Tin Quân Sự - Blog tin tức Quân sự Việt Nam

Paracel Islands & Spratly Islands Belong to Viet Nam !

Quần Đảo Hoàng Sa - Quần Đảo Trường Sa Thuộc Về Việt Nam !

Thứ Ba, 1 tháng 5, 2012

>> Sẽ đến lúc Trung - Mỹ đối đầu trực tiếp

“Bắc Kinh ngày càng mất niềm tin vào Mỹ, theo đó Trung-Mỹ có thể sẽ chạy đua vũ trang và đối đầu trực tiếp…”



http://nghiadx.blogspot.com
Máy bay chiến đấu tàng hình J-20 Trung Quốc.

Gần đây, dư luận chú ý đến báo cáo “Sự hoài nghi chiến lược Trung-Mỹ” của Vương Tập Tư, Viện trưởng Viện Quan hệ quốc tế-Đại học Bắc Kinh và học giả Think Tank Washington Lieberthal, báo cáo này đến từ Viện Brookings có ảnh hưởng ở Washington.

Báo cáo đã đề xuất một số kiến nghị cải thiện quan hệ tin cậy lẫn nhau giữa hai nước, bao gồm hai nước tiến hành đối thoại lâu dài về triển khai quân sự, mục đích là để đạt được các thỏa thuận, điều này vừa giúp cho Trung Quốc bảo vệ được “lợi ích cốt lõi”, vừa cho phép Mỹ thực hiện nghĩa vụ đồng minh châu Á-Thái Bình Dương.

Về kinh tế, Mỹ cần khuyến khích Trung Quốc đầu tư trong lĩnh vực bất động sản của Mỹ, đồng thời nhanh chóng hoàn thành nghiên cứu về hạn chế công nghệ xuất khẩu cho Trung Quốc. Trung Quốc cần làm cho chi tiết của hệ thống quyết sách chính trị minh bạch hơn, để cho các quan chức Mỹ có sự kỳ vọng thực tế đối với Trungn Quốc. Hai nước còn cần nhanh chóng triển khai đàm phán về lĩnh vực đầu tư song phương.

Trong báo cáo, Vương Tập Tư viết, các nhà lãnh đạo Trung Quốc “đầu óc đủ tỉnh táo”, còn chưa đi đến kết luận vị thế siêu cường của Mỹ hiện nay đã bị thách thức nghiêm trọng, xét thấy sự phụ thuộc của Trung Quốc vào xuất khẩu, Trung Quốc cũng không cho rằng Mỹ suy thoái kinh tế có thể thay thế.

Nhưng, sau khi Mỹ nhiều lần kêu gọi Trung Quốc cải thiện nhân quyền, gây sức ép trong vấn đề CHDCND Triều Tiên và Iran, bán vũ khí cho Đài Loan…, Bắc Kinh ngày càng mất niềm tin đối với Mỹ, nếu cứ để phát triển theo hướng đó, hai nước sẽ rơi vào cuộc chạy đua vũ trang, cũng có thể xuất hiện sự đối đầu trực tiếp. Đây là kết luận của báo cáo Viện Brookings.

http://nghiadx.blogspot.com
Tên lửa hạt nhân DF-31A Trung Quốc

Lieberthal cho rằng, trước cuộc khủng hoảng tài chính, Trung Quốc tin rằng Mỹ sẽ vẫn ở vị trí nước lớn số một trong một thời gian dài, nhưng hiện nay Bắc Kinh cho rằng, Washington đang tìm mọi cách “cố gắng làm chậm sự trỗi dậy của Trung Quốc”.

Theo Lieberthal: “Nếu đây là kết luận của họ, thì họ sẽ không tin vào động cơ những việc chúng ta làm. Trên thực tế, tôi cho rằng, phần lớn những việc chúng ta làm là muốn tiếp nhận Trung Quốc, tiếp nhận sự trỗi dậy của họ, làm hết khả năng và mang tính xây dựng để Trung Quốc hòa nhập vào hệ thống toàn cầu”.

>> Trung Quốc đẩy mạnh phát triển vũ khí tác chiến điện tử

Mỹ đang rất lo ngại về các mối đe dọa từ vũ khí tác chiến điện tử và tác chiến mạng của Trung Quốc đối với máy bay tiên tiến của họ.



http://nghiadx.blogspot.com
Máy bay trinh sát điện tử H-6 và máy bay gây nhiễu điện tử H-5 của Trung Quốc.


Tờ “Phương Đông” dẫn bài viết của “Tuần san Hàng không”, theo đó quan chức Lầu Năm Góc Mỹ cho biết, hệ thống theo dõi, tác chiến điện tử và tác chiến mạng do Trung Quốc phát triển đang đe dọa các thiết bị cảm biến và thông tin quan trọng của tàu chiến và máy bay Mỹ.

Chẳng hạn như máy bay chiến đấu tấn công liên hợp F-35 tiên tiến, cũng sẽ rất mỏng manh. Do F-35 đã lắp đặt radar mảng pha quét điện tử chủ động góc rộng (AESA), rất dễ bị vũ khí tác chiến mạng tấn công.

Chuyên gia tác chiến mạng Mỹ cho biết, vũ khí tác chiến mạng trên máy bay của đối phương dùng hình thức "phần mềm ác ý" để bắn trực tiếp chùm sóng dữ liệu tới ăng-ten mục tiêu. Rất nhiều nước đều đang phát triển loại vũ khí này, để tấn công, gây nhiễu, xâm phạm và tiêu diệt mục tiêu trang bị trên máy bay có giá trị cao.

Đặc biệt là vũ khí tác chiến điện tử đang được Trung Quốc phát triển, chuyên tấn công thiết bị cảm biến có giá trị cao và máy bay chỉ huy-kiểm soát, bao gồm radar không đối không của máy bay cảnh báo sớm E-3, radar không đối đất của E-8 Joint Stars và máy bay tuần tra chống tàu ngầm P-8 Poseidon.

http://nghiadx.blogspot.com
Máy bay gây nhiễu điện tử Y-8 và máy bay JH-7 có khoang gây nhiễu KG300G.

Các chuyên gia tác chiến điện tử cho rằng, “tấn công điện tử có thể trở thành phương thức đưa vi-rút vào hệ thống. Thông qua tín hiệu phát ra từ hệ thống mục tiêu, có thể tìm được phương pháp xâm nhập hệ thống”.

Ba năm trước, nhà thầu F-35 từng bị một cuộc tấn công mạng, vài dữ liệu TB có liên quan đến hệ thống điện tử của F-35 bị sao chép. Căn cứ vào theo dõi địa chỉ IP, những kẻ xâm nhập đến từ Trung Quốc.

Trên thực tế, loại mối đe dọa tiềm tàng này không chỉ đe dọa đến các kiểu máy bay F-35, mà các loại máy bay F/A-18 Super Hornet và EA-18G Growler cũng bị đe dọa.

Để tăng độ phân giải và khoảng cách phát hiện cho radar mang theo trên máy bay, những máy bay này đều đã lắp radar mảng pha quét điện tử chủ động, dễ nhận được tín hiệu bị giả mạo hoặc lây nhiễm.

Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ Ashton Carter cho biết: “Tôi đặc biệt lo ngại radar của chúng ta bị gây nhiễu hoặc bị tấn công mạng.

Rất khó phân biệt tác chiến điện tử và tấn công mạng. Chúng ta đã đánh giá thấp giá trị của tác chiến điện tử, không coi trọng đối với lĩnh vực này. Trên phương diện nào đó, chúng ta đã tụt hậu”.


http://nghiadx.blogspot.com
Máy bay chiến đấu F-35B/C của Mỹ.

Do đó, quân Mỹ quyết định ngăn chặn lỗ hổng của radar. Mùa hè năm 2011, các chuyên gia bắt đầu điều chỉnh chương trình tác chiến điện tử của Lầu Năm Góc, đồng thời quyết định mùa thu năm 2012 sẽ tìm được nguồn vốn đầy đủ.

Mặc dù các chuyên gia tác chiến điện tử của Mỹ đã tiếp xúc tương đối nhiều với tác chiến điện tử và tác chiến mạng ở Iran và Afghanistan, nhưng ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương, công nghệ tác chiến điện tử mà Không, Hải quân Mỹ phải đối mặt sẽ mạnh hơn.

Trong ngân sách tài chính năm 2013, phần lớn chương trình nâng cấp của radar trang bị trên máy bay chiến thuật và trên tàu chiến đã được phê duyệt, nhưng việc cắt giảm kinh phí quốc phòng vẫn sẽ ảnh hưởng tới chương trình tác chiến điện tử và tác chiến mạng.

http://nghiadx.blogspot.com
Máy bay chiến đấu F/A-18 Super Hornet của hãng Boeing - Mỹ.


http://nghiadx.blogspot.com
Máy bay tấn công điện tử EA-18G Growler của Mỹ.


http://nghiadx.blogspot.com
Máy bay cảnh báo sớm E-3 của Mỹ.


http://nghiadx.blogspot.com
Máy bay E-8 của Không quân Mỹ, trang bị hệ thống radar tấn công mục tiêu và giám sát liên hợp.


http://nghiadx.blogspot.com
Máy bay tuần tra chống tàu ngầm P-8A Poseidon của Công ty Boeing, chế tạo cho Hải quân Mỹ.

>> "Chiến tranh kiểu mới" trong mối quan hệ Trung - Ấn

Tăng cường sức mạnh, âm thầm so kè với Trung Quốc, Ấn Độ đang tự tin đặt mình vào vị trí của “tay chơi lớn”.

http://nghiadx.blogspot.com
Quan hệ Trung - Ấn còn nhiều nghi kỵ. Ảnh: Time.

Thâm hụt niềm tin và nhân tố Mỹ

Gần đây báo giới New Delhi và Bắc Kinh thường dành cho nhau những lời lẽ mang đầy tính thù địch. Một tờ báo của Ấn Độ mới đây giật dòng tít: “Hãy cảnh giác, Ấn Độ. Trung Quốc chuẩn bị lập căn cứ quân sự tại Ấn Độ Dương”. Đáp trả, báo giới Bắc Kinh nhanh chóng đả kích New Delhi là “ngày càng tỏ rõ sự đố kỵ với thành công của Trung Quốc”.

Thực tế, không chỉ báo giới mà giới chức New Delhi và Bắc Kinh cũng không thực sự tin tưởng lẫn nhau. Mặc cho Trung Quốc khẳng định căn cứ tại đảo Seychelles trên Ấn Độ Dương chỉ nhằm hỗ trợ cho các tàu hải quân nước này, giới lãnh đạo Ấn Độ vẫn coi động thái này là biểu hiện của “chính sách bao vây chiến lược của Trung Quốc”.
Dù không đánh giá cao khả năng xảy ra xung đột thực sự, một nhà ngoại giao kỳ cựu của Ấn Độ vẫn thừa nhận: “New Delhi và Bắc Kinh đang trải qua thời kỳ thâm hụt niềm tin”.

Gần 50 năm sau chiến tranh biên giới, tranh chấp lãnh thổ dài hàng nghìn km2 giữa hai nước vẫn chưa được giải quyết và cái “ung” này thỉnh thoảng lại trở chứng, khiến quan hệ Ấn Độ – Trung Quốc đau tím tái.

Rõ ràng, quan hệ song phương tiềm ẩn nhiều mâu thuẫn, hồ nghi tới mức Tổng biên tập tạp chí Quốc phòng Ấn Độ là Bharat Verma phải cho rằng, Trung Quốc có thể tấn công Ấn Độ để đảm bảo vị trí thống lĩnh tại châu Á.

Và ngay cả lĩnh vực thương mại song phương, dù có tốc độ phát triển nhanh nhất giữa các nền kinh tế mới nổi, cũng tồn tại việc thiếu tin cậy lẫn nhau.

“Mối quan hệ này đang dần tiến tới thù địch chính bởi quan điểm hiếu thắng của Trung Quốc. Bắc Kinh muốn trở thành số 1 thế giới, có thể không phải để thống trị lãnh thổ mà là nhằm có được cái quyền gạt bỏ chính sách của những nước láng giềng mà Trung Quốc không ưa thích”, Shyam Saran, cựu Ngoại trưởng Ấn Độ nhận định.

Khó chịu không kém, phía Trung Quốc cho rằng, Ấn Độ đang góp sức cho chiến lược kìm chế của Mỹ. Theo Bắc Kinh, mục tiêu rõ ràng của cuộc họp ba bên đầu tiên sắp tới giữa Washington, New Delhi và Tokyo là nhằm tìm cách đối phó với “một Trung Quốc đang ngày càng khẳng định vị thế lớn”.

Vì vậy, giới phân tích nhận định, cuộc họp này, cùng với loạt động thái tăng tốc của New Delhi sẽ chỉ càng gia tăng nghi ngờ trong mối quan hệ song phương.

“Trò chơi lớn”

Dù giới ngoại giao hai nước khẳng định mong muốn thiết lập mối quan hệ song phương thân thiết nhưng căng thẳng vẫn không ngừng gia tăng ở mọi khía cạnh quan hệ giữa hai láng giềng châu Á này. BBC cho rằng, những sự dè chừng, so găng của New Delhi và Bắc Kinh rất giống như một cuộc đấu trong "trò chơi lớn”.

"Trò chơi lớn" là khái niệm gắn liền với cuộc tranh giành ảnh hưởng cũng như quyền kiểm soát đối với khu vực Trung Á giữa Nga và Anh được bắt đầu từ năm 1813 và chỉ kết thúc đến khi hiệp ước Anh-Nga năm 1907 được ký kết.

Theo BBC, so với trò chơi nguyên bản hồi những năm 1880, phiên bản mới giữa hai “ông lớn châu Á” này dù không gây ồn ào bằng nhưng lại có tác động lớn hơn trên toàn cầu, đồng thời đặt ra những thách thức không nhỏ cho khu vực và thế giới.


http://nghiadx.blogspot.com
Ấn Độ - Trung Quốc "chơi trò chiến tranh mới". Ảnh: Economist.

Giống như phiên bản cũ, cuộc chơi mới này cũng diễn ra trên mọi lĩnh vực như viện trợ, đầu tư, chính trị, văn hóa và đặc biệt là quân sự.

Trung Quốc giúp Chính phủ Sri Lanka trong các lĩnh vực quân sự, ngoại giao và viện trợ hàng tỷ USD để họ đánh bại lực lượng Những con hổ giải phóng Tamil. Đổi lại, quốc đảo này cho Bắc Kinh sử dụng cảng nước sâu ở Hambantota, qua đó kiểm soát được nhiều tuyến đường vận chuyển huyết mạch trên biển, có ý nghĩa sống còn với Ấn Độ.

Không dừng lại, Trung Quốc còn dựng lên lá chắn ở phía Tây Nam, ngăn chặn ý định Đông tiến của Ấn Độ bằng cách lôi kéo Myanmar, biến nước này thành đồng minh thân cận nhất. Bằng chứng là Bắc Kinh liên tục thúc đẩy thương mại song phương, trở thành đối tác buôn bán lớn nhất của Naypyidaw, liên tục bảo vệ nước này tại Hội đồng bảo an Liên Hiệp Quốc, xây dựng hoặc nâng cấp các cơ sở thương mại, các căn cứ hải quân…

Đổi lại, Trung Quốc được phép khai thác mỏ khí tự nhiên của Myanmar với giá hữu nghị, cũng như từng bước tiếp cận những nguồn tài nguyên thiên nhiên. Điều này vừa có lợi cho Trung Quốc, vừa kết lấy lòng Myanmar và quan trọng hơn, cắt đi một nguồn cung nguyên, nhiên liệu cho nhu cầu kinh tế Ấn Độ cũng như lấy đi của Ấn Độ một đồng minh trong vùng đệm an ninh.

Một nước khác cũng được Trung Quốc tận dụng là “kẻ thù” của Ấn Độ: Pakistan. Bằng cách giúp đỡ tài chính, kỹ thuật vũ khí, đặc biệt là vũ khí hạt nhân… cho Islamabad, Bắc Kinh được phép xây dựng một căn cứ hải quân lớn, trạm giám sát ở Gwadar và một bến cảng ở Pasni. Đã vậy, với việc giúp Pakistan phát triển vũ khí hạt nhân, Bắc Kinh giúp kẻ thù của kẻ thù, khiến Ấn Độ phải chia lửa đối phó Pakistan ở phía Tây, không thể dồn sức cho cuộc cạnh tranh với Trung Quốc ở phía Bắc, Đông và Nam.

Xét trên bình diện toàn khu vực xung quanh Ấn Độ, Trung Quốc còn âm thầm lôi kéo Nepal, Bangladesh… tạo thế bao vây Ấn Độ trên đất liền. Và với hàng loạt hải cảng, căn cứ hải quân ở các nước thân thiết với Trung Quốc dọc theo Ấn Độ Dương, Bắc Kinh tạo thành vành đai trên biển. Có thể nói, Trung Quốc đi trước một bước, bao vây thành công Ấn Độ, hoàn toàn có cơ sở để kìm chế được cường quốc này.

Vì vậy, với một số người ở New Delhi, đối phó với Trung Quốc thậm chí còn được đặt cao hơn với đối thủ truyền thống là Pakistan. "Gần đây, có một quan điểm phổ biến ở Ấn Độ rằng, Trung Quốc là mối nguy hiểm thực sự trong tương lai", Gurmeet Kanwal, giám đốc nghiên cứu chiến tranh mặt đất tại New Delhi nhấn mạnh.

Trước sự uy hiếp của Trung Quốc, Ấn Độ cũng không chịu khoanh tay ngồi nhìn. Ngoài việc tự lực phát triển kinh tế, tăng cường hợp tác với Mỹ, Nga, ASEAN… tạo thế cân bằng chiến lược, nước này còn tập trung tăng cường sức mạnh quốc phòng.

“Quân đội Ấn Độ đang củng cố lực lượng của mình để chuẩn bị đối phó với một cuộc xung đột có thể xảy ra dọc khu vực biên giới tranh chấp và không ngừng cố gắng cân bằng với việc phô trương sức mạnh của Trung Quốc tại Ấn Độ Dương”, James Clapper, giám đốc tình báo quốc gia Mỹ tuyên bố trước một uỷ ban thượng viện.

Để cạnh tranh, Ấn Độ bắt đầu con đường dài để hiện đại hoá các lực lượng của mình và thay thế những vũ khí lạc hậu từ thời Xô Viết. Ấn Độ quyết định mua 126 máy bay chiến đấu từ hãng Dassault của Pháp sau một cuộc chiến giữa các nhà sản xuất máy bay toàn cầu để lôi kéo Ấn Độ. Chi phí ban đầu cho hợp đồng này ước tính vào khoảng 11 tỷ USD nhưng các vũ khí trên máy bay, việc chuyển giao công nghệ, duy tu bảo dưỡng và các phí tổn khác được cho là làm gia tăng hầu như gấp đôi giá thành.

Hải quân Ấn Độ mới đây cũng tiếp nhận một tàu ngầm hạt nhân Nerpa của Nga, đổi tên là INS Chakra-II. Động thái này khiến Ấn Độ trở thành thành viên của một nhóm "đẳng cấp" các quốc gia vận hành tàu ngầm hạt nhân. Những thành viên khác trong câu lạc bộ này có Mỹ, Pháp, Nga, Anh và Trung Quốc.

Ngoài ra, 6 tàu ngầm đang được xây dựng ở Ấn Độ theo giấy phép từ Pháp trong hợp đồng trị giá 5 tỷ USD dự kiến bắt đầu đi vào hoạt động năm 2015.

“Như vậy, không chỉ có Trung Quốc đang trỗi dậy, mà Ấn Độ cũng đang gia tăng và xu thế này tiếp tục trong vài thập niên tới", phó chỉ huy không quân Kapil Kak nghỉ hưu, hiện là thành viên Trung tâm nghiên cứu không lực ở New Delhi nhận định.

Tuy nhiên, theo các nhà phân tích, không ai trong số hai nước muốn gây chiến tranh bởi họ đều có vũ khí hạt nhân, khi giao chiến thì hậu quả là vô cùng lớn, đôi bên đều bị thương nặng, thậm chí hủy diệt lẫn nhau. Vì vậy, tất cả những động thái cứng rắn của họ chỉ nhằm mục đích là để tranh giành ảnh hưởng, giống như những gì diễn ra trong “trò chơi vĩ đại” hồi những năm 1980.

Thứ Hai, 30 tháng 4, 2012

>> EU vong ân bội nghĩa với Mỹ ???

Nếu châu Âu bỏ cấm vận vũ khí Trung Quốc nghĩa là vô ơn với Mỹ, vì châu Âu được Mỹ bảo vệ, nhưng lại làm cho đối thủ của Mỹ mạnh hơn.



http://nghiadx.blogspot.com
Anh đang phát triển tàu sân bay HMS Queen Elizabeth.

 Ngày 18/4, trang mạng “Học giả Ngoại giao” Nhật Bản có bài viết nhan đề “EU cần duy trì lệnh cấm vận vũ khí đối với Trung Quốc”. Theo bài viết, việc cấm vận vũ khí đối với Trung Quốc của EU có ý nghĩa tượng trưng lớn hơn thực chất, chủ yếu là để bày tỏ phản đối, chứ không phải dựa vào đó để thay đổi hành vi của Bắc Kinh; mục tiêu không phải là tiến hành trừng phạt kinh tế, mà là để phát đi tín hiệu mạnh mẽ cho giá trị của châu Âu.

Nhưng, đối với vấn đề thực hiện lệnh cấm, nội bộ EU thiếu sự đồng thuận. Mỗi nước căn cứ vào pháp luật, quyết sách của nước mình để giải thích, lập trường tập thể của EU thiếu tính thống nhất. Pháp luôn thúc đẩy dỡ bỏ cấm vận Trung Quốc. Tây Ban Nha và Hy Lạp cũng có lúc bày tỏ ủng hộ. Nhưng Anh và một số thành viên EU mới đến từ Liên Xô cũ thì bày tỏ phản đối.

Những người chủ trương hủy bỏ cấm vận cho rằng, cấm vận vũ khí đã gây phiền phức cho quan hệ giữa châu Âu và Trung Quốc, gây trở ngại cho phát triển quan hệ đối tác chiến lược giữa EU và Bắc Kinh. Trong đó có thể có sự tính toán về thương mại, trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế toàn cầu hiện nay, các công ty châu Âu rất muốn xóa bỏ các trở ngại xuất khẩu.

EU hy vọng sau khi dỡ bỏ cấm vận vũ khí đối với Trung Quốc, cho dù không bán vũ khí cho Trung Quốc, thì Trung Quốc cũng sẽ trả ơn bằng cách tăng mua hàng hóa của EU.

http://nghiadx.blogspot.com
Máy bay chiến đấu Typhoon của châu Âu.

Gần đây, các nước châu Âu cắt giảm chi tiêu quân sự, khiến cho rất nhiều đơn đặt hàng trong nước của các công ty quốc phòng giảm xuống. Đồng thời, Mỹ vẫn không muốn mua hàng hóa quân dụng của châu Âu. Trong tình hình đó, bán vũ khí cho Trung Quốc giúp cho các công ty quốc phòng châu Âu giữ được nhân viên, phát triển kinh tế.

Ngoài ra, lệnh cấm vận thực sự đã khích lệ Trung Quốc tự nghiên cứu phát triển hàng hóa quân dụng và nâng cao trình độ chế tạo, từ đó làm suy yếu ưu thế chiến lược của phương Tây trong lĩnh vực này, cũng làm cho phương Tây càng khó nắm chắc trình độ phát triển vũ khí của Trung Quốc.

Những điều này đương nhiên có lý do thuyết phục, nhưng những người ủng hộ duy trì cấm vận Trung Quốc càng có lý do vững chắc hơn. Trước hết, cấm vận không thể gây cản trở tăng trưởng mạnh mẽ thương mại và đầu tư song phương giữa Trung Quốc và châu Âu.

Châu Âu đến nay là khu vực nhập khẩu lớn nhất của hàng hóa Trung Quốc, EU và Trung Quốc đều là đối tác thương mại lớn thứ hai của nhau.

Ngoài ra, trong 20 năm qua, tình hình nhân quyền của Trung Quốc không được cải thiện rõ rệt, Mỹ lo ngại hủy bỏ cấm vận sẽ phát đi tín hiệu sai lầm cho Trung Quốc.

http://nghiadx.blogspot.com
Tàu hộ tống Gowind của Pháp.

Mỹ còn lo ngại việc tăng cường quan hệ kinh tế thương mại và chính trị châu Âu-Trung Quốc có thể cản trở EU ủng hộ những nỗ lực của Mỹ ngăn chặn Trung Quốc và thúc đẩy Trung Quốc trỗi dậy theo cách không tạo ra mối đe dọa.

Thương mại vũ khí giữa Trung Quốc và châu Âu sẽ làm tăng mức độ phụ thuộc lẫn nhau, EU có thể càng trở nên miễn cưỡng thách thức Bắc Kinh trong các vấn đề gây tranh cãi. Trước đây, khi quan hệ Nga và EU mật thiết, Mỹ đã gặp phải vấn đề này.

Do hợp tác công nghiệp quốc phòng Âu-Mỹ rộng mở, các công ty của EU có thể chuyển nhượng công nghệ quân sự của Mỹ cho Trung Quốc. Điều này sẽ giúp Trung Quốc có được công nghệ quân sự hữu dụng đưa vào tự nghiên cứu phát triển vũ khí, từ đó tăng cường sức mạnh quân sự và khả năng răn đe cho Trung Quốc.

Điều này cũng có nghĩa là giúp phát triển ngành công nghiệp quốc phòng của Trung Quốc, từ đó tăng sức cạnh tranh cho vũ khí xuất khẩu của Trung Quốc.

Nội bộ EU phổ biến cho rằng, việc cấm vận vũ khí đối với Trung Quốc cần được kết thúc vào một lúc nào đó. Nhưng hiện nay rõ ràng không phải là lúc vì vấn đề này mà gây ra một cuộc khủng hoảng xuyên Đại Tây Dương khác.

http://nghiadx.blogspot.com
Tàu ngầm kiểu mới do Trung Quốc tự sản xuất.

Hiện nay, lực lượng quân sự của Mỹ chuyển sang châu Á để ứng phó tốt hơn với Trung Quốc. EU bán vũ khí cho Trung Quốc sẽ làm gia tăng mối lo ngại của Mỹ đối với sức mạnh quân sự của Trung Quốc, đồng thời còn làm cho người Mỹ cảm thấy người châu Âu vong ân bội nghĩa, được lợi từ sự hiện diện quân sự của Mỹ tại châu Âu, nhưng vì lợi ích thương mại với Bắc Kinh lại hy sinh lợi ích an ninh chung xuyên Đại Tây Dương.

>> Thế kỷ 21 là của Mỹ, không phải Trung Quốc?


Ngày nay hầu hết mọi người quen với những lời tán dương sự năng động của nền kinh tế Trung Quốc và cảnh báo sự suy giảm của Mỹ. Không ít người dự đoán, thế kỷ 21 là hoàn toàn là kỷ nguyên của "người khổng lồ châu Á" nhưng họ sai lầm.



Trong khi Mỹ bắt đầu khôi phục từ cuộc suy thoái nghiêm trọng nhất trong lịch sử 80 năm qua, Trung Quốc lại lướt qua khủng hoảng tài chính toàn cầu, một cách nhẹ nhàng và gần như không bị thiệt hại đáng kể.

Ngay cả nếu tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc chậm lại, chỉ còn giữ ở mức 7,5%, như dự báo mới nhất của Chính phủ nước này, tỷ lệ trên vẫn gấp ba lần tỷ lệ tăng trưởng của Mỹ thời hậu khủng hoảng.

Từ đó, nhiều người tin rằng không lâu nữa nền kinh tế Trung Quốc sẽ vượt mặt Mỹ và thế kỷ 21 là kỷ nguyên của Trung Quốc. Thậm chí, Quỹ tiền tệ quốc tế còn dự báo Trung Quốc sẽ soán ngôi cường quốc kinh tế số 1 của Mỹ vào năm 2016, mang lại cho nước này cơ hội thống lĩnh sân khấu chính trị toàn cầu.

http://nghiadx.blogspot.com
Nếu soán ngôi cường quốc kinh tế số 1 thế giới của Mỹ, Trung Quốc sẽ có cơ hội thống lĩnh sân khấu chính trị toàn cầu. Ảnh minh họa: AFP.


Tuy nhiên, không ít người cũng tin vào một kịch bản hoàn toàn khác rằng sau bao biến cố và thăng trầm, nền kinh tế Mỹ đang sẵn sàng để hồi sinh trong khi đó, nền kinh tế Trung Quốc bắt đầu đối mặt với các rào cản trong thế kỷ này.

Theo nhóm người này, mô hình tăng trưởng nhờ xuất khẩu được thúc đẩy bởi giá lao động rẻ mạt của Trung Quốc đang bắt đầu bộc lộ những mặt trái của nó.

Trong lòng Trung Quốc, sức ép để phải chia sẻ rộng rãi hơn và công bằng hơn các thành quả có được nhờ gia tăng khả năng sản xuất đang nổi lên mạnh mẽ và trở thành bài toán khó dành cho giới lãnh đạo nước này.

Đồng thời, Trung Quốc bắt đầu phải đối mặt với vấn đề tăng chi phí lao động và sự suy giảm khả năng cạnh tranh xuất khẩu.

Việc kích thích các hộ gia đình Trung Quốc tiêu dùng nhiều hơn có thể là giải pháp nhằm bù đắp cho tình trạng tăng trưởng dựa vào xuất khẩu thấp. Tuy nhiên, giới chuyên gia phân tích cũng khuyến cáo rằng giải pháp này sẽ ít hiệu quả bởi thói quen chi tiêu là điều khó mà thay đổi.

Thực tế, chỉ số tiêu dùng của Trung Quốc gần đây ở mức thấp bởi thị trường bất động sản ảm đảm. Tăng trưởng kinh tế Trung Quốc có khả năng giảm xuống còn 7,5% trong năm nay và tương lai, còn có thể sụt giảm hơn nữa, ít nhất khoảng 3 %, theo dự đoán của GS.Michael Pettis, thuộc ĐH Bắc Kinh.

Trong khi đó, Mỹ bắt đầu nhận được hàng loạt các báo cáo hàng tháng đầy khả quan về tình trạng việc làm (bất chấp tỷ lệ tăng trưởng việc làm đầu tháng 4 khá ảm đảm).

Ngoài ra, theo báo cáo của Cục phân tích kinh tế Mỹ, Tổng thu nhập quốc nội (GDI) quý IV/2011 của Mỹ tăng trưởng ấn tượng 4,4%.

Sức sản xuất của Mỹ, nói cách khác đang trở lại. Và xét cho cùng thì suy thoái kinh tế không hoàn toàn là thảm họa mà nó dường như mang lại cơ hội cho các công ty Mỹ để sắp xếp lại hoạt động và tăng năng xuất lao động.

Chẳng hạn, các hãng xe hơi của Mỹ, ba năm trước đây đứng trên bờ vực phá sản thì nay, đang bắt đầu bắt kịp lại với nhu cầu của thị trường.

Hơn nữa, Mỹ luôn đi đầu thế giới trong việc áp dụng sức mạnh trí tuệ nhân tạo và tin học cho các loại mặt hàng tiêu dùng, đặc biệt là các mặt hàng công nghệ.

Trong khi đó, Trung Quốc nổi lên như là “kẻ sao chép” các sản phẩm công nghệ cao của cường quốc số 1 thế giới chứ không phải là “nhà sáng chế” các sản phẩm tương tự như trên.

Một câu hỏi đặt ra là liệu kỷ nguyên suy giảm của Mỹ đã kết thúc? Và trên thực tế, thế kỷ 21 là của Mỹ chứ không phải của Trung Quốc?

Theo hai Giáo sư chuyên ngành khoa học chính trị và kinh tế Mỹ, George C. Pardee và Helen N. Pardee thuộc ĐH California tại Berkeley, bất cứ kết luận nào vào thời điểm này đều là quá vội vàng.

Trung Quốc có thể tăng trưởng chậm lại. Tuy nhiên, trên thực tế, Bắc Kinh vẫn là một xã hội năng động và giới lãnh đạo nước này cũng rất khôn khéo khi luôn “chịu khó” áp dụng các đòn bẩy chính sách – từ giảm dự trữ bắt buộc cho các ngân hàng tới tăng chi tiêu cho cơ sở hạ tầng – nhằm tránh kịch bản nền kinh tế sụt giảm không phanh.

Thêm vào đó, chi phí lao động có thể gia tăng nhưng Trung Quốc vẫn sẽ là thị trường lao động giá rẻ dồi dào.

Ngoài ra, trên thực tế, giới lãnh đạo Trung Quốc kêu gọi tăng trưởng kinh tế chậm lại để phát triển ổn định hơn. Các nhà sản xuất Trung Quốc cũng đang tập làm quen với lĩnh vực sản xuất các loại mặt hàng phức tạp hơn, tinh vi hơn, chẳng hạn, tuabin gió và pin mặt trời. Các nghành sản xuất này đòi hỏi lao động có kiến thức kỹ thuật và công nghệ cao chứ không đơn thuần dựa vào nguồn lao động giá rẻ.

Trong khi đó, sự phục hồi của Mỹ hiện nay chưa hẳn đã chắc chắn. Trên thực tế, tỷ lệ tăng trưởng 4,4% GDI trong quý IV/2011 của Mỹ chủ yếu được kích thích bởi sự tăng trưởng về tồn kho (ở Việt Nam thường gọi là tích lũy tài sản lưu động). Mỹ chỉ đang duy trì mức tăng trưởng 2,5%, thua xa Trung Quốc. Giá bất động sản tiếp tục sụt giảm, gây ra tâm trạng bất an, lo lắng cho nhiều người.

Ngoài ra, người ta cũng chỉ có thể chắc chắn rằng các thành tựu công nghệ cao sẽ mang lại nhiều lợi nhuận hơn cho các nhà sản xuất chúng chứ không ai dám chắc chúng đang góp phần kích thích năng xuất hay tạo ra nhiều cơ hội việc làm hơn cho người Mỹ.

Đáng ngại nhất là những bế tắc về chính trị của Mỹ đang trở thành trở ngại để họ giải quyết các thách thức trung hạn về tài chính. Suy đoán cho rằng sau thời kỳ chịu đựng một chuỗi các cuộc suy thoái kinh tế nặng nề, “phép màu năng xuất” sẽ diễn ra trên đất Mỹ đang bắt đầu phai nhạt.

Không có gì phải bàn cãi về thực trạng nền kinh tế Trung Quốc đang phải đối mặt với nhiều thách thức và khó khăn hơn trong khi kinh tế Mỹ đang chứng tỏ những tín hiệu phục hồi tích cực đầu tiên. Nhận ra điều đó, Trung Quốc đang bắt đầu áp dụng chiến lược phát triển ổn định hơn mà biểu hiện đầu tiên chính là chủ trương giảm tăng trưởng. Do đó, nếu Mỹ không biết nắm bắt và tận dụng các cơ hội dựa trên đà phục hồi kinh tế hiện tại để thúc đẩy tăng trưởng thì thế kỷ 21, sau tất cả, sẽ hoàn toàn là thế kỷ của Trung Quốc.

>> Trung Quốc tiếp tục ‘dạy đời’ Ấn Độ


Trong khi báo chí Ấn Độ đua nhau viết bài ca ngợi thành công vang dội của vụ phóng tên lửa Agni-5, báo giới Trung Quốc hôm nay tiếp tục dành cho New Delhi những bình luận “khó nghe”.



Theo Global Times, thành công trong vụ phóng tên lửa tầm xa có thể mang đầu đạn hạt nhân Agni-5 đang “đưa Ấn Độ lên mây”.

“Cả nước hòa vào niềm vui thắng lợi của các nhà khoa học quốc phòng…” hay “Ấn Độ tự hào tuyên bố về khả năng phòng thủ cũng như phát triển các loại vũ khí chiến lược của mình”... là những lời viết đầy tự hào mà các báo Ấn Độ như Mail, Indian Express, Times of India dành để nói về thành công trong việc phóng thử tên lửa liên lục địa Agni-5.

Như nhận định của giới quan sát, với tầm bắn lên đến 5.000km của Agni-5, Ấn Độ thực sự gia nhập câu lạc bộ của các cường quốc sở hữu tên lửa liên lục địa gồm Anh, Pháp, Mỹ, Nga và Trung Quốc. Các báo cáo từ quân đội cho hay, tên lửa Agni-5 sau khi được phóng thử bay trong vòng 20 phút, qua vịnh Bengal và đáp xuống một địa điểm ở phía Nam Ấn Độ Dương.

Toàn bộ “chuyến bay” của Agni-5 được các nhà khoa học quân sự Ấn Độ theo dõi chặt chẽ. Theo đó, tên lửa dài 17m và nặng 50 tấn này đã bay lên độ cao hơn 600km, ba tầng hoạt động tốt và trọng tải được triển khai đúng như dự kiến.

Một số chuyên gia quân sự quốc tế còn nhận định, với trang thiết bị bổ sung là con quay laser hình vòng tiên tiến, động cơ tên lửa tích hợp và hệ thống dẫn đường vệ tinh có độ chính xác cao, tên lửa đạn đạo Agni-5 có đủ sức vươn tới bất kỳ khu vực nào ở Trung Quốc, đặc biệt là khu vực bờ biển miền Đông nước này.

http://nghiadx.blogspot.com
Báo Trung Quốc tiếp tục tỏ ý khinh thường bước tiến tên lửa của Ấn Độ. Ảnh minh họa: Blogspot.


Tuy nhiên, Global Times khẳng định, trên thực tế, Ấn Độ “không có nhiều lý do để ăn mừng về sự kiện này”. Cho đến tận những năm 1980, Ấn Độ vẫn phát triển hơn Trung Quốc cả về lĩnh vực kinh tế và công nghệ. Tuy nhiên, sau đó, Bắc Kinh đã tiến vọt lên và vượt mặt New Delhi trên hầu hết các lĩnh vực.

Dưới sức ép của các thành viên trong Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO), Chính phủ của Thủ tướng Manmohan Singh nỗ lực không ngừng để phát triển chương trình tên lửa hành trình (IGMP) và vụ thử tên lửa Agni-5 dường như nằm trong giai đoạn cuối của chương trình này. Dẫu vậy, trên thực tế, các tên lửa trong IGMP được dự tính ban đầu là có tầm bắn tới 9.000km, thay vì 5.000km như Agni-5 đang có.

Theo tờ báo Trung Quốc, những hoạt động ăn mừng rầm rộ của Ấn Độ chỉ càng cho thấy nước này đang cố che giấu đi thực tế bất cân xứng và lạc hậu của chương trình phát triển tên lửa của mình.

Thêm vào đó, theo Global Times, sự phát triển của Ấn Độ thực sự không bền vững. Hơn 80% hệ thống vũ khí hiện đại của nước này là nhập khẩu từ Pháp, Mỹ, Nga và Israel. Nếu những nước này bất ngờ hạn chế nguồn cung vì một bất đồng dù là nho nhỏ nào thì New Delhi sẽ trở nên bất lực.

“Những thương vụ vũ khí ồn ào được đánh giá là có thể gia tăng đáng kể tiềm lực hạt nhân cũng như quân sự nói chung của Ấn Độ song liệu những vũ khí vay mượn này có thể đảm bảo an ninh vĩnh viễn cho New Delhi? Câu trả lời rất có thể là không bởi những hệ thống vũ khí nhập khẩu cũng chính là đầu mối rủi ro”, Global Times nhấn mạnh.

Tờ báo còn khẳng định, những ai ở Ấn Độ đang hoan hỉ ăn mừng bởi quốc gia này trở thành một điểm đến ưa thích cho các nhà buôn vũ khí toàn cầu thật là ngây thơ.

Với việc lựa chọn con đường theo đuổi để bắt kịp, thậm chí vượt mặt Trung Quốc, Ấn Độ đang tự dốc toàn bộ hầu bao của mình vào túi các nhà buôn vũ khí nước ngoài, thay vì đầu tư cho sản xuất trong nước.

Quan điểm này dường như khá tương đồng với chuyên gia quân sự Vasu Deva của Ấn Độ. Ông này cho rằng, sự tụt hậu về công nghiệp quốc phòng là do Ấn Độ phụ thuộc quá nhiều vào nhập khẩu vũ khí. Ông Deva đồng thời nhấn mạnh, Ấn Độ nên học tập kinh nghiệm của Trung Quốc trong vấn đề này, thúc đẩy “chủ nghĩa dân tộc kỹ thuật”. New Delhi cần có sự quân tâm và đầu tư mạnh mẽ cho ngành công nghiệp quốc phòng của mình.

Ngoài ra, Global Times cho rằng, thật lố bịch khi Chính phủ Ấn Độ nhồi nhét vào đầu dân chúng nỗi sợ hãi mang tên Trung Quốc để rồi coi vụ phóng tên lửa thành công mới đây là cái cớ để hạn chế mối lo sợ đó.

“Cả hai nước nên nhận thức được rằng, những nỗ lực nhằm gieo rắc sợ hãi hay căng thẳng giữa hai bên sẽ chỉ càng làm nhau tổn thương, theo đó, làm lợi cho những kẻ bên ngoài đang nhăm nhe phá bĩnh châu Á”, tờ báo Trung Quốc lưu ý.

Theo tờ báo, giới phân tích ở cả Ấn Độ và Trung Quốc cần có cái nhìn bao quát hơn và tập trung vào mối đe dọa chung mà nhân dân hai nước đang phải đối mặt. Lòng yêu nước chỉ thực sự hữu ích khi nó được bày tỏ theo cách có lợi cho đất nước, còn nếu nó gây tổn hại cho lợi ích quốc gia thì đó không thể gọi là lòng yêu nước.

Ấn Độ còn đang thiếu thốn nhiều nguồn ngân sách cho xây dựng cơ sở hạ tầng. Vì vậy, Chính phủ nước này nên tăng cường đầy tư nhằm nâng cao đời sống nhân dân, thay vì đổ vào những dự án quân sự hao tiền tốn của.

>> Trung Quốc làm càn trên biển Đông ?


Trong mấy ngày qua, dư luận Trung Quốc đang xôn xao trước bài viết đăng trên trang web của Thời báo Hoàn Cầu hôm 23.4 và được hàng loạt trang tin điện tử của Trung Quốc đăng lại, chỉ trích “Trung Quốc đã làm càn trên biển Đông”.



Bài viết được đăng trong bối cảnh căng thẳng giữa Bắc Kinh và Manila xung quanh tranh chấp trên vùng đảo Scarborough/Hoàng Nham đang ngày càng “nóng”, khiến quốc tế hết sức lo ngại. Với nhan đề Mỹ choáng váng: Trung Quốc bài binh bố trận trên biển Đông vượt quá dự liệu, bài viết chỉ ra, bất chấp cảnh báo của Mỹ và Nhật Bản, nhưng những hành động cứng rắn của Trung Quốc trên biển Đông chưa khi nào ngừng.


http://nghiadx.blogspot.com
Thời báo Hoàn Cầu hôm 23.4 chỉ trích “Trung Quốc làm càn trên biển Đông”.


Bài viết đặt vấn đề, trong vấn đề biển Đông, chính phủ Trung Quốc luôn chiếm quyền chủ động. Mặc dù dư luận trong nước cho rằng, hải quân Trung Quốc trên biển Đông còn rất yếu, nhưng thực tế thì sao?

Trước đây Hãng dầu khí của Anh BP đã từng đạt được thỏa thuận với Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam (PetroVietnam) khai thác các giếng khí đốt Mộc Tinh và Hải Thạch tại biển Đông, ngoài khơi thềm lục địa của Việt Nam. Nhưng trước sức ép của Bắc Kinh BP phải rút lui khỏi dự án này. "Nếu hành động này chỉ xảy ra một lần vẫn còn chấp nhận được, nhưng lặp đi lặp lại nhiều lần, có thể thấy thái độ của Trung Quốc đối với biển Đông, can thiệp vào các thoả thuận này là vô lý", bài báo viết.

Do không có đủ năng lực tự khai thác dầu, các nước Đông Nam Á thường phải tìm kiếm những công ty phương Tây hợp tác khai thác dầu ở biển Đông. Nhưng vì tàu chiến, máy bay của hải quân Trung Quốc luôn xuất hiện dày đặc. Hơn nữa Bắc Kinh còn thành lập thành phố Tam Sa, xây dựng sân bay trên đảo Vĩnh Hưng (Phú Lâm), nên họ không thể yên ổn khai thác dầu trên biển Đông.

http://nghiadx.blogspot.com
Tàu chiến Trung Quốc diễn tập bắn đạn thật trên biển Đông


Cũng có một số công ty nhỏ muốn thử, nhưng liền gặp phải sự khống chế của hai “ông lớn”: Tổng công ty Dầu khí Quốc gia Trung Quốc (CNPC) và Tổng công ty Dầu khí - Hóa chất Trung Quốc (Sinopec) -luôn vươn ra khắp thế giới tìm mua dầu khí, liên kết khai thác dầu mỏ... Hành vi khống chế này cũng không phải chỉ xảy ra trong một thời gian ngắn.

Ngoài Malaysia có những mỏ dầu gần bờ,còn hầu hết các mỏ dầu đều xa bờ, các công ty phương Tây đều không muốn làm mếch lòng Trung Quốc. Tuy nhiên, cho dù Malaysia có những mỏ dầu gần bờ, nhưng nếu mở bản đồ ra xem cho thấy, Trung Quốc chủ trương đẩy đường giới tuyến trên biển đến sát vùng đặc quyền 12 hải lý của Malaysia.

Điều đó có nghĩa là, vùng đặc quyền kinh tế cũng không thuộc về Kuala Lumpur. Đến bãi ngầm James Shoal nằm ở phía đông Malaysia, còn được Bắc Kinh coi là điểm cực nam của nước này, cho thấy sự tưởng tượng quá mức cùng với sự gian tà tột cùng của họ.

Cái bản đồ “đường lưỡi bò” vốn do chính quyền Trung Hoa dân quốc vẽ ra trên biển Đông, nay được Bắc Kinh ra sức tuyên truyền để có sự chấp nhận của dân chúng trong nước cũng như quốc tế. Từ xưa đến nay, đối với các nước như Brunei, Malaysia... Trung Quốc vẫn luôn vẽ đường phân tuyến tới “tận cửa nhà người ta”. Sau đó phân hóa Myanmar, Thái Lan, Campuchia... chia rẽ các nước ASEAN, nhấn chìm Philippines và từng bước gặm nhấm Việt Nam.

http://nghiadx.blogspot.com
"Đường lưỡi bò" vô lý đăng trên bản đồ Hành chính và Du lịch tỉnh Hải Nam (Trung Quốc), năm 1999

Thập niên 1930 - thời kỳ cực thịnh của chính quyền Trung Hoa dân quốc. Trong thời kỳ đó, một nhóm chuyên gia tìm cách mở rộng lợi ích dân tộc Hán. Một số người du học trở về đem theo những bản đồ hàng hải của Anh, Pháp, Mỹ, Nhật và tìm tất cả các loại đảo trên khắp tấm bản đồ đó, chỉ cần có lợi cho Trung Quốc liền đánh dấu hết lên trên đó.

Một nhóm chuyên ra trong nước thì tìm kiếm các tư liệu sử sách cũ, từ các đời Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh để mò mẫm những tuyến lãnh hải nhằm tuyên bố chủ quyền. Một lần, họ phát hiện ra một dải đá ngầm mang tên James Shoal. Họ đã đẩy đường giới tuyến biển xuống đến đó, dừng lại đó vì xét thấy không thể mở rộng được nữa, nếu không, sẽ đưa Malaysia nhập vào lãnh thổ Trung Quốc.

Năm 1935, Trung Hoa dân quốc đã cho công bố tên gọi dải đá ngầm James Shoal này là dải đá ngầm Tăng Mẫu, đồng thời tuyên bố rằng đây chính là ranh giới cực nam vỹ độ thấp nhất thuộc phạm vi lãnh thổ của Trung Quốc.

Sau khi Trung Quốc mới ra đời, Trung Hoa dân quốc bị đẩy ra đảo Đài Loan cho đến ngày nay. Mặc dù đối đầu nhiều vấn đề, nhưng riêng về “đường lưỡi bò” này cả Trung Quốc đại lục và Đài Loan dễ dàng có tiếng nói chung.

"Do địa lý biển Đông quá lớn, khoảng cách giữa các đảo cũng tương đối xa, mặc dù được gọi là biển Nam Trung Hoa, tuy nhiên, điều này không có nghĩa đây là vùng biển của riêng Trung Quốc. Nói theo cách đó, không lẽ Ấn Độ Dương thuộc về Ấn Độ?". Bài viết lập luận.

Ai đã khiến cho biển Đông dậy sóng? Bài viết đặt câu hỏi.

Trung Quốc đã làm càn trong các cuộc xung đột từng xảy ra trên biển Đông. Bài viết thuật lại những trận đánh chiếm của hải quân Trung Quốc lên quần đảo Hoàng Sa năm 1974 và Trường Sa năm 1988.

Năm 1989, sau khi chiếm được một số đảo trên quần đảo Trường Sa, với ý đồ lôi kéo sự thừa nhận của Liên hợp quốc, trong vai trò là Uỷ viên Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, Bắc Kinh kêu gọi UNESCO lập Trạm quan sát hải dương trên dải đá Chữ Thập (Fiery Cross Ree, Trung Quốc gọi là Vĩnh Thử), hàm ý rằng, ai dám đánh chiếm dải đá Chữ Thập, chính là đối đầu với Liên hợp quốc.

Phần cuối, bài viết đưa ra kết luận: “Bắc Kinh ngày càng thích gây ra rắc rối trên biển Đông. Trung Quốc đã tát vào mặt người khác, rồi tỏ thái độ tức giận rằng, họ đã tự đập mặt vào tay mình”.

>> Các tổ chức tình báo quốc phòng Mỹ (kỳ 1)


Sức mạnh của Quân đội Mỹ gắn liền với sự phát triển của các tổ chức tình báo. Tình báo quân sự Mỹ chi phối cả tình hình quân sự, chính trị trên thế giới.



http://nghiadx.blogspot.com
Ấn Độ đang cố gắng thúc đẩy nền công nghiệp quốc phòng trong nước để tiết kiệm ngân sách quốc phòng cho mua sắm, vũ khí trang bị từ nước ngoài

Năm 2010, cộng đồng tình báo Mỹ được chi 80 tỷ USD, gấp 2 lần năm 2001, để cung cấp tiền, trang bị, con người cho 72 trung tâm tình báo hỗn hợp và hơn 100 đội đặc nhiệm hoạt động khắp toàn cầu, dưới sự chỉ đạo của ODNI – Văn phòng giám đốc tình báo quốc gia.

Ngoài CIA – Cục tình báo trung ương của dân sự, thì 4/5 phương tiện, con người và ngân sách của cộng đồng tình báo Mỹ thuộc quyền điều hành của Bộ quốc phòng, với các tên gọi:

- DIA (Defence Intelligence Agency): Cục tình báo quốc phòng
- NSA (National Security Agency): Cục an ninh quốc gia
- NRO (National Reconnaissance Office): Văn phòng trinh sát quốc gia
- NI (Navy Intelligence): Tình báo hải quân
- AI (Army Intelligence): Tình báo lục quân
- AFI (Air Force Intelligence): Tình báo không quân
- MCI (Marine Corps Intelligence): Tình báo hải quân đánh bộ.

Cùng nhiều cơ quan thu thập và phân tích tin đặc biệt khác.

DIA – “Anh cả” của tình báo quốc phòng Mỹ

Ngành tình báo ra đời rất sớm trong Quân đội Mỹ. Ngay từ năm 1882, đã có phòng tình báo Lục quân Mỹ. Trải qua 2 cuộc đại chiến thế giới (1914-1918 và 1939-1945) các tổ chức tình báo của các quân chủng, binh chủng phát triển mạnh.

Năm 1958, Bộ Quốc phòng Mỹ quyết định tổ chức lại tình báo của hội đồng tham mưu liên quân (chỉ huy trực tiếp 4 quân chủng lục quân, không quân, hải quân và hải quân đánh bộ) nhằm cung cấp tin kịp thời cho các bộ tư lệnh chiến trường của Mỹ rải khắp thế giới.

Lúc đầu tổ chức có tên JIG. Đến ngày 8/2/1961, có sắc lệnh lập cục tình báo quốc phòng DIA và ngày 1/10/1961 DIA chính thức đi vào hoạt động cho đến ngày nay.

Nhiệm vụ của DIA

- Tổ chức người, phương tiện để khai thác, thu thập tất cả các tin liên quan đến an ninh của Mỹ và đồng minh.
- Xử lý tất cả mọi tài liệu, mẫu vật thu thập được, hình thành các bản tin và báo cáo, thông báo cho các cơ quan cấp trên, ngang cấp và cấp dưới.
- Trực tiếp điều hành từ khâu tuyển chọn, đào tạo, hoạt động của tình báo quốc phòng.
- Cung cấp nhân sự về tình báo theo yêu cầu của cấp trên.

Quan hệ giữa DIA và CIA rất chặt chẽ. Từ 1976, DIA không trực thuộc JCS (tham mưu trưởng liên quân) mà trực thuộc Bộ trưởng quốc phòng.

Cơ cấu tổ chức

Số lượng nhân viên (công khai): 7.000 người. Tổng hành dinh DIA đặt ở Lầu Năm Góc, trụ sở Bộ Quốc phòng Mỹ. Nòng cốt của DIA là 3 trung tâm và 3 văn phòng. Trong đó, 3 trung tâm là:

- Trung tâm thu thập tư liệu, tài liệu: Tổ chức hoạt động thu thập tin tình báo quân sự và liên quan tới các quốc gia và vùng lãnh thổ. Dưới trung tâm là các phòng phân theo địa lý, khu vực.

Tổ chức này có trên 10 phòng, ví dụ phòng đảm trách tin tức khu vực Châu Á – Thái Bình Dương chịu trách nhiệm thu thập tin tức các quốc gia và vùng lãnh thổ trải từ Đông Bắc Á, Đông Nam Á đến tận Nam Á với mấy chục đầu mối. Đây là trung tâm có số nhân viên lớn nhất.

- Trung tâm phân tích và ra tin: Trên cơ sở tin thu thập của trung tâm thu thập tin, tiến hành phân tích, xử lý tin để kịp thời có tin về quân sự, chính trị và khoa học công nghệ đệ trình lãnh đạo nhà nước, Bộ Quốc phòng và các cơ quan liên quan, đồng thời chỉ đạo các cơ quan phân tích tin ở các quân chung, chỉ đạo chung trung tâm tình báo tên lửa và vũ trụ (Missile and Space Intelligence Center) đặt ở bang Alabama và Trung tâm y tế của lực lượng vũ trang ở bang Mariland để ra các tin về vũ khí sinh học, hóa học, hạt nhân...

- Trung tâm hỗ trợ tin tình báo: Chủ yếu xử lý tin bằng hệ thống máy tính, đảm bảo an toàn liên lạc, kỹ thuật cho hệ thống tin từ các chiến trường về DIA và ngược lại.

Và 3 văn phòng gồm:

- Văn phòng chính trị: Chuẩn bị văn bản đáp ứng yêu cầu của các giới chức về vị trí, vai trò, tác dụng, nhu cầu của DIA. Phối hợp với các nhóm của CIA, thay mặt DIA giải quyết mọi vấn đề với tình báo các nước.

- Văn phòng đảm bảo kỹ thuật: Chịu trách nhiệm chính về các hoạt động của các trung tâm, văn phòng trong DIA.

Tại đây, có trung tâm tổng hợp tình báo quân sự quốc gia (National Military Joint Intelligence Center), chịu trách nhiệm về các tình huống khủng hoảng trên thế giới, phối hợp với CIA, NSA và tình báo quân binh chủng.

Ngoài ra, còn có Trung tâm tình báo liên quân mới thành lập nhằm hình thành mạng thông tin giữa tổng hành dinh DIA đến các binh đoàn, đơn vị của một chiến trường (như Iraq, Afghanistan) truyền tin gồm văn bản, hình ảnh, âm thanh qua mã cao cấp.

- Văn phòng hành chính: Bảo đảm các mặt hành chính, hậu cần, tài chính cho toàn DIA và hướng dẫn theo ngành dọc các cơ quan tình báo cấp dưới.

DIA đã qua nhiều lần điều chỉnh cơ cấu tổ chức. Sau năm 1991, tổ chức đã điều chỉnh, giảm 30% số lượng nhân viên theo dõi, hoạt động ở hướng Nga, Đông Âu .

Sau sự kiện 11/9, DIA điều chỉnh một lần nữa, tăng cường nhân sự và phương tiện cho hướng Trung Đông, Trung Á. Chắc chắn từ đầu năm 2011 đến nay, DIA đang điều chỉnh do Bắc Phi, Trung Đông có biến động lớn.

Ngoài 3 trung tâm chính và 3 văn phòng lớn nêu trên, dưới giám đốc DIA có một số phó giám đốc phụ trách các mặt hoạt động, sản xuất tin, quan hệ với các cơ quan tình báo trong và ngoài nước, chỉ đạo các chương trình tình báo quân sự chung, tuyển chọn và huấn luyện.

Trực thuộc giám đốc và các phó giám đốc có các cơ quan: Phòng nhân sự, phòng kế hoạch, phòng bình phong, phòng tài chính, phòng luật pháp, phòng thanh tra...

Trong số này, phòng bình phong có vai trò đặc biệt, hoạt động theo một đạo luật có từ tháng 10/1990 cụ thể và có tính định hướng thời gian rất dài. Trước đó, đã có một số văn bản khác cho phép nhân viên DIA được hoạt động dưới bình phong thương mại, ngoại giao, hàng không, thông tấn báo chí...

Người ta cũng nhớ rằng giai đoạn 1967-1981 số nhân viên DIA ở nước ngoài dạng bình phong có bị cắt giảm do nhiều thất bại của toàn bộ cộng đồng tình báo Mỹ trên khắp các lục địa. Đạo luật 1990 cho phép nhân viên bình phong có điều kiện nâng cao cả chất lượng và số lượng.

Chủ Nhật, 29 tháng 4, 2012

>> Hải quân Trung Quốc có thực sự đáng lo ngại?


Sức mạnh hải quân đang gia tăng của Trung Quốc không hẳn là một cách biểu hiện sự hiếu chiến song vẫn có lý do để lo ngại bởi bất cứ cuộc xung đột quân sự nào liên quan đến Trung Quốc hầu hết sẽ bắt đầu và diễn tiến trên biển.



Sức mạnh khiến Mỹ ngỡ ngàng

Kết luận tổng quát trong báo cáo đầu tháng 4 vừa qua của Ban nghiên cứu Quốc hội Mỹ (CRS) về tiến trình hiện đại hóa hải quân Trung Quốc khẳng định: “Sự lơ là của hải quân Mỹ tại Thái Bình Dương trong một thời gian dài tạo ra cơ hội để Trung Quốc tăng cường sức mạnh trên biển”.

Theo báo cáo này, cụm từ hiện đại hóa hải quân nhằm chỉ sự hiện đại hóa không chỉ diễn ra trong hải quân mà còn ở các khía cạnh khác nhằm tăng cường sức mạnh trên biển của Trung Quốc như tên lửa đất đối không, máy bay chiến đấu được trang bị tên lửa đối hạm (ASCM) và radar tầm xa…

Ngoài ra, theo CRS, sự lớn mạnh ấn tượng của hải quân Trung Quốc còn nằm ở các hạm đội tàu ngầm. Gần đây họ cho đóng ít nhất hai tàu ngầm lớp Jin – những tàu ngầm đầu tiên có khả năng mang tên lửa đạn đạo. Hai tàu ngầm tấn công lớp Shang sử dụng năng lượng hạt nhân cũng vừa được đưa vào sử dụng.

Theo các nhà nghiên cứu Mỹ về hải quân Trung Quốc, không tính tới các tàu đã cũ, Bắc Kinh hiện có 9 tầu ngầm hạt nhân, trong đó có ba tàu được trang bị tên lửa hạt nhân tầm xa, 53 tầu ngầm chạy bằng động cơ diesel, 74 khu trục hạm và tầu hộ tống cùng số lượng tương tự tầu đổ bộ và tầu tuần tra ven biển trang bị tên lửa.

Nếu tính tới các kế hoạch đóng tàu được biết hiện nay của Trung Quốc tới năm 2020, hải quân Trung Quốc có thể sẽ có hai tàu sân bay, 40 - 45 tầu ngầm động cơ diesel, khoảng 55 khu trục hạm và tầu hộ tống. Số lượng có thể ít hơn hoặc nhiều hơn, song không chênh lệch quá nhiều.

Bên cạnh đó, báo cáo chỉ trích Washington không đánh giá đúng tốc độ phát triển của quân đội Trung Quốc. Hậu quả là Lầu Năm Góc không đưa dự đoán chính xác về thời điểm Bắc Kinh phát triển được tên lửa đối hạm và máy bay tàng hình.

http://nghiadx.blogspot.com
Sự lớn mạnh của hải quân Trung Quốc khiến Mỹ ngỡ ngàng. Ảnh: shutterstock.com.


Báo cáo của CRS nhận định, Trung Quốc muốn quân đội có khả năng đóng vai trò gọi là lực lượng chống tiếp cận, giống như lực lượng ngăn chặn biển mà Liên Xô triển khai trong thời kỳ chiến tranh Lạnh.

Bên cạnh đó, các mục tiêu khác trong chiến lược phát triển hải quân Trung Quốc còn nhằm xác định, đòi quyền lợi trong các tuyên bố chủ quyền lãnh thổ của nước này ở biển Hoa Đông và biển Đông, cũng như làm suy yếu ảnh hưởng của Mỹ tại Thái Bình Dương. Đây là điểm gây chú ý trong chiến lược hiện đại hóa hải quân của Trung Quốc vì nếu chỉ nhằm đối phó Đài Loan thì không cần đến tàu sân bay hay hàng loạt tàu khu trục và tàu tấn công đổ bộ.

Trung Quốc vừa trấn an vừa đe dọa

Trước sự quan ngại của Mỹ, hiện thực hóa ngay bằng hai cuộc tập trận với Philippines và Ấn Độ gần đây, Trung Quốc khẩn trương lên tiếng phân bua.

Tờ Global Times hôm nay đăng bài viết khẳng định, trong một kỷ nguyên hiện đại, khi mà hòa bình, hợp tác và phát triển là mục tiêu trước nhất như hiện nay thì hải quân Trung Quốc đóng vai trò quan trọng trong các sứ mệnh phi quân sự liên quan đến hoạt động chống khủng bố, khắc phục hậu quả thiên tai, gìn giữ hòa bình và bảo vệ lãnh thổ.

Kỷ niệm 63 năm ngày thành lập, hải quân Trung Quốc hôm nay tiếp tục xác định rõ nhiệm vụ của mình là tăng cường là hoạt động phi quân sự toàn cầu theo khuôn khổ của Hội đồng bảo an Liên Hiệp Quốc, đồng thời thiết lập các mối quan hệ song phương và đa phương nhằm bảo vệ nền hòa bình trên toàn thế giới. Đây cũng chính là nguyên tắc và “kim chỉ nam” hoạt động của hải quân Trung Quốc trong hiện tại và tương lai.

Global Times nhấn mạnh, bất chấp thực tế này, một vài học giả nước ngoài gần đây không ngừng “rao giảng” về cái gọi là tham vọng của Trung Quốc nhằm “soán ngôi” cường quốc hải quân số 1 thế giới của Mỹ thông qua các nỗ lực tham gia vào hàng loạt chiến dịch trên biển của các tổ chức quốc tế.

Theo tờ báo, giới quan sát thậm chí còn nghi ngờ về ý đồ thực sự của Bắc Kinh khi “tân trang” lại một chiếc tàu sân bay. Global Times khẳng định, hải quân Trung Quốc có tham vọng cũng như nguồn lực để thực hiện một cuộc chiến hao tiền tốn của ở trên biển.

“Ngay cả khi Bắc Kinh chế tạo một chiếc tàu sân bay thì nó cũng chỉ là nhằm mục đích sử dụng cho các hoạt động chiến đấu chống lại cướp biển và bảo vệ lãnh thổ Trung Quốc”, Global Times quả quyết.

Ngoài ra, theo tờ báo, lâu nay các hoạt động của hải quân Trung Quốc cũng không nằm ngoài mục tiêu gia tăng quyền lực cho Liên Hiệp Quốc và góp phần xây dựng nền hòa bình và an ninh tại khu vực. Bằng cách này, hải quân Trung Quốc vừa thúc đẩy được sự tin tưởng từ cộng đồng quốc tế, vừa tăng cường được khả năng tác chiến của mình.

Theo đó, Global Times kết luận, sự lớn mạnh của hải quân Trung Quốc sẽ không tiềm ẩn bất cứ mối nguy nào mà chỉ càng góp phần tích cực vào việc thúc đẩy hòa bình và công bằng trên thế giới.

Tuy nhiên, điều đáng quan tâm là ngay sau bài viết đầy ôn hòa này, Global Times tiếp tục đăng tải một bài báo trong đó khẳng định, việc cạnh tranh với sức mạnh hải quân Mỹ là khả năng trong tầm tay của Trung Quốc.

“Trung Quốc có thể xây dựng một lực lượng hải quân hùng mạnh và thực tế cho thấy Bắc Kinh đã làm được điều đó”, tờ báo chính thống Trung Quốc nhấn mạnh.

http://nghiadx.blogspot.com
Global Times khẳng định, việc phát triển lực lượng hải quân có sức mạnh ngang tầm với Mỹ là hoàn toàn trong tầm tay. Ảnh: China Daily.


Theo Global Times, một số học giả phương Tây giữ quan điểm cho rằng, sức mạnh tầm lục địa của Trung Quốc sẽ không bao giờ có thể “đọ” được với khả năng tấn công trên toàn cầu của hải quân Mỹ.

Những học giả này thỉnh thoảng còn khơi lại sự vắng bóng trong thời gian dài của các hạm đội chiến đấu của Trung Quốc ở những vùng biển quan trọng hay sự bất lực của nhà Thanh trong việc xây dựng một lực lượng hải quân hùng mạnh. Theo họ, những trở ngại về văn hóa và địa lý là rào cản quá lớn đối với nỗ lực tăng cường tiềm lực hải quân của Bắc Kinh.

Tuy nhiên, Global Times khẳng định, những bước tiến mà hải quân Trung Quốc đạt được trong thời gian qua cho thấy sự kiên trì và trí tuệ của con người có thể giúp họ vượt qua mọi khó khăn.

Global Times phân tích, Mỹ thực sự là một cường quốc trên bộ. Vì các đường biên giới của Washington không phải đối mặt với bất cứ mối hiểm nguy nào nên quốc gia này càng tiết kiệm được nguồn lực để phát triển trên biển.

Tờ báo Trung Quốc nhận định, Bắc Kinh cũng hoàn toàn có thể tạo ra lợi thế như Washington đang có để phát triển hải quân. Với sẵn những đường biên giới khá yên bình, Trung Quốc chỉ cần thúc đẩy các mối quan hệ tốt đẹp với láng giềng là hoàn toàn có thể trút bỏ gánh nặng về việc bảo vệ lãnh thổ, qua đó có thể dồn lực xây dựng lực lượng hải quân có khả năng vượt mặt Mỹ.

>> "Đồ" của Nga bị Nato cướp trong cuộc chiến Lybia


Năm 2011, nhiều người sửng sốt khi nhìn thấy xe chiến đấu Khrizantema-S trong đội hình chiến đấu của quân nổi dậy ở Libya.


Năm 2010, quân đội Libya đã nhận được 3 xe chiến đấu (theo các nguồn khác là 4) này và 150 tên lửa đi kèm.

Trong một thời gian dài, không ai biết gì về số phận của các hệ thống Khrizantema-S của Libya. Còn đây là một trong các hệ thống ‘lộ diện’ trong giao tranh.



http://nghiadx.blogspot.com

http://nghiadx.blogspot.com

Chỉ có thể phỏng đoán điều gì đã xảy ra với các xe chiến đấu khác.

Có lẽ, hiện nay, các chuyên gia quân sự từ các nước NATO tham chiến chống chế độ Gaddafi đã đang nghiên cứu cặn kẽ hệ thống này. Chắc chắn, họ không bỏ qua cơ hội hiếm có để khám phá hệ thống vũ khí chống tăng tối tân nhất của Nga hiện nay.

Mặc dù, các hệ thống Khrizantema-S xuất khẩu thường có tính năng bị bớt xén so với các biến thể dành cho quân đội Nga.
Hệ thống Khrizantema-S (phương Tây gọi là AT-15 Springer) do Viện Thiết kế Chế tạo máy Kolomna (KBM) phát triển trong thập niên 1990 dưới sự lãnh đạo của tổng công trình sư lừng danh S.P. Nepobedimy.

Khrizantema-S dùng để tiêu diệt các loại tăng-thiết giáp hiện đại và tương lai, kể cả xe tăng được trang bị giáp phản ứng nổ, cũng như lô cốt, công sự, mục tiêu mặt nước, mục tiêu bay tốc độ thấp và sinh lực đối phương.

Các đặc điểm khác biệt của hệ thống tên lửa chống tăng có điều khiển này là: khả năng hoạt động mọi thời tiết, hệ thống điều khiển kết hợp tự động theo tia vô tuyến và bán tự động theo tia laser, khả năng đồng thời bắn 2 mục tiêu và tốc độ bắn cao.

Hệ thống 9К123 Khrizantema-S được sản xuất loạt tại hãng “Nhà máy thiết bị Saratov”.

Bệ phóng mang 2 ống phóng và các phương tiện của hệ dẫn được lắp trên xe chiến đấu 9P157-2 được chế tạo dựa trên khung gầm BMP-3.

Nhờ đó, vừa bảo đảm được tính chuẩn hóa, vừa tạo cho xe khả năng cơ động và việt dã cao, khả năng vượt vật cản nước, khả năng bảo vệ tốt và khả năng không vận.

Kíp xe gồm 2 người là lái xe và xạ thủ.

Cơ số đạn của hệ thống gồm 15 tên lửa chống tăng thuộc 4 biến thể: 9М123 với phần chiến đấu xuyên lõm tandem (2 lượng nổ) dẫn bằng tia laser; 9М123-2 với phần chiến đấu xuyên lõm tandem dẫn theo kênh vô tuyến điện; 9М123F với phần chiến đấu nhiệt áp dẫn bằng tia laser; 9М123F-2 với phần chiến đấu nhiệt áp dẫn theo kênh vô tuyến điện.

Ngoài các xe chiến đấu 9P157-2, trong thành phần hệ thống Khrizantema-S còn có: xe chỉ huy đại đội 9P157-4, xe kiểm tra 9V945, xe kiểm tra 9V990 và thiết bị tập 9F852.

Xe chiến đấu 9P157-2 của hệ thống tên lửa chống tăng đa năng tự hành Khrizantema-S được giới thiệu rất thành công tại triển lãm vũ khí quốc tế lần thứ VIII “Nizhny Tagil-2011” (REA-2011). Và bất chấp “tình huống rắc rối ở Libya”, Khrizantema-S vẫn rất được quan tâm.

Dưới đây là một số hình ảnh về hệ thống Khrizantema:

http://nghiadx.blogspot.com

http://nghiadx.blogspot.com

http://nghiadx.blogspot.com

http://nghiadx.blogspot.com

http://nghiadx.blogspot.com

http://nghiadx.blogspot.com


Tính năng kỹ-chiến thuật cơ bản của 9К123 Khrizantema-S

Xe chiến đấu 9P157-2
Trọng lượng chiến đấu, tấn: gần 20
Kíp xe, người: 2
Cơ số đạn tên lửa chở theo xe, quả: 15
Công suất động cơ, mã lực: 660
Tốc độ trên đường nhựa, km/h: 70
Tốc độ bơi, km/h: 10
Dự trữ hành trình trên đường nhựa, km: 600

Tên lửa 9М123

Tầm bắn tối đa của tên lửa 9М123(F), m: 5000
Tầm bắn tối đa của tên lửa 9М123(F)-2, m: 6000
Tầm bắn tối thiểu, m: 400
Trọng lượng phóng của tên lửa, kg: 46
Trọng lượng phần chiến đấu xuyên lõm, kg: 8
Chiều dài x đường kính x sải cánh, mm: 2040 x 152 x 310
Tốc độ bay trung bình, m/s: gần 400

>> "Không đầu hàng, chúng ta sẽ dùng vũ khí hạt nhân"


Nhiều người vẫn được nghe kể chuyện MiG-25R khuấy đảo bầu trời Tel Aviv (1973) bằng tốc độ siêu kinh hoàng Mach 3. Tuy nhiên, nguồn gốc phi vụ ấy lại ít được biết đến.




Nhiều người vẫn còn nhớ như in cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba (1962) đặt nhân loại trước bờ vực thảm họa hạt nhân. Tuy nhiên, vẫn còn một cuộc khủng hoảng khác có nguy cơ biển thành thảm họa quy mô toàn cầu nếu không được ngăn chặn kịp thời. Đó là cuộc khủng hoảng Trung Đông, diễn ra cách đây vừa tròn 35 năm.

Thời kỳ đối đầu giữa khối XHCN và TBCN đã được gọi tên là “Chiến tranh lạnh”. Sự đối đầu không chỉ diễn ra giữa Mỹ và Liên Xô mà còn ở những đất nước, hoặc những khu vực cách Moscow và Wasington rất xa. Trung Đông là một trong những khu vực chịu ảnh hưởng của bối cảnh địa chính trị như vậy.

Israel ngủ quên sau chiến thắng

Chiến thắng vang dội trước Quân đội Ai cập trong cuộc chiến tranh Sáu ngày (năm 1967) làm mê muội ban lãnh đạo cao cấp nhất của Israel, chính họ đã đi đến kết luận, người Arab đã mất khả năng tấn công và trong tương lai gần không có khả năng khôi phục lại lực lượng vũ trang của mình.

Tâm lý say sưa với chiến thắng nhanh chóng chuyển sang tự mãn. Không ít các thông báo của các điệp viên về sự phục hồi nhanh chóng của các lực lượng vũ trang Ai Cập bị cho là không chính xác, thậm chí còn bị coi là "thất bại chủ nghĩa".

http://nghiadx.blogspot.com
Israel giành được những vùng lãnh thổ rộng lớn sau cuộc chiến 6 ngày. (Phần lớn vùng đất này được trao trả trong giai đoạn 1975-1982).

 Thủ tướng Israel khi đó là bà Golda Meir, dưới sự bảo trợ của "ông anh" Mỹ, càng tin tưởng vững chắc vào khả năng bách chiến bách thắng của đất nước và bỏ qua các nguyên tắc của Niccolo Machiavelli, bậc thầy về ngoại giao bí mật thời trung cổ châu Âu. Theo đó, “Các chính trị gia của đất nước chiến bại có nhiều điểm chung với những đứa trẻ con: tự mình gây ồn ào để chứng minh, trong căn phòng của trẻ con mọi thứ đều theo trật tự, sự im lặng của chúng thường lại gây nên nghi ngờ”.

Thật vậy, chính phủ của Nasser, và sau đó là Sadat, mặc dù mất bán đảo Sinai và mất kiểm soát kênh đào Suez, thậm chí không sử dụng diễn đàn Đại hội đồng Liên Hợp Quốc để vận động cho quyền lợi của mình.

Trong khi đó, các cố vấn tình báo Liên Xô tại Ai Cập đã phát triển một kế hoạch thông tin đánh lừa người Israel. Kể từ năm 1970, người Ai Cập đã bắt đầu triển khai kế hoạch. Mỗi ngày họ cung cấp cho các nhà báo phương Tây đang có mặt ở Cairo những thông tin sai lệch về tình hình quân đội, tình trạng tâm lý của binh sĩ, đặc biệt nhấn mạnh tới việc họ không có khả năng làm chủ và kiểm soát các trang thiết bị quân sự của Liên Xô.

Mục đích của hoạt động kể trên là nhằm tạo cho ban lãnh đạo Israel sự hình dung sai lệch về mối nguy hiểm thật sự và thuyết phục người Israel tin rằng, người Arab cam chịu thất bại và sẽ hành động theo điều răn của Đấng tiên tri Mohammed: "Cứ ngồi trên bậc thềm nhà mình và hãy chờ đợi rằng, nước của con mương sẽ cuốn hết đi xác chết kẻ thù của bạn…"

Người Ai Cập đã kiên trì "giả ốm đau" suốt 6 năm, để tới năm 1973, họ khôi phục hoàn toàn và trang bị thêm các vũ khí tấn công hiện đại nhất của Liên Xô. Cùng với đó, nhiều sĩ quan Liên Xô từng cố vấn tại Việt Nam, trực tiếp tham gia chỉ huy các đơn vị Quân đội Ai Cập.

Tháng 9/1973 Giám đốc cơ quan tình báo quân sự Israel Elia Zeira bỏ qua thông tin tình báo về sự sẵn sàng báo thù của quân đội Ai Cập và Syria. Giám đốc CIA William Colby cũng có hành động tương tự như vậy, bất chấp thực tế là các vệ tinh quân sự ghi nhận sự di chuyển các đơn vị Quân đội Ai Cập tới biên giới Israel.

"Không đầu hàng, chúng ta sẽ dùng vũ khí hạt nhân"

Sáng ngày 5/10/1973 bắt đầu chiến dịch được hoạch định bởi các tướng lĩnh Ai Cập và Bộ Tổng tham mưu các Lực lượng Vũ trang Liên Xô dưới mật danh “Ubur” (băng qua thác nước).

Quân đội Ai Cập vượt qua kênh đào Suez, còn Quân đội Syria tấn công các đơn vị Israel tại cao nguyên Golan. Cả hai đội quân tiến về Tel-Aviv và tạo thành gọng kìm bao vây chặt thủ đô của Israel.

Không phải tình cờ mà ngày này được chọn làm ngày mở màn chiến dịch tấn công. Ngày 5/10 là ngày lễ truyền thống của người Do Thái (Day of Judgment – Ngày phán xét). Vào ngày này, tất cả tín đồ Do Thái chính giáo đều phải đến nhà thờ sám hối cho những tội lỗi đã gây ra trong năm.

Nhờ nắm được yếu tố bất ngờ, quân đội Arab đã gây tổn thất lớn cho các đơn vị quân đội Israel: 3.000 binh lính và sĩ quan bị giết, hơn 900 xe tăng và khoảng 200 máy bay bị phá hủy. Đối với Israel đây là mất mát ngoài sức tưởng tượng về vật chất và nhân mạng.

http://nghiadx.blogspot.com
Cuộc chiến "Ngày phán xét" (Yom Kippur) năm 1973, Israel ở vào thế "lưỡng đầu thọ địch".


Sau ba ngày giao tranh đẫm máu, con đường đã mở ra ở phía trước xe tăng Syria. Tình thế nguy cấp tới mức tại cuộc họp khẩn diễn ra tối ngày 7/10, Bộ trưởng Quốc phòng Israel Moshe Dayan trong cơn hoảng loạn đã quay sang bà Thủ tướng Golda Meir với một đề nghị đầu hàng.

Tuy nhiên, Thủ tướng Israel, người mà người dân nước này mô tả: "Trong chính phủ có một người đàn ông, và ông là một người phụ nữ có tên là Golda", đã không tán thành vẻ sợ hãi của tướng Dayan.

Sáng sớm ngày 8/10 tại một cuộc họp khẩn cấp, bà Thủ tướng công bố phán quyết cuối cùng: "Không đầu hàng. Chúng ta sẽ sử dụng vũ khí hạt nhân và phá hủy Cairo và Damascus".

Thật vậy, lúc đó, trong tay Israel đã có 18 quả bom hạt nhân. Các Bộ trưởng hiểu rằng “người đàn bà thép” đã mất kiềm chế và không ai có thể thuyết phục bà ấy. Cả phòng họp im lặng như chết.

Golda Meir lặng lẽ đánh giá sự im lặng của các đồng nghiệp của mình. Không một giây do dự, bà ra lệnh cho Tướng Moshe Dayan đặt toàn bộ kho vũ khí hạt nhân vào trạng thái sẵn sàng chiến đấu.

http://nghiadx.blogspot.com
Israel chưa bao giờ khẳng định sở hữu vũ khí hạt nhân nhưng cũng chưa bao giờ ra tuyên bố phủ nhận khả năng này. Trong ảnh là biếm họa về kho vũ khí hạt nhân của Israel.


Cũng trong ngày hôm đó, các chi nhánh tình báo của KGB và GRU (tình báo quân sự) tại Trung Đông từ các điệp viên có ảnh hưởng đã thâm nhập vào các tầng cao của chính quyền Israel, đã biết quyết định của Thủ tướng Meir.

Ngày 10/10 Bộ Chính trị BCH TƯ Đảng cộng sản Liên Xô tán thành “Kế hoạch hành động buộc Israel từ bỏ việc tiến hành tấn công hạt nhân” (Kế hoạch cưỡng bức) do Giám đốc KGB Iury Andropov đệ trình lên.

Ngày 11/10, Tham tán công sứ Đại sứ quán Liên Xô tại Wasington Georgy Kornieko đã trao cho Ngoại trưởng Henry Kissinger thư của các nhà vật lý hạt nhân nổi tiếng thế giới như: Iury Khariston, Yakova Zeldovicha, Iliy Vivshitsa, gửi tới Tổng thống Mỹ.

Trong thư, các Viện sĩ Liên Xô gọi quyết định của Thủ tướng Israel là tự sát. Và nhấn mạnh, ném bom hạt nhân xuống Cairo và Damascus sẽ là thảm họa không chỉ cho Trung Đông mà còn cho toàn bộ nền văn minh thế giới.

Các nhà khoa học cũng khéo léo ám chỉ rằng, Liên Xô có ràng buộc với Ai Cập và Syria về hợp tác quân sự, không ngồi nhìn và sẽ có biện pháp tương ứng với hành động tấn công hạt nhân của Israel. Đồng thời, họ nhấn mạnh, tất cả trách nhiệm về hậu quả của sự đáp trả tương ứng như vậy chính phủ Israel sẽ phải hứng chịu.

Do chính quyền Mỹ nhiều lần trì hoãn thời hạn đưa ra câu trả lời, Ban lãnh đạo Liên Xô quyết định tiến hành “Kế hoạch cưỡng bức”.

http://nghiadx.blogspot.com
MiG-25 là một phần trong "kế hoạch cưỡng bức" của Liên Xô.


Chuyến bay khuấy đảo bầu trời Tel Aviv

Ngày 13/10/1973, Phó chỉ huy của trung đoàn không quân tiêm kích, Thiếu tá Vertievets, trực chiến đấu tại sở chỉ huy sân bay quân sự Vladimirovka tại tỉnh Volgograd.

Lúc 6h15’, người mang thư hỏa tốc từ Bộ Tham mưu quân khu Privolzhsky trao cho viên Thiếu tá một túi hồ sơ được đóng dấu: “Mật. Mở ngay!”.

http://nghiadx.blogspot.com
MiG-25R trong một chuyến bay.

15 phút sau, Vertievets cùng người đưa thư và đội kỹ thuật đi vào nhà chứa máy bay, nơi để những chiếc máy bay chiến đấu mới nhất được bảo quản đặc biệt.

Thiếu tá Vertievets nhanh chóng lên khoang lái và người đưa thư lại tiếp tục đưa cho anh ta một gói nữa có đóng dấu mật “Đặc biệt quan trọng. Tiêu hủy ngay sau khi đọc!”

Vào lúc 8h12’, theo giờ địa phương, màn hình radar phòng không ở Tel Aviv xuất hiện một điểm sáng. Còi báo động bật liên hồi.

Điểm sáng nhanh chóng di chuyển từ phía đông bắc sang khu vực phía tây nam, tiếp cận không phận của thành phố, và viên sĩ quan trực chiến ra lệnh đánh chặn kẻ xâm phạm vùng trời bằng một biên đội máy bay chiến đấu siêu âm Mirage.

Giọng của người chỉ huy biên đội vang lên từ loa phóng thanh, ông ta chỉ thị cho kẻ xâm phạm phải hạ cánh. Đáp lại là sự im lặng. Lần tiếp theo, yêu cầu lại vang lên bằng tiếng Arab. Và đáp lại vẫn là sự im lặng và im lặng. Chỉ huy chuyển sang dùng tiếng Anh. Nhưng cũng không hiệu quả.

Viên sĩ quan trực chiến theo dõi trên màn hình radar thấy rằng, ba chiếc Mirage đang di chuyển song song cùng hướng với kẻ xâm phạm. Nhưng tại sao họ không vượt lên trên? Quả thật, biên đội Mirage đang ở một số “tầng” thấp hơn đường bay của máy bay lạ, nhưng tại sao? Tại sao, cuối cùng, khoảng cách giữa biên đội ba chiếc Mirage với chiếc máy bay lạ kia cứ tăng lên sau mỗi giây? Điều này có nghĩa là các đặc tính bay lạ tốt hơn nhiều so với Mirage?

“Chết tiệt! – viên chỉ huy biên đội bay hét lên, chúng tôi không bắt được nó. Nó bay trên chúng tôi 6.000 feet ... và di chuyển nhanh gấp 2 lần!”

Tiếp theo trên màn hình xuất hiện những màu sọc trắng: hình ảnh biên đội Mirage bắn tên lửa không đối không Hokami. Nhưng tất cả tên lửa bắn ra đều biến mất vào chân trời màu xanh, không tiêu diệt được mục tiêu, trong khi nó bung ra tốc độ đáng kinh ngạc, đạt đến độ cao 69.000 feet.

Không ! Nó lại quay trở lại lần nữa ! Nó đang tạo ra một, hai, ba ... (!) sáu vòng tròn trên bầu trời thành phố - đây là chuyện hoang đường chăng! Và nó không sợ bị bắn hạ!

Sĩ quan trực chiến yêu cầu thêm một biên đội Phantom lên trợ giúp biên đội Mirage đang tỏ ra bất lực. Than ôi! Không có bất kỳ chiếc Phantom hay tên lửa nào của nó có thể “bắt được” máy chiếc bay lạ kia... Bắt được gì đây? Thậm chí không biết phải gọi tên chiếc máy bay đó là gì? Nó là một vật thể bay chuyển động ngoài giới hạn của tốc độ và đạt đến độ cao đáng kinh ngạc.

Liệu đây có phải là một chiếc máy bay hay là một UFO? Nếu những suy luận trên là đúng thì nó từ đâu đến? Người Arab cho đến thời điểm này không thể có được cỗ máy tương tự. Như vậy có nghĩa là nó đến từ Nga.

Bộ trưởng Quốc phòng Israel đã tới gặp Thủ tướng Meir cùng với một báo cáo về “sự cố” trên bầu trời Tel Aviv, và bắt gặp bà Thủ tướng đang đọc lá thư của các nhà khoa học hạt nhân Liên Xô.

Sau khi nghe Tướng Dayan báo cáo, bà Golda Meir ngay lập tức hiểu ra, những sự kiện này, lá thư và cuộc xâm nhập của chiếc máy bay lạ, thực chất là một vở kịch mà đạo diễn chính là Moscow.

http://nghiadx.blogspot.com
Golda Meir, "người đàn bà thép" của Nhà nước Do Thái.

 “Người đàn thép” buộc phải “điều chỉnh lại cuộc hành quân”. Bà Thủ tướng yêu cầu Ngoại trưởng Henry Kissinger và các quan chức cấp cao Mỹ tăng viện trợ quân sự bổ sung. Kết quả, dưới những áp lực lớn của các cuộc vận động hành lang của giới lobby Do Thái ở Washington đã tác động tới Tổng thống Nixon và một “cầu hàng không” giữa Mỹ và Tel Aviv đã được thiết lập ngay lập tức. Nhờ vậy, Israel nhanh chóng có các thiết bị quân sự mới nhất, gồm máy bay, xe tăng và tên lửa...

Các công ty Mỹ thuộc sở hữu của người Do Thái, trong vòng một tuần đã đầu tư vào nền kinh tế Israel 2,5 tỉ USD. Đồng thời, các nhà ngoại giao Israel bắt đầu "làm việc" với Vua Jordan Hussein và Vua Morocco Hassan II, để thông qua họ thuyết phục ban lãnh đạo Ai Cập và Syria ký kết một hiệp ước đình chiến.

Đối mặt với thất bại thực tế của Israel trong cuộc chiến "Ngày phán xét", Kissinger đã thực hiện một nỗ lực vô cùng lớn để cứu vãn Tel Aviv ít nhất không phải đầu hàng nhục nhã. Ông đóng vai trò trung gian hòa giải trong cuộc xung đột, tìm kiếm loại bỏ các lực lượng Ai Cập và Syria và tạo ra một vùng đệm với Israel. Tuy nhiên, sáng kiến ​​của ông không nhận được sự ủng hộ của các thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc.

Theo yêu cầu của các nhà ngoại giao Liên Xô, một nghị quyết về thành lập lực lượng khẩn cấp sẽ tạo nên một khu vực tách biệt giữa các đơn vị quân đội Ai Cập và Israel, đã được thông qua.

Vụ xâm nhập của vật thể bay bí ẩn trên bầu trời Tel Aviv, không chỉ làm tan vỡ huyền thoại bách chiến bách thắng của Israel, mà còn buộc bà Golda Meir từ bỏ sử dụng đòn tấn công nguyên tử vào Thủ đô của Ai Cập và Syria.

Vào tháng 4/1974, "người đàn bà thép" Meir và Dayan đã buộc phải ra đi sau thất bại tại cuộc bầu cử. Sau đó không lâu, người đứng đầu cơ quan tình báo quân sự Israel Zeir Elia cũng mất chức.

MiG-25R là sản phẩm trí tuệ của Cục Thiết kế Mikoyan và Gurevich, đến cuối thập niên 1970, nó đã vượt qua tất cả các đối thủ cùng loại trên thế giới. Trần bay thực tế là 23 km, tốc độ ​​- 3.600 km/h, gần ba lần tốc độ âm thanh (Mach 3). Như vậy, máy bay chiến đấu của Liên Xô hoàn toàn nằm ngoài tầm với của máy bay tiêm kích đánh chặn và hệ thống phòng không của đối phương!

Năm 1973, Alexander Danilovich Vertievets, người đã thực hiện chuyến bay khuấy đảo bầu trời Tel Aviv, đã được trao danh hiệu Anh hùng Liên Xô.

Thứ Bảy, 28 tháng 4, 2012

>> Khám phá kho tên lửa của Triều Tiên


Với kho tên lửa ước chừng hơn 1.000 quả, đa dạng đủ chủng loại, CHDCND Triều Tiên đang sở hữu "bảo bối" hiệu quả bảo vệ an ninh quốc gia.



http://nghiadx.blogspot.com
Tên lửa Nodong trong một buổi diễu hành

Bắt đầu triển khai từ những năm 1960 - 1970, chương trình tên lửa của Triều Tiên dựa rất nhiều vào công nghệ sản xuất tên lửa Scud của Liên Xô. Đến nay, trong "tài sản" của mình Triều Tiên đã có đầy đủ tên lửa tầm ngắn, tầm trung và tên lửa tầm xa.

Không được xem là quốc gia "giàu có", nhưng Triều Tiên có một kho tên lửa khá phong phú và đa dạng, được sử dụng như một trong những quân bài hiệu quả để mặc cả với nước lớn.

Hwasong - "hậu duệ" Scud

Khởi đầu từ vài mẫu tên lửa Scud-B có được qua từ Ai Cập trong những năm cuối thập niên 1970, sau gần 20 năm nghiên cứu, Bình Nhưỡng đã chế tạo thành công tên lửa tầm ngắn Hwasong-5. Đây là biến thể Scud-B, tên lửa 1 tầng của Triều Tiên có thể mang đầu đạn nặng 1 tấn, sử dụng nhiên liệu lỏng, tầm bắn 300 km.

Giá đỡ tên lửa cao khoảng 11m, đường kính 88 cm, sử dụng những thùng nhiên liệu và oxi hoá riêng. Hwasong-5 sử dụng hệ thống dẫn đường nằm trong tên lửa do vậy độ chính xác không cao. Thử lửa trong cuộc chiến Iran-Iraq, các nhà khoa học Triều Tiên có cơ hội thu thập dữ liệu cải tiến Hwasong-5 để cho ra đời biến thể cải tiến Hwasong-6 sử dụng cùng giá đỡ.

Để nâng tầm bắn xa của Hwasong-6 lên tới 500km, các chuyên gia đã hy sinh tải trọng khi giảm còn 700 - 800 kg. Động cơ tên lửa được cải tiến giúp thời gian đốt cháy nhiên liệu kéo dài hơn.

Tuy nhiên, một số thông tin phỏng đoán, Hwasong-6 kém chính xác hơn so với Hwasong-5. Cả hai loại tên lửa này có thể được trang bị đầu đạn nổ cực mạnh hoặc đầu nổ sinh hóa.

Ngoài ra, Triều Tiên còn phát triển thêm nhiều biến thể của loại tên lửa này (như Scud-D) theo xu hướng trên (nâng tầm bắn và hy sinh tải trọng). Những thông tin này luôn khiến "người anh em" Hàn Quốc sống trong lo lắng bởi bất kỳ thành phố quan trọng nào của nước này đều nằm dưới tầm bắn của Hwasong.

No-dong đặt Nhật Bản vào tầm ngắn


Nodong trong một buổi diễu hành

Dự án chế tạo tên lửa Hwasong-5 và các biến thể bị dừng lại vào giữa những năm 1990 khi Triều Tiên bắt đầu chương trình sản xuất tên lửa No-dong. Trước yêu cầu chế tạo loại tên lửa mới có thể vươn đến Nhật Bản cùng khả năng mang đầu đạn hạt nhân, Triều Tiên đã xây dựng chương trình phát triển loại tên lửa mới có tên No-dong. Đây cũng là tên lửa 1 tầng, sử dụng bệ phóng di dộng, có chiều dài khoảng từ 15 - 16m, đường kính khoảng từ 1,2 - 1,3m. Tên lửa mới có tầm xa từ 1.000 - 1.300km, nặng 700 - 1.000kg và vẫn sử dụng nhiên liệu lỏng.

Theo một số nguồn tin, tên lửa mới có thể đạt tốc độ gấp 0,5 lần so với tốc độ của Hwasong-6. Để làm được điều này tên lửa phải dùng động cơ đẩy có công suất lớn hơn Scud 4 lần. Có nhiều thông tin rằng tên lửa này có độ sai lệch khoảng từ 3 - 5km và thậm chí có thể lớn hơn nếu như đầu nổ di chuyển theo đường xoắn ốc hoặc lộn nhào khi quay về quyển khí Trái Đất. Tuy chưa có chứng cứ cụ thể nhưng tên lửa loại này ngoài đầu đạn hoá sinh có thể gắn được đầu đạn hạt nhân.

Tuy nhiên, "đối tượng tác chiến" của Triều Tiền không chỉ là Nhật Bản mà số 1 phải là Mỹ. No-dong không phải "quân bài" có sức nặng đối với Washington. Vì vậy, từ cuối những năm 1990, Triều Tiên bắt đầu quan tâm đến tên lửa đa tầng, công nghệ chủ chốt giúp nâng cao tầm bắn của tên lửa. Khi mới ra đời, Teapo dong-1 chỉ có 2 tầng, trong đó, tầng 1 lấy từ tên lửa No-dong còn tầng 2 dùng tên lửa Hwasong-6. Tên lửa nặng khoảng 33 tấn có thể mang đầu đạn hoặc vệ tinh nặng 1 tấn với tầm bắn khoảng 2.000 km. Giới chuyên gia Mỹ thực sự bất ngờ trước việc tên lửa Taepo dong-1 xuất hiện với 3 tầng và được thiết kế để phóng vệ tinh lên quỹ đạo.

Tầng đầu tiên của tên lửa là biến thể của tên lửa No-dong, với vai trò là tên lửa phóng. Tầng thứ 2 sử dụng động cơ của tên lửa Scud cải tiến, kéo dài thời gian đốt cháy nhiên liệu nhưng làm giảm lực đẩy. Còn tầng 3 gồm một động cơ tên lửa nhỏ chứa nhiên liệu rắn, có thể mang theo vệ tinh nhỏ. Vụ phóng Taepo dong-1 gây rất nhiều phản ứng gay gắt bởi quỹ đạo bay của tên lửa hướng thẳng về phía Đông của bán đảo Triều Tiên, vượt qua Nhật Bản. Sự việc được kết thúc bằng một bản ghi nhớ về việc phóng thử tên lửa tầm xa (gồm cả tên lửa No-dong) giữa Triều Tiên và Mỹ vào tháng 9.1999, đổi lấy việc Mỹ sẽ dỡ bỏ một số lệnh cấm vận đã ban bố trước đây.

Hướng tới ICBM

Bất chấp những hạn chế về mặt kỹ thuật trong chế tạo Taepo dong-1, Triều Tiên vẫn bắt tay vào chế tạo Taepo dong-2 (TD-2 hay Unha-2), bước đệm để phát triển tên lửa liên lục địa (ICBM). TD-2 sử dụng động cơ và chất nổ đẩy của No-dong nhưng tầng 1 lớn hơn, dùng tới 4 động cơ No-dong. Tầng thứ 2, TD-2 dùng động cơ tên lửa No-dong được cải tiến để dùng ở tầng thượng quyển. Phần thân của tên lửa tầng 2 ngắn và to hơn so với No-dong để có thể giảm bớt được trọng lượng tầng này. Để đạt được tầm xa tối đa, TD-2 cần tầng tên lửa thứ 3 giống của TD-1 được thử nghiệm năm 1998.

Hướng tới mục tiêu này, Triều Tiên gặp không ít thách thức, cần phát triển tấm chắn nóng để bảo vệ tên lửa tại tầng thứ 3 khi nó quay về mặt đất. Với trọng lượng khoảng 75 - 80 tấn, đường kính 2,4m, việc chế tạo giá đỡ cũng gặp nhiều khó khăn. Những giả thiết về việc Triều Tiên vẫn tiếp tục nghiên cứu và phát triển TD-2 dường như đã được chứng minh với công bố sẽ phóng vệ tinh lên quỹ đạo bằng tên lửa TD-3 (Unha-3) đang làm nóng khu vực Đông Bắc Á.

>> Thi Lang sẽ có sức mạnh như tàu sân bay Kuznetsov ???


Tàu sân bay Varyag của Trung Quốc dự kiến đi vào hoạt động cuối hè này, có thể được trang bị vũ khí tương tự tàu sân bay Kuznetsov của Nga.


http://nghiadx.blogspot.com
Tàu sân bay Varyag của Trung Quốc.

Ngày 21/4, trang mạng bình luận quân sự Nga cho biết, đầu thập niên 1990, tàu sân bay Riga của Liên Xô cũ lần đầu tiên được đổi tên thành tàu Varyag, nhưng không thể đưa vào biên chế cho Hải quân Nga.

Sau khi Liên Xô giải thể, Ukraina đã sở hữu tàu sân bay được hoàn thành gần 70% này, nhưng không thể thực sự chế tạo thành tàu chiến phức tạp, buộc phải bán cho Trung Quốc vào năm 1998.

Sau khi trải qua nhiều năm cải tạo, chiếc tàu sân bay này cuối cùng được Trung Quốc hoàn thành, được hồi sinh, đã đổi chủ nhân, cũng sẽ được đặt tên mới. Hiện nay, chiếc tàu sân bay này có số phận sáng sủa và lạc quan.

Báo Nga cho rằng, Trung Quốc bỏ ra 20 triệu USD mua tàu sân bay Varyag tuy lúc đó chưa chế tạo xong, nhưng vẫn là một giao dịch tương đối có lợi. Bởi vì, cuối cùng Trung Quốc đã có được nền tảng của chiếc tàu sân bay đầu tiên, cái giá phải trả hoàn toàn không cao.

Ở mức độ nào đó, tàu Varyag 11436 có thể nói là phiên bản phát triển trực tiếp của tàu sân bay Kuznetsov của Hải quân Nga, hai chiếc có kích cỡ, tính năng, lắp đặt vũ khí trang bị tương tự nhau. Nó có lượng choán nước là 60.000 tấn, dài 305 m, rộng 75 m, sử dụng 4 động cơ tua-bin hơi nước, tổng công suất 200.000 mã lực, tốc độ tối đa 30 hải lý/giờ, hành trình hiệu quả là 8.000 hải lý.

http://nghiadx.blogspot.com
Máy bay chiến đấu J-15 sẽ là máy bay chủ lực của tàu sân bay Varyag Trung Quốc.

Theo báo Nga, Trung Quốc tạm thời chưa tiết lộ tình hình lắp đặt vũ khí cho tàu sân bay Varyag. Dự kiến sẽ cơ bản tương đồng với tàu sân bay Kuznetsov.

Pháo hạm và vũ khí tên lửa sẽ được lắp đặt song song. 6 khẩu pháo tự động AK-630 phụ trách phòng bị các mục tiêu mặt nước và trên không tầm gần.

2 máy phóng tên lửa và 12 giếng phóng tên lửa chống hạm Granit được trang bị cho tàu sân bay Kuznetsov cũng hoàn toàn có thể được lắp đặt cho tàu Varyag, nhưng đến nay Trung Quốc vẫn chưa có tên lửa chống hạm tương tự Granit.

Vì vậy, đa số chuyên gia cho rằng, giếng phóng tên lửa chống hạm của tàu Varyag hoặc là không có đạn để sử dụng, hoặc là bị dỡ bỏ.

Máy bay chiến đấu J-15 dự kiến là máy bay trang bị chính, nhưng nó đối mặt với vấn đề hệ thống bảo đảm không hoàn chỉnh. J-15 có thể cất cánh kiểu nhảy cầu được, tự hạ cánh xuống đường băng tàu sân bay được, chắc chắn phải sử dụng cáp hãm đà.

Mấy năm trước, Nga từng từ chối bán 4 cáp hãm đà cho Trung Quốc. Hiện nay, Trung Quốc giải quyết định vấn đề này thế nào vẫn còn chưa rõ.


http://nghiadx.blogspot.com
Máy bay J-15 trên tàu sân bay.

Báo Nga cho rằng, hiện nay tàu sân bay Varyag đang được tiến hành chạy thử. Nghe nói có kế hoạch đưa vào hoạt động vào cuối mùa hè năm nay, nhưng hiện có thuận lợi hay không thì vẫn còn một số vấn đề.

Quân đội Trung Quốc chuẩn bị sử dụng nó làm trang bị huấn luyện, đào tạo phi công của Hải quân, nắm chắc kỹ thuật của biên đội tàu sân bay, dự kiến đến năm 2020, Trung Quốc sẽ bắt đầu chế tạo tàu sân bay kiểu mới nội địa có cấp độ tương tự, tiến tới trở thành nước lớn hải quân mới nổi sở hữu biên đội tàu sân bay.


>> Nga bán hệ thống tên lửa phòng không cho Belarus


Bộ trưởng Quốc phòng Nga Anatoly Serdyukov ngày 18/4 cho biết nước này sẽ tiếp tục bán các hệ thống tên lửa phòng không TOR-M2E được giảm giá cho Belarus trong năm 2012.




http://nghiadx.blogspot.com
Hệ thống tên lửa phòng không TOR-M2E

Bộ trưởng Quốc phòng Nga Anatoly Serdyukov ngày 18/4 cho biết nước này sẽ tiếp tục bán các hệ thống tên lửa phòng không TOR-M2E được giảm giá cho Belarus trong năm 2012.

Phát biểu sau cuộc họp tại Minsk giữa một ủy ban chung gồm các bộ trưởng quốc phòng của Nga và Belarus, ông Serdyukov nêu rõ:

"Trong số các nước thuộc Cộng đồng các quốc gia độc lập khác, Belarus là thị trường tiêu thụ vũ khí và khí tài quân sự hàng đầu của Nga, và chúng tôi sẽ tiếp tục bán các hệ thống tên lửa phòng không TOR-M2E giảm giá cũng như chuyển giao vũ khí và khí tài quân sự do Nga sản xuất cho các quân chủng an ninh của Belarus."

Ngoài ra, Nga có kế hoạch tiếp tục huấn luyện nhân viên cho lực lượng vũ trang Belarus, trong đó gồm cả các chương trình không thu phí.

Theo ông, "tình hình hiện nay khiến chúng tôi phải tăng cường hợp tác với các đồng minh của mình, chủ yếu là Belarus.

Chúng tôi lo lắng trước việc NATO tăng cường hoạt động gần các đường biên giới của Liên minh Nga-Belarus và việc Mỹ cùng các thành viên khác trong NATO có kế hoạch triển khai các thành tố của lá chắn phòng thủ tên lửa ở Châu Âu."

Ông cho biết thêm Nga và Belarus có kế hoạch "tiếp tục cuộc đối thoại xây dựng nhằm thúc đẩy nền an ninh chung giữa hai nước," và việc cung cấp viện trợ cho các đồng minh và đối tác là một trong những ưu tiên hàng đầu của Nga.

Về phần mình, Bộ trưởng Quốc phòng Belarus nhấn mạnh hợp tác quân sự giữa Belarus và Nga đóng vai trò trung tâm cho an ninh Belarus. Belarus quan tâm đến việc phát triển và mở rộng hơn nữa sự hợp tác với Liên bang Nga.
Copyright 2012 Tin Tức Quân Sự - Blog tin tức Quân Sự Việt Nam
 
Lên đầu trang
Xuống cuối trang