Tin Quân Sự - Blog tin tức Quân sự Việt Nam: 13 tháng 11 2011

Paracel Islands & Spratly Islands Belong to Viet Nam !

Quần Đảo Hoàng Sa - Quần Đảo Trường Sa Thuộc Về Việt Nam !

Thứ Bảy, 19 tháng 11, 2011

>> Uy lực từ bờ vai (kỳ 2)



Là sự bổ sung hoàn hảo cho Redyeye, Stinger được cải thiện đáng kể về khả năng dẫn đường và dò tìm, góp phần xoay chuyển cục diện trên chiến trường Afghanistan hồi thập niên 1980.

>> Uy lực từ bờ vai (kỳ 1)

Kỳ 2: Xoay chuyển cục diện chiến trường


Ngay từ năm 1946, giới chóp bu quân sự Mỹ cho rằng, thế hệ súng phòng không 12,7 mm trang bị cho lục quân đã trở nên “bất lực” trước những bước phát triển nhanh chóng của máy bay đối phương. Thực tế này đòi hỏi phải có một loại vũ khí mới, thích ứng với điều kiện tác chiến ngày càng hiện đại.

Mắt đỏ nhiều khiếm khuyết

Là thế hệ tên lửa vác vai đầu tiên của Mỹ, FIM-43 Redeye (Mắt đỏ) do hãng General Dynamics phát triển. Sau nhiều lần thất bại do lỗi kỹ thuật, tháng 2/1967, Redeye chính thức được trang bị cho quân đội Mỹ với những phiên bản như BLOCK I, BLOCK II, BLOCK III. Tương tự như các tên lửa phòng không mang vác thế hệ đầu, Redeye hoạt động theo nguyên lý tầm nhiệt (bám theo nhiệt từ khí thải và động cơ của máy bay) nhờ bộ cảm ứng gắn ở đầu. Với quai đeo rất tiện lợi, xạ thủ sử dụng Redeye có thể dễ dàng di chuyển và nhanh chóng tác chiến trên chiến trường.

Tuy nhiên, Redeye vẫn bộc lộ nhiều hạn chế trong tác chiến. Khiếm khuyết lớn nhất đó là Mắt đỏ rất dễ “mù màu” trước những nguồn nhiệt khác từ mặt đất hay sức nóng từ mặt trời, và mục tiêu giả do máy bay đối phương phóng ra như pháo sáng… Bên cạnh đó, tốc độ của Redeye còn khá… “khiêm tốn”, máy bay đối phương dễ phát hiện ra và nhanh chóng thoát thân. Trong cuộc chiến tranh ở Afghanistan, năm 1984, Mỹ đã cung cấp 50 quả tên lửa Redeye cho lực lượng Mujahideen Afghanistan để chống lại những người cộng sản.

“Chuyên gia” dò tìm

Khắc phục những hạn chế của Redeye, tên lửa FIM-92 Stinger là sự bổ trợ hoàn hảo cho lục quân Mỹ với khả năng dò tìm mục tiêu được nâng cao. Dài 1,52m, đường kính 70 mm, nặng 10,1 kg, Stringer có thể tấn công mục tiêu ở khoảng cách 4,8 km và độ cao từ 180 – 3.800 m. Tên lửa được phóng ra nhờ một động cơ nhỏ để tạo khoảng cách an toàn cho xạ thủ trước khi hệ thống cung cấp nhiên liệu rắn 2 tầng được kích hoạt, giúp Stinger đạt tốc độ Mach 2,2. Đầu nổ nặng 3kg, hoạt động theo nguyên lý chạm nổ, được gắn kíp nổ và đồng hồ hẹn giờ tự hủy.


http://nghiadx.blogspot.com
Tên lửa Stinger khai hỏa.


Phiên bản đầu tiên FIM-92A được phóng thử vào năm 1975. Nó đã hóa giải những chướng ngại vật mà trước kia Redeye không thể vượt qua, đó là việc sử dụng đầu dò hồng ngoại được làm lạnh thế hệ thứ 2 để nâng cao khả năng dò tìm và dẫn đường, nhanh chóng tiếp cận và tấn công mục tiêu. Hệ thống phân biệt bạn - thù cũng rất hữu dụng trong trường hợp hỗn chiến.

Được phát triển từ năm 1977, FIM-92B có đầu dò tìm 2 kênh, điều khiển bằng bộ vi xử lí mới. Tên lửa sử dụng kĩ thuật quét ảnh cùng đầu dò tia cực tím, giúp phân biệt chính xác mục tiêu thật - giả. Phiên bản FIM-92C (còn gọi là Stinger-RMP) với bộ vi xử lí có thể tái lập trình, tăng khả năng thích ứng với các mục tiêu khác nhau (trên đất, trên biển, trên không). Stinger tiếp tục được cải tiến với những phiên bản FIM-92D, FIM-92G, FIM-92E (Stinger Block I, gắn thêm bộ cảm biến hình tròn và chương trình phần mềm nâng cấp), FIM-92F, FIM-92H...

Stinger-RMP Block II – phiên bản hiện đại nhất của “dòng” Stinger, được phát triển từ năm 1996. Đầu dò hồng ngoại được cải tiến nhằm tăng độ chính xác và tầm bắn trong điều kiện bị gây nhiễu và áp dụng các biện pháp đối phó. Stinger được vận dụng hết sức linh hoạt, cho một người, hoặc phối hợp với các hệ thống phòng không khác như ATAS (Stinger không đối không) dùng trên trực thăng OH-58C/D Kiowa, AH-64 Apache hoặc RAH-66 Comanche; Avenger M998 HMMWV(xe đa chức năng); xe chiến đấu Bradley, xe M6 Linerbacker.

Át chủ bài ở Afganistan

Khi cuộc chiến tranh ở Afghanistan nổ ra, Liên Xô ủng hộ chính phủ của Đảng Dân chủ Nhân dân Afghanistan (PDPA) chống lại lực lượng Mujahideen Afghanistan. Việc Liên Xô đưa quân vào quốc gia Nam Á này đã buộc Mỹ phải tính toán tới khả năng can dự. Và chính quyền Reagan lúc đó đã đi một nước cờ khá bất ngờ, đó là trang bị Stinger cho Mujahideen. Kể từ khi các tay súng Mujahideen có Stinger, cục diện chiến trường dần thay đổi…

Số tên lửa chính xác được giao cho quân nổi dậy Afghanistan hiện còn gây nhiều tranh cãi. Trong chiến dịch Gió lốc, CIA đã cung cấp cho lực lượng Mujahideen gần 500 quả Stinger, nhưng có nguồn tin lại cho rằng con số này là 1500 đến 2000. Một vài nguồn tin cho hay, trong 3 tháng đầu tiên triển khai, mỗi ngày Stinger hạ 1 máy bay của Liên Xô. Stinger đã thể hiện rất rõ những ưu việt trên chiến trường có địa hình đồi núi như Afghanistan mà trước đó những loại như Oerlikon hay Blowpipe không làm được do vận chuyển và triển khai khó khăn.


http://nghiadx.blogspot.com
Stinger “đón lõng” mục tiêu.


Nếu như trước năm 1983, Nga chỉ phải chịu tổn thất từ 70 - 100 máy bay, đến năm 1986 khi Stinger xuất hiện, con số này tăng lên 150 - 200 máy bay. Trong 10 tháng đầu khai triển, 187 tên lửa Stinger được phóng ra, bắn rơi 140 máy bay (đạt hiệu suất khoảng 75%). Không chỉ là nỗi ám ảnh đối với trực thăng, Stinger còn đe dọa cả máy bay chiến đấu Mig. Hiệu suất tiêu diệt mục tiêu của Stinger đã mang đến những thay đổi đáng kể trên chiến trường, góp phần dẫn đến quyết định rút quân của Liên Xô vào cuối thập kỷ.

Thế nhưng, “gậy ông đập lưng ông”, sau này những quả tên lửa Stinger chưa sử dụng hoặc thất lạc lại trở thành “sát thủ” của chính máy bay trực thăng Mỹ khi Washington mở chiến dịch tấn công Taliban năm 2001. Hiện Mỹ vẫn đang phải lao tâm khổ tứ truy tìm tung tích Stinger để ngăn chặn nguy cơ tiềm tàng từ các tay súng Taliban.


>> Các kịch bản xung đột Iran-Israel (kỳ 2)



Là một đất nước có diện tích nhỏ, dân số hạn chế nhưng Israel lại thắng thế trong hầu hết các cuộc xung đột với cả khối Arab rộng lớn xung quanh.

>> Các kịch bản xung đột Iran-Israel (kỳ 1)

Nguyên nhân không chỉ ở sự ủng hộ của phương Tây mà còn nằm ở tiềm lực quốc phòng cực mạnh của đất nước này.

Kỳ 2: Tiềm lực quân sự Israel

http://nghiadx.blogspot.com
Vị trí của Israel trong khu vực và các nước tiếp giáp


So với các nước trong khu vực Trung Đông, Israel là một nước có diện tích khá nhỏ, chỉ gần 21.000 km vuông (bằng 1/9 diện tích Syria, 1/50 Ai Cập hay 1/80 Iran). Dân số của Israel cũng ở mức khiêm tốn với gần 8 triệu dân.

Tuy nhiên, Quân đội Israel là một lực lượng không hề nhỏ bé trong khu vực. Với quân số 187.000 quân, đội quân này đông bằng gần một nửa Quân đội Iran, vốn có dân số đông hơn 9 lần và diện tích rộng hơn 80 lần, chưa kể về trang bị vũ khí hiện đại, Israel không thua kém bất kỳ đất nước nào trong khu vực.

Hải quân

Với bờ biển ngắn, chỉ 273 km, trong đó ngoài 7 km đường bờ biển giáp với biển Đỏ, còn lại hầu hết đường bờ biển của Israel thuộc về biển Địa Trung Hải, một vùng biển ít nguy cơ xung đột kể từ sau khi nước này kết thúc chiến tranh với Ai Cập. Chính vì lẽ đó, hiện nay Israel xây dựng lực lượng hải quân khá hạn chế với 1.000 sĩ quan và 8.000 binh lính, trong đó có 3.200 lính là quân nghĩa vụ.

Được thành lập lại năm 1987, sau gần 25 năm, lực lượng này đã có trong tay 3 tàu ngầm tấn công, ba tàu hộ tống cỡ nhỏ, 10 tàu cao tốc tên lửa, 40 tàu tuần tiễu và hai chiếc tàu đổ bộ đệm khí.


http://nghiadx.blogspot.com

Tàu ngầm tấn công Dolphin đóng tại cảng Haifa

Ba chiếc tàu ngầm Israel sở hữu thuộc loại tàu ngầm tấn công chạy diesel thuộc lớp Dolphin do Đức sản xuất dựa trên loại tàu ngầm Type-209 chuyên để xuất khẩu của nước này.

Những chiếc tàu ngầm này có giãn nước 1.640 tấn lúc nổi và 1.900 tấn khi chìm. Dù chỉ có kích thước bằng một nửa tàu ngầm Project 877EKM lớp Kilo của Iran nhưng vũ khí của tàu ngầm lớp Dolphin cũng không hề thua kém, thậm chí còn vượt trội Kilo. Trong khi Kilo chỉ có 6 ống phóng ngư lôi cỡ 533 mm thì Dolphin vũ trang đến 10 ống phóng ngư lôi, gồm 6 ống cỡ nòng 533 mm có khả năng phóng tên lửa chống hạm Harpoon phiên bản phóng từ tàu ngầm và 4 ống cỡ nòng 650 mm.

Hiện có thông tin cho rằng Israel đã phát triển loại tên lửa hành trình có tên Popeye Turbo có khả năng phóng đi từ những ống phóng này. Tên lửa Popeye Turbo có khả năng mang một đầu đạn hạt nhân nặng 200 kg và đạt được tầm bắn lên tới 1.500 km trong một cuộc thử nghiệm của Israel vào tháng 5/2000.


http://nghiadx.blogspot.com

Tên lửa hành trình phóng từ tàu ngầm Popeye Turbo biến thể cải tiến của Israel có tầm bắn tới 1.500 km


Ngoài 3 chiếc Dolphin trên, Israel cũng đã đặt hàng Đức đóng thêm 3 chiếc Dolphin khác ứng dụng nhiều công nghệ mới so với những chiếc tàu ngầm cũ, trong đó có công nghệ động cơ hoạt động không cần tiếp khí AIP. Những chiếc tàu ngầm mới này dự tính sẽ phục vụ hải quân Israel trước năm 2015.

Xương sống chính của lực lượng tàu nổi Israel khá hạn chế, gồm 3 tàu hộ tống hạng nhẹ lớp Saar 5 và 10 tàu tấn công tên lửa Saar 4 và Saar 4.5.

Những chiếc Saar 5 có lượng giãn nước đầy tải đạt 1.227 tấn, vũ trang 8 tên lửa chống hạm Harpoon và tên lửa phòng không Barak cùng hệ thống CIWS Phalanx và ống phóng ngư lôi Mark 32.

Cả 3 tàu này đều đóng tại cảng Haifa, phía Bắc Israel trong biển Địa Trung Hải. 10 chiếc tàu tên lửa còn lại của Israel thuộc lớp Saar 4.5 cũng chỉ được trang bị tên lửa chống hạm Harpoon hoặc loại tên lửa chống hạm tầm ngắn nội địa của Israel là Gabriel có tầm bắn khoảng 36 km.


http://nghiadx.blogspot.com

Xương sống của lực lượng tàu nổi Israel, tàu hộ vệ hạng nhẹ lớp Saar-5


Ngoài một số tàu tuần tiễu có chức năng bảo vệ bờ biển khác, lực lượng hải quân Israel cũng vận hành 2 máy bay vận tải C-130H và 26 chiếc trực thăng bao gồm trực thăng vận tải như Bell 212 và trực thăng săn ngầm AS-565SA, SA-366G.

Chỉ có một căn cứ hải quân duy nhất nằm trên bờ biển Đỏ là cảng Eilat, còn lại toàn bộ các căn cứ hải quân của Israel nằm trên bờ biển Địa Trung Hải tại các thành phố như Haifa, Tel Aviv.

Cùng với đội hình tàu chiến thiếu vắng các tàu có khả năng thực hiện nhiệm vụ dài ngày trên biển (ngoại trừ 3 tàu ngầm Dolphin có khả năng tấn công răn đe bằng tên lửa hành trình), Hải quân của Israel chỉ làm nhiệm vụ chính là phòng thủ.

Trong tương lai, nếu Israel phải tấn công phủ đầu Iran, khi so sánh với các binh chủng khác của nước này, hải quân sẽ là lực lượng sau cùng được huy động.


http://nghiadx.blogspot.com

Máy bay chiến đấu F-15 của Israel đã có bề dày thành tích qua chiến tranh (mỗi dấu tròn được sơn trên thân máy bay tương ứng với một máy bay đối phương bị tiêu diệt)



http://nghiadx.blogspot.com

Kfir, sản phẩm nội địa của Israel.



http://nghiadx.blogspot.com

F-16I hiện đại nhất trong dòng F-16.



http://nghiadx.blogspot.com

F-16I, tên lửa Derby, Python và bom JDAM.



http://nghiadx.blogspot.com

Phi đội AH-64 Apache của Israel.



http://nghiadx.blogspot.com

UAV Heron của Israel.


Phòng không - Không quân

Qua hàng loạt các cuộc chiến với sự tham gia tích cực của không quân từ năm 1967 cho tới nay, Israel đã xây dựng được một binh chủng không quân đông đảo, trang bị hiện đại và nhiều kinh nghiệm.

Hiện tại, Không quân Israel có tổng cộng 32.500 binh sĩ, trong đó có 22.000 lính nghĩa vụ (chủ yếu phục vụ trong các đơn vị phòng không). Ngoài ra, lực lượng này có tới 54.000 lính dự bị có thể điều động bất cứ lúc nào cần thiết.

Toàn bộ lực lượng này phục vụ tại 11 căn cứ không quân trải dài khắp đất nước. Ngoài các đội bay chiến đấu, Israel còn sở hữu một số đơn vị đặc biệt như đơn vị tác chiến điện tử số 555 “Sky Crow”, đội bay thử nghiệm tên lửa số 151, đơn vị đặc nhiệm số 5101 Shaldaq.

Xương sống của không quân Israel là khoảng 400 máy bay chiến đấu thuộc bốn loại chính: Máy bay chiến đấu đa nhiệm F-16, phục vụ trong quân đội Israel từ năm 1980. Chiếm ưu thế trên không là những chiếc máy bay chiến đấu hạng nặng hai động cơ F-15, được mua về từ năm 1976.

Israel cũng sử dụng loại máy bay cũ hơn là F-4 loại 2 chỗ ngồi cho một số nhiệm vụ đối không và tấn công mặt đất và một loại máy bay nội địa khác là Kfir, chế tạo theo thiết kế máy bay Mirage-III của Pháp từ năm 1975.

Trước đó, Israel cũng vận hành một số máy bay A-4 Skyhawk mà nước này nhận được từ năm 1966, tuy nhiên toàn bộ số máy bay này đã được thải hồi để thay thế bằng những loại lớn hơn.

Trong giai đoạn 1998 - 1999, Israel cũng đã mua thêm hai loại máy bay F-16I và F-15I là những biến thể hiện đại hóa.

Hiện tại Israel sở hữu 102 chiếc F-16I và 25 chiếc F-15I. Những chiếc máy bay này, nhất là F-16I đã được nâng cấp lên biến thể Block 52 gần như hiện đại nhất của không quân Mỹ, có khả năng mang được các loại bom thông minh cũng như tên lửa diệt phong không tầm xa JASSM.

Trong tương lai, Israel tiếp tục đàm phán mua thêm loại máy bay thế hệ thứ 5 siêu hiện đại là F-35 của Mỹ. Nếu thương vụ này thành công, năm 2015 Israel có thể sở hữu thêm 25 máy bay F-35 JSF nữa.

Các phi đội máy bay chiến đấu của Israel cũng được hỗ trợ tối đa bởi những chiếc EC-707 Phalcon, loại máy bay cảnh báo sớm (AEW) được Israel tự chế tạo dựa trên máy bay Boeing 707 có khả năng vận hành vượt qua cả máy bay cảnh báo sớm E-2C mà Israel đã mua của Mỹ trước đó.

Nhằm đối phó với các nhóm du kích Hồi giáo và lực lượng thiết giáp của đối phương, Israel cũng trang bị một lực lượng đáng kể trực thăng vũ trang diệt tăng. Lực lượng này bao gồm 18 chiếc AH-64D Apache Longbow, 30 chiếc AH-64A Apache và 55 chiếc AH-1 thuộc hai biến thể E và F.

Thêm nữa, không thể không kể đến lực lượng UAV (thiết bị bay không người lái) của Israel. Trong những năm trở lại đây, Israel là một trong những nước phát triển UAV đi đầu trên thế giới để sử dụng trong nước và cả xuất khẩu ra nước ngoài.

Các sản phẩm UAV của Israel rất đa dạng: UAV tấn công tự sát như Harpy, UAV trinh sát, chỉ điểm mục tiêu Scout, Heron, Hermes-450.

Ngoài một phần vũ khí nhập khẩu từ phương Tây, ngành công nghiệp quốc phòng phát triển rất mạnh của Israel cũng cung cấp được một lượng lớn vũ khí cho không quân nước này.

Các sản phẩm vũ khí của Israel đều có chất lượng cao và được chào đón nhiệt tình tại các thị trường nước ngoài. Tiêu biểu có thể kể đến như tên lửa không đối không tầm nhiệt Python đã được xuất khẩu đi châu Âu và Nam Mỹ (nguyên mẫu của tên lửa Python là Shafrir có hiệu suất tiêu diệt cực cao khi chỉ với 176 quả Shafrir-2, Không quân Israel đã hạ 89 máy bay đối phương trong cuộc chiến tranh Yom Kippur).

Để phục vụ cho mục đích đánh các trận địa phòng không và công trình được gia cố vững chắc, Israel cũng sở hữu loại bom thông minh JDAM, JDAM-ER (Extended Range - Tăng tầm) mua của Mỹ. Ngoài ra, các loại tên lửa không đối đất nội địa như Popeye-I, Popeye-II với đầu đạn nổ phá nặng 340 kg cũng là lựa chọn tốt cho những nhiệm vụ loại này.

Nhằm chống lại nguy cơ tấn công bằng tên lửa của đối phương, toàn bộ đất nước Israel cũng được bảo vệ bằng một hàng rào dày đặc các hệ thống phòng không hỗn hợp từ tầm thấp, tầm trung và tầm xa.

Chịu trách nhiệm phòng thủ chống tên lửa đạn đạo trong hệ thống này là các tên lửa phòng không tầm xa Arrow và biến thể hiện đại hơn là Arrow-2. Các tên lửa này được tin rằng có khả năng phòng thủ tên lửa tốt hơn cả hệ thống MIM-104 Patriot của Mỹ và đang được triển khai đại trà tại Israel sau các cuộc thử nghiệm thành công từ cuối những năm 1990 và đầu 2000.

Arrow là hệ thống phòng thủ tên lửa tầm xa có tầm bắn tới 148 km (Arrow-2), độ cao mục tiêu tối đa 60 km (vượt cả S-400 của Nga), và có tốc độ tên lửa đạt đến 2.500 m/s (Mach-9). Với các thông số này, Arrow có thể hạ gục hầu hết các tên lửa đạn đạo có tầm bắn dưới 3.000 km được phóng vào đất nước Israel.


http://nghiadx.blogspot.com

Tên lửa phòng không tầm xa Arrow-2 của Israel đang khai hỏa.


http://nghiadx.blogspot.com

Hệ thống phòng thủ chống lại đạn pháo phản lực và đạn cối Iron Dome nổi tiếng của Israel đã được cả Mỹ đặt mua


Hệ thống phòng thủ tên lửa tầm trung của Israel cũng được đầu tư thích đáng với tên lửa Barak-8 với chức năng tương tự như tên lửa hải đối không ESSM của hải quân Mỹ. Barak-8 có tầm bắn tới 70 km và có thể đối phóng với các mục tiêu tên lửa hành trình siêu âm tốc độ tới Mach 3 như tên lửa đối hạm Yakhont mà Syria có thể mua của Nga.

Lớp phòng thủ cuối cùng là hệ thống đã quá nổi tiếng của Israel có tên Iron Dome (vòm sắt). Với radar có độ nhạy cao cùng thời gian phản ứng siêu tốc, Iron Dome có thể ngăn chặn cả những quả đạn pháo phản lực hay đạn pháo cối được bắn từ lãnh thổ đối phương vào đất nước này.

Hiện Iron Dome là mô hình tên lửa tầm ngắn tiên tiến được nhiều nước quan tầm. Thậm chí, Nga cũng đang phát triển một hệ thống phòng không điểm tương tự Iron Dome có tên là Morfei.

http://nghiadx.blogspot.com

Binh sĩ Israel với mũ trùm vải Mitznefet đặc trưng.



http://nghiadx.blogspot.com

Nam và nữ quân nhân bình đẳng.


Lục quân và các lực lượng đặc nhiệm

Trong Quân đội Israel, lực lượng có tần suất tham chiến không kém không quân là lục quân nước này. Liên tục được thử lửa trong các cuộc chiến tranh với Lebanon, Syria, 125.000 quân nhân lục quân Israel là một trong những lực lượng được huấn luyện tốt nhất thế giới.

Israel là một trong những nước có chế độ quân dịch chặt chẽ nhất toàn cầu. Các công dân Israel đủ 18 tuổi kể cả nam và nữ đều phải thực hiện nghĩa vụ quân sự. Thời gian phục vụ trong quân đội của những người này là 36 tháng đối với nam và 21 tháng đối với nữ. Hết thời gian phục vụ, những quân nhân này sẽ được giải ngũ nhưng họ có thể bị gọi lại bất kỳ lúc nào cho đến lúc 45 tuổi.

Bên cạnh đó, lục quân Israel cũng sở hữu một lượng khí tài khổng lồ, thậm chí là gấp nhiều lần những người hàng xóm rộng lớn xung quanh. Họ có trong tay 3.000 xe tăng chủ lực, hơn 10.000 xe bọc thép các loại, 600 pháo tự hành, 200 hệ thống pháo phản lực bắn loạt và khoảng 1.000 hệ thống pháo phòng không.


http://nghiadx.blogspot.com

Xe thiết giáp Israel đang bắn tên lửa chống tăng Tamuz


Trong 3.000 chiếc xe tăng Israel đang sở hữu, 900 chiếc thuộc các loại Magach-6 và Magach-7 (biến thể của xe tăng M-60 của Mỹ được Israel cải tiến bằng cách lắp thêm giáp phản ứng nổ và hệ thống điều khiển bắn mới) và 1.800 chiếc thuộc dòng xe tăng Merkava các loại, trong đó số lượng loại xe tăng hiện đại nhất Merkava Mk4 là 300 chiếc.

Xe tăng Merkava Mk4 là một trong những loại xe tăng có chất lượng có thể coi là đứng đầu thế giới. Thiết kế của xe có nhiều đặc điểm ưu việt như vỏ giáp composite đa lớp, đạn pháo được chứa trong khoang chống cháy riêng tách rời khỏi tháp pháo, trang bị hệ thống phòng thủ chủ động (APS) Trophy tiên tiến, cơ cấu pha loãng khí thải giảm bức xạ hồng ngoại...

Đặc biệt, các dòng xe tăng Merkava có một đặc điểm mà không chiếc xe tăng nào có được là thiết kế động cơ ở phía trước với cửa thoát hiểm phía sau giúp lái xe dễ dàng thoát thân khi xe bị bắn hạ (so với xe tăng truyền thống thiết kế cửa thoát hiểm dạng nắp phía trên).

http://nghiadx.blogspot.com

Thiết kế đặc biệt với cửa thoát hiểm đằng sau của xe tăng Merkava


Tuy nhiên, đóng vai trò chính nếu xung đột xảy ra giữa Israel và Iran sẽ không phải lực lượng lục quân hùng hậu trên mà chính là các lực lượng đặc nhiệm nổi tiếng của Israel.

Israel đã có truyền thống xây dựng lực lượng đặc nhiệm từ rất lâu, ngay từ khi lập nước năm 1948. Lực lượng đặc biệt đầu tiên nước này xây dựng là biệt đội Tzanhanim, đơn vị lính dù tinh nhuệ xây dựng vào tháng 6/1948 với nhiệm vụ thực hiện các nhiệm vụ quan trọng nhất.

Trong các cuộc xung đột quy mô nhỏ trong những năm 1950 giữa Israel và các nước Arab, không chỉ lính bộ binh bình thường, lực lượng Tzanhanim cũng chưa đủ kỹ năng để thực hiện các nhiệm vụ cần thiết, do đó, năm 1951, Israel thành lập tiếp đội 30 gồm những nhóm tác chiến nhỏ và được huấn luyện cực kỳ kỹ càng. Mặc dù vậy, với sự tiến triển của tình hình, tính chuyên nghiệp của đội 30 cũng vẫn chưa đáp ứng đủ yêu cầu, do đó đội này bị giải tán năm 1952.


http://nghiadx.blogspot.com

Ảnh chụp đội đặc nhiệm 101 của Israel năm 1955


Tháng 8/1953, Israel tiếp tục xây dựng một lực lượng tinh nhuệ khác có tên đội 101, chỉ huy bởi nguyên thủ tướng Ariel Sharon với vai trò thực hiện các nhiệm vụ khó khăn tại nước ngoài. Nòng cốt của đội đặc nhiệm này là 20 - 25 binh sĩ cực kỳ tinh nhuệ được tuyển chọn từ đội Tzanhanim và đội 30 trước kia.

Việc thành lập đội 101 là một mốc rất quan trọng của quân đội Israel khi xây dựng lực lượng đặc nhiệm chuyên nghiệp. Mặc dù vậy, đội 101 cũng không tồn tại lâu, sau vụ tấn công vào ngôi làng Qibya tại bờ Tây sông Jordan làm thiệt mạng 42 dân thường, đội này đã bị giải tán và sau đó hợp nhất với lực lượng Tzanhanim còn lại để tạo thành hai tiểu đoàn đặc nhiệm số 869 và số 101.

Không lâu sau đó, năm 1958, đội đặc nhiệm chính thức của Israel được thành lập với thành phần chính là các thành viên đã giầu kinh nghiệm từ đội 101. Đội đặc nhiệm này có tên là Sayeret MATKAL và có tổ chức, huấn luyện tương tự như đặc nhiệm SAS của Anh.


http://nghiadx.blogspot.com

Đặc nhiệm Sayeret MATKAL của Israel ngày nay


Mặc dù có năng lực chống khủng bố rất kém khi mới thành lập, nhưng sau đó các đội đặc nhiệm của Israel đã tiến bộ rất nhanh và ngày nay họ là những người sở hữu kỹ năng chống khủng bố tiên tiến nhất. Các chiến công có thể kể đến của lực lượng này như ngăn chặn vụ khủng bố tại Olympics Munich 1972 hay giải cứu con tin Israel tại sân bay Entebe (Uganda) năm 1976.

Tuy nhiên, lực lượng đặc nhiệm Israel cũng gặp phải những thất bại, trong đó lớn nhất là thảm họa năm 1974 tại trường trung học Mahalot. Hoạt động giải cứu con tin bất thành tại trường trung học Mahalot, nơi 3 tên khủng bố bắt giữ học sinh ngôi trường này làm con tin đã dẫn tới cái chết của 21 học sinh và bốn nhân viên khác. Thậm chí, hai trong số các con tin bị giết đã bị trúng đạn của các lực lượng giải cứu.

Bên cạnh đặc nhiệm quân đội Sayeret, đội đặc nhiệm không quân 5101 Shaldaq cũng không kém thành tích. Dù mới thành lập năm 1974 với quân số chỉ từ 40 - 50 người, nhưng Shaldaq có bề dày thành tích không kém các đội dặc nhiệm khác khác. Năm 1991, đội Shadaq đã bảo vệ thành công 14.000 người Do Thái đào thoát an toàn khỏi thủ độ Addis Ababa của Somalia bằng đường hàng không.

Năm 2006, tại Baalbek, đội này đã bắt giữ thành công một lãnh đạo cấp cao của Hezbollah, giết 19 chiến binh Hezbollah khác trên đường trốn thoát mà không có tổn thất nhân mạng.

Gần đây nhất, năm 2007, đặc nhiệm Shaldaq đã đột nhập thành công vào một cơ sở hạt nhân ngầm dưới lòng đất của Syria và sau đó chỉ điểm thành công cho máy bay Israel ném bom hủy diệt cơ sở này.

Ngoài các đội đặc nhiệm đã nổi tiếng, Israel cũng sở hữu nhiều đội quân bí mật khác như Yamas, Duv Devan... và một số dưới quyền cơ quan tình báo Mossad với rất nhiều “thành tích” ám sát lãnh đạo cấp cao của các tổ chức Hồi giáo cực đoan, các cựu sĩ quan phát xít Đức lẩn trốn tại Nam Mỹ hay các nhà khoa học hạt nhân của Iran.


http://nghiadx.blogspot.com

Các thành viên của đội đặc nhiệm Yamas. Lực lượng này có vai trò chuyên giả trang, trà trộn vào các nhóm cực đoan người Arab để thu thập thông tin hoặc ám sát

Tên lửa đạn đạo

Israel gia nhập hàng ngũ các nước sở hữu tên lửa đạn đạo từ khá sớm. Năm 1962, với sự giúp đỡ của công ty Marcel-Dassault, Israel bắt đầu nghiên cứu chế tạo loại tên lửa đạn đạo đầu tiên của mình có tên Jericho-1.

Trong 16 cuộc thử nghiệm được tiến hành từ năm 1965 tới năm 1968, 10 lần đã thành công. Năm 1973, tên lửa Jericho-1 được đưa vào biên chế quân đội Israel đóng tại Zacharia, phía Nam Tel Aviv.


http://nghiadx.blogspot.com

Tầm "bao phủ" của các loại tên lửa Israel


Jericho-1 là loại tên lửa đạn đạo tầm ngắn (SRBM) mang đầu đạn thông thường nặng 450 kg hoặc một đầu đạn hạt nhân 20 kT. Tầm bắn của loại tên lửa này đạt 500 km, có thể dễ dàng tấn công thủ đô Cairo của Ai Cập hay Damascus của Syria nều cần thiết.

Tuy nhiên, độ chính xác của Jericho-1 khá nghèo nàn với mức CEP tới 1.000 m, chỉ tương đương các tên lửa Scud-B, do đó, Israel đã thải hồi loại tên lửa này để sử dụng các loại tên lửa mới hơn là Jericho-2 và Jericho-3


http://nghiadx.blogspot.com

Tên lửa Jericho-3 được thử nghiệm đầu năm 2008


Tên lửa Jericho-2 cũng là loại tên lửa sử dụng nhiên liệu rắn sử dụng bệ phóng lưu động như Jericho-1. Việc nghiên cứu loại tên lửa này được tiến hành từ năm 1977 và bắt đầu hoàn thiện bắn thử năm 1986.

Năm 1990, Jericho-2 được đưa vào sử dụng và đóng quân chủ yếu cũng tại Zacharia cùng với Jericho-1. Jericho-2 có tầm bắn tới 1.400 km, có khả năng mang một đầu đạn thông thường nặng 1.000 kg hoặc một đầu đạn hạt nhân sức nổ 1.000 kT.

Một số nước phương Tây tin rằng, với thiết kế của Jericho-2, Israel có thể dễ dàng nâng tầm tên lửa bằng cách giảm nhẹ khối lượng đầu nổ và tầm tối đa tên lửa này có thể đạt được sẽ lên tới 4.000 km, đủ sức tấn công tất cả các mục tiêu tại châu Âu và một phần Nga, Trung Quốc. Hiện nay, Israel sở hữu 90 tên lửa loại này.

Loại tên lửa mới nhất hiện đang được phát triển là tên lửa Jericho-3 với tầm bắn tối đa lên đến 6.500 km. Tên lửa này có khả năng mang một đầu đạn hạt nhân nặng 750 kg hoặc ba đầu đạn hạt nhân MIRV.

Với tầm xa và tốc độ của nó, Jericho-3 dễ dàng đánh phủ đầu tất cả các quốc gia thù địch trong khu vực và vượt qua mọi hàng phòng thủ tên lửa các nước này có thể tiếp cận.

Có thể thấy, mô hình xây dựng quân đội Israel chủ yếu nhằm vào mục đích răn đe phủ đầu kết hợp với việc tấn công chính xác, đập tan đầu não quân địch ngay từ khi mới bắt đầu cuộc chiến.

Ngay cả khi đối thủ là một quốc gia lớn, có tiềm lực như Iran, việc Israel giành ưu thế cũng là điều có thể dự đoán trước.

Thứ Năm, 17 tháng 11, 2011

>> Tình báo quốc phòng Nhật Bản



Tình báo quốc phòng Nhật Bản đang thể hiện sức mạnh, hiệu quả trong vai trò tiên phong của quân đội Nhật Bản, hướng tới mục tiêu chung của quốc gia.

Từng bước xây dựng lại

Trước đại chiến thế giới 2 (1939 – 1945), Quân đội Nhật Bản đã có hệ thống tình báo rất hiệu quả. Sau năm 1945, từng bước cùng với sự phát triển của lực lượng quân sự, ngành tình báo quốc phòng có sự phát triển vượt bậc, nhất là trong lĩnh vực khoa học – công nghệ.

Sau Đại chiến 2, quân đội Nhật, với sự giúp đỡ của Mỹ, đã nhanh chóng hồi sinh, dưới danh nghĩa Cục Phòng vệ trực thuộc Chánh văn phòng nội các 1954). Ba quân chủng lục quân, hải quân và không quân, vốn có truyền thống, lại có cơ số công nghiệp quốc phòng tiên tiến từ trước, đã nhanh chóng phát triển. Tình báo của từng quân chủng được chú trọng nhưng phát triển độc lập.

Đến ngày 20/5/1996, Quốc hội Nhật Bản đã thông qua đề nghị của thủ tướng, cho phép thành lập cơ quan tình báo của quân sự với tên gọi “Trung tâm tình báo quốc phòng”.

Tháng 1/1997, Trung tâm tình báo quốc phòng sau thời gian khẩn trương chuẩn bị, đã đi vào hoạt động, có sự giúp đỡ của Mỹ qua mô hình nhiệm vu, tổ chức của DIA (Tình báo quốc phòng Mỹ) (>> chi tiết). Sau thời gian trực thuộc Hội đồng tham mưu liên quân, đến tháng 12/2004, đặt trực thuộc Bộ Quốc phòng.


http://nghiadx.blogspot.com
Tình báo quốc phòng Nhật Bản từng hoạt động rất hiệu quả trong chiến tranh thế giới 2, giúp quân đội Thiên Hoàng gây nhiều thiệt hại cho Quân đội Mỹ.



Nhiệm vụ, quyền hạn

Được qui định trong nghị định thành lập Trung tâm tình báo quốc phòng do thủ tướng Nhật Bản công bố. Đánh giá tình hình khu vực và thế giới dài hạn, nghị định viết ở cả tầm khu vực Đông Bắc Á, Đông Á, châu Á – Thái Bình Dương lẫn toàn cầu, sự thay đổi cục diện chính trị diễn ra quyết liệt, nhanh chóng và khó dự đoán, đòi hỏi cơ quan tình báo quân sự có nhiệm vụ khẳng định được chiều hướng chính của môi trường chính trị, xác định các đối tượng không những của quân đội mà của cả quốc gia, tham mưu cho nội các đề ra quyết sách đúng đắn.

Đòi hỏi tình báo quốc phòng thu thập tin tình báo kịp thời, xử lý tin chính xác, báo cáo đến các địa chỉ nhanh nhất. Nghị định còn có các phụ lục chi tiết về tổ chức, trang bị, quan hệ với các bộ và quốc hội, các nước liên quan.

Riêng phần ngân sách cho tình báo quốc phòng cũng được qui định rất cụ thể theo tài khóa hàng năm và kế hoạch dài hạn. Từ đó, quyền hạn của cơ quan này có những điều ghi cụ thể.

Tổ chức

Dưới tổng giám đốc và các phó tổng giám đốc, có nhiều phòng trực thuộc. Những Cục nghiệp vụ chủ yếu là:

- Cục nghiên cứu tin: Trên cơ sở tin của tình báo con người và kỹ thuật (trinh sát vô tuyến điện, trinh sát kỹ thuật vô tuyến điện, ảnh vệ tinh, các tài liệu và ảnh, mẫu vật do tình báo các quân chủng thu thập…) cùng các tin của các phương tiện thông tấn, báo chí…, tiến hành đăng ký, phân tích, tổng hợp, rút ra những báo cáo tin hàng ngày và các báo cáo định kỳ, đánh giá tình hình khu vực và thế giới, các cuộc khủng hoảng, các tình huống chiến lược liên quan quốc phòng, quốc gia.

- Cục trinh sát vô tuyến điện và kỹ thuật vô tuyến điện: Có tên theo tiến Nhật là Chosa Besshitsu hoặc Chobetsu, thành lập năm 1958, có hơn 1.000 nhân viên, trụ sở chính nằm ở căn cứ Ichigaya, Tokyo, có nhiều trạm trực thuộc.

Năm 1991 được nâng cấp đáng kể trước tình hình thế giới và khu vực có nhiều thay đổi lớn. Các phương tiện chặn thu hướng chủ yếu về Trung Quốc, Nga, Triều Tiên và Hàn Quốc.


http://nghiadx.blogspot.com
Tình báo quốc phòng Nhật Bản được hỗ trợ mạnh mẽ bởi các phương tiện trinh sát hiện đại.


- Cục ảnh vệ tinh: Có các đơn vị chuyên theo dõi hoạt động của đối phương, từ các căn cứ tên lửa chiến lược đến các căn cứ không quân, hải quân, lục quân, đặc biệt là sự di chuyển của hải quân Trung Quốc và Nga.

- Cục phụ trách các tùy viên quốc phòng và bình phong ở nước ngoài: Ngoài các tùy viên quốc phòng, còn có các nhân viên quân sự trong các sự quán và cơ quan đại diện, trong đội quân gìn giữ hòa bình ở nước ngoài.

Cùng với cơ quan tình báo quốc phòng, Nhật Bản còn có: cơ quan điều tra tình báo Nội các, thành lập năm 1955 (mô hinh CIA của Mỹ), Cục điều tra an ninh công cộng Bộ tư pháp, Vụ tình báo và phân tích Bộ Ngoại giao và Tổ chức tình báo kinh tế, khoa học công nghệ. Đây là tổ chức rất mạnh, phát triển hiệu quả từ sau Đại chiến 2, dựa vào các cơ quan đại diện của Nhật Bản ở các nước, rất đa dạng về bình phong hoạt động.

Nhiều nguồn tin cho biết, hàng ngày các cơ quan này thu thập một lượng khổng lồ tin tức để chuyển về trung tâm. Người ta còn biết rằng, Tổ chức Xúc tiến Thương mại Nhật Bản (JETRO) cũng đóng góp phần quan trọng cho nguồn tin này.

Năm 1958, một đạo luật về JETRO được ban hành. JETRO hiện có hàng trăm văn phòng đại diện ở trong nước, gần 100 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới.

Sức mạnh của khoa học kỹ thuật Nhật Bản còn thể hiện qua các trang thiết bị chuyên cho trinh sát. Ở lục quân là các xe trinh sát, ở không quân trên các máy bay trinh sát và ở hải quân trên các tàu nổi, tàu ngầm đặc chủng. Cụ thể ở lục quân có hơn 100 xe trinh sát kiểu 87, lượng máy bay trinh sát có hàng chục chiếc. Không quân có 80 máy bay trinh sát chống ngầm P-3C…

Tình báo quốc phòng Nhật Bản đang thể hiện sức mạnh, hiệu quả trong vai trò tiên phong của quân đội Nhật Bản, hướng tới mục tiêu chung của quốc gia là trở thành cường quốc toàn diện ở Đông Á – Thái Bình Dương và toàn cầu, có sức mạnh chính trị, quân sự tương xứng với sức mạnh kinh tế, khoa học kỹ thuật.


>> Hệ thống phòng không hỗn hợp của Trung Quốc



Các hệ thống phòng không hỗn hợp súng - tên lửa (GMS) ngày càng được ưa chuộng khi trực thăng, tên lửa hành trình và UAV hiện diện nhiều hơn trên chiến trường.


GMS - Gun Missile System

Trước những phương tiện chiến tranh trên, các loại pháo phòng không tự hành hay tên lửa phòng không tầm ngắn thường khó đạt hiệu quả toàn diện. Tầm bắn của tên lửa không đối đất trên UAV và trực thăng tấn công thường lớn hơn tầm pháo phòng không, tuy nhiên, tên lửa phòng không tầm ngắn lại đắt đỏ, số lượng triển khai hạn chế và thời gian phản ứng chậm.

Chính vì vậy, việc kết hợp pháo phòng không bắn nhanh và tên lửa phòng không đang là xu hướng chung của phòng không tầm ngắn trên thế giới với các hệ thống nổi tiếng như GMS của Pháp (kết hợp pháo 40 mm và tên lửa StarStreak), Tunguska hay Pantsir-S1 của Nga.

Không nằm ngoài xu thế đó, Trung Quốc cũng đã phát triển những hệ thống phòng không kết hợp pháo phòng không và tên lửa của mình với các đại diện là PGZ-04A (còn gọi là PGZ-95) và PGZ-07.

PGZ-04A/PGZ-95

PGZ-04A, còn được gọi là PGZ-95 hay Type-95 được tính là loại pháo phòng không tự hành thế hệ 2 của Trung Quốc (Pháo phòng không tự hành thế hệ thứ nhất bao gồm Type-69/80, là biến thể sao chép từ pháo phòng không ZSU-57-2 của Nga và pháo phòng không tự hành 37 mm Type-88).

Hệ thống này được Tập đoàn công nghiệp phương Bắc Trung Quốc thiết kế và sản xuất vào cuối những năm 1990 và xuất hiện lần đầu tiên tại cuộc duyệt binh mừng 50 năm Quốc khánh Trung Quốc.


http://nghiadx.blogspot.com
Hệ thống pháo phòng không tự hành PGZ-04A trong một cuộc duyệt binh


Vũ khí chính của hệ thống PGZ-04A là bốn khẩu pháo tự động Type-87 cỡ nòng 25 mm với 2 khẩu mỗi bên tháp pháo. Mỗi khẩu pháo này có tốc độ bắn tới 600 - 800 phát/phút và có tầm bắn tới 2.500 mét.

Ngoài bốn khẩu pháo này, PGZ-04A còn trang bị thêm 4 tên lửa tầm nhiệt vác vai QW-2 gắn trên giá phóng có tầm bắn từ 500 - 6.000 mét.

PGZ-04A được dẫn bắn bằng một radar xung doppler CLC-1 với khả năng phát hiện mục tiêu từ khoảng cách 11 km và bắt bám các mục tiêu bay thấp.

Ngoài ra, xạ thủ còn được hỗ trợ ngắm bắn bằng camera TV và camera hồng ngoại với tầm ngắm 6 km ban ngày và 5 km ban đêm.

Nếu tác chiến theo biên đội, cứ 6 xe PGZ-04A sẽ có 1 điều khiển có thể được trang bị radar CLC-2 có tầm phát hiện mục tiêu tới 45 km và độ cao 4,5 km.


http://nghiadx.blogspot.com
Xe chỉ huy của hệ thống PGZ-04A trang bị radar CLC-2 (đi trước) và xe chiến đấu (đi sau)


Nhằm mục đích phòng vệ, trên xe chỉ huy được trang bị một súng máy hạng nặng 12,7 mm và các hệ thống đều có các ống phóng lựu đạn khói 2 bên.

Tổng khối lượng một hệ thống PGZ-04A là 22,5 tấn, có thể di chuyển với tốc độ 53 km/h và tầm hoạt động đạt 450 km.

PGZ-07

Do sử dụng pháo 25 mm cỡ nòng nhỏ cùng tên lửa tầm nhiệt (biến thể cải tiến của tên lửa vác vai), PGZ-04A còn nhiều hạn chế như tầm bắn thấp, tốc độ phản ứng chậm và dễ bị khắc chế. Do đó, Trung Quốc đã nghiên cứu chế tạo hệ thống PGZ-07 với pháo cỡ nòng lớn hơn và tên lửa hiệu quả hơn.

PGZ-07 sử dụng hai khẩu pháo cỡ nòng 35 mm được chế tạo theo mẫu pháo Oerlikon 35 mm của Thụy Sĩ. Mỗi khẩu pháo này có thể đạt tốc độ bắn 550 phát/phút và tầm bắn tới 4.000 m, vượt xa pháo 25 mm trên PGZ-04A.

Hệ thống pháo này được dẫn bắn bằng radar và máy tính điều khiển bắn có thể hoạt động hoàn toàn tự động với kíp điều khiển không cần ngồi trong xe khi chiến đấu.

Hệ thống tên lửa của PGZ-07 cũng được hiện đại hóa hơn hẳn PGZ-04A. Hệ thống này trang bị bốn tên lửa HQ-10 (một biến thể của tên lửa phòng không tầm ngắn FL-3000N đang được trang bị trên tầu sân bay mới hoàn thành của Trung Quốc) với khả năng vượt xa loại tên lửa tầm nhiệt như QW-2.

http://nghiadx.blogspot.com
PGZ-07 sử dụng hai pháo 35 mm tương tự như pháo Oerlikon của Thụy Sĩ trang bị trên các hệ thống phòng không tự hành Gepard Flakpanzer của Đức hay Type-87 của Nhật Bản.



http://nghiadx.blogspot.com
Một hệ thống PGZ-07 đã được lắp tên lửa HQ-10


Tên lửa HQ-10 có kích cỡ lớn hơn QW-2 (nặng 20 kg, đầu nổ 3 kg so với khối lượng QW-2 là 11,3 kg và đầu nổ 1,42 kg), sử dụng hệ thống dẫn đường tiên tiến bằng sóng radio thụ động và ảnh nhiệt với khả năng khóa mục tiêu ở mọi hướng.

Tầm bắn ở HQ-10 có thể đạt tới 9 km nếu bắn các mục tiêu cận âm và 6 km đối với các mục tiêu siêu âm.
Hiện tại, PGZ-07 được trang bị hạn chế trong quân đội Trung Quốc. Các thông số chi tiết về hệ thống vũ khí này vẫn đang được quân đội Trung Quốc giữ bí mật cao.


>> Mỹ suýt tấn công Ấn Độ vào năm 1971



Các tài liệu vừa được giải mật về cuộc chiến tranh Ấn Độ - Pakistan cho thấy căng thẳng giữa Ấn Độ và Mỹ trong giai đoạn này lớn hơn nhiều so với những gì được công bố.


Các tài liệu này cho thấy Thủ tướng Ấn Độ Indira Gandhi khi đó vẫn giúp đỡ Bangladesh giành độc lập bất chấp động thái của Mỹ dù Tổng thống Nixon có nhiều động thái hết sức đáng gờm.

Phong cách lãnh đạo quyết đoán của bà Gandhi trong cuộc chiến tranh năm 1971 đã được nhiều người biết đến, tuy nhiên tài liệu mới giải mật này đã cho thấy sự dũng cảm của bà vượt xa những gì mọi người biết đến.

Theo tài liệu, sau khi quân đội Pakistan đầu hàng tại Dhaka (thủ đô Bangladesh), quân đội Mỹ đã điều hạm đội 7 tới vịnh Bengal, trên danh nghĩa để di tản công dân Mỹ nhưng thực tế lại là để sẵn sàng tấn công quân đội Ấn Độ.


http://nghiadx.blogspot.com
Hàng không mẫu hạm USS Enterprise tiến vào vịnh Bengal sẵn sàng tấn công Ấn Độ năm 1971


Các tài liệu cũng cho thấy chính quyền Nixon vẫn cung cấp vũ khí đều đặn cho Pakistan trong cuộc chiến bất chấp trước đó Mỹ đã tuyên bố áp đặt lệnh cấm vận quân sự lên cả 2 nước.

Ấn Độ khi đó đã quá bức xúc về việc này nên mở chiến dịch bắt giữ các tàu chở vũ khí Mỹ cho Pakistan, tuy nhiên, sau đó kế hoạch này đã bị bỏ do các nhà ngoại giao Ấn Độ lo ngại mối căng thẳng leo thang.

Sự thiên vị của Mỹ cho Pakistan trở nên rõ ràng hơn bao giờ hết khi Tổng thống Richard Nixon bố trí 3 tiểu đoàn thủy quân lục chiến sẵn sàng hỗ trợ Pakistan, một quyết định mà trước khi tài liệu trên được giải mật thì không được đề cập trên bất cứ hồ sơ nào.

Một tài liệu dài 6 trang do Bộ ngoại giao Ấn Độ nắm giữ cho thấy tổng thống Nixon là người chịu trách nhiệm chính cho các hoạt động ủng hộ trái phép đối với Pakistan trong suốt cuộc chiến tranh.

Trong tài liệu ghi rõ “Quyết định đề cập đến Ấn Độ như “kẻ xâm lược” và gửi Hạm đội 7 tới vịnh Bengal được đưa ra một cách cá nhân bởi tổng thống Nixon” và “các máy bay ném bom trên hàng không mẫu hạm Enterprise đã được tổng thống cho phép tấn công các cơ sở quân sự, thông tin liên lạc của Ấn Độ nếu cần thiết”.


http://nghiadx.blogspot.com
Tướng AAK Niazi (phải) ký văn kiện đầu hàng các lực lượng Ấn Độ và Bangladesh.



Đầu tháng 6/1971, New Dehli đã định tấn công 3 tàu chở hàng của Pakistan chứa đầy vũ khí của Mỹ. Tuy nhiên, để thực hiện kế hoạch này Ấn Độ phải tấn công các con tàu trước khi chúng kịp về Karachi hoặc dùng lực lượng hải quân chặn cửa vịnh Bengal. Cả 2 động thái này đều phải sử dụng các lực lượng quân sự và có thể coi là hành động gây chiến với không chỉ Pakistan.

Ngày 14/12/1971, tướng AAK Niazi, chỉ huy các lực lượng Pakistan tại Đông Pakistan (Bangladesh ngày nay) đã thông báo với lãnh sự quán Mỹ tại Dhaka là ông ta sẽ đầu hàng.

Tuy nhiên, thông điệp này sau khi được chuyển đến Washington đã được giữ kín và chỉ chuyển đến New Dehli 19 tiếng sau đó.

Một nhà ngoại giao lâu năm của Ấn Độ khi đó cũng đã dự đoán hành động ém nhẹm thông tin này có thể do khi đó Mỹ đang tính đến khả năng tấn công quân sự vào Ấn Độ.


Thứ Ba, 15 tháng 11, 2011

>> Su-30 và các biến thể



>> "Anh em’ của Su-27/30 Việt Nam trong khu vực
>> F-16 và các biến thể

Su-30 hiện là tiêm kích xuất khẩu chủ lực của Nga với nhiều biến thể và tên gọi khác nhau.

Su-30 là một phát triển nâng cấp của Su-27, ban đầu được gọi là Su-27PU, thực hiện chuyến bay đầu tiên vào năm 1987. Sau đó, Su-27PU được đổi tên thành Su-30, NATO gọi là Flanker-C, Flanker-H, Flanker-G.

Vào năm 1990, Sukhoi đã giới thiệu một biến thể Su-30M, với chữ M có nghĩa là hiện đại hóa. Mẫu Su-30M sau này được chuyển cho Không quân Nga để tiến hành đánh giá.

Tuy nhiên, Su-30M không nhận được đơn hàng từ phía quân đội. Do đó, Sukhoi đã giới thiệu một biến thể mới hướng tới thị trường xuất khẩu có tên gọi là Su-30MK, với MK là viết tắt của hai chữ Modernizirovannyi Kommercheskiy, có nghĩa là hiện đại hóa và thương mại.

Từ Su-30MK bắt đầu xuất hiện thêm nhiều biến thể khác nhau và được đặt tên theo quốc gia được xuất khẩu.

Về cơ bản, các biến thể của Su-30MK là tương đương nhau, tuy nhiên tùy thuộc vào yêu cầu của từng quốc gia, thiết kế và trang bị của máy bay có sự điều chỉnh, chủ yếu là ở hệ thống điện tử và động cơ.

Su-30MKI

Su-30MKI là biến thể được thiết kế đặc biệt để xuất khẩu cho Ấn Độ, NATO định danh là Flanker-H. MKI là viết tắt của cụm từ (Модернизированный Коммерческий Индийский) trong tiếng Nga được dịch sang tiếng Anh là Modernized Commercial for India (hiện đại hóa và thương mại cho Ấn Độ)


http://nghiadx.blogspot.com
Su-30MKI của Không quân Ấn Độ, biến thể mạnh nhất của gia đình Su-30.


Su-30MKI là biến thể có nhiều khác biệt nhất so với các thàn viên còn lại của gia đình Su-30. Cụ thể Su-30MKI được trang bị thêm cánh ngang phía trước, động cơ điều khiển vector lực đẩy 2 chiều AL-31FP giúp tăng khả năng cơ động. Nhờ vậy, Su-30MKI được đánh giá là biến thể mạnh nhất trong gia đình Su-30.

Về hệ thống điện tử, Su-30MKI có hệ thống điện tử phức hợp từ nhiều quốc gia khác nhau bao gồm Israel, Ấn Độ, Nga và Pháp. Su-30MKI được trang bị radar NIIP N011M Bars, đây là một radar mạng pha quét điện tử thụ động rất mạnh, cung cấp khả năng giám sát không đối không, đối đất, đối hải cùng lúc, hệ thống điều khiển vũ khí kỹ thuật số với khả năng kháng nhiễu rất tốt.

Radar N011M Bars có khả năng phát hiện mục tiêu ở cự ly 350-400km với các mục tiêu cỡ lớn, theo dõi ở cự ly 200km, tầm quét phía sau là 60km. Radar của Su-30MKI có khả năng phát hiện F-16 ở cự ly từ 140-160km.

Radar này có khả năng theo dõi cùng lúc 15 mục tiêu và tấn công 4 mục tiêu cùng lúc. Vì vậy, Su-30MKI có khả năng hoạt động như một máy bay cảnh báo sớm (một dạng AWACS mini).

Su-30MKI có khả năng mang tất cả các loại vũ khí hiện đại nhất của Nga và Ấn Độ, đặc biệt là tên lửa hành trình BrahMos, có thể tấn công mục tiêu trên mặt đất và trên biển, được xem là khả năng độc nhất vô nhị.

Dự kiến, tương lai Su-30MKI của Ấn Độ sẽ được nâng cấp hơn nữa với radar Irbis-E, cải tiến hệ thống điện tử hàng không, hệ thống tìm kiếm và chỉ thị mục tiêu OLS-30, thiết bị ngắm bắn mục tiêu LITENING của Israel.

Su-30MKK

Đây là biến thể xuất khẩu riêng cho Trung Quốc, NATO định danh là Flanker-G, MKK có nghĩa là Mnogofunktsionniy Kommercheskiy Kitayski (máy bay chiến đấu đa năng thương mại cho Trung Quốc)


http://nghiadx.blogspot.com
Biến thể Su-30MKK của Không quân Trung Quốc.


Theo yêu cầu của phía Trung Quốc, họ muốn có một biến thể Su-30MK hoàn toàn khác so với Su-30MKI của Ấn Độ. Su-30MKK không có cánh ngang phía trước và động cơ điều khiển vector lực đẩy 2 chiều. Bù lại máy bay được chế tạo với tỷ lệ sử dụng vật liệu composite và sợi carbon cao hơn, khả năng chịu tải cao hơn.

Su-30MKK có một hệ thống điện tử hàng không được thiết kế để phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ của Không quân Trung Quốc. Đa phần các hệ thống điện tử được sản xuất tại Nga chứ không sử dụng thiết bị điện tử của phương Tây).

So với Su-30MKI của Ấn Độ, radar của Su-30MKK yếu hơn, cụ thể 20 chiếc Su-30MKK đầu tiên được trang bị radar N001VEP, chỉ có khả năng theo dõi 10 mục tiêu ở cự ly 100km, tấn công 4 mục tiêu cùng lúc hoặc 2 mục tiêu trên không và 2 mục tiêu dưới đất.

Su-30MK2

Là biến thể nâng cấp của Su-30MKK xuất khẩu cho Trung Quốc, chủ yếu nâng cấp hệ thống điện tử. Theo đó, radar N001VEP cho phép hỗ trợ phóng tên lửa chống tàu Kh-31A. Các nâng cấp của Su-30MK2 chủ yếu phục vụ như một máy bay tác chiến trên biển chuyên dụng.

Máy bay được trang bị hệ thống thông tin chiến thuật đảm bảo khả năng hoàn thành nhiệm vụ cao hơn. Các nâng cấp mới cho phép tấn công mục tiêu chính xác hơn so với biến thể Su-30MKK

Su-30MK2 được đánh giá là biến thể mạnh thứ hai của gia đình Su-30, tuy không có radar mạng pha quét điện tử thụ động và động cơ điều khiển vector lực đẩy như Su-30MK nhưng Su-30MK2 có hệ thống điện tử hàng không rất hiện đại, các hạn chế về hứng chịu ứng suất trọng trường của Su-30MK được giải quyết hoàn toàn, khả năng mang tải trọng vũ khí lớn hơn so với Su-30MKI của Ấn Độ.

Su-30MK3: Là biến thể Su-30MKK của Trung Quốc từ chiếc số 21 trở đi được trang bị radar Zhuk-MSE, radar có khả năng phát hiện các mục tiêu trên không với khoảng cách tối đa từ 110-180km, phát hiện mục tiêu cỡ tàu khu trục ở cự ly 300km.

Radar mới cho phép hỗ trợ phóng tên lửa chống tàu Kh-59 MK. Radar Zhuk-MSE cho phép tấn công 4 mục tiêu mặt đất cùng lúc thay vì chỉ hai mục tiêu như radar N001VEP.

Su-30MKV:
Là biến thể MK xuất khẩu cho Venezuela, có nhiều điểm giống với Su-30MK2. Hệ thống điện tử hàng không và radar được trang bị không được công bố.

Su-30MK2V: Là biến thể Su-30MK2 xuất khẩu cho Việt Nam với một số cải tiến về hệ thống điện tử hàng không theo yêu cầu nhiệm vụ của Không quân Nhân Dân Việt Nam.


http://nghiadx.blogspot.com
Biến thể Su-30MK2V của Không quân Nhân dân Việt Nam.

Su-30MKA: Là biến thể MK xuất khẩu cho Algeria. Su-30MKA được cho là có nhiều điểm tương tự với Su-30MKI của Ấn Độ nhưng không có động cơ điều khiển vector lực đẩy, hệ thống điện tử chủ yếu từ Nga và Pháp.

Su-30MKM: Là biến thể xuất khẩu riêng cho Không quân Hoàng gia Malaysia, Su-30MKM có một vài hệ thống điện tử tương tự như Su-30MKI của Ấn Độ. Hệ thống điện tử đa quốc gia từ Nga, Nam Phi và Pháp.

Su-30MKM có màn hình hiển thị chính diện hiện đại, hệ thống dẫn đường hồng ngoại tiên tiến, thiết bị chỉ thị mục tiêu laser từ Pháp, cảm biến cảnh báo radar và cảm biến cảnh báo tên lửa của Nam Phi.

Su-30MKM được trang bị cánh ngang phía trước như Su-30MKI của Ấn Độ nhằm tăng khả năng cơ động.


http://nghiadx.blogspot.com
Biến thể Su-30MKM của Không quân Hoàng gia Malaysia.

Theo Defense Industrydaily, Su-30MKM được trang bị radar mạng pha quét điện tử thụ động N011M BARS PESA tương tự như radar của Su-30MKI, cùng với các hệ thống điện tử hiện đại khác cung cấp khả năng tác chiến ngang ngửa với Su-30MKI của Ấn Độ.

Trong gia đình Su-30, biến thể Su-30MKI được đánh giá là mạnh nhất cả về khả năng cơ động và hệ thống điện tử hàng không. Các biến thể còn lại phần lớn là tương tự nhau, chỉ có một vài cải tiến nhỏ theo yêu cầu của từng quốc gia.

Việc nhận biết các biến thể chủ yếu dựa vào logo của không quân các quốc gia, ngoại trừ Su-30MKI và Su-30MKM có khác biệt ở cánh ngang phía trước, các biến thể còn lại có ngoại hình hoàn toàn giống nhau.

Tuy nhiên, trên cùng một mẫu máy bay chỉ cần có vài cải tiến về hệ thống điện tử, đặc biệt là hệ thống tìm kiếm và chỉ thị mục tiêu có thể làm thay đổi đáng kể năng lực tác chiến của máy bay.

Ví dụ, chỉ cần thay thế trạm định vị mục tiêu quang - điện tử OLS-27 bằng trạm OLS-30 có thể làm tăng đáng kể khả năng tấn công chính xác hoặc chỉ cần nâng cấp bộ vi xử lý của radar có thể làm tăng đáng kể số lượng mục tiêu có thể theo dõi hay tấn công cùng lúc.

Những cải tiến hay nâng cấp này đều thuộc vào bí mật của từng quốc gia, ngoại trừ Su-30MKI và Su-30MKK được công bố các thông số kỹ thuật khá rõ ràng, các biến thể cho các quốc gia còn lại đều không được công bố.

>> 5 lý do không nên tấn công Iran



Mỹ, Israel và Iran cùng chờ đợi bản báo cáo của IAEA về chương trình vũ khí của nước Cộng hòa Hồi giáo với những thái độ hoàn toàn khác nhau.


Những chi tiết được tiết lộ trong công bố sắp tới trong tuần này của tổ chức Năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA) về chương trình hạt nhân của Iran được cho sẽ cung cấp bằng chứng về việc Tehran đang rất quyết tâm trong việc chế tạo vũ khí hạt nhân.

Một lần nữa, ngay lập tức câu hỏi trên các phương tiện truyền thông và giới ngoại giao đã được đưa ra: Có phải một cuộc tấn công do Mỹ hậu thuẫn của Israel chống lại Iran sắp diễn ra?

Nhiều người cho rằng Israel sẽ sử dụng những chứng cứ trong bản báo cáo của IAEA để ép cộng đồng quốc tế phải nghiêm khắc hơn đối với chương trình hạt nhân của Iran và cảnh báo rằng họ sẽ tấn công nếu cộng đồng quốc tế không khuất phục được Iran.

http://nghiadx.blogspot.com
Ba nhà lãnh đạo của Iran, Israel và Mỹ đang chờ đón bản báo cáo của IAEA với tâm trạng khác nhau.


Hiện tại, Trung Quốc và Nga yêu cầu phải giữ bí mật các chi tiết trong bản báo cáo. Theo các chuyên gia, họ sẽ phản đối bất cứ một đề xuất quá khích hoặc biện pháp cấm vận nào được đưa ra tại Liên Hợp Quốc.

Dựa vào tình hình thực tế, Israel có thể sẽ tự phát động tấn công bất chấp sự phản đối từ phía đồng minh thân cận nhất là Mỹ. Nếu nhìn vào quá khứ đen tối và lịch sử gắn liền với chiến tranh của Israel, quốc gia Do Thái sẽ hành động khi phải chịu sức ép quá lớn về an ninh.

Tuy nhiên, trước khi tiến hành một cuộc tấn công, lãnh đạo nhà nước Do Thái cần cân nhắc 5 yếu tố:

1. Kết cục bi thảm phía trước

Tấn công các cơ sở hạt nhân của Iran được ví như việc cắt cỏ: Nếu không diệt tận gốc, cỏ sẽ mọc trở lại. Tuy nhiên, gần như chắc chắn là không có một chiến dịch không kích nào có thể hủy diệt toàn bộ những cơ sở và kho nhiên liệu hạt nhân của Iran.

Quốc gia hồi giáo này sở hữu nhiều cơ sở kiên cố ở những địa điểm bí mật rất khó bị tấn công. Thậm chí ngay cả khi chiến dịch quân sự có thể tiêu diệt hoàn toàn khả năng chế tạo vũ khí hạt nhân của nước này. Iran có thể tập trung toàn lực đầu tư và phục hồi sản xuất chỉ trong vòng từ 2 tới 3 năm.


http://nghiadx.blogspot.com
Iran có các cơ sở hạt nhân bí mật và kiên cố, rất khó bị tiêu diệt.


Tự bảo vệ mình sau đó sẽ trở thành nguyên tắc có hệ thống trong chương trình hạt nhân của Iran, nó sẽ ảnh hưởng rất nhiều quốc gia Trung Đông và trên toàn thế giới.

Các chuyên gia đề xuất Israel sẽ tấn công Iran “theo định kỳ” 18 tháng một lần. Nếu trường hợp này xảy ra, Israel và Iran sẽ ở trong trạng thái đối đối đầu thường trực và Trung Đông sẽ bị nhấn chìm trong biển lửa.

2. Không ai có thể ngăn chặn Iran có vũ khí hạt nhân

Trên thực tế, các quốc gia có một cảm giác mất an toàn và đặc quyền như Ấn Độ, Pakistan, Triều Tiên, và thậm chí Israel – đều đang phát triển vũ khí hạt nhân một cách bí mật. Iraq và Syria cũng không là ngoại lệ.

Iran, trước cuộc Cách mạng Hồi giáo năm 1979, cũng theo đuổi chương trình hạt nhân và sức mạnh quân sự, và dù chế độ chính trị thay đổi, những người lãnh đạo mới càng quyết tâm theo đuổi mục đích này.

Ngay cả khi Iran đã trở thành quốc gia dân chủ trong mắt phương Tây, những ý niệm và tham vọng về chủ quyền lãnh thổ vẫn có thể thúc đẩy nước này phát triển năng lực hạt nhân.

Một cuộc tấn công quân sự của Israel làm mọi thứ tồi tệ, thậm chí hợp pháp hóa quyền sở hữu vũ khí hạt nhân của Iran.

Không có cách nào để đoàn kết một dân tộc tốt hơn là việc khơi gợi chủ nghĩa dân tộc và biến kẻ thù nước ngoài trở thành quỉ dữ. Khi tấn công Iran, Israel sẽ là mục tiêu của bộ máy tuyên truyền của Iran trong toàn thế giới Arab.

3. Mỹ sẽ phải trả giá đắt

Khi một quốc gia thực hiện hành động với độ rủi ro cao, những nhà lãnh đạo cần phải trả lời được hai câu hỏi: Liệu có thành công hay không? Cái giá phải trả là gì?

Khi mối đe dọa đối với Israel tăng lên, các quan chức Mỹ vẫn phải coi trọng sức nặng của 2 câu hỏi trên.

Với tư cách là một quốc gia văn minh, cả thế giới tin rằng Iran sẽ không sử dụng vũ khí hạt nhân vì họ không muốn bị Mỹ và Israel hủy diệt hoàn toàn.


http://nghiadx.blogspot.com
Eo biển Hormuz nhỏ bé chiếm giữ tới 40% lượng dầu vận chuyển bằng đường biển sẽ là một vũ khí quan trọng của Iran.


Hơn nữa, Iran nắm giữ những quân bài quan trọng có thể làm cho nều kinh tế Mỹ phải “lao đao” và đẩy nền kinh tế lớn nhất thế giới này vào vũng lầy suy thoái.

Nếu Iran tạm thời phong tỏa tuyến hàng hải nhộn nhịp qua eo biển Hormuz (con đường vận chuyển 40% lượng dầu mỏ của thế giới) sẽ đẩy nền kinh tế “mỏng manh” mới hồi phục của Mỹ gánh chịu giá dầu mỏ tăng vọt. Nền kinh tế toàn cầu cũng có khả năng bị kéo theo vào cơn lốc giá dầu và kết thúc trong thảm họa.

Iran cũng có thể đẩy mạnh hoạt động phá hoại tại Afghanistan và Iraq, khiến tình hình an ninh tại các quốc gia láng riềng này trở nên hỗn loạn.

Hiện tại, Mỹ phải đối mặt với sự nổi dậy của al-Qaeda do người Sunni ủng hộ tại chiến trường Iraq. Nếu kéo cả Iran – quốc gia có người hồi giáo Shitte chiếm đa số vào cuộc chiến, Mỹ sẽ phải hứng chịu cơn thịnh nộ của cả thế giới Hồi giáo.

Nếu nói về khả năng quân sự, Iran khó có thể ảnh hưởng tới châu Mỹ nhưng trong khu vực vùng vịnh Ba Tư, Bahrain, Trung Đông, Bắc Phi…là đáng kể. Và họ “có thừa” khả năng phát động một cuộc thánh chiến chống lại các lợi ích của Mỹ và Israel tại đây.

4. Tấn công quân sự sẽ “nâng tầm” ảnh hưởng của Iran

Cấm vận không bao giờ có thể ngăn Iran sở hữu vũ khí hạt nhân, nhưng đã cô lập hóa quốc gia Hồi giáo này. Một vụ tấn công do Israel thực hiện sẽ phá bỏ đi sự cô lập kể trên và mang lại nhiều tác dụng xấu, đặc biệt trong thời điểm thế giới Arab đang rối loạn bởi các cuộc biểu tình như hiện nay.

Nhắc lại lịch sử về cuộc chiến vùng Vịnh năm 1991, Tổng thống Mỹ lúc đó – George H.W.Bush phải cố gắng hết sức để ngăn không cho Israel trả đũa khi tên lửa Scud của Iraq tấn công nước này.

Vì nếu Israel trả đũa thì cuộc chiến Iraq - Kuwait sẽ trở thành cuộc đối đầu giữa Israel và thế giới Arab. Trong tình huống hiện nay, kịch bản tương tự đang tái diễn.

Lịch sử đã chứng minh điều đó, Iraq đã rơi vào tình thế một mình chống lại cộng đồng quốc tế và nghị quyết của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc. Một liên minh toàn cầu gồm 34 quốc gia đã sẵn sàng chiến đấu với chế độ Saddam Hussein.

Theo các chuyên gia, nhiều quốc gia Arab sẽ “vui vẻ” nếu Iran bị kiềm chế và suy yếu nhưng một vụ tấn công trực tiếp của Israel sẽ để lại một “đống lầy” mà Mỹ phải vất vả dọn dẹp. Bởi thế giới Hồi giáo bị cuốn vào ý nghĩ về sự hiếu chiến của Israel và “tiêu chuẩn nước đôi” của Mỹ.

5. Nếu Israel tấn công, Mỹ sẽ buộc phải nhảy vào cuộc

Nếu Israel tấn công, chắc chắn những lợi ích của Mỹ tại Trung Đông sẽ bị tổn hại. Do vậy, chính phủ Iran luôn tin rằng Mỹ sẽ không thể đứng nhìn khi người bạn Israel hành động.

Nếu không trực tiếp đánh Iran, Mỹ cũng sẽ phải trợ giúp Israel chống lại sự tấn công từ Hezbollah từ Lebanon và Hamas từ Palestine.

Vào thời điểm hiện tại, khi uy tín của Mỹ trên trường quốc tế đang ở trạng thái thấp và dính vào 2 cuộc chiến chưa tìm thấy chiến thắng, Mỹ không muốn tham dự có chiến tranh với một quốc gia Hồi giáo nữa với khả năng quân sự và sức mạnh vượt trội.

>> Các kịch bản xung đột Iran-Israel (kỳ 1)


Đất rộng, người đông GDP năm 2010 ước tính tới 357 tỷ USD, Iran có đầy đủ các yếu tố để trở thành một trong những nước có tiềm lực quân sự mạnh nhất khu vực.

Kỳ 1: Tiềm lực quân sự Iran
>>Các kịch bản xung đột Iran-Israel (kỳ 2)


Trong thời gian gần đây, bất chấp những lời đe dọa trừng phạt của Mỹ, Israel và đồng minh, Iran vẫn bảo lưu quan điểm về chương trình hạt nhân của mình.

Chắc chắn Iran không thể không biết hậu quả của những nước đi ngược lại lợi ích của các nước phương Tây qua các cuộc chiến tại Afghanistan, Iraq và mới đây nhất là Libya. Tuy nhiên thái độ cứng rắn của Iran không phải không có cơ sở nếu chúng ta nhìn vào tiềm lực quốc phòng của đất nước này.

Không giống như các nước khác, lực lượng vũ trang của Iran chia thành hai nhánh chính hoạt động khá độc lập với nhau gồm Quân đội Cộng hòa Hồi giáo Iran (IRIA - Islamic Republic of Iran Army) chịu trách nhiệm về chiến đấu bảo vệ lãnh thổ và Lực lượng Vệ binh Cách mạng (IRGC - Islamic Revolution Guardians Corps) phụ trách các vấn đề an ninh.



http://nghiadx.blogspot.com
Các binh sĩ Iran tham gia duyệt binh.


Dù quy mô và nhiệm vụ không giống nhau nhưng cả 2 lực lượng này đều có các binh chủng hải, lục và không quân riêng. Riêng IRGC còn có lực lượng đặc nhiệm Quds và Binh chủng tên lửa đối đất của Iran.

Hiện tại, IRIA đang có trong tay 465.000 binh lính, trong đó 230.000 người là quân nhân chuyên nghiệp và 235.000 người là lính nghĩa vụ, còn IRGC có quy mô 125.000 lính chính quy và khoảng 90.000 dân binh thuộc lữ đoàn bán vũ trang Basij.

Trước cách mạng Hồi giáo năm 1979, Iran là một trong những đồng minh thân cận của phương Tây, vì vậy quân đội nước này đều được trang bị những vũ khí Âu Mỹ tối tân hiện đại nhất như trực thăng tấn công AH-1J, máy bay tác chiến không đối không tầm xa F-14 Tom Cat...

Tuy nhiên, sau cuộc Cách mạng Hồi giáo 1979, bị phương Tây cấm vận, Iran đã mở rộng nguồn cung cấp vũ khí ra các thị trường mới như Nga, Trung Quốc, Brazil... và đặc biệt là đã đạt được nhiều thành công trong việc hiện đại hóa nền công nghiệp quốc phòng, từ đó đã tự túc được rất nhiều loại vũ khí khí tài hiện đại.

http://nghiadx.blogspot.com
Vị trí địa lý của Iran trong khu vực.

Hải quân

Nắm giữ vùng biển quan trọng, trong đó có eo biển Hormuz với 40% lưu lượng dầu thô giao dịch trên thế giới, Iran đang cố gắng xây dựng một lực lượng hải quân lớn và có sức mạnh đáng kể.

Đặc biệt, do yếu tố địa lý nhỏ hẹp của vùng vịnh Persian, xác suất cao phải chiến đấu với các quốc gia có tiềm lực hải quân mạnh hơn, Iran đã đầu tư mạnh vào lực lượng tàu cao tốc tấn công trang bị tên lửa và lực lượng tàu ngầm.

http://nghiadx.blogspot.com

Tàu đệm không khí trang bị tên lửa chống hạm của Iran.
Hải quân Iran hiện nay sở hữu một lực lượng lớn gồm 28.000 binh sĩ; 13 tàu ngầm các loại, 5 hộ vệ hạm; 3 tàu tàu hộ vệ cỡ nhỏ; 98 tàu tuần tiễu và hơn 100 tàu cao tốc tấn công có trang bị tên lửa.

Ngoài ra, binh chủng này cũng sở hữu lực lượng không quân riêng với 65 máy bay, trong đó có cả máy bay săn ngầm P-3 Orion do Mỹ sản xuất.

http://nghiadx.blogspot.com
Iran đang vận hành 3 tàu ngầm tấn công lớp Kilo do Nga sản xuất.


Trong số tàu ngầm của Iran sở hữu, nổi bật nhất là 3 chiếc Project 877EKM lớp Kilo do Nga sản xuất. Dù vậy, đây là những chiếc Kilo biến thể đầu tiên nên tính năng hoạt động và vũ khí không thể so sánh với những chiếc Kilo Project 636 Nga bán ra sau này.

Ngoài ra, những chiếc tàu ngầm còn lại đều thuộc lớp Nahang và Ghadir do nước này tự sản xuất, vốn là những tàu ngầm mini có lượng giãn nước chỉ từ 150 - 400 tấn và khả năng chiến đấu rất hạn chế.


http://nghiadx.blogspot.com

Một chiếc tàu ngầm mini lớp Ghadir đang được hoàn thiện trong nhà máy.
Năm 2008, Iran công bố nước này đã bắt đầu đóng chiếc tàu ngầm tấn công nội địa đầu tiên giãn nước trên 1.000 tấn có tên Qaem.

Theo những thông tin phía Iran cung cấp, loại tàu ngầm này sẽ được trang bị nhiều công nghệ hiện đại, trong đó vũ khí sẽ bao gồm cả ngư lôi và tên lửa.


http://nghiadx.blogspot.com

Tàu hộ vệ Jamaran là chiếc tàu chiến hiện đại nội địa lớn nhất hiện nay của Iran.

Về lực lượng tàu nổi, không chỉ đầu tư vào các tàu cao tốc tên lửa với nhiệm vụ phòng vệ, Iran cũng đang bắt tay đóng các chiến hạm lớn, trang bị vũ khí mạnh, có khả năng tác chiến dài ngày để gia tăng sự hiện diện của nước này trên các vùng biển quốc tế.

Tiêu biểu cho những chiến hạm này là hộ vệ hạm lớp Moudge có tên Jamaran mới được Iran hoàn thành. Jamaran là một tàu chiến tấn công có khả năng tác chiến rất mạnh, được trang bị 4 tên lửa chống hạm Noor (biến thể nội địa Iran sản xuất theo tên lửa C-802 của Trung Quốc) tầm bắn 200 km; tên lửa phòng không Fajr (copy tên lửa SM-1 của Mỹ) cùng ngư lôi và pháo hạm 76 mm.

Vào thời điểm hiện nay, Iran cũng đang tiến hành đóng tàu hộ vệ lớp Moudge cải tiến với khả năng tác chiến vượt trội so với Jamaran. Dự tính chiếc hộ vệ hạm mới có tên Velayat sẽ phục vụ hải quân Iran trong tương lai gần.


http://nghiadx.blogspot.com

Những chiếc tàu cao tốc này có thể đạt tốc độ tới 150 km/h. Cùng với tên lửa chống hạm, nó sẽ là mối đe dọa chết người với các tàu chiến tại vùng biển nông thuộc vịnh Persian


http://nghiadx.blogspot.com

Máy bay F-14A Tomcat của Không quân Iran.


http://nghiadx.blogspot.com

Một phi đội gồm máy bay F-14, F-4 và Mig-29 của không quân Iran bay biểu diễn.


http://nghiadx.blogspot.com

Máy bay Azarakhs (sấm sét) của Iran chế tạo dựa trên F-5E của Mỹ


http://nghiadx.blogspot.com

Máy bay F-16 Mỹ bán cho chính quyền Shas của Iran. Phòng không - không quân

Nhằm bảo vệ các mục tiêu quan trọng, đặc biệt là cơ sở hạt nhân, Iran đã xây dựng một lực lượng phòng không - không quân đông đảo và có chất lượng cao trong khu vực.

Không quân Iran vào giai đoạn trước cách mạng Hồi giáo đã sở hữu những trang bị hiện đại nhất khu vực. Dưới sự trị vì của vương triều Shas, Mỹ đã viện trợ và bán cho Iran 160 máy bay F-16, 79 máy bay F-14A Tomcat, 32 máy bay F-4D Phantom, 177 máy bay F-4E, 16 máy bay trinh sát điện tử RF-4E Phantom II, 140 máy bay F-5E và 28 máy bay F-5F hai chỗ ngồi.

Sau khi bị cấm vận từ năm 1979 cùng với cuộc chiến tranh Iran - Iraq, Iran đã dần cạn kiệt nguồn phụ tùng thay thế cho những máy bay này, do đó, số máy bay phương Tây còn phục vụ hiện nay trong quân đội Iran không còn nhiều (chỉ còn khoảng 25 chiếc F-14A và hơn 100 máy bay F-4; F-5 còn đang hoạt động).

Dù vậy, Iran cũng đã đạt được thành tựu khi không chỉ sản xuất được phụ tùng thay thế mà còn có khả năng tự nâng cấp những loại máy bay này. Tiêu biểu Iran đã sản xuất được máy bay Saeqeh, biến thể nâng cấp của máy bay F-5A và Azarakhsh là loại máy bay tự sản xuất hoàn toàn dựa trên máy bay F-5E của Mỹ.

Sau nămm 1979, Iran cũng đã mua khá nhiều máy bay từ các nước khối XHCN như máy bay tiêm kích J-7M của Trung Quốc, Mig-29, Su-24MK của Nga và máy bay vận tải Il-76TD.

Một nguồn cung cấp máy bay cho Iran không thể không kể đến là những chiếc máy bay do phi công Iraq đào tẩu khi Mỹ tấn công Iraq trong cuộc chiến tranh Vùng Vịnh lần thứ nhất gồm các loại như Mirage-F1 (ít nhất một phi đội), Su-24MK (Fencer-D), Mig-29, Su-22M, Su-25, Mig-24 và Il-76.

Trong số các máy bay này, những chiếc Mirage F1 và Su-24MK vẫn còn đang phục vụ bình thường trong lực lượng Không quân Iran.


http://nghiadx.blogspot.com

Chiếc máy bay cảnh báo sớm (AEW) Il-76 Adnan này là do các phi công Iraq "biếu không" cho Iran

Ngoài ra, công nghiệp Iran cũng đã tự chủ trong việc sản xuấ nhiều loại máy bay trực thăng và máy bay huấn luyện theo các nguyên mẫu nước ngoài như Shavabiz 75 (biến thể của trực thăng Bell 214C), Shahed 274 (chủ yếu dựa theo trực thăng Bell-206), máy bay huấn luyện JT2-2 Tazarv, máy bay huấn luyện hạng nhẹ Parastu ( biến thể của máy bay F33 Bonanza do Mỹ sản xuất).

Không những sở hữu số lượng máy bay hùng hậu, không quân Iran cũng đã tích lũy được khá nhiều kinh nghiệm tác chiến từ cuốc chiến tranh 9 năm với người láng giềng Iraq. Đồng thời, qua cuộc chiến này, Iran cũng đã làm chủ được nhiều loại vũ khí của cả phương Tây và khối XHCN.

Trong những năm gần đây, bên cạnh việc tự phát triển các loại máy bay chiến đấu mới, Iran cũng đang nỗ lực tìm nguồn cung cấp các chiến đấu cơ hiện đại. Trong số các loại máy bay nước này quan tâm có thể kể đến máy bay chiến đấu đa nhiệm Su-30 của Nga, J-10 hay JF-17 Thunder của Trung Quốc. Tuy nhiên, dưới áp lực của Mỹ và phương Tây, hiện Iran chưa ký được một hợp đồng nào để mua những loại máy bay này.


http://nghiadx.blogspot.com

Iran tự nhận là nước đầu tiên chế tạo tên lửa đánh chặn tên lửa không đối không.


http://nghiadx.blogspot.com

Tên lửa có thiết kế giống S-300 của Nga.


http://nghiadx.blogspot.com

Tên lửa phòng không 2K12 Kub (SA-6) của Iran.

Dù sở hữu số lượng máy bay khá lớn, nhưng hầu hết những loại máy bay này đã lỗi thời khi so sánh với máy bay F/A-18 của Mỹ hay F-15, F-16 của Israel, do đó nhiệm vụ bảo vệ các mục tiêu quan trọng của Iran vẫn phải dựa nhiều vào lực lượng phòng không.

Tương tự không quân, lực lượng phòng không Iran cũng sở hữu nhiều loại vũ khí khác nhau của cả phương Tây và Nga.

Ngoài các hệ thống tên lửa phòng không cũ như S-200, 2K12 Kub, S-125 (Nga), MIM-23 Hawk, SM-1 (Mỹ), mới đây Iran cũng đã mua 29 hệ thống phòng không tầm ngắn Tor của Nga. Đây là hệ thống phòng không cơ động, có khả năng phản ứng nhanh và có thể đối phó với các tên lửa hành trình.

Ngoài ra, quân đội Iran cũng được trang bị nhiều loại tên lửa tầm nhiệt vác vai hiện đại như SA-16/18 Igla, RBS-70 của Thụy Điển.
Bên cạnh tên lửa phòng không, Iran cũng được trang bị mạng lưới pháo phòng không tầm thấp dày đặc, trong đó có cả những hệ thống hiện đại điều khiển bằng máy tính, dẫn bắn bằng radar và thiết bị ngắm quang điện tử như Skyguard do Thụy Sĩ sản xuất.

Ngoài ra, công nghệ quốc phòng của Iran cũng làm chủ, sản xuất được nhiều loại tên lửa phòng không hiện đại khác.

Đáng kể nhất là tên lửa biến thể S-300 (Iran tuyên bố tự sản xuất sau khi hợp đồng mua bán với Nga bị đổ bể, có thể có sự hỗ trợ kỹ thuật và linh kiện từ Nga hoặc Belarus), tên lửa Messad (là biến thể nâng cấp của tên lửa MIM-23 Hawk của Mỹ với radar và thiết bị điều khiển mới, có độ chính xác và tầm bắn vượt xa nguyên bản.


http://nghiadx.blogspot.com

Binh sĩ Iran đang vận hành pháo 35 mm trong hệ thống phòng không Sky Guard

Tên lửa

Lực lượng tên lửa đối đất là “nắm đấm” đáng gờm của Iran đối với các quốc gia có ý định tấn công nước này, đặc biệt là Israel.

Từ những tên lửa Scud mua ban đầu của Nga và một phần nhờ sự giúp đỡ của Trung Quốc, Triều Tiên, Iran đã tự chế tạo được rất nhiều loại tên lửa đạn đạo nguy hiểm.

Bước đầu, Iran đã thành công trong việc chế tạo các tên lửa đạn đạo tầm ngắn hoạt động bằng nhiên liệu lỏng như Shahab-1 (tầm bắn 350 km, dựa trên tên lửa Scud-B), Shahab-2 (tầm bắn 750 km, dựa trên Scud-C).


http://nghiadx.blogspot.com

Tên lửa đất đối đất Fateh-110 có tầm bắn 300 km với tốc độ tới 1.200 m/s nên gần như không thể đánh chặn.

Sau đó, Iran ngày càng tiến bộ khi đã thành công trong việc chế tạo các tên lửa tầm trung có tầm bắn từ 2.000 - 3.000 km, có khả năng vươn tới Israel và toàn bộ các căn cứ quân sự của Mỹ tại vùng Vịnh.

Đặc biệt, các tên lửa mới này (như Shahab-3 tầm bắn từ 1.200 - 2.000 km; Ghadr-110 tầm bắn 2.500 - 3.000 km, Sajjil-2 tầm bắn 2.000 - 2.500 km) đều sử dụng nhiên liệu rắn, do đó thời gian triển khai phóng sẽ nhanh hơn và đối phương có ít thời gian chống trả hơn.


http://nghiadx.blogspot.com

Tên lửa Sajjil có tầm bắn tới 2.500 km và có khả năng mang đầu đạn hạt nhân

Thêm nữa, những tên lửa như Ghadr-110 có thể mang đầu đạn nặng tới 750 kg, nghĩa là chúng hoàn toàn có thể được vũ trang bởi đầu đạn hạt nhân nếu Iran làm chủ được công nghệ vũ khí nguyên tử này.


http://nghiadx.blogspot.com

Súng trường tấn công Khaybar KH-2002 do Iran tự chế tạo

Bộ binh

Dù xác suất có một cuộc tấn công bằng bộ binh của Mỹ hay Israel vào Iran là rất nhỏ nhưng không vì thế mà Iran sở hữu lực lượng lục quân yếu.

Lực lượng lục quân Iran đang sở hữu một lực lượng lớn với 350.000 binh sĩ, trong đó 130.000 người là quân nhân chuyên nghiệp, còn lại là lính nghĩa vụ.

Kể từ sau cách mạng Hồi giáo năm 1979, lực lượng lục quân Iran đã được biên chế lại với ba sư đoàn bộ binh cơ giới, 7 sư đoàn bộ binh, một lữ đoàn dù và một sư đoàn đặc nhiệm.

Năm 2004, lực lượng này lại được tổ chức lại một lần nữa với bốn sư đoàn cơ giới, 6 sư đoàn bộ binh, hai lữ đoàn đặc nhiệm và một lữ đoàn dù cùng một số đơn vị độc lập khác.


http://nghiadx.blogspot.com

Pháo Koksan 175 mm do Triều Tiên sản xuất trong biên chế quân đội Iran

Sư đoàn đặc nhiệm số 23 của Iran hiện là đơn vị tinh nhuệ nhất của quân đội nước này với 5.000 quân nhân chuyên nghiệp. Sư đoàn này được chia thành 4 lữ đoàn bao gồm một lữ đoàn hỗ trợ đường không và các lữ đoàn cơ giới hỗn hợp, bao gồm cả một lữ đoàn đổ bộ đường biển được tổ chức tương tự lực lượng thủy quân lục chiến của phương tây.

Hỗ trợ lực lượng bộ binh này là 65 máy bay tấn công mặt đất cùng 320 trực thăng chở quân và chiến đấu, bao gồm chủ yếu là máy bay AH-1J do Mỹ sản xuất.

Hiện lục quân Iran vẫn vận hành nhiều loại vũ khí của cả Nga và phương Tây như xe tăng M-60 của Mỹ, Chieftaincủa Anh, T-54, T-62 và T-72 của Nga. Ngoài ra, Iran cũng có loại xe tăng nội địa với tên Zulfiqar.

Ba biến thể của xe tăng này là Zulfiqar-1 và Zulfiqar-3 sử dụng nhiều chi tiết của cả xe tăng Mỹ và Nga như pháo 2A46 125 mm sản xuất theo pháo của xe tăng T-72 và hệ thống xích, nhún lấy từ xe tăng M-60 của Mỹ.

Iran cũng tự nâng cấp hầu hết số xe tăng T-54 của mình lên chuẩn mới với tên Safir-74 hay còn gọi là T-72Z.


http://nghiadx.blogspot.com

Xe tăng Zulfiqar-3, mẫu xe tăng mới nhất của Iran được cho là có tính năng không kém các xe tăng hiện đại phương Tây

Ngoài ra, Iran cũng tự sản xuất được nhiều hầu hết các loại vũ khí bộ binh như súng trường tấn công Khaybar KH-2002, tên lửa chống tăng Toophan...mặc dù những vũ khí này vẫn dựa một phần hay hoàn toàn vào thiết kế của vũ khí nước ngoài.

Có thể thấy hiện nay Iran đang sở hữu một lực lượng quân đội hùng mạnh trong khu vực. Vũ khí nước này dù chưa phải quá hiện đại và khá lộn xộn do pha trộn giữa hai hệ vũ khí phương Tây và Nga - Trung Quốc, tuy nhiên, nhờ đầu tư nghiêm túc vào công nghiệp quốc phòng, Iran dần đã tự chủ và ngày càng hiện đại hóa được trang thiết bị quân sự của mình.

Nếu Mỹ và Israel muốn đối phó với đất nước này thì những gì đã làm với Iraq hay Afghanistan chắc chắn là không đủ.

Copyright 2012 Tin Tức Quân Sự - Blog tin tức Quân Sự Việt Nam
 
Lên đầu trang
Xuống cuối trang