Tin Quân Sự - Blog tin tức Quân sự Việt Nam: Phân tích quân sự

Paracel Islands & Spratly Islands Belong to Viet Nam !

Quần Đảo Hoàng Sa - Quần Đảo Trường Sa Thuộc Về Việt Nam !

Hiển thị các bài đăng có nhãn Phân tích quân sự. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Phân tích quân sự. Hiển thị tất cả bài đăng

Chủ Nhật, 8 tháng 9, 2013

Mỹ - Nga đã chán nhau như thế nào

Vài ngày trước khi Putin nhậm chức tổng thống, Tổng thống Mỹ Obama gửi sứ giả của mình đến Moscow. Quan hệ giữa ông và Medvedev đang ấm áp, nên Obama muốn duy trì hơi ấm ấy.

>> Quan hệ Nga - Mỹ căng như dây đàn ?



Gương mặt của hai tổng thống trong cuộc gặp tại Ireland hồi tháng 6. Ảnh: AP


Trong khu nhà nghỉ của tổng thống Nga ở ngoại ô, tiếp chuyện cố vấn an ninh Mỹ Tom Donilon, ông Putin thay vì nói chuyện hợp tác, đã lạnh lùng mở đầu bằng câu hỏi: "Khi nào các ông bắt đầu ném bom xuống Syria?".

Lúc đó, Obama chưa hề có kế hoạch can thiệp quân sự vào cuộc nội chiến dữ dội ở trái tim của Trung Đông. Nhưng Putin không tin điều đó. Dưới con mắt Putin, Mỹ chỉ muốn nhúng mũi vào những nơi chẳng can hệ gì đến họ, kích động các cuộc nổi dậy để rồi sau đó lập nên các chính quyền thân với Washington.

Cuộc gặp 16 tháng trước báo hiệu một chương mới đầy căng thẳng trong mối quan hệ Nga - Mỹ. Sự căng thẳng đó được bày ra trước công chúng trong tuần này, khi ông Obama tới St. Petersburg dự thượng đỉnh G20 do Putin làm chủ nhà, nhà báo Peter Barker của The New York Times viết khi nhìn lại một chặng đường khá dài, qua đó mối quan hệ giữa hai siêu cường ngày càng trở nên băng giá.

Mặc dù Obama không có ý định ném bom Syria hồi năm ngoái, ngày 31/8 vừa qua, ông lại tuyên bố ủng hộ hành động quân sự chống lại chính phủ Syria. Cuộc tấn công không phải để hạ bệ chính phủ của Bashar al-Assad, một đồng minh của Nga, mà là trừng phạt việc sử dụng vũ khí hóa học làm chết hàng nghìn dân thường. Putin nhận định đây là một cái cớ "hoàn toàn vô lý" để bào chữa cho sự can thiệp của Mỹ vào Syria.

Nước Nga đã quyết định cho Edwad Snowden - người mà chính phủ Mỹ coi là kẻ tội đồ, là kẻ phản bội - được cư trú ở Nga, và dẫn đến việc Obama hủy cuộc gặp riêng đã lên kế hoạch với Putin. Nhưng nguyên nhân chính dẫn đến sự băng giá không nằm ở đó, mà là ở sự khác biệt hoàn toàn về quan điểm trong vấn đề Syria.

Hăng hái tái khởi động

Câu chuyện về việc "tái khởi động" mối quan hệ với Nga mà chính quyền Obama thực thi chính là minh chứng cho thấy sự hăng hái trong nhiệm kỳ đầu của Obama chuyển thành vỡ mộng trong nhiệm kỳ hai.

Những người chỉ trích nói rằng Obama đã ngây thơ khi nghĩ rằng mình có thể tạo nên một sự nghiệp chung với Moscow. Các phụ tá của ông nói rằng thôi thì cứ thử còn hơn không làm gì, và quả thực họ đã đạt được những kết quả nhất định trong việc kiểm soát vũ khí, thương mại và quân sự.



Vẻ tươi cười của Obama và Medvedev khi gặp nhau. Ảnh: RIA Novosti.


"Đấy là chu kỳ, ban đầu thì nhiệt tình và hy vọng, nhưng sau đó những thứ này phải nhường chỗ cho hiện thực", Robert M. Gates, bộ trưởng Quốc phòng trong nhiệm kỳ đầu của Obama, bình luận.

Tháng 4/2009, Obama đã trông đợi nhiều hơn khi tới London dự cuộc họp của G-20 và có cuộc gặp đầu tiên với Medvedev, tổng thống Nga lúc bấy giờ. Cả hai đều là lãnh đạo thế hệ mới, được đào tạo về luật, không chịu gánh nặng của quá khứ, họ tự thấy mình là những người thực dụng hơn là lý tưởng. Dù ông Putin, khi đó là thủ tướng, vẫn là một nhân vật vô cùng nặng ký, Obama vẫn quyết tâm xây dựng quan hệ với Medvedev với hy vọng cuối cùng ông này sẽ xây dựng quyền lực mạnh mẽ.

Lý thuyết được các phụ tá như Donilon hay Michael McFaul, khi đó là cố vấn của tổng thống Mỹ về Nga, ủng hộ, là: vẫn có những cơ hội hợp tác giữa hai nước trong những lĩnh vực có lợi ích chung, sau sự rạn nứt vì cuộc chiến giữa Nga và Gruzia hồi năm 2008. Điều này không có nghĩa là sẽ không còn những bất đồng, nhưng hai nước đã cố tách bạch để không làm quan hệ toàn cục bị ảnh hưởng. "Đó là một cơ hội để khiến mọi thứ trở nên tốt đẹp hơn", một quan chức cấp cao của Mỹ nói.

Tuy nhiên, không phải mọi người đều quá lạc quan như vậy. Hillary Rodham Clinton, ngoại trưởng Mỹ trong nhiệm kỳ đầu của Obama, ủng hộ việc hàn gắn quan hệ, và đích thân bà đã trao cái nút bấm xấu số có chữ "tái khởi động" cho đối tác Nga. Nhưng về cá nhân, bà lại có những quan điểm riêng về ông Putin. Bộ trưởng Quốc phòng Gates cũng tương tự, ông nói rằng "nên cố gắng" nhưng không nên quá lạc quan về triển vọng.

Đã quyết tâm phải xúc tiến mối quan hệ với Nga, nên khi ở London, Obama đã nêu đề xuất hai nước thương lượng về hiệp định kiểm soát vũ khí mới. Khi Obama đến Moscow hồi tháng 7 năm 2009, hai bên đã cùng thảo ra hiệp định khung về cắt giảm kho vũ khí và đạn dược hạt nhân của hai bên tới mức thấp nhất trong nhiều thập kỷ.

Hai bên cũng ký một hiệp định cho phép Mỹ chuyển quân và vũ khí tới Afghanistan qua lãnh thổ Nga, một phần của Mạng lưới Phân phối phía Bắc được mở rộng, thay thế cho các tuyến đường vận chuyển hậu cần qua Pakistan đang ngày càng bất ổn. Ông Gates nói rằng với một người là cựu chiến binh như ông, việc gửi quân đội Mỹ qua Nga là điều "không bao giờ có trong trí tưởng tượng hoang đường nhất".

Tận dụng lợi thế của mối quan hệ đã có tiến triển với Medvedev, Obama thuyết phục người Nga nên thông qua lệnh trừng phạt cứng rắn của Liên Hợp Quốc đối với Iran và hai bên cần làm mới lại thỏa thuận hợp tác về hạt nhân dân sự đã bị đình hoãn trong chiến tranh ở Gruzia. Cuối cùng, Obama đã thành công ở điểm mà những người tiền nhiệm thất bại, đó là giúp Nga gia nhập WTO sau gần 20 năm đàm phán.



Bộ trưởng Ngoại giao Nga, ông Lavrov và Mỹ, bà Clinton năm 2009. Ảnh: AFP

Thành công đáng chú ý nhất là thỏa thuận mà hai bên gọi là Hiệp ước Cắt giảm Vũ khí Chiến lược mới (New START), có nội dung cắt giảm số đầu đạn chiến lược được triển khai xuống còn một phần ba và số dàn phóng tên lửa xuống còn một nửa. Nhưng thực hiện nó vất vả hơn mức Obama và các trợ lý trông đợi. "Chúng tôi nghĩ rằng START sẽ dễ dàng, chúng tôi thực sự nghĩ vậy, nhưng nó lại thành ra rất, rất khó khăn", một cựu quan chức nói.

Căng thẳng dâng cao vào tháng 3/2011, khi Obama quyết định tham gia chiến dịch liên quân không kích Libya. Đây là động thái làm Putin nổi giận, đặc biệt khi cái ban đầu gọi là chiến dịch nhân đạo chuyển thành sự thay đổi chế độ.

"Người Nga cảm thấy họ bị chơi một vố ở Libya. Họ cảm thấy như bị lừa. Lúc đó tôi nói 'thôi xong rồi', không bao giờ có sự hợp tác của họ trong tương lai nữa", cựu bộ trưởng quốc phòng Gates nói.

Mỹ nhìn tàu chiến Nga "bằng nửa con mắt"?

Chuyên gia Nga liệu có quá tự ti khi cho rằng "Hải quân Mỹ chỉ cần khoảng 20 phút để tiêu diệt tàu chiến của Nga đang hiện diện tại khu vực Địa Trung Hải"?

>> Khu trục hạm Sovremenny, "gừng già" của Hải quân Nga

Trước đó, bên lề phiên điều trần của Ủy ban đối ngoại Thượng viện Mỹ về vấn đề Syria, Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân Mỹ - Tướng Martin Dempsey tỏ ra khá kiêu ngạo khi tuyên bố: "Nga là siêu cường nếu xét dưới góc độ vũ khí hạt nhân. Còn về lĩnh vực vũ khí thông thường, tôi không xếp họ vào danh sách những nước lớn".

Trong khi đó, ngay chính bản thân Phó viện trưởng Học viện nghiên cứu các vấn đề địa chính trị của Nga, ông Konstantin Sivkov cũng đánh giá thấp tiềm lực của Hải quân Nga hiện nay: "Hải quân Mỹ chỉ cần khoảng 20 phút để tiêu diệt tàu chiến của Nga đang hiện diện tại khu vực Địa Trung Hải!".

Vậy những yếu tố nào khiến năng lực của Hải quân Nga bị đánh giá thấp như vậy?


Tàu chiến Mỹ - Nga - www.tinquansu.net
Sự chênh lệch về chất lượng giữa các tàu khu trục của Mỹ và Nga là điều không thể phủ nhận. Các tàu khu trục lớp Arleigh Burke ở một đẳng cấp hoàn toàn khác so với tàu chiến Nga.

Sự lão hóa

Có một thực tế là phần lớn các trụ cột cho sức mạnh tác chiến của Hải quân Nga hiện nay đều là những tàu chiến được đóng theo công nghệ đóng tàu những thập niên 70-80. Sự lạc hậu về công nghệ có thể được bù đắp bằng việc cập nhật những hệ thống mới nhưng sự già cỗi về tuổi tác thì không gì có thể bù đắp được.

Các tàu chiến của Hải quân Nga đang đóng quân ở Địa Trung Hải đều là những lão làng của hải quân thế giới. Tàu khu trục Smetlivy được đưa vào sử dụng từ năm 1969, tàu khu trục chống ngầm Admiral Panteleyev (lớp Udaloy) đưa vào hoạt động từ năm 1990, tàu khu trục Nastoychivyy(lớp Sovremenny) đưa vào hoạt động từ năm 1992, tàu đổ bộ Alexander Shabalin hoạt động từ năm 1986, tàu đổ bộ Đô đốc Nevelsky hoạt động từ năm 1975.



Khu trục chống ngầm lớp Udaloy - www.tinquansu.net
Những tàu chiến của Nga được thiết kế thiên về một nhiệm vụ nhất định, khiến nó trở nên yếu thế khi tác chiến độc lập. Trong ảnh là tàu khu trục chống ngầm lớp Udaloy.

Tuần dương hạm mang tên lửa điều khiển Moskva được đưa vào sử dụng từ năm 1976. Như vậy có thể thấy ngay rằng gánh nặng tuổi tác đang đè nặng các chiến hạm Nga tại Địa Trung Hải. Trong khi đó, với lực lượng tàu khu trục của Mỹ đang áp sát Syria, chiếc “già nhất” là USS Barry (DDG-52) được đưa vào sử dụng từ năm 1992.

Từ khi Liên Xô sụp đổ đến nay, Nga chưa có một lớp tàu khu trục nào thực sự đẳng cấp, những tàu chiến được đóng mới gần đây đều là những tàu khu trục nhỏ có lượng giãn nước dưới 4.000 tấn, chỉ phù hợp cho các nhiệm vụ phòng thủ ven biển. Xét về khía cạnh hiện đại hóa hải quân, Nga thậm chí còn thua cả Trung Quốc.

Sự chênh lệch về công nghệ

Những tàu chiến của Hải quân Nga đều được đóng theo công nghệ thập niên 70-80, so với những tàu khu trục được đóng theo công nghệ thập niên 90 của Mỹ thì sự tụt hậu về công nghệ là điều không thể tránh khỏi. Mặc khác, hệ thống điện tử luôn là điểm yếu cố hữu của Nga, luôn có một khoảng cách nhất định về độ tinh vi giữa các hệ thống điện tử của Nga và Mỹ.

Các tàu khu trục lớp Arleigh Burke và tuần dương hạm Ticonderoga là những tàu chiến đầu tiên trên thế giới được trang bị loại radar mạng pha 3D AN/PSY-1 với các mảng ăng-ten được bố trí bao quát 360 độ xung quanh tàu.

Đây là một thiết kế đỉnh cao của công nghệ radar trên tàu chiến và trên thế giới không có loại có tính năng tương tự, Trung Quốc cũng đang cố gắng để tạo ra một hệ thống radar tương tự nhưng xem chừng còn rất lâu mới có thể đạt được một phần các tính năng của radar này.

Hệ thống chiến đấu Aegis - www.tinquansu.net
Hệ thống chiến đấu Aegis mang lại cho các tàu khu trục của Mỹ lợi thế tuyệt đối mà các tàu chiến Nga nằm mơ cũng không có được.

 Hệ thống chiến đấu Aegis mang lại cho các tàu khu trục của Mỹ lợi thế tuyệt đối mà các tàu chiến Nga không có được.
Điểm mạnh của radar này là sự tinh vi, nó có thể phát hiện mục tiêu cỡ quả bóng goft từ khoảng cách tới 165km, phát hiện mục tiêu tên lửa đạn đạo ở cự ly tối đa 310km.

Tàu khu trục Nastoychivy, tuần dương hạm Moskva, tàu khu trục chống ngầm Đô đốc Panteleyev cũng được trang bị radar 3D với phạm vi tìm kiếm mục tiêu tới 500km nhưng ăng-ten của các radar này phải quay xung quanh tàu để phát hiện mục tiêu. Như vậy, sẽ có một khoảng trống nhất định khi radar quét đủ một vòng xung quanh tàu, trong khi đó tàu chiến của Mỹ không bị hạn chế về điểm này.

Các tàu khu trục lớp Arleigh Burke và tuần dương hạm Ticonderoga là những tàu chiến duy nhất trên thế giới hiện nay được trang bị hệ thống chiến đấu Aegis tối tân. Aegis là viết tắt của cụm từ Airbonne Early-waring Ground Intergration Segment (Bộ phận hợp nhất thông tin cảnh báo sớm đường không trên mặt đất).

Đây là hệ thống chiến đấu công nghệ cao tích hợp được thiết kế để đối với tất cả các loại mục tiêu trên biển, trên không, dưới nước, mang lại khả năng tấn công và phòng thủ toàn diện. Nói chung, Aegis là một khái niệm công nghệ phát hiện, theo dõi, tấn công mục tiêu cực kỳ phức tạp. Đến nay, Aegis vẫn là hệ thống chiến đấu có “1-0-2” trên thế giới.

Chỉ riêng ở khía cạnh này thì không một tàu chiến nào của Nga có thể so sánh được. Aegis sẽ là hệ thống chiến đấu số 1 thế giới, ít nhất là trong nhiều thập kỷ nữa.

Sự đồng bộ hóa trong tác chiến không cao

Có một hạn chế của Hải quân Nga là họ phát triển quá nhiều lớp tàu chiến với nhiệm vụ, vũ khí, hệ thống điện tử tương đối khác nhau. Ví dụ, các tàu khu trục chống ngầm lớp Udaloy quá thiên về nhiệm vụ chống ngầm, tàu khu trục lớp Sovremenny lại quá thiên về nhiệm vụ chống tàu mặt nước, tuần dương hạm tên lửa Moskva lại nhắm đến các tàu sân bay Mỹ.

Chiến hạm Nga - www.tinquansu.net
Mỗi tàu chiến của Nga đều có hệ thống điện tử, vũ khí, hệ thống điều khiển riêng nên khả năng tương tác giữa chúng không cao.

 Mỗi tàu chiến của Nga đều có hệ thống điện tử, vũ khí, hệ thống điều khiển riêng nên khả năng tương tác giữa chúng không cao.
Các tàu chiến Nga tỏ ra yếu thế khi hoạt động đơn lẻ nên cần phải có sự hỗ trợ của những tàu chiến khác. Trong khi đó, năng lực tấn công chủ lực của Hải quân Mỹ chỉ tập trung vào 2 lớp tàu là tàu khu trục lớp Arleigh Burke và tuần dương hạm Ticonderoga.

Những tàu này có hệ thống điện tử, vũ khí gần như tương đồng nhau, mỗi tàu có thể thực hiện tất cả các nhiệm vụ cùng lúc. Hệ thống vũ khí trên tàu được thiết kế theo kiểu module, đơn cử như ống phóng MK41 có thể sử dụng để phóng tất cả các loại vũ khí, từ tên lửa hành trình tấn công mặt đất, tên lửa phòng không, tên lửa chống ngầm. Chỉ có tên lửa chống hạm không thể phóng trong ống phóng thẳng đứng nên phải bố trí riêng mà thôi.

Mỗi tàu khu trục của Mỹ có thể mang theo tới 96 tên lửa các loại, tổng cộng 5 tàu khu trục có thể mang theo tới 480 tên lửa các loại. Trong khi đó, loại tàu chiến lớn nhất của Nga ở Địa Trung Hải là tuần dương hạm lớp Slava chỉ có thể mang theo tối đa 80 tên lửa các loại, những tàu khác chỉ có khả năng mang tối đa 56 tên lửa các loại và không có khả năng tấn công mặt đất.

Các tàu chiến của Mỹ khi hoạt động cùng nhau tạo nên sự tương tác nhiệm vụ rất cao, tạo nên mạng lưới tấn công và phòng thủ có chiều sâu. Trong khi đó khả năng tương tác giữa các tàu chiến Nga không cao do mỗi tàu có hệ thống điện tử và hệ thống điều khiển riêng.

Nếu các tàu chiến Mỹ dồn tên lửa vào một tàu chiến Nga thì khả năng bị đánh chìm gần như 100%, trong khi đó, nếu tàu chiến Nga dồn tên lửa vào một tàu chiến Mỹ thì những tàu khác xung quanh hoàn toàn có thể can thiệp đánh chặn do họ sử dụng chụng một hệ thống điều khiển và vũ khí.

Xét về mặt lực lượng, các tàu chiến Nga đang đồn trú tại Địa Trung Hải hoàn toàn lép vế so với lực lượng tàu khu trục Mỹ, chưa kể đến tàu sân bay và các tàu ngầm tiến công hạt nhân khác ở dưới nước. Tuy nhiên, trên đây chỉ là những so sánh mang tính lý thuyết, dựa trên các thông số kỹ thuật của tàu chiến đôi bên, bởi khi bước vào một cuộc chiến thực tế rất khó để nhận định ai sẽ thắng ai.

(Tổng hợp)

Thứ Tư, 28 tháng 8, 2013

Công thức giành chiến thắng quân sự của Việt Nam dưới góc nhìn của người Nga

Biến điểm yếu thành sức mạnh, lấy ít địch nhiều, lấy yếu thắng mạnh... nghệ thuật quân sự Việt Nam là cả một kho tàng kiến thức không chỉ cho hôm này và cả mai sau.

>> SIGMA về biển Đông - Lỗ hổng phòng không được khắc phục toàn diện


Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn - http://www.tinquansu.net
Quốc công tiết chế Hưng Đạo đại vương chính là người đầu tiên đưa sách lược chiến tranh nhân dân của Việt Nam lên tầm nghệ thuật quân sự.

Đó là nhận định của trang mạng Fraza (Nga) trong bài viết có tiêu đề: “Công thức Việt Nam: Làm thế nào để biến điểm yếu thành sức mạnh”. Bài viết đã ca ngợi nghệ thuật quân sự Việt Nam, dưới đây là nội dung chính của bài viết:

Lịch sử chiến tranh giữa quân đội Mỹ và nhân dân Việt Nam là cả một kho tàng để nghiên cứu, phân tích một cách chi tiết về chiến thuật và chiến lược. Nhưng điều gây tò mò hơn cả là tôi muốn quay trở lại các sự kiện lịch sử xa xôi của Việt Nam nhấn mạnh các nguồn gốc sâu xa hơn về chiến lược quân sự Việt Nam làm thế nào để đối đầu với các thế lực thù địch từ bên ngoài.

Chiến lược quốc phòng của Việt Nam luôn có khái niệm sử dụng lực lượng tại chỗ để đối phó và tiêu hao sinh lực địch, quân chủ lực chỉ được sử dụng trong những thời điểm quyết định để tạo nên chiến thắng. Đặc tính quan trọng của nghệ thuật quân sự Việt Nam là khả năng cơ động cao, tấn công bất ngờ khiến đối phương không kịp đối phó.

Khả năng cơ động của các lực lượng quân sự Việt Nam được thực hiện thông qua các đường hầm như một phương tiện thông tin liên lạc chiến thuật đặc biệt trên chiến trường, đặc biệt là những con đường mòn ẩn dưới những tán rừng rậm rạp. Trong trường hợp này gần như toàn bộ người dân đã tham gia vào lực lượng chống kẻ thù bằng chiến tranh du kích hay còn gọi là thế trận chiến tranh nhân dân.

Nghệ thuật chiến tranh nhân dân của Việt Nam, chí ít đã hoàn thiện từ thời điểm Đại Việt chống giặc Nguyên - Mông xâm lược.

Tác giả của nghệ thuật chiến tranh nhân dân Viêt Nam chính là Quốc công tiết chế Trần Hưng Đạo. Ông vừa là nhà quân sự tài ba vừa là nhà văn xuất chúng với rất nhiều tác phẩm nổi tiếng về nghệ thuật chiến tranh, trong đó nổi tiếng nhất là cuốn Binh thư yếu lược trong đó đặt ra 3 vấn đề tối quan trọng đối với người lãnh đạo quân đội:

- Hỗ trợ, tăng cường mối đoàn kết với nhân dân

- Duy trì chiến tranh du kích để làm suy yếu kẻ thù

- Sử dụng lực lượng chính quy vào những thời điểm quyết định để giành thắng lợi cuối cùng.


Chiến tranh du kích - http://www.tinquansu.net

Dựa vào lực lượng tại chỗ để tiêu hao sinh lực địch, nghệ thuật chiến tranh du kích của Việt Nam luôn khiến binh lính Mỹ phải "sống trong sợ hãi". Ảnh tư liệu.

Đầu thế kỷ 13, dưới sự lãnh đạo của Thành Cát Tư Hãn, Mông Cổ trở nên hùng mạnh và bắt đầu chinh phạt khu vực. Sau khi đánh bại các nước Tây Hạ, Đại Lý, quân Mông Cổ muốn đánh chiếm Đại Việt để tạo thế gọng kìm bao vây Nam Tống.

Năm 1258, Mông Cổ huy động 3 vạn quân cùng 1,5 vạn quân của Đại Lý (tỉnh Vân Nam Trung Quốc ngày nay) tấn công Đại Việt. Trước sức mạnh hùng hậu của quân Mông, Trần Hưng Đạo đã hiến kế cho vua Trần Thái Tông rút khỏi Thăng Long thực hiện chiến lược “vườn không nhà trống” để làm giảm nhuệ khí của quân giặc.

Quân Mông Cổ chiếm được Thăng Long rơi vào thế “vườn không nhà trống” và bị gặp khó khăn về lương thực, nhuệ khí của binh lính cũng giảm đi nhiều vì không chạm trán được với đối thủ. 10 ngày ở trong kinh thành Thăng Long trống trải chưa biết phải làm gì thì quân nhà Trần phản công, quân Mông Cổ nhanh chóng bị đánh bại.

Đến năm 1285, Hoàng đế nhà Nguyên lúc đó là Hốt Tất Liệt tiếp tục ra lệnh chinh phạt Đại Việt với quân số đông hơn, chuẩn bị tốt hơn nhưng một lần nữa quân Nguyên bị đánh bại dưới sự chỉ huy tài tình của Trần Hưng Đạo. Đến năm 1288 quân Nguyên tiếp tục tấn công Đại Việt lần thứ 3 và cũng bị đánh bại.


Quân đội nhân đân Việt Nam - http://www.tinquansu.net
Lực lượng chủ lực sẽ được sử dụng vào những thời điểm thích hợp để giành thắng lợi cuối cùng. Ảnh tư liệu.

Có một điểm chung trong 3 lần đánh bại quân Nguyên - Mông dưới sự chỉ huy của Trần Hưng Đạo là ông không chạm trán trực tiếp với kẻ thù bằng những trận đánh quy ước. Những lần chạm trán đầu tiên với quân Nguyên - Mông của quân đội nhà Trần đều không thành công.

Trần Hưng Đạo đã nhận thấy điểm mạnh của quân Nguyên - Mông là tài cưỡi ngựa và bắn cung rất giỏi cùng với việc được trang bị áo giáp kim loại (đồng). Ông đã lựa chọn chiến thuật chiến tranh du kích , xây dựng các lực lượng kháng cự ngay tại những nơi bị quân Nguyên - Mông chiếm đóng. Các nhóm du kích sau đó sẽ kết hợp với nhau để tạo thành một lực lượng lớn hơn và họ thường xuyên duy trì liên lạc với các viên tướng dưới quyền Trần Hưng Đạo thông qua một hệ thống thông tin liên lạc bí mật.

Điều kiện địa lý Việt Nam nhiều sông ngòi, đồi núi đã làm hạn chế khả năng của binh lính Mông Cổ vốn quen thuộc với những thảo nguyên rộng lớn. Dưới sự chỉ huy của Trần Hưng Đạo các nhóm du kích liên tục thực hiện những cuộc tập kích bất ngờ vào các nhóm quân Nguyên - Mông tiêu hao sinh lực của chúng rồi nhanh chóng biến mất vào những cánh rừng rậm rạp.

Một sự tài tình khác của Trần Hưng Đạo để làm nên chiến thắng đó là xây dựng mạng lưới tình báo. Mọi hoạt động của quân Nguyên - Mông đều được theo dõi và giám sát từ xa. Trần Hưng Đạo luôn có thông tin khá chính xác và đầy đủ về đối phương.


Thế trận quốc phòng toàn dân - http://www.tinquansu.net
Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân luôn là chìa khóa thành công để Việt Nam bảo vệ sự toàn vẹn chủ quyền quốc gia trong suốt nhiều thế kỷ qua.

Cuối cùng đó là đánh vào điểm yếu của đối phương, với quân Nguyên - Mông lương thực luôn là điểm yếu của họ. Trong 3 lần tiến đánh Đại Việt, đội quân Nguyên - Mông đều bị Trần Hưng Đạo đánh vào điểm yếu lương thực và cuối cùng phải chịu thất bại.

Nghệ thuật quân sự Việt Nam ví như một con suối quanh co chảy qua các sườn núi tìm kiếm sự linh hoạt để đạt được kết quả cuối cùng. Sử dụng chính sức mạnh của kẻ thù và giữ nó trong sự yếu đuối, chờ đợi thời điểm thích hợp. Các nhà lãnh đạo quân sự Việt Nam luôn tìm cách che giấu lực lượng chủ lực của mình chờ đợi thời điểm thích hợp để tung ra trận đánh bất ngờ và quyết định để dành thắng lợi cuối cùng.

Lực lượng quân sự Việt Nam được ví như một con rắn nước, di chuyển một cách nhẹ nhàng và khéo léo dọc theo bờ sông, bất ngờ tung đòn tấn công đối phương sau khi vượt qua những cạm bẫy của chính mình. Sự tương đồng của các chiến thuật này có thể tìm thấy trong các môn võ truyền thống của Việt Nam và trong cuộc sống hàng ngày.

Ngay cả nền ngoại giao Viêt Nam cũng được vận dụng một cách khéo léo dựa theo nghệ thuật quân sự mà Trần Hưng Đạo đã khai sáng gần một thiên niên kỷ trước.

Chủ Nhật, 21 tháng 7, 2013

>> S-300 tới Syria, Nga đau đầu, Nato mất ngủ

Tờ Russia & India report vừa đăng tải bài viết phân tích sự đe dọa của S-300 với Israel, NATO nhưng cũng đồng thời chỉ ra sự bất an của Nga khi cân nhắc chuyển giao S-300 cho Syria.

>> Bàn về sức mạnh của hệ thống tên lửa phòng không S-300PMU-1 Việt Nam (P2)


Hệ thống tên lửa đất-đối-không S-300 mang ý nghĩa sống còn với hệ thống phòng không của Syria, tuy nhiên, Moscow luôn cảnh giác với những diễn biến phức tạp mà loại vũ khí này có thể gây ra cho Nga và Trung Đông.

Chỉ tính riêng trong năm nay, máy bay chiến đấu của Israel đã không kích Syria "đều đặn như cơm bữa", như thế không phận của Syria là một món mồi béo bở đối với họ.

Hệ thống tên lửa đất-đối-không (SAM) trong kho vũ khí của Syria đã quá già nua, không đủ sức ngăn nổi "bầy chim" Israel xâu xé, vì thế, Syria đã phải tuyệt vọng tìm kiếm hệ thống phòng không mới tiên tiến hơn là S-300.


Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Hệ thống tên lửa S-300

Những tính năng tuyệt vời của SA-2 và SA-6 được các thế hệ hậu duệ là S-300, S-400 và thậm chí S-500 tiếp tục kế thừa. Do có thể ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp tới kết quả của một cuộc chiến nên hệ thống tên lửa SAM thế hệ mới được đánh giá là một loại vũ khí chiến lược.

Đó cũng là lý do khiến Israel và Mỹ kịch liệt phản đối Nga bán S-300 cho Syria và Iran.

Sức mạnh thật sự của S-300

Đứa con S-300 của gia đình SAM mang "gene" đặc biệt của tên lửa S-75 nổi tiếng, từng bắn hạ máy bay trinh thám U-2 của Mỹ trên bầu trời Liên Xô năm 1960 và làm bẽ mặt chính quyền Eisenhower.

Được nghiên cứu và phát triển từ những năm 1970 để thay thế cho hệ thống tên lửa SAM thế hệ đầu tiên, S-300 là một tổ hợp tên lửa di động, hoạt động theo nguyên tắc "bắn-quên", dễ sử dụng, được thiết kế để đẩy lùi các cuộc không kích lớn. S-300 có tầm bắn từ 5-150km, radar của hệ thống có khả năng theo dõi 100 mục tiêu và bám sát chặt 12 trong số đó. Xác suất đánh chặn thành công máy bay của S-300 được phía Nga đánh giá là đạt 80-93% trong một lần khai hỏa.

Hiện nay, vẫn chưa có một loại máy bay nào có thể bay nhanh hơn tên lửa này (tốc độ di chuyển 7.200 km/h). Không những thế, các phiên bản cải tiến mới nhất của S-300 còn có thể đánh chặn máy bay chiến đấu và tên lửa bay thấp, như ở độ cao 6.000m. Ngoài ra, tia chiếu hẹp giúp radar của S-300 không dễ lộ, đồng thời cũng khó bị gây nhiễu.


Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
S-300PMU1 được thiết kế để đánh chặn các loại máy bay chiến đấu hiện đại, cũng như các loại tên lửa hành trình, tên lửa đạn đạo, tên lửa chiến thuật và tấn công tầm ngắn.

Tuy nhiên, phải thừa nhận là S-300 không hoàn toàn "miễn dịch" với các biện pháp điện tử chống lại hoạt động của sóng vô tuyến - một lĩnh vực mà Israel vượt trội hơn hẳn. Năm 1982, máy bay chiến đấu của Israel đã phá hủy 19 tổ hợp tên lửa của Syria sau khi làm mù chúng bằng phương pháp điện tử.

Trái với những gì mà truyền thông tung hô, bản thân S-300 không thể trở thành "kẻ thay đổi cuộc chơi". Nó chỉ trở nên nguy hiểm khi được kết hợp với pháo phòng không và máy bay chiến đấu. Bằng cách chiếm ưu thế về độ cao, các hệ thống tên lửa SAM sẽ dồn máy bay địch xuống một "bẫy hỏa lực", nơi pháo phòng không và các chiến đấu cơ đang đợi sẵn.

Các quốc gia sử dụng hệ thống tên lửa SAM nhìn chung đều xây dựng mạng lưới phòng không 3 lớp, trong đó SAM dành cho phòng không tầm cao, pháo phòng không bảo vệ ở độ cao thấp hơn và các máy bay chiến đấu thì di chuyển qua lại trong khoảng không gian giữa 2 lớp. Điều này sẽ khiến đối phương tốn kém rất nhiều khi muốn xuyên thủng mạng lưới này.

Có thể kể đến chiến tích lẫy lừng của hệ thống tên lửa SAM trong một số cuộc chiến trước đây:

Chiến tranh Việt Nam:

Bài viết đánh giá rằng Việt Nam đã tổ chức được một mạng lưới phòng không tinh vi nhất và vô cùng hiệu quả trong lịch sử, với sự kết hợp của hệ thống radar cảnh giới, tiêm kích MiG, hệ thống tên lửa SAM, pháo phòng không với nhiều cỡ nòng khác nhau.
Để đối phó với các tên lửa SAM, các máy bay của Mỹ được trang bị máy phát nhiễu điện tử. Tuy nhiên, điều này làm giảm khả năng cơ động của máy bay và khiến chúng dễ bị các tiêm kích MiG tấn công.

Để tránh tên lửa SAM, các phi công phải điều khiển máy bay bổ nhào xuống tầm thấp, tuy nhiên, chiến thuật này lại khiến chúng rơi vào trận địa của pháo phòng không.

Giữa năm 1964 và 1973, pháo phòng không của Việt Nam đã bắn rơi 740 máy bay chiến đấu của Mỹ. Ngoài ra, còn bắn hạ hàng trăm trực thăng, một số máy bay F-111 và 15 máy bay ném bom chiến lược B-52. B-52 thua trận thảm hại dù sử dụng các máy gây nhiễu và có đội máy bay hộ tống hùng hậu.

Chiến tranh Arab-Israel năm 1973:

Trong cuộc chiến giữa Arab-Israel năm 1973, với sự hỗ trợ từ phía Nga, hệ thống tên lửa SA-2 và SA-6 của Arab đã được bố trí với chiến thuật hệt như Việt Nam: dồn máy bay địch xuống độ cao thấp hơn để chúng rơi vào trận địa của pháo phòng không. Phía Israel thừa nhận họ đã mất 303 máy bay. Tuy nhiên, con số này có thể còn cao hơn.
Bước ngoặt lớn cho Syria

S-300 tới Syria sẽ là một bước ngoặt vô cùng quan trọng. Lần đầu tiên trong lịch sử Trung Đông, một quốc gia Arab sẽ có khả năng bắn hạ máy bay của Israel. Một tên lửa S-300 phóng đi từ Damascus sẽ thổi bay bất kỳ chiến đấu cơ nào của kẻ địch trên bầu trời Tel Aviv (Israel) trong 107 giây, khiến Israel không kịp trở tay.

Thứ trưởng Ngoại giao Nga Sergei Ryabkov từng khẳng định rằng việc chuyển giao S-300 tới Syria có thể chặn những cái đầu nóng của phương Tây can thiệp vào Syria.

Trong khi đó, Bộ trưởng Quốc phòng Israel Moshe Yaalon lên tiếng cảnh báo rằng: "Quá trình chuyển giao vẫn chưa diễn ra và chúng tôi hy vọng điều đó sẽ không xảy ra. Nếu S-300 thực sự tới Syria, chúng tôi sẽ biết phải làm gì". Tuy nhiên, điều nguy hiểm cho Israel là máy bay chiến đấu của họ có thể rơi vào "bẫy hỏa lực". Trên thực tế, nỗ lực ngăn chặn hệ thống tên lửa SAM đã gây tổn hại lớn cho máy bay Mỹ và Israel 4 thập kỷ trước.

Nỗi lo của Nga

Bài viết nhận định quân đội Syria không được đào tạo bài bản, năng động và nhanh trí như người Việt Nam. Hệ thống phòng không của Syria dường như không thể ngăn chặn các cuộc tấn công từ Israel và không có gì đảm bảo họ sẽ sử dụng S-300 một cách hiệu quả.
Vì thế, Nga có lý do để lo lắng. Nếu Israel có thể phá hủy tổ hợp S-300, nó sẽ khiến cho loại vũ khí đáng sợ nhất thế giới trở nên tầm thường hơn.

"Việc chuyển giao chậm trễ là do người Nga hiểu được khả năng của Israel và không muốn kích thích một phản ứng có thể tổn hại tới Nga" - Trang Strategy Page nhận định.

Hiện tại, Nga có 2 lựa chọn: Một là đẩy mạnh đào tạo đội ngũ tên lửa của Syria trước khi chuyển giao phiên bản mới nhất, chưa giản lược của S-300.

Một lựa chọn khác là người Nga sẽ trực tiếp can thiệp vào quá trình vận hành S-300, điều này không chỉ đảm bảo lợi thế cho Syria trong cuộc xung đột, mà sự hiện diện của họ còn có thể ngăn chặn một cuộc tấn công bất ngờ từ phía Israel. Một cuộc tấn công liều lĩnh của Israel nhằm phá hủy tổ hợp tên lửa do chính người Nga vận hành sẽ thúc đẩy phản ứng mạnh từ phía Moscow, bao gồm việc tăng cường hỗ trợ cho các đồng minh Iran-Syria-Hezbollah với số lượng cực lớn.

Thứ Sáu, 19 tháng 7, 2013

>> Có phải Việt Nam "dửng dưng" với Barhmos ?

BrahMos chỉ được Nga- Ấn Độ phê chuẩn bán cho 15 nước. Trung Quốc mặc dù rất thèm muốn nhưng bị từ chối còn Việt Nam tại sao lại bỏ qua cơ hội này?

>> Bao phủ biển Đông bằng hệ thống tên lửa S-300F - "điều không tưởng"

Theo khẳng định của người đứng đầu BrahMos Aerospace, chưa có hợp đồng cung cấp tên lửa BrahMos cho quốc gia thứ ba nào, điều đó đồng nghĩa với việc Việt Nam có thể sẽ không mua tên lửa BrahMos hoặc chí ít là nếu mua, cũng sẽ mất ít nhất là vài năm nữa.
Tại sao Việt Nam lại bỏ qua cơ hội sở hữu một vũ khí quan trọng và đầy sức mạnh như BrahMos? Có những nguyên nhân chủ yếu như sau:

1. Ưu tiên cho vùng biển xa

Những căng thẳng ở biển Đông khiến việc tăng cường tiềm lực quân sự, nhất là lực lượng Hải quân, trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Do vậy, sở hữu tên lửa BrahMos là một động thái hết sức hợp lý, Tuy nhiên, nếu tinh ý hơn một chút trong vấn đề biển Đông, chúng ta có thể hiểu: "Vì sao Việt Nam không hay đúng hơn là chưa mua BrahMos trong tương lai gần?"

Nếu mua BrahMos hiện nay thì Việt Nam chỉ có thể mua tổ hợp tên lửa bờ với tầm bắn khoảng 300 km. Với tầm bắn này, tên lửa BrahMos chỉ phù hợp với nhiệm vụ phòng thủ bờ biển, chứ không phải là một vũ khí chuyên dụng để chống tàu trên vùng biển xa.
Các vùng biển chủ quyền có nguy cơ xảy ra xung đột của Việt Nam đều là những vùng biển xa như khu vực quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa cách bờ biển trên 400 km, do vậy, BrahMos khó phát huy được hiệu quả.

Ngược lại, hệ thống phòng thủ bờ biển của Việt Nam hiện nay khá mạnh với lá chắn thép Bastion sử dụng phiên bản tên lửa Yakhont, với tính năng tương đương BrahMos cũng như nhiều hệ thống tên lửa khác như Rubezh, Redut, đảm bảo hỏa lực nhiều lớp từ xa tới gần.
Do vậy, với tiềm lực tài chính có hạn, Việt Nam sẽ ưu tiên cho việc tăng cường sức mạnh trên biển xa như đóng các tàu tên lửa Gepard 3.9, tàu tên lửa Molniya được trang bị tên lửa chống tàu khác, mua tàu ngầm Kilo 636, máy bay Su-30MK2V, máy bay tuần thám...

Vì sao Việt Nam bỏ qua "cơ hội vàng” mua tên lửa Trung Quốc thèm muốn?


Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com

Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com

Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Bờ biển Việt Nam được bảo vệ vững chắc với bộ ba tên lửa bờ Bastion, Redut, Rubezh

2. Tên lửa “made in Vietnam” Kh-35E

Ngày 15 tháng 2 năm 2012, theo nguồn tin ITAR-TASS, Việt Nam dưới sự giúp đỡ của Liên bang Nga sẽ triển khai dây chuyền sản xuất tên lửa chống tàu Uran. Thông báo với các phóng viên tại cuộc họp báo, Giám đốc Cục Hợp tác Kỹ thuật Quân sự Liên bang Nga (FS MTC) Mikhail Dmitriev nhận định, tổ hợp sản xuất tên lửa Uran sẽ được triển khai theo sơ đồ, tương tự như sơ đồ sản xuất, công nghệ hợp tác quân sự giữa Ấn Độ và Liên bang Nga trong dự án tên lửa chống tàu BrahMos.

Bản tin ngày 15/2/2012 của hãng tin Ria Novosti dẫn lời Giám đốc Cục Hợp tác Kỹ thuật Quân sự Liên bang Nga (FS MTC) Mikhail Dmitriev cho biết: "Chúng tôi đang có kế hoạch xây dựng cơ sở tại Việt Nam để sản xuất một phiên bản của Uran Nga [SS-N-25], trong một dự án tương tự như sản xuất tên lửa BrahMos của Nga-Ấn Độ".

Kh-35 được trang bị rất nhiều trong Hải quân Việt Nam hiện nay. Các dự án như mua 4 tàu Gpard 3.9, đóng 12 tàu Molniya, tàu BPS 500, mua máy bay Su-30MK2 đều là những phương tiện trang bị Kh-35. Có thể nói rằng Kh-35 là loại tên lửa đối hải chủ lực của Việt Nam hiện nay.

Kh-35 còn có thể phát triển hơn nữa với tổ hợp Bal-E, phiên bản trên máy bay Su-30MK2, phiên bản ngụy trang Club-K.
So với Yakhont thì tên lửa Kh-35 có hiệu quả chiến đấu cao, khối lượng và kích thước nhỏ, khả năng bố trí đa dạng, giá thành lại không quá đắt.

Bên cạnh đó, còn có thông tin cho rằng, Việt Nam sẽ hợp tác với Nga để chế tạo biến thể Kh-35UE có tầm bắn tới 260 km. Như vậy với dự án sản xuất Kh-35 thì càng dễ hiểu khi Việt Nam không vội mua tên lửa BrahMos của Ấn Độ.

Việt Nam và Nga sẽ hợp tác sản xuất tên lửa Kh-35E

Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Việt Nam và Nga sẽ hợp tác sản xuất tên lửa Kh-35E tầm bắn 130 km

Vì sao Việt Nam bỏ qua “cơ hội vàng” mua tên lửa Trung Quốc thèm muốn?

Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com

Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Cũng có thông tin là dự án sẽ chế tạo tên lửa Kh-35UE với tầm bắn lên đến 260 km

3. Chỉ mua hàng đã được sàng lọc

Việt Nam với một tiềm lực tài chính có hạn cùng với phương châm vũ khí “quý hồ tinh bất quý hồ đa” nên thường lựa chọn những vũ khí đã chứng tỏ được hiệu quả qua quá trình sử dụng chứ không phải là những phiên bản đời đầu. Có thể thấy điều này khi Việt Nam mua S-300PMU1 chứ không phải là S-300, mua Su-30MK2 và Su-30MK2V chứ không phải là Su-30.
Với cách lựa chọn này thì Việt Nam luôn có được loại vũ khí hoàn chỉnh do được nâng cấp, cải tiến sau một thời gian dài sử dụng, từ đó tránh được những lãng phí về mặt đầu tư.

Tất nhiên, điều này cũng có hạn chế là không có được ưu thế trước đối phương về loại vũ khí mới nhất nhưng thực ra, các loại vũ khí mới đều cần một thời gian huấn luyện khá dài mới phát huy được hiệu quả nên chưa hẳn đã giành ngay ưu thế khi sử dụng.
Tuy nhiên, nguyên tắc đa dạng hóa vũ khí cũng cần được xem xét trong trường hợp này. Dựa theo xu thế đó, có thể thấy BrahMos vẫn có khả năng được Việt Nam chọn mua sau một thời gian nữa nếu như đáp ứng được tiêu chí độ tin cậy cao, giá thành phải chăng và chứng tỏ được các điều sau:

Phiên bản phóng từ máy bay Su-30MKI đáp ứng được yêu cầu thực tiễn. Ấn Độ dự định thử nghiệm vào năm 2014. Khi đó, có thể các Su-30MK2 của Việt Nam cũng sẽ được trang bị tên lửa loại này để tăng cường sức mạnh trên biển Đông.

Phiên bản trang bị trên tàu có thể tích hợp vào các tàu nhỏ gọn hơn mà Việt Nam sở hữu. Hiện nay tàu nhỏ nhất được trang bị BrahMos của Ấn Độ là tàu khu trục lớp Rajput INS RANVIJAY (D55) có chiều dài 147m, rộng 15,8m, mớn nước 4,8m, lượng giãn nước 4.974 tấn, mang theo 8 tên lửa BrahMos. Lượng giãn nước hơn hai lần so với tàu lớn nhất của Việt Nam là hai tàu Gepard 3.9 mang tên Đinh Tiên Hoàng và Lý Thái Tổ với lượng giãn nước là 2.100 tấn.

Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Tên lửa BrahMos của Ấn Độ phóng từ MiG-29
Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Tàu khu trục lớp Rajput INS RANVIJAY (D55) phóng tên lửa BrahMos
Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Hai tàu lớn nhất của Việt Nam lớp Gepard 3.9 lượng giãn nước 2.100 tấn được trang bị 8 tên lửa Kh-35E.

Với các lý do trên có thể giải thích vì sao trong tương lai gần Việt Nam sẽ chưa mua tên lửa BrahMos. Hy vọng trong tương lai, Hải quân Việt Nam sẽ sở hữu nhiều loại tên lửa hiện đại hơn góp phần giữ vững chủ quyền biển đảo đất nước.


Thứ Ba, 28 tháng 5, 2013

>> Việt Nam sẽ có thêm nhiều loại vũ khí mới trong tương lai gần ?

Trước tình hình an ninh chủ quyền biển đảo của Việt Nam đang căng thẳng, nhiều nước trên thế giới đã thực hiện chuyến thăm hữu nghị nhằm giới thiệu về vũ khí, máy bay quân sự. Tuy nhiên, Việt Nam khẳng định "không chạy đua vũ trang".

>> Giương oai gần bờ

Chào bán giới thiệu

Tin từ Đại sứ quán Pháp tại Hà Nội cho biết tuần dương hạm Pháp L’Adroit do Trung tá hải quân Luc Regnier chỉ huy ngày 27/5 sẽ đến cảng Hải Phòng bắt đầu chuyến thăm và giới thiệu với Việt Nam đến ngày 1/6.

Với mục đích giới thiệu với Hải quân nhân dân Việt Nam về mẫu tàu mới cùng nhiệm vụ của nó. Là mẫu tàu thử nghiệm thuộc lớp Gowind OPV (pour Offshore Patrol Vessel), L’Adroit là một tàu tuần tra do hãng DCNS thiết kế và được dành cho Hải quân quốc gia Pháp.


Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com

Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Chiến hạm L’Adroit của Hải quân Pháp

L'Adroit được thiết kế để làm nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển đảo. Khả năng hoạt động tác chiến của con tàu rất phong phú nhờ một hệ thống vũ khí và trang bị dành cho các nhiệm vụ tuần tra và cảnh sát biển như là : xuồng cao tốc, máy bay trực thăng, thiết bị tuần thám không người lái, hệ thống tác chiến điện tử, hệ thống thông tin băng thông rộng và được bảo mật, hệ thống hỗ trợ chỉ huy, buồng lái có thể quan sát được toàn cảnh 360 độ và hệ thống hạ thủy xuồng siêu nhanh.

Trong thời gian chuyến thăm Việt Nam, sẽ có nhiều phái đoàn của Bộ quốc phòng, UBND TP Hải Phòng và Cảnh sát biển sẽ lên thăm tàu.

Tuần dương hạm Pháp L’Adroit do Trung tá hải quân Luc Regnier chỉ huy khởi hành từ cảng Toulon (Pháp) ngày 14/1/2013 và sẽ trở về cảng này vào ngày 15/7 sau khi đã thực hiện một nhiệm vụ khéo dài tổng cộng là 6 tháng.

Thời gian này, một chiếc máy bay vận tải chiến thuật CN-295 của Không quân Indonesia cũng dự kiến sẽ thực hiện đến thăm và trình diễn ở 6 nước ASEAN gồm: Việt Nam, Philippines, Brunei, Thái Lan, Myanmar và Malaysia trong thời gian từ ngày 22 đến ngày 31/5 nhằm chào bán loại máy bay vận tải này tại các Đông Nam Á.

Máy bay vận tải C-295, được đặt tên là CN-295 trong biên chế của Không quân Indonesia, là loại máy bay vận tải đa năng hạng trung sử dụng cho cả mục đích dân sự và quân sự, thông tin đăng tải trên trang web của hãng Airbus Military cho biết.

Chuyến công diễn này, do Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Indonesia Sjafrie Sjamsuddien dẫn đầu, sẽ phô diễn những ưu điểm của máy bay, được cho là phù hợp nhất cho các nhiệm vụ cứu trợ nhân đạo cũng như quốc phòng mà chính phủ các nước ASEAN đang cần.

Thời gian qua, báo chí Nga cũng nhiều lần đánh tiếng Việt Nam sắp ký kết thêm các hợp đồng mua các trang thiết bị và vũ khí mới, tối tân của Nga để tăng cường khả năng chiến đấu cho quân đội.

Giám đốc Liên bang về Hợp tác kỹ thuật - quân sự (FSMTC), ông Alexander Fomin nói với tờ Tin tức quân sự Nga hôm thứ Ba, "Nga và Việt Nam đang thảo luận về một số hợp đồng hợp tác kỹ thuật - quân sự mới. Các hợp đồng sẽ được ký kết trong tương lai gần", người đứng đầu FSMTC cho biết, ông ám chỉ tới các cuộc thảo luận về việc cung cấp trang thiết bị quân sự và vũ khí mới cho Việt Nam.

Ông Fomin tiết lộ thêm rằng, phía Việt Nam đã bày tỏ tới việc quan tâm tới một số hệ thống vũ khí tiên tiến của Nga, đặc biệt là các hệ thống phòng không tầm trung và tầm xa của, máy bay chiến đấu, tàu ngầm, thiết bị trên tàu hải quân. Ông Fomin cũng nhấn mạnh rằng, hiện nay, các chi tiết về hợp đồng mới đang được chuẩn bị.

Việt Nam không chạy đua vũ khí

Hai nghiên cứu gần đây cho thấy, một cuộc chạy đua vũ khí đang diễn ra mạnh mẽ ở châu Á và người ta ngày càng có lý do để lo lắng rằng, số lượng các vụ đụng độ trong khu vực ngày một gia tăng.
Theo báo cáo của Viện nghiên cứu Hòa bình quốc tế Thụy Điển (SIPRI) cho thấy châu Á nhập vũ khí nhiều nhất thế giới trong năm năm gần đây 2007 - 2011.
Trong năm năm 2007 - 2011, khu vực châu Á - Thái Bình Dương chiếm 44% tổng lượng nhập khẩu vũ khí của thế giới, trong khi châu Âu chiếm 19%, Trung Đông 17%, Bắc và Nam Mỹ 11%, và châu Phi 9%.

Lợi ích quốc gia của các nước châu Á đang trỗi dậy cùng với sức mạnh kinh tế và thịnh vượng đã khiến cho nhiều chính phủ trong khu vực không ngừng nỗ lực bảo vệ phạm vi ảnh hưởng của họ bằng cách rộng tay mua sắm nhiều vũ khí trang thiết bị quân sự hiện đại.

Theo SIPRI, những quốc gia nhập khẩu vũ khí lớn nhất thế giới trong 5 năm qua tất cả đều ở châu Á, đó là: Ấn Độ, Trung Quốc, Pakistan, Hàn Quốc và Singapore.

Lý do cho sự đầu tư mạnh mẽ trong mua sắm vũ khí ở châu Á mà chuyên gia của SIPRI Siemon Wezeman chỉ ra là "có khá nhiều mối đe dọa và nguy cơ ở châu Á, đó là bất đồng về lãnh thổ, là tình hình bất ổn ở hầu hết châu Á", ông chỉ ra sự mâu thuẫn giữa Ấn Độ và Pakistan, những đe dọa từ Triều Tiên và các tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông, Hoa Đông.

Tuy vậy, IISS nhấn mạnh, việc mua sắm vũ khí mới hay nâng cấp trang thiết bị quân sự không khiến cho khu vực trở nên an toàn hơn. "Mua sắm hệ thống quân sự hiện đại ở Đông Á - một khu vực thiếu những cơ chế an ninh được thiết lập lâu dài - sẽ chỉ làm gia tăng rủi ro những xung đột bất ngờ hay leo thang căng thẳng".

Về phía Việt Nam, trung tướng Nguyễn Chí Vịnh nhiều lần khẳng định rõ ràng: "Việt Nam đã mua sắm một số vũ khí hiện đại như máy bay chiến đấu có tính năng ưu việt hệ thống tên lửa phòng không mạnh, các tàu tuần tiễu tàu ngầm hiện đại… nhưng Việt Nam không chạy đua vũ trang, chúng ta bảo vệ Tổ quốc bằng sức mạnh tổng hợp của đất nước.

"Việc mua sắm vũ khí trang bị là một vấn đề hết sức bình thường, trên cơ sở khả năng kinh tế phát triển đến đâu, chúng ta mua sắm trang bị đến đó".

>> Bao giờ Việt Nam có bom thông minh, tên lửa hành trình?

Khi mà sự vui mừng của giới am hiểu chuyên môn lắng xuống và sự dửng dưng, dè bỉu của vài người đã không còn dấu vết trong sự kiện Việt Nam chế tạo thành công UAV thì giờ là lúc những tinh hoa dân tộc Việt tự vấn mình: Khi nào chúng ta có những quả bom thông minh biết bay, khi nào chúng ta có tên lửa hành trình để bảo vệ vững chắc Tổ quốc thân yêu?

>> Tên lửa đạn đạo tầm gần Scud-B của Việt Nam

Việt Nam chế tạo hay “lắp ráp” thành công UAV?

UAV là máy bay không người lái được tự động điều khiển theo chương trình cài sẵn hoặc được điều khiển từ xa.

Trong quân sự, theo nhiệm vụ nó được chia thành 2 loại, loại dùng trinh sát, chỉ dẫn mục tiêu và loại có mang theo vũ khí tấn công.

Một UAV phải có 2 yếu tố: Phần cứng, tức là phần để làm cho máy bay bay được trên bầu trời như động cơ, cánh quạt… và phần mềm, tức là bộ óc của UAV, đó là hệ thống kết nối các linh kiện điện tử rất phức tạp trên máy bay và trạm điều khiển từ xa.


Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Những mẫu UAV của Việt Nam chế tạo thành công.

Phần cứng của UAV thì không khó nhưng bộ óc của UAV mới khó, mới mang tính quyết định. Những bộ óc của UAV giống như những bài toán khó. UAV càng hiện đại, tiên tiến bao nhiêu có nghĩa là những bài toán càng khó bấy nhiêu. Tạo ra được những bộ óc của UAV, tức là giải ra được những bài toán khó này, điều mà không phải ai cũng giải ra được.

Đâu phải khi thuộc các công thức toán học là giải được các bài tập toán, nếu vậy thế giới chẳng có khái niệm “học sinh giỏi toán”, nếu vậy thì chẳng đến giờ, Giáo sư Ngô Bảo Châu mới đoạt giải toán học Fields …

Cho nên, đâu phải cứ có các linh kiện điện tử tinh vi hiện đại là lắp ráp được UAV, nếu vậy thế giới này các quốc gia chế tạo được UAV không chỉ đếm trên đầu ngón tay.

Nói như vậy để chứng tỏ một điều, “chỉ có thuyền mới hiểu biển mênh mông nhường nào”, còn những kẻ “ngoại đạo” thì dửng dưng, mai mỉa, là cũng là dễ hiểu.

Vấn đề là Việt Nam đã bước vào câu lạc bộ các quốc gia chế tạo được UAV bằng chính bộ óc thông minh của mình, bất chấp sự phát triển chưa cao của nền kinh tế.

5 mẫu máy bay do các nhà khoa học, các kỹ sư thuộc Viện Công nghệ không gian – HTI thuộc Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam chế tạo thành công (và những mẫu UAV bí mật khác được những nhà khoa học thầm lặng khác nghiên cứu chế tạo) khiến các chuyên gia quân sự, bộ tham mưu QĐNDVN có quyền mơ tới và vạch ra những định hướng sử dụng lực lượng, chiến thuật mới theo cách Việt Nam.

Tương lai nào cho "UAV made in Vietnam"?

UAV khác với tên lửa hành trình, tên lửa điều khiển hay bom thông minh ở chỗ chúng (UAV) được sử dụng nhiều lần.

Những quốc gia có nền khoa học công nghệ cao không sử dụng UAV để làm các nhiệm vụ của tên lửa hay bom thông minh (cảm tử) bởi lẽ tốc độ của UAV chậm nếu mang khối thuốc nổ lớn thì càng chậm thêm nên dễ bị đánh chặn, phát hiện và tiêu diệt.

UAV với lợi thế nhỏ gọn, trang bị các phương tiện nghe nhìn hiện đại sẽ rất lợi thế để trinh sát sâu trong vùng địch. Và, khi bộ óc của UAV “gần giống với người hơn” thì việc trang bị vũ khí tấn công trên đó sẽ hết sức lợi hại. Chính vì vậy, tất yếu, họ có một nghệ thuật sử dụng lực lượng khác và một lối đánh khác Việt Nam là thế.

Với Việt Nam, chẳng hạn như mẫu AV.UAV.S4: Chiều dài 4,20m; sải cánh 5,0m; khối lượng tối đa 170kg; khối lượng tải có ích 50kg; bán kính hoạt động 100km; trần bay 3000m; tốc độ lớn nhất 180km/h…

Nếu sử dụng như một quả tên lửa hành trình hay điều khiển có phần chiến đấu 50kg TNT và với tốc độ 180km/h để độc lập tấn công một mục tiêu xa hơn 100km thì đúng là một ý tưởng tồi. Nhưng, trong một thế trận chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc thì ý tưởng đó không tồi. Khi công nghệ lạc hậu của UAV không thể thì chiến thuật có thể.

Tất nhiên đó chỉ là trước mắt, nếu về lâu dài chúng ta cứ bám vào ý tưởng đó thì thất bại, không thể lấy ý chí anh hùng đối đầu mãi với đạn bom.

UAV và những vũ khí công nghệ cao, nguy hiểm, lợi hại hay không, không phải là sức công phá của nó mà chính là “bộ óc” của nó thông minh cỡ nào.

Chẳng hạn loại tên lửa Kh-35 mà Nga-Việt Nam hợp tác sản xuất, có 3 hạn chế: tầm bắn gần (130 km); tốc độ cận âm và hệ thống điều khiển tên lửa chưa cho phép tên lửa có khả năng tấn công các mục tiêu trên bờ biển và vào sâu trong đất liền. Nhưng tên lửa diệt hạm X-35 có một đặc điểm là nó cho phép cải tiến nâng cấp không giới hạn, như có thể sử dụng nhiên liệu có hiệu năng cháy tốt hơn sẽ làm tăng tầm bắn của tên lửa…

Vậy chúng ta có ý tưởng cải tiến để nâng cao tầm bắn lên không? Chúng ta có thể dùng bộ óc Việt, kết hợp bộ óc Nga trong Kh-35 để biến nó thành tên lửa hành trình hay tên lửa điều khiển hay không? Việt Nam đã cải tiến, nâng cấp tầm bắn tên lửa Scud-B lên từ 550-700 km nhưng quan trọng hơn, bộ óc của nó có cải tiến được không?...

Chế tạo được UAV là phải có bộ óc thông minh, thế giới đã thán phục sự thông minh của người Do thái nên chẳng ngạc nhiên khi UAV của Ixrael thuộc loại nhất nhì thế giới. Đáng tiếc là chúng ta xuất phát trên nền tảng một nền công nghiệp còn nghèo nàn lạc hậu, nhưng nếu chúng ta biết cách “công nhận mà không cần chứng minh” để áp dụng ngay vào thực tế thì Việt Nam cũng ít nhất “giành được giải”.

Chỉ có đầu tư mạnh, đi tắt đón đầu công nghệ, dưới sự lãnh đạo của những bộ óc có tầm nhìn xa chiến lược thì vấn đề cải tiến, sản xuất vũ khí thông minh, công nghệ cao sẽ rất phù hợp với sở trường, tư chất của người Việt Nam, đặc biệt quan trọng là cải tiến vũ khí. Có gì nguy hiểm hơn khi tất cả các loại vũ khí nước ngoài trong tay đều có “trí khôn người Việt”?

Khi đó chúng ta sẽ tạo ra sự khác biệt, tạo ra sự răn đe mạnh, bí hiểm với kẻ thù.

(Lê Ngọc Thống)

Thứ Ba, 21 tháng 5, 2013

>> TRƯỜNG SA - HOÀNG SA VÀ NHỮNG CHUYỆN CHƯA BAO GIỜ KỂ

Lâu rồi mới đọc một bài viết hay và sâu sắc, nếu bạn đã ghé thăm blog của tôi thì mong bạn hãy giành ít phút để đọc hết bài viết này nhé, rất thấm thía và giúp các bạn có thêm cái nhìn thực tế hơn, khách quan hơn, cho chúng ta hiểu hơn nữa về những khó khăn, những gian khổ của những người lính hải quân Việt Nam, những người đang ngày đêm không kể hiểm nguy bảo vệ, giữ yên vùng biển, đảo của Tổ Quốc.

(Bài viết được lấy từ Facebook https://www.facebook.com/nguyenngoclong1983 , 
 chân thành cảm ơn tác giả :

Xem thêm >> Biển Đông cuộn sóng


Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Người lính Hải quân Việt Nam còn rất trẻ ...

"Hôm trước, mình đặt câu hỏi về việc các bạn suốt ngày phê phán Người phát ngôn Bộ Ngoại Giao Việt Nam "nhai đi nhai lại" các thông điệp phản đối khi Trung Quốc có hành vi xâm phạm chủ quyền của Việt Nam, vậy theo các bạn chúng ta phải làm gì? Thật bất ngờ khi câu hỏi này thu hút một số lượng lớn các bạn vào thảo luận và đưa ý kiến cực kỳ nghiêm túc. Theo đó, hàng trăm comments đã được gửi lên. Tổng hợp lại thì có các ý lớn thế này:

1- Việc "nhai đi nhai lại" này là cần thiết để mai mốt nếu Việt Nam có kiện ra tòa án Quốc Tế thì cũng có bằng chứng.
2- Các bạn tin tưởng tuyệt đối vào sách lược của Chính phủ trong vấn đề biển đảo. Dù có những cái các bạn vẫn thấy "mơ hồ" nhưng các bạn cho rằng nếu làm cho mọi thứ "rõ ràng" hơn thì không còn gì gọi là bí mật và khi đó Trung Quốc có thể dễ dàng đối phó.
3- Ủng hộ việc dùng vũ lực
4- Kiện ra tòa án quốc tế
5- Tranh thủ sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế
6- Tăng cường hỗ trợ giúp ngư dân bám biển
7- Thoát khỏi tầm ảnh hưởng của Trung Quốc về kinh tế, chính trị và văn hóa
8- Tăng cường năng lực quân sự

Mình cực kỳ trân trọng các ý kiến đóng góp kèm theo những giải thích, lập luận xác đáng của tất cả các bạn. Còn trong phạm vi những gì mình hiểu biết thông qua tự tìm tòi nghiên cứu, phỏng vấn những người có ảnh hưởng, có uy tín trong xã hội và Chính phủ, thông qua thực tế mắt thấy tai nghe khi ra Trường Sa và tiếp xúc với các chiến sĩ, mình xin được cung cấp thêm thông tin thế này để các bạn tham khảo nhé.

1.
Trung Quốc là nước lớn, mạnh hơn Việt Nam về mọi mặt như Kinh tế, Quân sự, Vũ khí, Đạn dược và tiếng nói trong Cộng đồng Quốc tế. Nếu "đánh nhau" tay đôi, thắng thua không biết, nhưng chắc chắn phía chịu thiệt hại nặng nề là Việt Nam của chúng ta. Khi nói chuyện với các tướng lĩnh từ cấp thấp đến cấp vừa, cấp cao của Việt Nam, mình phải ghi nhận một điều là chẳng ai "run sợ" nếu buộc phải sa vào tình thế chiến tranh. Chúng ta "anh hùng" 1, họ anh hùng gấp 1 triệu lần. Khi chúng ta hứa hẹn này kia trên bàn phím, họ đã và đang anh hùng bằng những hành động và việc làm thiết thực.

Các bạn có biết trong một chuyến đi đón công binh làm nhiệm vụ xây dựng từ một đảo chìm về lại đất liền, tai nạn đã xảy ra. Không rõ vì lý do gì mà chiến sĩ công binh này mất tích (có giả thiết trượt trân ngã rơi xuống biển khi đang câu cá). Rất nhiều tàu cứu hộ đã được phái ra vùng biển đó cấp tốc tìm kiếm trong nhiều ngày trước khi chấp nhận mất đi 1 người đồng đội. Dù đó là điều không ai mong muốn nhưng toàn bộ các chiến sĩ có mặt trên tàu cũng như các cấp chỉ huy tại đất liền đã bị kỷ luật từ quân đến tướng. Mất vạch, mất sao và nhiều hình thức kỷ luật cộng thêm khác nữa. Kể chuyện này để các bạn hiểu rằng mạng sống con người không phải là thứ để mang ra làm chuyện mua vui như vậy được. Mình nhấn mạnh, đó là sự mất mát của chỉ duy nhất 1 người.

Các bạn có biết khi Trung Quốc cử tàu hộ tống mang dàn khoan khổng lồ cao hàng trăm mét ra tìm cách thả xuống biển Đông để khai thác dầu khí, chiến sĩ của chúng ta trên các nhà giàn đã phải thay nhau theo dõi ngày đêm, kết hợp chặt chẽ với chỉ huy tại đất liền để giám sát nhất cử nhất động của tàu địch. Nếu bất cứ khi nào đội tàu hộ tống này có dấu hiệu ngưng lại tại vùng biển chủ quyền của Việt Nam thì lập tức chúng ta phải cử tàu chiến ra "xua đuổi" không cho dàn khoan này được thả xuống dù với bất cứ lý do gì. Chúng ta “tuyệt đối yếu” hơn đối phương, trong khi chúng lại thường xuyên gây hấn, kích động để Việt Nam "ra tay" trước. Khi ấy, chúng sẽ có lý do hợp pháp để đánh chiếm vào những hòn đảo của chúng ta.

Nếu tình huống xấu nhất là Trung Quốc chiếm thành công 1 đảo của Việt Nam (điều này khó có khả năng xảy ra) thì chúng ta sẽ làm gì? Lên tiếng nhờ cộng đồng quốc tế ủng hộ mình ư? Cũng được, nhưng Trung Quốc sẽ ngay lập tức la làng lên rằng họ không đi xâm lược, không đi đánh chiếm đảo của Việt Nam. Họ chỉ đang "đòi lại" những gì thuộc về “chủ quyền bấy lâu nay” của họ. Trung Quốc sẽ ngay lập tức ngang ngược nói rằng chính Việt Nam mới đi chiếm đảo của Trung Quốc và bây giờ "bị lấy lại". Hãy nhìn vào những gì Trung Quốc đang ngày đêm bắc loa tuyên bố một cách trơ trẽn về Hoàng Sa sẽ hiểu điều mình nói. Tất cả những gì Trung Quốc CẦN, CẦU MONG VÀ CHỜ ĐỢI LÚC NÀY chính là một hành động thiếu kiềm chế bất kỳ từ phía Việt Nam để họ có thể đàng hoàng phát pháo. Và đó cũng chính là điều mà tất cả chiến sĩ của chúng ta ngoài hải đảo phải thuộc nằm lòng. Phải luyện chí rèn gan, giữ vững lập trường và kiên định để tránh tuyệt đối phạm vào sai lầm như vậy.

2.
Còn về vấn đề kiện tụng, ngay khi ngồi ở trên tàu ra Trường Sa mình đã hỏi một luật sư có tiếng. Cô ấy nói Việt Nam không thể nào làm như vậy được. Thứ nhất, chúng ta đang bị lệ thuộc quá nhiều vào Trung Quốc (bạn nào có comment ý này vô cùng chuẩn xác). Nếu chúng ta chỉ cần "lên gân" với Trung Quốc thì có thể hàng chục triệu gia đình sẽ lâm vào cảnh lầm than bằng những đòn đánh vào kinh tế. Để thoát ra khỏi sự lệ thuộc này, cần rất nhiều nỗ lực và thời gian. Thứ hai, ngay cả nếu chúng ta "kiện thắng" thì tòa án Quốc tế cũng không có chức năng hành pháp. Họ CHỈ CÓ THỂ KÊU GỌI bên "thua kiện" thực hiện điều ABC nào đó. Tòa án Quốc tế không giống như tòa án trong nước để có thể có chế tài buộc ông A bà B nào đó phải vào tù hay ông C phải bồi thường cho bà D vài chục triệu, trả lại tang vật trong vụ án v.v... Tức là đừng quá kỳ vọng việc tòa án Quốc tế sẽ giúp chúng ta bảo vệ chủ quyền biển đảo.

Ai đó nói rằng chúng ta cần “đánh động” thì xin thưa, việc đi kiện tụng như thế chẳng đánh động được cái gì ngoài việc khiến cho Trung Quốc có cớ sử dụng các đòn trừng phạt phi quân sự nhắm tới Việt Nam. Cùng với đó, họ sẽ dùng ảnh hưởng của mình để gây sức ép lên cộng đồng Quốc tế và cô lập Việt Nam, bao vây kinh tế v.v... Trong khi đó, cái mà chúng ta cần nhất bây giờ là tranh thủ sự ủng hộ của cộng đồng Quốc tế. Thế nên phương án kiện là KHÔNG NÊN VÀ KHÔNG THỂ, vì chúng ta sẽ bị hại nhiều hơn lợi. Và cũng cần nói thêm rằng việc "tranh thủ sự ủng hộ của cộng đồng Quốc tế" không đồng nghĩa với việc phụ thuộc hoàn vào vào một "Quốc gia đồng minh" nào cả. Thật ngây thơ khi cho rằng Mỹ, hay Nga hay Nhật sẽ giúp chúng ta một cách vô tư và họ chẳng có ý đồ gì trong đó. Nên nhớ, tiền của dân nước ngoài ta đóng thuế, máu của binh sĩ người ta không có mang qua "cúng chùa" cho Việt Nam đâu ạ. Điều này sẽ rất dễ để hình dung ra được khi các bạn tránh được việc đồng nhất giữa việc bảo vệ chủ quyền biển đảo với việc "chống một mình Trung Quốc".

Các ý như tăng cường sức mạnh quân sự, tăng cường trợ giúp ngư dân bám biển thì Việt Nam đã và đang làm rất tốt. Còn phải làm đến thế nào mới thỏa lòng tất cả mọi người thì đó là câu hỏi không thể có đáp án chung. Cách đây 4 năm, việc di chuyển từ tàu hải quân vào tiếp cận nhà giàn được thực hiện bằng... dây thừng! Hiện nay chúng ta đã có xuồng CQ có thể vào tận nơi một cách dễ dàng. Trước kia các chiến sĩ phải phấn đấu cả 6 tháng trời để được một lần gọi bộ đàm về liên lạc với đất liền thì ngày nay, 100% đảo nổi đảo chìm và nhà giàn của chúng ta được trang bị trạm thu phát sóng vệ tinh của Tập đoàn viễn thông. Chúng ta có cả hệ thống liên lạc internet đủ mạnh để thực hiện họp online, chữa bệnh từ xa. Đời sống ở Trường Sa giờ đây đã hoàn toàn thay đổi.

3.
Ngày trước, mỗi khi đọc tin Trung Quốc khai trương một tòa nhà nào đó ở quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam mà họ đang chiếm đóng phi pháp, mình rất cay cú và tự hỏi "tại sao một việc đơn giản thế mà Việt Nam không làm, cứ để cho Trung Quốc một mình một chợ?". Ngày hôm nay thì thấy nó khởi công xây nhà. Ngày mốt thì thấy nó rồng rắn đưa người ngựa ra đốt pháo khánh thành. Ngày sau nữa lại thấy nó làm sân bay. Ngày sau sau nữa lại thấy nó đưa khách ra tham quan du lịch? VẬY TẠI SAO VIỆT NAM KHÔNG CHỊU LÀM NHƯ VẬY MÀ CỨ PHẢN ĐỐI LÊN PHẢN ĐỐI XUỐNG LÀM GÌ???

Và đến khi mình được nghe chuyện về lực lượng công binh, là những người đi phá mìn mở đường xây nhà trên đảo thì mình đã tự có câu trả lời rồi. Tóm lại một cách đơn giản và dễ hiểu thì xây nhà trên đất liền khó 1 thì đặt một viên đá trên mặt biển khó gấp 1 vạn lần. Mình ước gì tất cả các bạn có thể tận mắt chứng kiến nhà giàn có 8 cây cột thép choài ra làm "chân chống" với mỗi cây cột có đường kính khoảng chừng nửa mét, lại được giằng thêm hàng chục cây thép nhỏ hơn để đan kết vào nhau sừng sững giữa bạt ngàn sóng nước. Và nếu các bạn biết rằng cách đó 4 năm, những nhà giàn vững chắc kiên cố như một tòa lâu đài thép đã bị kéo đổ nhào xuống biển, mang theo cả một tiểu đội mãi mãi không bao giờ trở về được đất liền, các bạn sẽ "cảm" được một phần của công việc xây cất ở nhà giàn cũng như trên các đảo.

Hãy thử hình dung, nếu bạn đang ở giữa một đảo san hô, xung quanh ngập nước chừng 1m, xuồng CQ không thể nào tiếp cận, tàu hộ tống chở theo nguyên liệu là xi măng đá tảng buộc phải neo đậu cách đó chừng 5km thì bạn sẽ làm thế nào để mang vác được xi măng, gạch, đá, sắt thép rồi canh thủy triều lên xuống để đổ cho được một cây cọc bê tông đầu tiên xuống rồi "khô lại" giữa lòng biển khơi? Hãy cố hình dung đi. Chỉ cần hình dung với nhiệm vụ là một cây cọc bê tông duy nhất chứ chưa nói tới những gì lớn lao to tát. Khi đã lờ mờ tìm ra một cách làm nào đấy, bạn sẽ tự có câu trả lời cho câu hỏi "đơn giản" được bôi hoa toàn bộ ở phía trên.

Cũng có thể tiết lộ với các bạn rằng ở phạm vi bán kính chừng 1km quanh các đảo (thay đổi tùy theo diện tích) là cơ man các cọc bê tông sừng sững để sẵn sàng "nghênh chiến" với các loại tàu thuyền... [Các chi tiết sâu hơn liên quan đến vũ khí và hệ thống chiến đấu, phòng thủ ở đoạn này đã bị cắt ]. Thực sự, nếu được đặt chân lên một đảo tại Trường Sa, các bạn sẽ biết rằng "Việt Nam tuy không hiếu chiến, nhưng để đánh được vào các đảo của Việt Nam là cả một vấn đề".

4.
Cũng trong chuyến đi 10 ngày lênh đênh trên biển, có một sự bất ngờ tới mức "gây sốc" cho toàn bộ đoàn công tác. Đó là dù quan sát ở bất cứ góc độ nào, cũng chỉ thấy có ta và.. ta và... biển. Thế nhưng ngay khi tàu HQ960 "tình cờ" chạm trán với tàu hải giám Trung Quốc (bẻ lái cắt ngang vuông góc) thì ngay lập tức thấy lù lù 2 tàu chiến của hải quân Việt Nam xuất hiện. Tất cả mọi người đều không biết các tàu chiến này ở đâu ra, và càng sốc hơn nữa khi được cho biết họ đi theo bảo vệ đoàn công tác ngay từ khi rời cảng!!! Chưa hết, khi đặt chân lên tới An Bang, mình còn được tận mục sở thị một buổi huấn luyện của đặc công biển Việt Nam với hành trình bơi hàng chục km mỗi ngày luyện tập mang theo vũ khí đổ bộ vào đảo và hiệp đồng tác chiến với các chiến sĩ tại trận địa. Có thể tin hay không tùy bạn, nhưng họ còn có khả năng nằm im dưới nước sâu trong suốt nhiều giờ đồng hồ cho đến khi được lệnh tiếp tục "hành quân" vào đảo.

Tuy nhiên, tất cả các trang thiết bị vũ khí, súng ống đạn được, quân lính tinh nhuệ… của chúng ta không phải được sinh ra để tấn công mà là phòng thủ. Việt Nam còn yếu, nên chủ trương của chúng ta là đối thoại và hợp tác, dựa trên việc thu thập, củng cố rồi tuyên truyền các bằng chứng lịch sử để tranh thủ sự ủng hộ của cộng đồng Quốc tế. Việt Nam không bao giờ đối đầu, không bao giờ dùng vũ lực, không bao giờ "phát pháo" trước trong mọi tình huống để kẻ thù có thể dựa vào làm nguyên nhân gây chiến. Trong khi đó, chúng ta bằng mọi giá bảo vệ chủ quyền tất cả những đảo chìm, đảo nổi, bãi cạn... mà chúng ta đang có. Luôn luôn bày tỏ quan điểm phản đối, nêu rõ chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán không thể tranh cãi của Việt Nam với các đảo, quần đảo, bãi cạn mà chúng ta thực sự có chủ quyền, BAO GỒM CẢ NHỮNG NƠI ĐÃ BỊ KẺ THÙ DÙNG VŨ LỰC CHIẾM ĐÓNG TRÁI PHÉP (trong lịch sử). Điều mà các bạn hay gọi là "nhai đi nhai lại".

5.
Liên quan đến việc tàu cá Việt Nam bị Trung Quốc ngăn chặn, xua đuổi, bắn phá khi khai thác trong khu vực quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa và tàu cá Trung Quốc ngang ngược tiến vào quần đảo Trường Sa của Việt Nam để đánh bắt trái phép thì do chính những nhà báo của mình NHIỀU KHI không nắm rõ thông tin nên việc tuyên truyền dễ gây ra những nhầm lẫn căn bản.

Đầu tiên phải hiểu thế này. Trường Sa và Hoàng Sa là quần đảo tức là gồm nhiều đảo nhỏ. Với mỗi đảo thì chúng ta lại có rất nhiều thuật ngữ liên quan đến việc xác lập chủ quyền, nhưng gần gũi nhất có lẽ là "lãnh hải". Nếu chỉ xét riêng về lãnh hải, thì các bạn cứ tạm hiểu như một vòng tròn kim cô xung quanh các đảo. Nếu chúng ta xác lập chủ quyền ở 1 đảo, thì mặc nhiên chúng ta có thêm chủ quyền ở một đường biên lớn hơn chạy xung quanh đó nữa.

Tập hợp các đường viền như vậy ở tất cả các đảo mà chúng ta có chủ quyền nó sẽ là nơi chúng ta mặc nhiên đi lại và khai thác. Chứ không phải cứ lấy cây bút rồi khoanh một vòng "to đùng" bao hết các đảo lại cho rằng đó là vùng bất khả xâm phạm của mình. Vậy nên chủ quyền của chúng ta sẽ là một vùng thực sự rất... loằng ngoằng, có chỗ thì chồng chéo, có chỗ bị "hở" ra. Và theo luật, cái chỗ hở đó là hải phận quốc tế. Dù nhìn vô bản đồ nó có vẻ nằm hoàn toàn trong "khu vực" quần đảo Trường Sa.

Chưa hết, trong lịch sử một số đảo chúng ta đã bị Trung Quốc dùng vũ lực chiếm đi. Cho nên, dù cái đường vòng quanh đảo đó là lãnh hải của Việt Nam nhưng trong thực tế nếu tầu thuyền của ngư dân đi vào đó thì sẽ bị xua đuổi và bắn phá. Tức là các tàu đó bị bắn phá do xâm phạm vào "lãnh hải có được vì chiếm đóng trái phép" của Trung Quốc, nhưng lại là "lãnh hải dựa trên cơ sở pháp lý quốc tế và căn cứ lịch sử không thể tranh cãi" của Việt Nam. Cho nên báo chí sẽ phải đưa tin là tàu cá ngư dân bị bắn trong vùng lãnh hải "của Việt Nam". Thậm chí Bộ Ngoại Giao cũng phải tuyên bố như vậy. Và chính sự nhập nhằng này cũng khiến nhiều người cho rằng chúng ta quá hèn kém khi để cho ngư dân bị vạ lây như vậy.

Tương tự với việc Trung Quốc xua đội tàu cá hàng chục chiếc "tràn vào khu vực Trường Sa và Hoàng Sa" của Việt Nam để đánh bắt trái phép. Trong thực tế, quanh năm suốt tháng đều có tàu cá của Trung Quốc "mon men" đến gần các đảo của Việt Nam. Và khi này, chắc chắn 100% chiến sĩ trên đảo sẽ theo quy trình để có hành động xua đuổi thích hợp và mức cao nhất là sẵn sàng chiến đấu không khoan nhượng nếu việc xua đuổi không thành công.

Tuy nhiên, nếu các tàu cá này đi vào những vùng "lỗ thủng" của lãnh hải đan xen giữa các đảo thì thực tế không xâm phạm lãnh hải Việt Nam nhưng vẫn coi là "ùa vào khu vực quần đảo Trường Sa của Việt Nam được". Điều tương tự xảy ra nếu các tàu này đi vào lãnh hải của các đảo thuộc chủ quyền Việt Nam nhưng bị đánh cướp bằng vũ lực và chiếm đóng trái phép trong quá khứ. Chưa kể theo thông lệ quốc tế, nếu tàu họ "vô tình" đi vào một vùng lãnh hải nào đó thực sự hoàn toàn thuộc Việt Nam thì mình cũng không thể nào ra bắn phá mà trước tiên là xua đuổi. Và trong đại đa số các trường hợp, khi mình xua đuổi thì nó sẽ dời đi. Nhưng báo chí vẫn coi đấy là việc ùa vào vùng lãnh hải của Việt Nam.

6.
Tóm lại những việc mà chính phủ đang làm - THEO CÁ NHÂN MÌNH ĐÁNH GIÁ - là hoàn toàn đúng đắn về đường lối chính sách, phù hợp với tình hình thực tế hiện nay của đất nước. Sau khi đi thực tế, theo cách gọi của đoàn công tác, là "thăm và kiểm tra các đảo" thì phải nói là mình hoàn toàn yên tâm rằng ít nhất là các đảo mình đang giữ sẽ khó mà bị Trung Quốc đánh chiếm. Những sự vi phạm chủ quyền theo dạng quấy nhiễu của Trung Quốc chúng ta đều có quy trình đối phó an toàn nhất.

Về phía cộng đồng quốc tế, chúng ta đang làm cực tốt việc "nhai đi nhai lại bài ca phản đối" mọi lúc mọi nơi, trên mọi phương diện dù sự vi phạm có lớn như con voi hay nhỏ như con kiến. THEO THÔNG LỆ LUẬT PHÁP QUỐC TẾ, ĐIỀU ĐÓ LÀ CỰC KỲ QUAN TRỌNG! Chúng ta cũng chấp nhận việc "gây hiểu lầm" về năng lực bảo vệ ngư dân hay năng lực phòng thủ khi sẵn sàng ra tuyên bố chủ quyền ngay cả trong trường hợp thực ra chúng ta chỉ bị vi phạm chủ quyền theo lý thuyết. Theo mình, đây là một đánh đổi cực kỳ quan trọng và dũng cảm. Các bạn hãy đọc thật kĩ phần trên để hiểu và cùng đi giải thích cho nhiều người khác cùng hiểu nữa.

Việc tốt nhất mà mỗi người chúng ta có thể chung tay, theo mình chính là nâng cao nhận thức, kiến thức về luật biển, về UNCLOS, phải hiểu được lãnh hải là gì, đường cơ sở là gì, cơ sở xác lập chủ quyền biển đảo thế nào, vùng nội thủy là gì, vùng đặc quyền kinh tế là gì, thềm lục địa là gì, thềm lục địa mở rộng là gì... v.v... và v.v... Chừng nào làm được như vậy chúng ta mới mong hiểu đúng, hiểu rõ và hiểu sâu về tình hình chiến sự tại Biển Đông. Mới không hoang mang khi tiếp nhận thông tin từ những nhà báo thực ra nhiều khi cũng chưa hiểu sâu về biển đảo, từ những thông tin mà Nhà nước buộc phải nói theo kiểu khiến người dân nghe vô sẽ tự nhiên thấy hoang mang (http://on.fb.me/13FvJIW). Và quan trọng nhất là đủ tỉnh táo để phân biệt đúng sai, mức độ chính xác của thông tin từ những nguồn tin không thiện chí."

Chủ Nhật, 19 tháng 5, 2013

>> Người Nga nhìn nhận thảm bại của B-52 Mỹ tại Việt Nam như thế nào ?

Bầu trời Hà nội tháng 12-1972 đã đi vào lịch sử chiến tranh như một cuộc chiến đấu trên không với sự tham gia của lực lượng không quân chiến lược mạnh nhất, sức hủy diệt cao nhất và vũ khí trang bị, phương tiện chiến tranh hiện đại nhất, cường độ tác chiến cao nhất tính từ sau Chiến tranh thế giới lần thứ II.

>> Triều Tiên có thể vít cổ B-52 như Việt Nam?

Trên bầu trời Miền Bắc Việt Nam ngày 18-31 tháng 12-1972, cả lực lượng tên lửa QĐND Việt Nam với các cố vấn Liên Xô, hệ thống tên lửa S-75, hai tập đoàn không quân hùng mạnh của Mỹ 7 và 8 (Seventh air force và Eighth air force) đã chịu đựng một cuộc thử thách vô cùng khắc nghiệt.

Trong rất nhiều các tài liệu của Nga đã viết về những trận đánh khốc liệt trên bầu trời Miền Bắc Việt Nam vào tháng 12-1972. (tạp chí VKO số. № 1, 2, 4 và 6 trong năm 2004). Điều đó cũng dễ hiểu vì đó là chiến dịch không tập và phòng không lớn nhất trong lịch sử chiến tranh giai đoạn giữa của thế kỷ 20.

Nhưng cũng có nhiều chi tiết cũng như nhiều sự kiện đã diễn ra ngoài tầm quan sát và nghiên cứu của các tác giả VKO trong chiến dịch Linebacker II. Bài viết này đề cập đến những chi tiết có ảnh hưởng đến các hoạt động tác chiến cụ thể của các phi đội máy bay B-52 thuộc lực lượng không quân Mỹ, được các phương tiện thông tin đại chúng Mỹ đăng tải.


Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com

Ngày 18-12-1972, căn cứ không quân Andersen trên đảo Guam của lực lượng không quân Mỹ. Trong suốt một giờ 43 phút, cả mặt đất, không gian và bầu trời rung chuyển bởi áp lực và tiếng gầm của động cơ phản lực công suất cực lớn. 87 'pháo đài bay' khổng lồ B-52 Stratofortress lần lượt cất cánh chiếm lĩnh vị trí trong đội hình hành tiến hướng về bầu trời miền Bắc Việt Nam. Sau đó là 42 máy bay B-52 Stratofortress từ căn cứ Utapao – Thái Lan cũng kết nối vào đội hình không kích.

Đội hình lực lượng không kích chủ công lớn nhất trong lịch sử chiến tranh đường không sẽ đổ một khối lượng khổng lồ bom xuống các sân bay Hòa Lạc, Kép, Phú Yên, nhà máy sửa chữa ô tô Kinh Nỗ, thuộc xã Uy Nỗ, Hải Dương. Nhà máy sửa chữa đầu máy, toa xe lửa tại Hà Nội, Ga đường sắt Yên Viên, Đài phát thanh tiếng nói Việt Nam tại trung tâm thủ đô Hà Nội. Mỗi chiếc máy bay B-52D cất cánh ở sân bay Utapao Thái Lan mang theo 108 quả bom 340 kg, B-52 D từ Guam mang theo 66 quả bom 340 kg, trên máy bay B-52G là 27 quả bom.

Đòn tấn công các mục tiêu đã nêu được chia thành 3 đợt dồn dập trút bom của B-52. Chỉ có máy bay “Nước” 02 “và Đỏ” 03 (cả hai đều là B-52G; theo quy định thông thường, phi chuẩn, biên đội máy bay 3 chiếc được đặt tên, số là vị trí số của máy bay trong biên đội). Đây cũng là câu trả lời hết sức mập mờ từ một nguồn giấu tên. Tốp máy bay này đã tiến hành tấn công các trận địa pháo phòng không và thoát ra khỏi lưới lửa an toàn. Nhưng tất cả 127 chiếcStratofortress còn lại sẽ được đón tiếp 'nồng hậu'.
Gặp gỡ với tử thần

Đợt tấn công dồn dập 1 bao gồm 48 chiếc Stratofortress 21 từ Utapao và 27 chiếc từ Andersen. 12 chiếc B-52D và 15 chiếc B-52G trong đợt dồn dập 1 có mặt trên các mục tiêu vào hồi 19h45 giờ Hà Nội. Tốp “Tuyết” đã trút 324 quả bom xuống đường băng của sân bay Hòa Lạc, phía Tây Nam ngoại thành Hà Nội.


Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com


20h03 chiếc B-52D từ tốp máy bay “Tử đinh hương – Cà tím ”03 số hiệu máy bay là 6768, sân bay Andersen đang chuẩn bị cắt bom xuống nhà máy sửa chữa ô tô sau 15 phút thì một quả tên lửa SA-75M nổ tung bên cạnh. Máy bay bị mảnh tên lửa xuyên thủng nhiều chỗ. Nhưng nó đã cố gắng lết đến sân bay Utapao – Thái Lan. Các tài liệu ghi lại hoàn toàn không rõ ràng số bom trên máy bay kíp lái đã trút đi đâu.

Mấy phút sau chiếc B-52G thuộc phi đội “Than” 01 (số hiệu 8201), đang bay ở độ cao 34 000 ft (10km) nổ tung do trúng 2 quả đạn tên lửa V-750 trước khi máy bay kịp trút bom xuống nhà ga xe lửa Yên Viên. Sau gần một phút chiếc pháo đài bay vỡ tung thành nhiều mảnh và rơi xuống địa phận Huyện Kim Anh, Vĩnh Phúc. 3 phi công trong kíp lái 6 người kịp nhảy dù, nhưng bị bắt làm tù binh và cũng là 3 tù binh đầu tiên thuộc lực lượng không quân chiến lược Hoa Kỳ. Tiêu diệt chiếc pháo đài bay này là tiểu đoàn tên lửa số 59 của Quân chủng Phòng không- không quân. Mảnh xác của chiếc máy bay này hiện đang nằm trong Viện bảo tàng Lịch sử quân sự Việt Nam ở Hà Nội.

Đợt tấn công thứ hai do 30 pháo đài bay B52D và G thuộc căn cứ Andersen. Thời gian là khoảng gần nửa đêm, mục tiêu vẫn là các điểm ném bom của đợt tấn công thứ nhất. Bay trên độ cao 38 500 ft (11.734km) “Cam”02 (B-52G số hiệu 8246) đã trút toàn bộ bom xuống mục tiêu và bắt đầu vòng lượn trở về thì một đầu đạn tên lửa V-750 phát nổ phía bên trái. Mảnh tên lửa xé nát cánh cản và chọc thủng thùng dầu trên cánh. Hai động cơ bị mảnh đạn băm thành nhiều mảng vỡ. Máy bay bốc cháy, nhưng cơ trưởng đã cố gắng giữ được lái, thoát khỏi vòng lửa và duy trì hướng bay về phía Thái Lan. Kíp lái nhảy dù rơi xuống vịnh Bắc bộ và được lực lượng cứu hộ của hải quân Mỹ vớt lên, đưa về Utapao, sau đó chuyển về Andersen - Guam.

Trong lúc kíp lái “Cam”02 nhảy dù, đợt tấn công thứ 3 của không quân Mỹ với 51 máy bay B-52 D và G. 21 chiếc từ Thái Lan tấn công khu trung tâm Thành phố Hà Nội.

Chiếc B-52 “Hoa hồng”01 (số hiệu 6608) cất cánh lúc 02.46 theo giờ Thái lan tại căn cứ Utapao. Vào 4h56 phút theo giờ Hà Nội đã thả 108 quả bom 340kg xuống thủ đô Hà Nội. Các máy bay B-52 bay ổn định như đang duyệt binh và trở thành mục tiêu tuyệt vời cho các chiến sĩ tên lửa. Các máy bay B-52D lọt vào khu vực hỏa lực của 11 tiểu đoàn tên lửa SA-75M. Hàng loạt bệ phòng đồng loạt phóng đạn diệt mục tiêu.

Trên máy bay, các xạ thủ súng 20 mm ở phía đuôi máy bay, có khả năng quan sát được toàn bộ vùng bán cầu phía sau máy bay, thấy rõ được các vệt quỹ đạo đường bay của tên lửa, đặc biệt khi tên lửa xuyên qua lớp mây dày. Một quả tên lửa bay giữa làn khói từ động cơ phía bên phải và đuôi máy bay Hoa hồng” 01, khi xạ thủ súng máy chỉ kịp báo cáo cơ trưởng (tên lửa bay quá gần..) thì đầu đạn tên lửa thứ hai, bay tiếp theo đầu đạn thứ nhất, nổ tung phía bên trái sườn B-52 khi chiếc này bắt đầu vòng lượn thoát hiểm.

Mảnh đạn tên lửa đã cắt toàn bộ các đường truyền trong thân máy bay, tạo ra hàng trăm lỗ thủng trên thân máy bay. Có những lỗ thủng có đường kính rất lớn, đến nỗi hoa tiêu có thể quan sát được các giá giữ bom dưới cách trái. Trong cabin phi công phát hỏa, Hoa hồng” 01 không vòng hết nổi ½ vòng, toàn bộ kíp lái vội vàng nhảy dù thoát thân. Máy bay rơi khoảng 9 km về phía tây nam thành phố Hà Nội, làng Thanh Oai (Hà Tây khi đó). 4 trong số sau phi công bị bắt ngay trong đêm, Mảnh vỡ máy bay được trưng bày tại viện bảo tàng Phòng không – Không quân tại Hà Nội.

Tháng giêng năm 1996, tổ chức tìm kiếm người Mỹ mất tích và các đồng nghiệp người Việt đã đào bới vị trí rơi của "Hoa hồng" 01, thu được hài cốt của trung sĩ Charlie Poole, xạ thủ súng tự động đuôi máy bay. Các tìm kiếm thu thập được tiến hành xét nghiệm tại phòng thí nghiệm trung tâm của căn cứ không quân Hikam trên quần đảo Ha oai.

Chiếc "Stratofortress" "Cầu vồng" 01 (B-52D, số hiệu 6583) bị thương do trúng tên lửa ở độ cao 34000 ft. (11km) khi đang trên đường tiếp cận mục tiêu – nhà máy sửa chữa xe lửa Gia Lâm Hà Nội, tuyến đường bay của chiếc Cầu vồng 01 đi qua khu vực xạ kích của 6 bệ phóng tên lửa SA-75M. Máy bay bị thương tổn nặng nề nhưng cố gắng lết về Utapao và hạ cánh. ...

Hiểm họa trong màn đêm

Các mục tiêu của đêm không kích thứ hai "Stratofortress" bao gồm thêm cả nhà máy sửa chữa ô tô Kinh Nỗ, Đài phát thanh tiếng nói Việt Nam tại Hà Nội, nhà ga Yên Viên, nhà ga trung chuyển ở Bắc Giang và nhà máy nhiệt điện Thái Nguyên (55km phía Tây Hà Nội). Các pháo đài bay tiến công theo 3 đợt công kích với 21, 36 và 36 máy bay mỗi đợt. Đội hình bay theo tốp 3 chiếc, khoảng cách mỗi tốp là 500 ft theo độ cao và giãn cách với máy bay dẫn đầu khoảng 1 dặm, khoảng cách giữa các máy bay cũng là 1 dặm.

Đợt tấn công thứ nhất bao gồm có 12 máy bay B-52D và 9 máy bay B-52G từ căn cứ Andersen, lúc 20h10 theo giờ Hà Nội các B-52 tiếp cận nhà máy sửa chữa ô tô và trút xuống một trận mưa bom 340 kg lên mục tiêu. Từ phía dưới hàng chục tên lửa S-75 được phóng lên nhưng không đạt hiệu quả, các máy bay B-52 an toàn thoát khỏi vùng lửa.

Đợt tấn công thứ 2 bao gồm có mục tiêu ga trung chuyển Bắc Giang và trung tâm thành phố Hà Nội, 36 máy bay B 52 với 21 máy nay B-52G từ Guam, 15 máy bay từ Thái lan. Theo kế hoạch chung sẽ gặp nhau và tổ chức đội hình chiến đấu ở ngoại vi thành phố Hà Nội.
Bắt đầu vào lúc 23h50 theo giờ Hà Nội, mưa bom rơi liên tục trong vòng 25 phút vào các mục tiêu đã được chỉ định. Và lực lượng phòng không tên lửa cũng đáp trả quyết liệt, các phi công B-52D đếm được 25 lượt phóng tên lửa. Kíp lái các máy bay tiếp sau cũng xác nhận được điều này. Nhưng phi đội "Xương voi" (B52D, căn cứ Utapao) có nhiệm vụ ném bom trung tâm thủ đô Hà Nội, khi thực hiện nhiệm vụ đã rơi vào vùng chiến đấu của gần 10 khẩu đội tên lửa SA-75M.

Một ghi chú nhỏ: Bộ tư lệnh lực lượng không quân Mỹ từ kinh nghiệm những đợt không kích bằng máy bay tiêm kích ném bom đã hiểu rõ, thông thường vùng sát thương, hủy diệt của tên lửa S-75 nằm cách vị trí phóng đạn khoảng tử 15 đến 18 km của phân đội tên lửa. Do đó, kíp lái B-52 được nhận mệnh lệnh vào thời điểm cách khu vực có khả năng có tên lửa SA-75M bật hết công suất tất cả các đài gây nhiễu và tác chiến điện tử, được sử dụng để chống lại radar dẫn bắn của tên lửa SNR-75, đồng thời không phá đội hình không kích...

Các máy bay của nhóm "Xương voi" trước khi tiếp cận mục tiêu trên đường bay chiến đấu vẫn giữ được đội hình của phi đội. Các kíp lái phát hiện có từ 25 đến 40 tên lửa SA -75M được phóng lên. Khoảng 10 giây sau khi trút hết 108 quả bom 340 kg trên độ cao 11,5km, B-52D “Xương voi”01 (số hiệu 6592) bắt đầu vòng ngoặt gấp thoát ly mục tiêu. Đây là thời điểm các trắc thủ tên lửa có điều kiện phát hiện rõ mục tiêu do khi bẻ lái, độ phản xạ hiệu dụng của B-52 là lớn nhất.

Không một phi công nào trên “Xương voi” 01 phát hiện ra tên lửa đang phóng tới máy bay. Khối nổ mảnh của tên lửa phát nổ ở khoảng cách 50 – 100 ft cách đuôi máy bay, gây chết máy động cơ, đồng thời mọi đường dẫn trong thân máy bay bị tổn thất nặng nề. Nhưng chiếc B-52 cố gắng thoát ly vòng lượn, “Xương voi” 01 nhận thêm 1 tên lửa nữa, nhưng vụ nổ xảy ra cao hơn máy bay, do đó không có tổn thất đáng kể, chiếc “Xương voi”01 lết được về đến căn cứ Nam Fong Thái Lan.

Ba chiếc B-52G, bay phía sau phi đội “Xương voi” nằm trong phi đội “Hạt dẻ” hai trong số 3 máy bay còn trang bị các máy gây nhiễu điện tử đời cũ hơn. Các máy bay hành tiến về phía đài phát thanh tiếng nói Việt Nam trên khoảng cách 9 dặm lệch hướng bên trái so với quỹ đạo đường bay đã được vạch ra. Khoảng 13 dặm đến vị trí ném bom, “Hạt dẻ” 03 (số hiệu 8254) trên độ cao 11.243km bị tên lửa SA-75 đánh trúng, đầu đạn V-750 khiến chiếc máy bay bị tổn thương nặng nề. Tai họa xảy ra khi máy bay phá vỡ đội hình bay của máy bay ném bom, lệch khỏi quỹ đạo vạch sẵn để hướng về phía mục tiêu, nên tách ra khỏi phông nền ngụy trang của nhiễu, đồng thời các thiết bị gây nhiễu sóng âm không đủ mạnh. Kết quả là các trắc thủ tên lửa đã xác định được B-52 trên nền nhiễu và bắn hạ.

Ngoài ra, phi đội "Hạt dẻ" còn hành tiến trong vùng xạ kích của nhiều khẩu đội tên lửa SA-75M. Cũng cần phải nhận xét: "Hạt dẻ”03 là máy bay B-52G duy nhất bị tổn thương bởi đầu đạn V-750 nổ ngay sát gần, rất may là các tổn thương không khiến cho B-52 rơi ngay tại chỗ.

Đợt tấn công thứ 3 của Stratofortress bao gồm có 15 B-52D và 6-B52G từ căn cứ không quân Andersen, 15 B-52D từ căn cứ Utapao. 9 chiếc B-52D cất cánh từ Guam có nhiệm vụ ném bom nhà ga Yên Viên, phía đông của Sông Hồng. Mục tiêu nhà ga đã bị không kích đến 1116 quả bom 340 kg, đến đó mất khoảng 8 phút. Các kíp lái không phát hiện ra tên lửa được phóng lên.

Khi những tiếng nổ trên khu vực Yên Viên sắp kết thúc, 27 chiếc B-52 chuẩn bị ném bom nhà máy nhiệt điện Thái Nguyên, 35 dặm (55km) cách Hà Nội. Kíp lái của một Stratofortress phát hiện đốm lửa của tên lửa SA-75 được phòng lên, nhưng không thấy vụ nổ. Chỉ khi máy bay bay về đến căn cứ, các thợ máy và phi công phát hiện ra chiếc “Cầu vồng” 01, thân và cánh bị các mảnh tên lửa V-750 xuyên thủng từ 30 – 35 lỗ.

Các phi công Mỹ ngày 19 tháng 12 ghi nhận được suốt trận đánh có 182 tên lửa được phóng lên. Nhưng chỉ có 2 máy bay B-52 bị thương, và không chiếc nào bị bắn hạ, điều đó làm cho bộ tư lệnh không quân và cơ quan điều hành tác chiến “Linebacker II’ quyết định vẫn bay theo đường bay đó vào tối ngày 20 tháng 12. Điều đó đã dẫn đến một thảm kịch đối với B-52, 4 chiếc B-52 G và 2 chiếc B-52D rơi tại chỗ, đồng thời 1 chiếc B-52D bị mảnh tên lửa SA-75 băm thủng lỗ chỗ khi hạ cánh xuống Utapao.

Thảm bại của 'pháo đài bay'

Sự kiện các tình huống chiến trường càng xấu đi với B-52. Ngày 20-12, 99 chiếc Stratofortress bay vào Việt Nam theo 3 đợt tấn công. Đợt tấn công thứ nhất gồm có 6 B-52D và 12 B-52G từ căn cứ Andersen, 15 chiếc từ căn cứ Utapao có nhiệm vụ ném bom nhà máy sửa chữa xe lửa Gia lâm ở Hà Nội. Hai phi đội 6 chiếc B-52 từ Guam ném bom xuống nhà máy, đã bay qua trận địa tên lửa của hàng chục khẩu đội SA-75M nhưng chỉ bị 4 quả tên lửa tấn công và không có tổn thất.

Nhưng sự kiện lại rất xấu đối với mục tiêu nhà ga xe lửa Yên Viên và tổng kho Ái Mỗ nằm cạnh đó. 27 chiếc B-52 được chia thành 9 tốp máy bay mỗi tốp 3 chiếc đã lao đầu vào 1 lưới lửa dày đặc tên lửa SAM-2, các kíp lái đếm được đến 130 quả tên lửa được phóng lên.

Xác 'pháo đài bay' B-52 bị bắn hạ trên bầu trời Hà Nội.

Phi đội “Chăn bông” 3 chiếc B-52 G, bay ở độ cao 35000 feet (10, 688km) là phi đội dẫn đầu, hai chiếc B-52 không có được các trang thiết bị gây nhiễu tốt nhất, “Chăn bông”03 (số hiệu 6496, đồng thời chiếc “Chăn bông”01 khi bắt đầu chuyển trạng thái từ hành trình sang chiến đấu xuất hiện những trục trặc với bộ phận tạo nhiễu radio, mặc dù vậy, các sensors tạo nhiễu cho các đài radar dẫn bắn tên lửa vẫn hoạt động ổn định, chiếc “Chăn bông” 02 tập trung toàn bộ công suất gây nhiễu trên tần số dẫn bắn và điều khiển tên lửa của đài phát sóng radar RSNA -75M.

Phi đội đã chọc thủng tuyến phòng thủ dày đặc của lực lượng tên lửa Việt Nam bảo vệ mục tiêu (xác định có 16 tên lửa được phóng lên). Các máy bay sau khi trút bom đã bẻ góc gấp để thoát ly chiến trường, “Chăn bông” 03 bị trúng tên lửa. 10 giây sau khi phi công ném bom đóng các cửa thả bom trên B-52, tên lửa phòng không đâm vào bên trái sườn máy bay. Áp lực trong các đường ống dẫn dầu điều khiển máy bay về tầm và hướng tụt xuống bằng 0. Tốc độ bay của máy bay lúc đó là 900 km/h. Máy bay tụt xuống độ cao 20000 feet (6km). Cơ trưởng ra lệnh nhẩy dù, 4 phi công bị bắt ngay khi chạm đất và được trả về vào tháng 3 năm 1973. Hai phi công bị chết khi tên lửa đâm vào máy bay. Xác của họ được trả về quê hương sau khi ký Hiệp định Paris.

Bốn phi đội pháo đài bay bay sau phi đội “Chăn bông” sau đó là phi đội “Đồng thau” 3 chiếc, trong đó chỉ có một chiếc B-52G được trang bị đầy đủ các thiết bị gây nhiễu. Phi đội bay lệch khỏi quỹ đạo đường bay quy định từ 4-7 dặm về phía trái, do các kíp lái nhìn đường bay của tên lửa đất đối không và cho rằng hỏa lực đang tập trung về phía mình nên đánh lệch hướng nhằm giảm bớt nguy cơ bị tiêu diệt. Khi phi đội đã ném bom lên mục tiêu, 40 giây sau, khi các máy bay bẻ lái thoát ly mục tiêu, đội hình chiến đấu bị phá vỡ do “Đồng thau”01 rời khỏi đội hình chiến đấu cách 6 dặm so với “Đồng thau”02, ngay tức khắc, “Đồng thau” 02 (số hiệu 6481) bị hai quả tên lửa SA-75 đánh trúng.

Khối nổ của tên lửa xé tan cánh bên phải của Stratofortress, quả tên lửa thứ hai nổ gần bên phải, phía đuôi của máy bay, Kíp lái, sau vụ nổ, khi quan sát phát hiện 4 động cơ của máy bay đã bị phá hủy. Tốc độ máy bay tụt xuống 250 knots (463km/h) đồng thời máy bay gặp gió cản với tốc độ rất lớn, 5 phút sau 2 động cơ tiếp tục bốc khói rồi chết hẳn. Cơ trưởng cố gắng đưa chiếc máy bay nặng nề vào chế độ bay hành trình theo động năng và cố gắng lết đến ngoại vi căn cứ Nam Phong của Thái Lan, ở ngoài biển kíp lái bỏ máy bay nhẩy dù và sau đó được lực lượng cứu hộ Hải quân Mỹ vớt, ngày hôm sau máy bay tiếp dầu KC-135 đưa các phi công trở về căn cứ Andersen. Trước lễ Giáng sinh, kíp lái được chuyển về căn cứ ở Mỹ.

Phi đội “ Cam” B-52D, cất cánh từ căn cứ Utapao bay ngay tiếp sau phi đội Đồng Thau, khi “Cam”01 và “Cam”02 đã kịp trút bom xuống ga Yên Viên và tiến hành bẻ góc gấp thoát ly mục tiêu, khi đó biểu đồ hướng của các sensors gây nhiễu điện từ trên máy bay không đủ khả năng chống lại các đài phát radar phát hiện mục tiêu RSNA – 75M và che cho chiếc “Cam” 03 số hiệu 6622. Máy bay vừa trút xong toàn bộ cơ số bom xuống mục tiêu và đang bay ở độ cao 35500 ft (10,082km) bị trúng cùng một lúc 2 quả tên lửa. Máy bay bốc cháy và quay vòng xung quanh, nổ tung. Các mảnh vỡ rơi xuống Xã Yên Thượng. Hai phi công nhảy dù khỏi máy bay lập tức bị bắt làm tù binh và được trao trả vào năm 1973. Số phận 4 phi công còn lại được cho là mất tích.

Cũng phải nhận xét rằng: Trên đường bay, các kíp lái B-52 phát hiện nhiều lần máy bay MiG, nhưng các MiG hầu như không tham chiến, theo ý kiến của các phi công B-52, MiG đóng vai trò máy bay trinh sát, chỉ quan sát, xác định đội hình, tốc độ, tầm cao, hướng bay của các phi đoàn B-52 cho Bộ chỉ huy quân chủng Phòng không – Không quân Việt Nam.

Tất nhiên, đợt tấn công thứ 2 không phải đã diễn ra không có sự quan tâm của các trắc thủ tên lửa Việt Nam. 9 chiếc B-52D, 18 B-52G (tất cả đều xuất kích từ sân bay Andersen) ném bom nhà ga Hà Nội, ga chung chuyển Bắc Giang và nhà máy nhiệt điện Thái Nguyên. Đội hình của đợt tấn công này không bị tổn thất nặng nề do giữ nguyên được đội hình chiến đấu. Sở chỉ huy và ban tham mưu chiến dịch ném bom của Không quân Mỹ nhận thấy không phải tất cả các máy bay B-52G đều được trang bị các trang thiết bị tác chiến điện tử, có đủ công suất để chống lại các đài phát radars dẫn bắn tên lửa của Phòng không Việt Nam. Vì vậy, 6 máy bay B-52G được sử dụng để che chắn gây nhiễu cho các máy bay còn lại ném bom, vì thế nên ở đợt tấn công thứ 2, các B-52 không bị tổn thất.

Nhưng đợt tấn công thứ 3, các pháo đài bay không được may mắn như đợt thứ 2, với 12 B-52G, 9 B-52D từ căn cứ Andersen, 18 B-52D từ căn cứ Utapao, trong 16 phút ném bom trên bầu trời Việt Nam đã chịu những tổn thấn nặng nề. 9 chiếc B-52D đã ném khối gang thép chết chóc xuống nhà ga Hà nội, chiếc B-52 thứ năm trên độ cao 35500 feet (10,822km) thuộc phi đội “Rơm” 02 (số hiệu 6669), kíp lái chiếc máy bay này vừa kịp thông báo có 4 tên lửa SA-75 bay trượt bên cạnh thì quả tên lửa thứ 5 nổ tung. Vụ nổ xảy ra vài giây sau khi chiếc máy bay xấu số vừa trút bom xuống mục tiêu và bắt đầu vòng lượt thoát ly mục tiêu.

"Rơm" 02 mất ngay hai động cơ, máy bay duy trì bay được khoảng 30 phút, điều đó giúp cho kíp lái lết được đến biên giới Việt Lào, toàn bộ kíp lái nhảy dù trước khi máy bay nổ tung. 5 trong số 6 phi công được máy bay trực thăng cứu hộ HH-53 cứu thoát, phi công radar –ném bom mất tích cho đến tận ngày nay, hoàn toàn có khả năng phi công này đã tử vong. Hoàn toàn không có khả năng cho rằng các phi công đã bị bắt, cho đến khi kết thúc chiến tranh, có hơn 500 người Mỹ mà dấu vết của họ biến mất. Kíp lái của “Rơm”02 xác nhận có đến 18 tên lửa SAM được phóng về phía máy bay.

Ba chiếc B-52G thuộc phi đội “ Oliu” tiến đến mục tiêu là nhà máy sửa chữa ô tô Kinh Nỗ vào lúc 23.12 theo giờ Hà Nội. Khoảng cách theo hướng bay giữa các máy bay là từ 2 đến 3 dặm. “Oliu” 01, số hiệu 8198 đang bay trên độ cao 35000 feet (10,6km). Chiếc B-52 này là máy bay dẫn đầu trong đợt tấn công, trút hết số lượng bom 750 bảng Anh (340kg), B-52 bẻ lái thoát ly gấp khỏi mục tiêu, ngay tức khắc bị trúng 1 tên lửa SA-75M. Điều đó xảy ra khi “Oliu” 03 đang ở điểm ném bom và cách “Oliu” 02 khoảng 2 dặm theo đường bay. Sử dụng các thiết bị gây nhiễu ngăn chặn chùm sóng radar xác định, khóa mục tiêu và radar dẫn bắn tên lửa. Cả “Oliu” 02 và 03 đều thông báo về phi đội đang bị chiếu xạ radar tên lửa RSNA-75 1 phút trước khi 01 bắt đầu ném bom. Theo xác định của các kíp lái, phi đội bị xạ kích bởi 7 khẩu đội tên lửa SA-75M, với 38 tên lửa đất đối không.

Nguyên nhân tử vong của “Oliu” 01 là không giữ được đội hình tác chiến khi tiến hành không kích, đồng thời góc ngoặt gấp của B-52 khi thoát ly mục tiêu. Ba phi công nhảy dù thành công và bị bắt, 2 phi công được trao trả vào tháng 3-1973. Sau khi kết thúc chiến tranh, Việt Nam đã trao trả nốt tro cốt của phi công thứ 3, đã tử vong trong giai đoạn ở trại giam.

8 phút sau phi đội “Oliu” là phi đội “Nâu xám” chiếc máy bay số 03 B-52G (số hiệu 8169) bay ở độ cao 36000ft (11km). Chiếc máy bay này quả thực không may mắn: Thứ nhất, máy bay không được trang bị các thiết bị tác chiến điện tử, gây nhiễu đã được nâng cấp mà vẫn phải tham gia không tập, khi cất cánh, radar mục tiêu bị hỏng. Khi không kích, chiếc máy bay này đã tách khỏi đội hình chiến đấu, nghiêng về phía bên phải so với quỹ đạo đường bay khoảng 4 dặm so với quy định.

“Nâu xám” 03 đang bay cách 2 thành viên còn lại của phi đội khoảng 6 dặm thì trúng tên lửa, vụ nổ của đạn V-750 đã xé tan toàn bộ máy bay. Thoát chết duy nhất là phi công hỏa lực đuôi máy bay, bằng một phép thần kỳ nào đó đã kịp bung dù. Phi công bị bắt và được trao trả vào tháng 3-1973.
Trong số các mục tiêu ở Hà Nội, theo kế hoạch sẽ bị ném bom vào ngày 20-12-1972, có kho xăng dầu Gia Thượng. Phi đội “Gạch” sẽ trút đợt bom cuối cùng trong đêm không kích. Khi ba máy bay B-52D bắt đầu lượn vòng thoát ly mục tiêu, 4 tên lửa SA-75M lao tới. Vụ nổ của đầu đạn tên lửa tạo ra hàng trăm lỗ thủng trên cánh phải của “Gạch” 02 (số hiệu 5067), đang bay ở độ cao 35000 feet (10, 6km). Kíp lái đã cố gắng kéo chiếc máy bay về đến căn cứ Utapao.

Ngày đen tối nhất của không quân Mỹ

...Ngày 20-12-1972 cho đến ngày nay được coi là một trong những blackday (ngày đen tối) của lực lượng không quân Mỹ, khi Mỹ đã mất một số lượng B-52 lớn nhất trong lịch sử chiến tranh chỉ trong một lần không tập.

Trên miền Bắc Việt Nam ngày 21-12-1972. Xuất phát từ sân bay Utapao là các máy bay B-52D, được trang bị các thiết bị tác chiến điện tử mới. 30 chiếc pháo đài bay nhằm các mục tiêu đã định trước là sân bay Quang Tề (6 chiếc) sân bay Bạch Mai (12 chiếc), khu kho hàng tại Văn Điển (12 chiếc) trong khu vực Hà nội vào khoảng lúc 3h33 - 3h48 theo giờ địa phương.

Tầm cao của hành trình bay cũng có thay đổi so với 3 đêm không kích đầu tiên. Ngày 21-12-1972 các đội hình bay của B-52 nằm trong khoảng 33500 ft đến 38000 ft (10, 21km – 11,58 km). Giãn cách thời gian giữa các phi đội được rút ngắn từ 4 phút bay đến 90 – 120 giây. Điều này cho phép các máy bay B-52 có điều kiện rút ngắn thời gian có mặt trên mục tiêu (có nghĩa là trong khu vực tác chiến của tên lửa) đến 15 phút thay vì 30 – 40 phút. Máy bay không tiến hành ngoặt gấp thoát ly mục tiêu mà tiếp tục bay thẳng theo đường bay ra Vịnh Bắc bộ, sau đó chuyển hướng về phía Thái Lan.

Vào lúc 3h33 chiếc máy bay đầu tiên B-52D bắt đầu trút bom xuống sân bay Quang Tề. Kíp lái thông bao có hai khẩu đội tên lứa phóng đạn nhưng không trúng mục tiêu. Sau vài phút 12 chiếc máy bay B-52D bắt đầu tấn công tổ hợp nhà kho ở Văn Điển. Lần này phi đoàn B-52 bị tấn công bằng nhiều tên lửa đất đối không, do B-52 nằm trong khu vực xạ kích của 12 khẩu đội tên lửa, nhưng các tên lửa không đạt hiệu suất tác chiến cao, 12 chiếc B-52 thoát ly an toàn.

Nhưng tốp máy bay đánh sân bay Bạch Mai thì không được may mắn như vậy. ở độ cao 36500 ft (11,12km) tại điểm chuyển trạng thái hành tiến sang tấn công, máy bay “Đỏ”01 số hiệu 55-0061 phát hiện hỏng hóc ở hệ thống radar kính ngắm mục tiêu. Tiến hành ném bom vào mục tiêu chính xác máy bay không thực hiện được. Để thực hiện ném bom cần có một máy bay B-52 khác trong phi đội làm điểm định vị bổ sung, “Đỏ” 01 thông báo sẽ chiếm vị trí ngay sau “Đỏ”02, do radar kính ngắm của máy bay 02 hoạt động tốt, có thể cho phép 01 ném bom chính xác.

Trong thời gian đó, theo đội hình “Đỏ”03 bay ngay phía sau 01 và 02 trên dãn cách 6 dặm, pháo phòng không bắn liên tục vào 01 và 02 (không có hiệu quả). Một trong những thiết bị phát xung của hệ thống tác chiến điện tử trên 03 bị hỏng, khi đó các sensors trên 01 và 02 thông báo, máy bay đang bị chiếu xạ bởi radar tên lửa RSNA-75M. Kíp lái của “Đỏ” trực tiếp nhìn thấy điểm và ánh lửa phóng tên lửa trên mặt đất. Phi công nhận định có đến 15 tên lửa V-750. Một tên lửa lao vào máy bay 03 và nổ tung vào lúc 3.43 theo giờ địa phương. “Đỏ” 03 không có đủ 60 giây bay đến mục tiêu và trút bom.

3 phi công của “Đỏ” 03 nhảy dù và bị bắt làm tù binh. Được trao trả vào tháng 3-1973. Ba phi công còn lại mất tích. Sau này Việt Nam trao trả hài cốt hai phi công. Số phận của phi công thứ 3 cho đến ngày nay không ai biết.

Sau 3 phút sau khi “Đỏ” tấn công mục tiêu, phi đội “Xanh” tiến đến mục tiêu, phi đội bay ở độ cao 34000ft (1,03km). Kíp lái "Xanh” B-52D số hiệu 55-0050 đã bay trong đòn tấn công đầu tiên của chiến dịch Linebacker II (trong biên chế của phi đội “Cam” ) khi đó máy bay của họ bay trước máy bay “Hoa hồng”01, máy bay này đã bị bắn cháy.

Trong khi chuẩn bị xuất kích, cơ trưởng “Xanh”01- trung tá John Yuill thông báo cho các phi công rằng Kíp lái "Hoa hồng" đã bị bắt. Quen thuộc và có nhiều kinh nghiệm với những tính năng đặc trưng của khi máy bay bốc lửa đã giúp cho viên trung tá Yuill ra quyết định đúng đắn, cứu sống toàn bộ kíp lái .

"Xanh" 01 tiếp cận mục tiêu ném bom, lập tức bị tấn công bởi 6-7 quả tên lửa S-75. Một đầu đạn tên lửa nổ tung dưới thân máy bay, Kíp lái được lệnh của cơ trưởng nhanh chóng nhẩy dù. Pháo đài bay bị bắn rơi trước thời điểm ném bom khoảng 30 giây.
Trên “Xanh" 01 có hai sensors của thiết bị tác chiến điện tử bị hỏng RE5. Nhưng các thiết bị còn lại (hơn 10 sensor) phát xung, 02 và 03 đã sử dụng thiết bị gây nhiễu tích cực ở mức độ tối đa. Các hai máy bay B-52 đều bật 3 sensor phát xung chế áp tần số sóng radar của đài phát tên lửa. Khi phi đội Xanh tiến đến gần mục tiêu ném bom đã thực hiện cơ động tránh tên lửa. Cả ba máy bay đều giữ vững đội hình chiến đấu và đang bay trên quỹ đạo tác chiến được vạch ra. Nhưng 01 bị tiêu diệt. Như vậy, động tác kỹ thuật cơ động tránh tên lửa có thể đã diễn ra quá gấp. Đồng thời, hành trình bay chiến đấu của "Xanh" đi qua vùng hỏa lực của gần 9 khẩu đội tên lửa SA-75M.
Kết quả và đánh giá
Suy ngẫm về những nguyên nhân dẫn đến thảm bại của lực lượng không quân Mỹ trên bầu trời Việt Nam, có thể rút ra những kết luận như sau: Từ 9 máy bay B-52 bị bắn hạ trong vòng 3 đêm không kích, 6 máy bay Stratofortress bị bắn hạ bởi tên lửa đất đối không khi đang thực hiện vòng lượn gấp thoát ly mục tiêu, bẻ góc 45o. Khi máy bay lượn vòng gấp, cường độ phát xung gây nhiễu của các trang thiết bị tác chiến điện tử, gây nhiễu của B-52 đối với đài radar dẫn đường mục tiêu RSNA-75 hạ xuống thấp nhất. 5 % trong số 7 máy bay B-52G bị bắn rơi, không được lắp các trang thiết bị tác chiến điện tử mới được nâng cấp.

Trong giai đoạn không kích, thời tiết và khí tượng cũng ảnh hưởng rất lớn, do tốc độ gió ngược rất cao (180km/h) trên độ cao 10 km, độ cao máy bay B-52 trong 3 đợt không kích cường độ cao, hiệu ứng của nhiễu thụ động giảm xuống rất thấp. Các máy bay tiêm kích – ném bom F-4 Fantom, có nhiệm vụ rải nhiễu thụ động. Nhưng gió mạnh đã thổi bay các đám mây nhiễu xạ kim loại. Điều đó giúp cho các đài radar điểu khiển của tổ hợp tên lửa SA-75M có điều kiện tốt hơn phát hiện máy bay B-52 trên nền nhiễu dầy đặc.

Để có thể tấn công chính xác mục tiêu bằng các loại bom rơi tự do không có điều khiển với thiết bị phụ trợ là máy ngắm radar. Máy bay B-52 bắt buộc phải giữ đường bay và độ cao chuẩn. Đây là điều kiện tuyệt vời cho các trắc thủ radar – tên lửa đối với 1 chiếc pháo đài bay khổng lồ, tốc độ hành trình dưới âm và tính cơ động rất thấp. Trên thực tế phải có tới 4 phi đội 3 chiếc máy bay mới có hiệu quả sử dụng máy gây nhiễu tích cực và thụ động đối với đài phát radar RSNA-75, các thiết bị gây nhiễu của máy bay B-52 chỉ có thể gây nhiễu hiệu quả nếu máy bay bay thẳng trực tiếp đến các phương tiện phòng không với giá trị các thông số bằng 0 và đang ở độ cao 10 -11 km.

Khi máy bay trút bom và vòng thoát ly khỏi mục tiêu, hiệu ứng của các trang thiết bị gây nhiễu tụt giảm. Đã có quyết định là khi phi đội bắt đầu vòng lượn thoát ly mục tiêu thì phi đội thứ 2 sẽ che chắn và gây nhiễu tăng cường cho phi đội đi trước. Đồng thời trong khi máy bay quay vòng hệ số phản xạ hiệu dụng của máy bay tăng lên và khả năng phát hiện và khóa bám mục tiêu tăng lên rõ rệt. Đồng thời, hệ số phản xạ hiệu dụng cũng tăng lên khi máy bay bắt đầu mở các cửa khoang chứa bom.

Vì vậy, tổn thất nặng nề máy bay ném bom B-52 buộc Bộ tổng tham mưu không quân Mỹ phải nghiên cứu lại chiến thuật sử dụng máy bay ném bom B-52. Sự tổn thất tiếp theo của loại máy bay đắt giá này là không thể chấp nhận được. Để tiếp tục không kích miền Bắc Việt Nam bằng máy bay ném bom B-52 cần có những thay đổi cơ bản trong khai thác sử dụng các pháo đài bay B-52.

Sau chiến dịch Linebacker II, các đợt không kích bằng máy bay B-52 từ căn cứ Andersen đã chấm dứt. B-52 chỉ tham gia tác chiến trong chiến dịch Arc Light, ném bom các mục tiêu trong khu vực Miền Nam Việt Nam. Số lượng các máy bay gây nhiễu tăng từ 8 đến 12 máy bay. Số lượng máy bay yểm trợ tác chiến tăng từ 39 đến 58.

Đấy là một số những diễn biến xảy ra trên boong của các máy bay B-52 trong thời gian ném bom Hà Nội, theo công nhận với giới báo chí của không quân Mỹ, đã có 15 máy bay B-52 bị bắn hạ và 11 máy bay chiến thuật khác chịu chung số phận. Tuy nhiên, theo công bố của Việt Nam, đã có 34 máy bay B-52 và 47 các loại máy bay khác bị bắn rơi. Hà Nội và Hải Phòng, cũng bị tổn thất nặng nề do bom đạn về người và cơ sở vật chất, bao gồm cả các nhà máy, bệnh viện, trường học, khu dân cư, công trinh dân sinh và dân sự.
Copyright 2012 Tin Tức Quân Sự - Blog tin tức Quân Sự Việt Nam
 
Lên đầu trang
Xuống cuối trang