháng 12 ý định đột phá vào thủ đô Moscow của Đức thất bại, Hồng quân đã nắm quyền chủ động, có thêm sự tăng quân, vũ khí. Nhiều trận đánh có phương diện quân liên tục diễn ra, đẩy quân Đức lùi về phía Tây 100-300 km. Toàn cục Đức thiệt hại 500.000 người, 1.300 xe tăng, 2.500 pháo, trên 15.000 xe và khí tài khác.

Người ta nhớ rằng, trong những lúc gian khó nhất của chiến dịch bảo vệ thủ đô này, ông luôn ở vị trí trung tâm điều hành các phương diện quân, bên cạnh I.V.Stalin. Ông đến tận đơn vị cơ sở, nắm chắc vấn đề, khi báo cáo có bản lĩnh, thẳng thắn, không ngại va chạm với Tổng tư lệnh.

Các dự báo chiến lược, chiến dịch của ông đều đúng. Ngày 1/11/1941, giữa trăm ngàn gia khó, khi về đại bản doanh, Stalin hỏi tình hình có thể bảo vệ cho Lễ duyệt binh 7/11/1941 được không, ông khẳng định: Được!

Lễ duyệt binh có một không hai đã diễn ra đúng ngày kỷ niệm Cách mạng tháng Mười và từ quảng trường Đỏ, nhiều đơn vị đã đi thẳng ra chiến trường sát Moscow.

Ông viết: “Nếu có ai hỏi tôi điều gì nhớ nhất trong cuộc chiến tranh vừa qua, tôi luôn luôn trả lời, đó là cuộc chiến đấu ở Moscow. Trong điều kiện khắc nghiệt, hết sức phức tạp và khó khăn, quân đội ta đã được tôi luyện, can trường và sau khi có được một số phương tiện vật chất tối thiểu, đã chuyển từ một lực lượng đang rút lui phòng ngự, thành một lực lượng tiến công rất mạnh”.

Ngày 26/8/1942, ông được cử làm Phó Tổng tư lệnh tối cao và đến chiến dịch Stalingrad chỉ đạo.

Ngày 18/1/1943, ông được phong Nguyên soái Liên Xô, là người đầu tiên được phong Nguyên soái trong chiến tranh.

Từ lúc tham gia phòng ngự ở Leningrad ngày 9/9/1941, qua nhiều chiến dịch lớn, ông lại có mặt ở trận nổi tiếng: vòng cung Kursk, rồi tiêu diệt địch giải phóng Ukraine, Belorusia.

Ngày 29/7/1944, ông nhận danh hiệu Anh hùng Liên Xô lần 2.

Tháng 10/1944, chỉ huy phương diện quân Belorusia 1, đơn vị nòng cốt tiến vào sào huyệt của Đức quốc xã ở Berlin.

Ngày 20/4/1945 trận công phá lịch sử Berlin bắt đầu. 15h ngày 30/4/1945, ông là người được ủy nhiệm của I.V.Stalin chủ trì Lễ duyệt binh mừng chiến thắng ở Moscow.

http://nghiadx.blogspot.com
Tượng đài Nguyên soái Zhukov ở Nga.

Bình tĩnh, sáng suốt lúc cuối đời

Năm 1957, trên cương vị Ủy viên Bộ chính trị Đảng Cộng sản Liên Xô, Bộ trưởng Quốc phòng, đang thăm nhiều nước, khi về nhà, bị cách chức, ông bình tĩnh nhận quyết định nghỉ hưu. Một thời gian dài, ông ngủ và khi tỉnh dậy, vào rừng, đi câu bên suối nhỏ.

Năm 1969, sau nhiều năm nghiền ngẫm, thai nghén, được sự giúp đỡ của cơ quan lưu trữ và nhiều đồng đội, ông hoàn thành tác phẩm “Nhớ lại và suy nghĩ”, được xuất bản rộng rãi trên thế giới, trong đó có Việt Nam.

Trong lời tựa cuốn sách, ông viết “Tôi đã miệt mài với cuốn “Nhớ lại và suy nghĩ” này không phải chỉ trong một năm. Từ những tài liệu của cuộc sống rộng lớn, từ rất nhiều các sự kiện và những cuộc tiếp xúc, tôi muốn lựa chọn ra cái gì là thực chất và quan trọng nhất có thể nói lên thật xứng đáng sự vĩ đại của những sự nghiệp và thành tựu của nhân dân ta”.

Ông mất năm 1974, hưởng thọ 79 tuổi.

Nguyên soái G.K.Zhukov (1896-1974) là danh tướng kiệt xuất, Phó Tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang Liên Xô trong đại chiến II (I.V.Xtalin là Tổng tư lệnh) 4 lần Anh hùng Liên Xô..., người trực tiếp chỉ huy nhiều mặt trận Leningrad (1941), Moscow (1941-1942), Stalingrad (1942-1943), Vòng cung Kursk (1943), Berlin (1945)..., qua bao thăng trầm vẫn sống mãi trong lòng nhân dân Nga và bạn bè trên thế giới.

Thứ Năm, 10 tháng 5, 2012

>> Quân đội Mỹ đã đụng độ đặc nhiệm Liên Xô trên chiến trường Việt Nam ?

Với nhiều người Mỹ, vai trò của các cố vấn Liên Xô trong chiến tranh Việt Nam mãi là điều bí ẩn. Bởi họ không tin khả năng của người Việt Nam lẫn sự giúp đỡ tận tình của Liên Xô đối với Việt Nam.



Sự cần thiết của viện trợ và cố vấn Liên Xô

Không lâu sau khi phát-xít Đức đầu hàng ở châu Âu, Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa, đã được công bố thành lập. Sự thành lập quốc gia công nông đầu tiên ở châu Á, dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, về cơ bản đã thay đổi tình hình địa chính trị trong khu vực. Trong khi đó, người Pháp không có ý định rời bỏ khu vực cựu thuộc địa. Không lâu sau một cuộc chiến tranh mới và đẫm máu đã nổ ra.

Quân đội Anh do Tướng Gracie chỉ huy đã tạo điều kiện thuận lợi cho thực dân Pháp quay lại thuộc địa cũ, thay vì hứa sẽ trợ giúp giải giáp quân Nhật. Các nước đồng minh công khai vi phạm các quy định của Hiến chương Đại Tây Dương, trong đó nói rằng, tất cả các nước đã chiến đấu chống lại chủ nghĩa phát-xít sẽ nhận được sự tự do mà họ mong đợi.

Tuy nhiên, vào thời gian này Việt Nam đã cho thấy một sự gia tăng đáng kinh ngạc của tinh thần yêu nước, và thực dân Pháp đã gặp phải sự kháng cự mãnh liệt. Sau thất bại tại Điện Biên Phủ chính phủ Pháp đã buộc phải đồng ý ký Hiệp định Geneva.



http://nghiadx.blogspot.com
Hội nghị Geneva 1954. Ảnh: Internet

Theo sáng kiến của Liên Xô, cuối tháng 4/1954 tại Geneva đã diễn ra lễ ký văn kiện công nhận độc lập của Việt Nam, Lào và Campuchia, và khôi phục hòa bình tại khu vực. Kết quả, Việt Nam tạm ngăn cách bởi ranh giới vĩ tuyến 17.

Nếu như Hồ Chí Minh là nhà lãnh đạo có uy tín thực sự, có sự ủng hộ của đại đa số nhân dân Việt Nam, và được các nước XHCN hỗ trợ, thì Ngô Đình Diệm đơn giản chỉ là con rối tầm thường của phương Tây. Không lâu sau đó Diệm cũng bị mất đi sự ủng hộ vốn rất ít ỏi trong dân chúng và phải đối phó với cuộc chiến tranh du kích quy mô lớn trên toàn lãnh thổ miền Nam.

Những diễn biến nêu trên cho thấy kế hoạch bầu cử dân chủ như đã định tại Hội nghị Geneva sẽ bất lợi đối với phương Tây, bởi chiến thắng của Hồ Chí Minh là không thể đảo ngược. Ngay sau đó Mỹ can thiệp vào tình hình, tuy nhiên một cuộc chinh phục thần tốc đất nước này như ý đồ của Wasington đã không diễn ra.

Lãnh thổ miền Nam của Việt Nam gần như hoàn toàn được bao phủ bởi rừng rậm, tạo điều kiện cho lực lượng du kích dễ dàng ẩn náu. Những hành động quân sự quen thuộc và hiệu quả ở châu Âu, đã không áp dụng được ở đây, trong khi chính quyền miền Bắc cung cấp hỗ trợ đáng kể cho du kích địa phương.

Sau sự cố “Vịnh Bắc Bộ” Không quân Mỹ ném bom miền phá hoại Bắc Việt Nam. Những “Bóng ma màu đen” (Phantom) dội từng đợt bom xuống Hà Nội, phá hủy các mục tiêu quân sự và gây tác động tâm lý lớn đối với dân chúng. Lúc này hệ thống phòng không ở miền Bắc gần như không có, và người Mỹ nhanh chóng cảm thấy đắc ý khi không bị trừng phạt vì những tội ác.

Trong bối cảnh như vậy sự giúp đỡ từ phía Liên Xô cần phải tiến hành ngay không chậm trễ.

Người Mỹ đinh ninh giao chiến với Quân đội Liên Xô

Ngoài vũ khí, Liên Xô còn gửi đến Việt Nam cả những chuyên gia giỏi trong các lĩnh vực quân sự cũng nhưng dân sự. Điều này làm người Mỹ lo ngại thực sự.

Để minh họa cho sự lo ngại đó, các nhà làm phim Mỹ đã thực hiện bộ phim "Rambo". Trong đó, các đạo diễn Mỹ đã "đưa ra ánh sáng" những trận chiến khốc liệt giữa các "anh hùng" của họ và "những tên côn đồ khét tiếng" của lực lượng đặc biệt Nga. (*)

Trên thực tế, các chuyên gia và cán bộ Liên Xô có mặt ở miền Bắc Việt Nam chủ yếu tham gia đào tạo sĩ quan Việt Nam và dạy cách sử dụng vũ khí trang thiết bị quân sự của Liên Xô.

Trái ngược với mong đợi của người Mỹ, mà theo dự báo của họ, công việc đào tạo của chuyên gia Liên Xô đạt được kết quả phải mất ít nhất một năm. Người Việt Nam chỉ mất 2-3 tháng đã có thể làm chủ trang thiết bị quân sự do Liên Xô viện trợ và sử dụng các vũ khí mới đó chống lại người Mỹ.

Điều này dẫn đến sự nghi ngờ lớn trong quân đội Mỹ, họ cho rằng chuyên gia Liên Xô tham trực tiếp vào cuộc chiến, và rằng những phi công đối phương đang đối đầu với họ trên bầu trời không phải là những người Việt Nam mà là những phi công Xô-viết.

http://nghiadx.blogspot.com
Nhóm chuyên gia Liên Xô sang Việt Nam năm 1966. Ảnh: Internet

http://nghiadx.blogspot.com
Chuyên gia Liên Xô và các học viên Việt Nam. Ảnh: Internet

http://nghiadx.blogspot.com
Các chuyên gia Liên Xô xem xét mảnh vỡ máy bay B-52 bị bắn rơi ngày 23/12/1972 trên bầu trời Hà Nội. Ảnh: Internet

Không thể phủ nhận rằng người Mỹ có lý do để không tin tưởng vào sự đảm bảo của Liên Xô rằng, các chuyên gia quân sự chỉ làm nhiệm vụ cố vấn. Thực tế là phần lớn dân số của miền Bắc Việt Nam vừa mới được xóa mù chữ. Những khó khăn kinh tế thời hậu chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất hạ thấp thể lực của đa số dân chúng. Ngay cả sức lực tối thiểu của sự chịu đựng và sức mạnh ở nam giới bình thường cũng yếu. Theo đánh giá, thanh niên chỉ có thể cầm cự được trong vòng 10 phút chiến đấu với kẻ thù. Về kỹ năng trong việc thử nghiệm trên máy móc hiện đại là hoàn toàn không có.

Tuy nhiên, cần nhớ rằng, có hơn 10.000 người Việt Nam được gửi sang Liên Xô đào tạo quân sự và kỹ thuật-công nghệ quân sự hiện đại. Theo các đánh giá khác nhau, viện trợ hữu nghị cho Việt Nam tiêu tốn của ngân sách Liên Xô từ 0,5-2 triệu USD/ngày.

Đứng trước nhiều khó khăn này, trong năm đầu tiên của cuộc đối đầu bằng không quân miền Bắc Việt Nam (1964-1965) đã tiêu diệt một phần lớn số máy bay quân sự của Mỹ. Máy bay MiG đã giành được khả năng cơ động cao hơn trước những “bóng ma” huyền thoại của Không quân Mỹ, họ đã tấn công chớp nhoáng gây thiệt hại vào đội hình bay của quân đội Mỹ và trốn tránh thành công sau vụ tấn công.

Hệ thống phòng không là thách thức thật sự với Không quân Mỹ vì chúng được đặt dưới vỏ bọc của rừng rậm nhiệt đới, do đó, phần lớn máy bay ném bom Mỹ đã bị bắn rơi. Ngoài ra, công tác tình báo đã hoạt động thành công, thông báo kịp thời và trước thời hạn về những phi vụ xuất kích của máy bay đối phương.

Người Mỹ đánh giá, toàn bộ hệ thống phòng không của miền Bắc Việt Nam khi đó không cho phép bất kỳ máy bay tiêm kích nào qua mặt, đã được Liên Xô xây dựng, thông qua các cố vấn Liên Xô.

Đúng là đối với những cố vấn Liên Xô, những tháng đầu tiên ở Việt Nam là vô cùng căng thẳng. Điều kiện khí hậu khác nhau, xuất hiện các căn bệnh lạ, côn trùng gây phiền nhiễu không phải là vấn đề chính trong thực hiện nhiệm vụ của họ. Việc đào tạo các đồng chí Việt Nam không hiểu tiếng Nga diễn ra bằng cách “cầm tay chỉ việc”, bời vì không phải lúc nào cũng có sự giúp đỡ của thông dịch viên, một lực lượng thiếu hụt nghiêm trọng vào thời điểm đó.

Tuy nhiên, các chuyên gia Liên Xô không trực tiếp tham gia chiến đấu, vì họ có số lượng rất ít, và có "giá trị lớn" và không được phép đem ra đánh đổi trong bất kỳ trận chiến nào. Theo hồi ký của các cựu Liên Xô, họ thậm chí không có vũ khí cá nhân của mình.

Bên cạnh đó, Bộ Chỉ huy Mỹ nghiêm cấm việc bắn tàu và phương tiện vận tải của Liên Xô, bởi hành động như vậy có thể kích động một cuộc Chiến tranh thế giới thứ ba. Số vũ khí phòng không kể trên đến được với Hà Nội cũng là một kỳ tích, bởi trên suốt quá trình vận chuyển đã phải trải qua các vụ đánh bom ác liệt của Không quân Mỹ và cả sự dòm ngó của Trung Quốc.

Xua tan những nghi ngờ

Có ý kiến cho rằng, Liên Xô đã viện trợ cho Hà Nội những vũ khí đã lỗi thời. Điều này hoàn toàn là bịa đặt. Theo ý kiến của ông Nikolay Koliesnik, cựu trưởng đoàn chuyên gia Liên Xô tại Việt Nam, Chủ tịch Hiệp hội các cựu chiến binh Nga trong chiến tranh Việt Nam, những máy bay tiêm kích hiện đại nhất MiG-21 và cả hệ thống tên lửa đất đối không Dvina - những vũ khí, mà theo xác nhận của chính người Mỹ, ở thời điểm đó là đáng sợ nhất hành tinh.

Ông Kolesnik cũng đặc biệt nhấn mạnh trình độ chuyên môn cao của các chuyên gia Liên Xô được gửi sang Việt Nam, đồng thời cũng đánh giá cao tính kiên trì của người Việt trong việc học tập làm chủ vũ khí cũng như nắm vững khoa học quản lý nhanh nhất có thể.

Trong chiến tranh chống Mỹ Liên Xô đã viện trợ cho Việt Nam nhiều xe tăng các loại từ T-34 đến T-54. 2.000 xe tăng, 700 máy bay cơ động, 7.000 súng cối, cùng hơn 100 trực thăng và đã được Liên Xô chuyển giao cho Hà Nội, như là một nguồn viện trợ không hoàn lại và hữu nghị với Việt Nam.

http://nghiadx.blogspot.com
Xe bọc thép BTP-60PB được Liên Xô viện trợ.

http://nghiadx.blogspot.com
Pháo tự hành Su-100 quân đội Việt Nam nhận viện trợ từ Liên Xô

http://nghiadx.blogspot.com
Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử quân đội Việt Nam lần đầu tiên đã được Liên Xô viện trợ tổ hợp phòng không tự hành Su-23-4-Shilka mới nhất và hiện đại nhất thế giới vào thời điểm đó.

Chính quyền Mỹ biết rõ có sự giúp đỡ quân sự của Liên Xô cho miền Bắc Việt Nam, nhưng tất cả các chuyên gia, gồm cả chuyên gia quân sự, đều bắt buộc phải mặc trang phục dân sự, tất cả giấy tờ tùy thân của họ đều bị giữ lại ở Đại sứ quán Liên Xô tại Hà Nội, và cả đích đến cuối cùng của “chuyến công tác” của mình, họ cũng chỉ được biết vào phút chót. Yêu cầu về tính bí mật được người ta giữ kín cho đến khi chuyên gia Liên Xô rút khỏi Việt Nam, số liệu chính xác và tên tuổi của những người tham gia đã không được tiết lộ cho đến thời gian gần đây.

Ngày nay, Liên bang Nga như là người thừa kế trực tiếp của Liên Xô, đang tích cực xây dựng và củng cố mối quan hệ với Việt Nam. Bối cảnh chính trị đã thay đổi khác nhiều so với trước kia, tuy nhiên người dân Việt Nam vẫn giữ tình cảm biết ơn các cố vấn Liên Xô, còn những nhân vật của cuộc chiến bí mật đó luôn tự hào về sự tham gia của họ.

(*) Tất cả sự sợ hãi trước những người lính đặc nhiệm Liên Xô được tập trung thể hiện trong bộ phim "Rambo", như một cách để thuyết phục các chính trị gia Mỹ về cái gọi là "sự dính líu của Liên Xô ở Việt Nam". Thế nhưng, nếu tính ra, số quân nhân Liên Xô đến Hà Nội chỉ bằng khoảng 6/1.000 so với quân số Mỹ (chưa kể thêm 4.000 nhân viên gắn mác dân sự ở Nam Việt Nam). Rõ ràng sự sợ hãi được đề cập trong bộ phim "Rambo" chỉ là sự phóng đại.

Chưa có sự xác nhận chính thức nào của các bên về việc có hay không sự hoạt động của các toán lính biệt kích đặc nhiệm Liên Xô chống lại Quân đội Mỹ ở Nam Việt Nam. Trong khi trên một số mạng của Nga cũng có đề cập đến một số hoạt động của lực lượng biệt Liên Xô ở đây, tuy nhiên lượng thông tin rất ít ỏi. Đó là chiến dịch đánh cắp 1 trực thăng Mỹ Cobra tại Khe Sanh năm 1962 và một số hoạt động ở khu vực Tây Ninh.

Nếu tin vào những câu chuyện huyễn hoặc về những người Bolshevik với súng máy, ẩn nấp trong rừng rậm và tấn công lực lượng dân sự Mỹ ở miền Nam Việt Nam, ngày càng được phổ biến ở Hoa Kỳ, thì có thể kết luận rằng chỉ có 10.000 hay 11.000 binh sĩ Liên Xô chiến thắng trước đội quân nửa triệu người của Mỹ?

Copyright 2012 Tin Tức Quân Sự - Blog tin tức Quân Sự Việt Nam
 
Lên đầu trang
Xuống cuối trang