Tin Quân Sự - Blog tin tức Quân sự Việt Nam

Paracel Islands & Spratly Islands Belong to Viet Nam !

Quần Đảo Hoàng Sa - Quần Đảo Trường Sa Thuộc Về Việt Nam !

Thứ Hai, 23 tháng 4, 2012

>> Pháo hạm Mk 38 và các biến thể


Công ty BAE Systems của Anh đã cho ra mắt các biến thể mới nhất của pháo hạm tầm xa Mk-38 được phát triển cho Hải quân Mỹ.



Tạp chí Jane's International Defence Review cho hay, tại Hội nghị chuyên đề thường niên Sea Air Space của Hải quân Mỹ (Navy League 2012) diễn ra từ ngày 16 đến ngày 18 tháng 4 năm 2012, công ty BAE Systems đã cho ra mắt các biến thể mới nhất của pháo hạm tầm xa Mk-38 được phát triển cho Hải quân Hoa Kỳ.

Một trong những biến thể của pháo hạm MK 38, do Boeing và BAE Systems hợp tác sản xuất đó là Mk 38 Mod 2.

Biến thể này sử dụng phần thân của Mk 38 với pháo tự động 25 mm để gắn thêm một thiết bị phát tia laser có công suất 10 kW theo thiết kế của Boeing.



http://nghiadx.blogspot.com
Pháo hạm Mk 38 Mod 2 với laser 10 kW của Boeing


Các cuộc thử nghiệm với Mk 38 Mod 2 được thực hiện tại căn cứ Không quân Mỹ Eglin vào giữa năm 2011 đã cho thấy được khả năng phá hủy ngư lôi và UAV của thiết bị laser.

Các bài kiểm tra được thực hiện theo hợp đồng của Hải quân Hoa Kỳ trong điều kiện thời tiết bất lợi đối với laser.

Đại diện của BAE Systems cho biết rằng Hải quân Mỹ muốn tiến hành kiểm tra thiết bị laser được lắp đặt trên tàu chiến.

Trong một biến thể khác của Mk38, người ta đã lắp đặt trên tháp pháo của nó một bộ bức xạ vi ba với tần số siêu cao.

Thiết bị này đã trải qua các cuộc thử nghiệm trên bãi thử Dalgrenovskom của Hải quân Mỹ và đã cho “kết quả rất tích cực", thể hiện khả năng vô hiệu hóa hoàn toàn động cơ trên các tàu của đối phương.


Kết quả tương tự cũng đã nhận được khi thực hiện với tên lửa và UAV.


http://nghiadx.blogspot.com
Biến thể của Mk38 với bộ bức xạ vi ba


BAE Systems tuyên bố rằng hệ thống này không gây chết người, và “bạn sẽ không cảm thấy đau ngay cả khi bạn đang ở gần nó”.

Công ty cũng đã tuyên bố rằng sẽ phát triển đầy đủ biến thể này dựa trên pháo hạm Mk 38 trong vòng 18 tháng nếu nhận được hợp đồng.

Biến thể cuối cùng mà BAE Systems ra mắt tại Hội nghị lần này đó là biến thể Mk 38 Mod 3 được phát triển cùng với công ty Rafael của Israel.

Biến thể này thuần túy chỉ là một pháo hạm chứ không có thêm bất cứ các thiết bị nào như laser hay thiết bị bức xạ siêu cao cao tần.

Tuy nhiên, khác với nguyên mẫu, Mk 38 Mod 3 có tính năng vượt trội, và hiệu suất cao hơn rất nhiều. Nó không chỉ có khả năng sử dụng đạn pháo 25 mm mà còn có thể bắn được cả đạn pháo cỡ 30 mm.

Ngoài ra, Mk 38 Mod 3 còn được trang bị súng máy 12,7 mm hoặc có thể có thêm súng máy 7,62 mm hay súng phóng lựu tự động 40 mm, giúp nó linh hoạt hơn trong việc thực hiện các nhiệm vụ khác nhau.

http://nghiadx.blogspot.com
Mk 38 Mod 3 với pháo hạm 30 mm và súng máy 12 li 7

 Khác với người anh Mk38 của nó, chỉ được trang bị pháo cỡ 25 mm với cơ số đạn khiêm tốn 165 viên, biến thể Mk 38 Mod 3 được trang bị pháo cỡ 30 mm với cơ số 420 hay pháo 25 mm với cơ số đạn 500 viên.

Thử nghiệm trên biển của biến thể này dự kiến sẽ bắt đầu vào cuối năm 2013.

Tạp chí Jane's International Defence Review cho biết rằng, đến nay, Hải quân Hoa Kỳ có hơn 200 pháo hạm Mk38 được trang bị trên các chiến hạm của mình và có kế hoạch thay thế chúng bằng các biến thể hiện đại mà BAE Systems giới thiệu sau khi hoàn thành các cuộc thử nghiệm.

>> Tìm hiểu gia đình tên lửa đạn đạo Ấn Độ


Chương trình tên lửa của Ấn Độ gồm 5 hệ thống tên lửa cốt lõi, trong đó đáng chú ý là các loại tên lửa đạn đạo: tầm gần Prihvi, tầm trung/xa Agni.




http://nghiadx.blogspot.com
So sánh tên lửa đạn đạo các loại của Ấn Độ.

Ngày 19/4, báo giới Ấn Độ đưa tin, tên lửa đạn đạo tầm xa Agni-5 do nước này tự nghiên cứu chế tạo đã phóng thành công lần đầu tiên vào 8h5’.

Từ thập niên 1970, Ấn Độ đã bắt đầu phát triển tên lửa đạn đạo, khi đó Tổ chức Nghiên cứu và Phát triển Quốc phòng Ấn Độ (DRDO) đã đưa ra “Chương trình phát triển tên lửa tổng hợp”, chương trình này chủ yếu nghiên cứu chế tạo các loại tên lửa khác nhau thực hiện nhiều nhiệm vụ, yêu cầu cung cấp tính năng toàn diện, tổng hợp, và chú ý tính gần gũi, tính đan cài.

“Chương trình tổng hợp phát triển tên lửa” được hợp thành bởi 5 hệ thống tên lửa cốt lõi, bao gồm tên lửa đạn đạo tầm gần Prihvi, tên lửa đạn đạo tầm trung Agni, tên lửa đất đối không Akash, tên lửa đất đối không Trishul và tên lửa dẫn đường chống tăng Nag.

Năm 1988 và năm 1989, tên lửa đạn đạo tầm gần Prihvi và tên lửa đạn đạo tầm trung Agni dựa trên công nghệ trong nước của Ấn Độ đã lần lượt tiến hành thử nghiệm đầu tiên.

Tên lửa đạn đạo Prihvi là hệ thống tên lửa đạn đạo tầm gần đất đối đất chi viện chiến thuật đầu tiên được Ấn Độ bắt đầu nghiên cứu chế tạo từ thập niên 1970, chủ yếu dùng để tấn công các mục tiêu tung thâm của đối phương, tiến hành chi viện hỏa lực chiến trường.

Mục tiêu tấn công chủ yếu của nó gồm: nơi tập kết lực lượng và vũ khí trang bị, trung tâm chỉ huy chiến trường, trung tâm thông tin và các mục tiêu quan trọng khác.

http://nghiadx.blogspot.com
Tên lửa đạn đạo tầm gần Prihvi-2 của Ấn Độ.

Prihvi là tên lửa đạn đạo tầm gần thể lỏng đơn cực, có thể được tiến hành phóng bởi các hệ thống phóng của Lục, Hải, Không quân.

Các loại cỡ gồm: Prihvi-1 có tầm phóng 150 km chế tạo cho Lục quân; Prihvi-2 có tầm phóng 250 km chế tạo cho Không quân; Prihvi-3 có tầm phóng 450 km chế tạo cho cả Lục quân và Hải quân.

Để tăng tầm phóng cho tên lửa Prihvi, ở mức độ nhất định, Ấn Độ đã hy sinh trọng lượng đầu đạn – trọng lượng đầu đạn của tên lửa Prihvi-1 có tầm phóng gần nhất có thể lên tới 1.000 kg, còn đầu đạn của tên lửa Prihvi-3 có tầm phóng xa nhất thì giảm đáng kể.

Nhiên liệu đẩy được tên lửa Prithvi sử dụng là axit nitric bốc khói đỏ và amin hỗn hợp, nhìn vào tình hình phát triển của nhiên liệu đẩy tên lửa trên thế giới hiện nay, tên lửa chiến thuật của các nước phát triển đã không còn sử dụng loại nhiên liệu thể lỏng này nữa.

Tên lửa đạn đạo đất đối đất tầm gần Prithvi là một loại tên lửa có hiệu quả đầu tiên của “Chương trình phát triển tên lửa dẫn đường tổng hợp” của Ấn Độ, nó rất được coi trọng. Trong nhiều cuộc duyệt binh, tên lửa Prihvi luôn được công khai.

Dòng tên lửa Agni

Năm 1989, tên lửa Agni kiểu trình diễn công nghệ đã tiến hành phóng thử thành công lần đầu tiên. Tên lửa này là tên lửa lưỡng cực, dài 21 m, tầm phóng tối đa 2.000 km và chưa phát triển thành hệ thống vũ khí. Năm 1995, bị sức ép của Chính phủ Mỹ, Ấn Độ tạm dừng chương trình phát triển tên lửa Agni.


http://nghiadx.blogspot.com
Tên lửa đạn đạo Agni-1 do Ấn Độ tự nghiên cứu chế tạo.

Năm 1998, Ấn Độ tiến hành thử hạt nhân thành công và bắt đầu nghiên cứu chế tạo tên lửa đạn đạo tầm trung Agni-2. Trong vài năm sau đó, bên ngoài luôn coi tên lửa mẫu Agni do Ấn Độ thử năm 1989 là Agni-1.

Trên thực tế, đến năm 1999, xuất phát từ sự tính toán chính trị, Ấn Độ mới quyết định bắt đầu nghiên cứu chế tạo một loại tên lửa đạn đạo có tầm phóng đan xen giữa tên lửa Agni-2 và tên lửa Prihvi và đặt tên nó là Agni-1 để phân biệt với tên lửa mẫu Agni phóng lúc ban đầu của họ.

Agni-1 là tên lửa đạn đạo nhiên liệu đẩy thể rắn đơn cực, có tầm phóng 700-800 km, dài 15 m, đường kính 1 m, nặng 12 tấn, sử dụng hệ thống dẫn đường/kiểm soát mới, có thể mang theo đầu đạn hạt nhân nặng 1.000 kg. Agni-1 được phóng theo phương thức cơ động đường sắt hoặc cơ động đường bộ, từ đó đã giảm khả năng bị tấn công trước, nâng cao rất lớn tính cơ động tác chiến.

Do áp dụng phương thức đẩy thể rắn đơn cực, vì vậy việc triển khai, phóng sẽ nhanh hơn, vì vậy nó có khả năng tấn công lần 2 hiệu quả.


http://nghiadx.blogspot.com
Tên lửa đạn đạo Agni-2 do Ấn Độ tự nghiên cứu chế tạo.

Agni-2 là tên lửa đạn đạo thể rắn lưỡng cực, dài 20 m, đường kính lưỡng cực đều là 1 m, trọng lượng phóng 16 tấn, tầm phóng tối đa 3.000 km. Tên lửa áp dụng quán tính cộng với dẫn đường của hệ thống định vị dẫn đường toàn cầu, độ chính xác khoảng 45 m.

Tên lửa này có thể phóng bằng phương thức cơ động đường sắt hoặc cơ động đường bộ, do Ấn Độ tự thiết kế, nghiên cứu chế tạo, ngoài số ít thiết bị cảm biến của hệ thống dẫn đường phải nhập khẩu từ các nước châu Âu, những bộ kiện khác đều được tự sản xuất.

Sau khi phóng thử thành công 2 lần, năm 2002, tên lửa Agni-2 bước vào giai đoạn sản xuất ban đầu với tốc độ thấp.

Tên lửa Agni-3 có tầm phóng 3500-4000 km, dài khoảng 13 m, là tên lửa đẩy thể rắn lưỡng cực. Căn cứ vào thông tin của Cục Nghiên cứu Phát triển Quốc phòng Ấn Độ, lớp thứ nhất và thứ hai của tên lửa này được chế tạo bởi vật liệu carbon tổng hợp tiên tiến, đã giảm được trọng lượng tổng thể của hệ thống, động cơ lưỡng cực cũng đã lắp vòi phun phổ quát.

Hệ thống này có thể mang đầu đạn thông thường hoặc đầu đạn hạt nhân 600-1800 kg, theo dự đoán đầu đạn hạt nhân có thể lên tới 200-300 kg. Dẫn đường thiết bị đầu cuối đã sử dụng dẫn đường quang học tiên tiến hoặc dẫn đường radar chủ động, đã nâng cao độ chính xác bắn trúng.

http://nghiadx.blogspot.com
Tên lửa đạn đạo tầm trung Agni-3 do Ấn Độ tự nghiên cứu chế tạo.

Ngày 15/11/2011, Ấn Độ bất ngờ công bố phóng thử thành công tên lửa tầm xa Agni-4. Về tên gọi, Agni-4 thuộc tên lửa dòng Agni của Ấn Độ.

Tên lửa dòng này cơ bản đều sử dụng động cơ nhiên liệu thể rắn, vì vậy thể tích tương đối nhỏ. Có phân tích cho rằng, nó đã sử dụng khung thiết kế của Agni-3. Nhưng nhìn bề ngoài, nó cơ bản bắt chước tư duy thiết kế và công nghệ có liên quan của Agni-2.

Khả năng răn đe chiến lược liên tục nâng lên

Việc nghiên cứu chế tạo tên lửa đạn đạo của Ấn Độ chủ yếu dựa vào sức mạnh công nghệ của nước này, trải qua mấy chục năm phát triển, một số loại đã có khả năng sử dụng tác chiến, trình độ công nghệ của nó cao hơn so với đa số các nước đang phát triển.


http://nghiadx.blogspot.com
Tên lửa đạn đạo tầm xa Agni-4 do Ấn Độ tự nghiên cứu chế tạo.

Ấn Độ phát triển công nghệ tên lửa đạn đạo, trước hết chú trọng sử dụng thành quả của công nghệ không gian của họ được phát triển nhanh chóng, như lớp thứ nhất của tên lửa lưỡng cực Agni đã sử dụng phiên bản cải tiến của động cơ lớp thứ nhất “tên lửa đẩy vệ tinh”-3 do Ấn Độ tự nghiên cứu chế tạo;

thứ hai, đã phát triển công nghệ đường đạn bay thay đổi độc đáo, tên lửa Prihvi có thể bay theo nhiều đường đạn khác nhau theo lập trình sẵn, có khả năng đột phá hệ thống phòng thủ tên lửa đạn đạo tương đối mạnh; thứ ba là có thể ứng dụng tương đối nhanh các công nghệ tiên tiến như đẩy thể rắn hoàn toàn, triển khai cơ động đường bộ và đường sắt.

Tên lửa đạn đạo tầm trung Agni (sau phát triển thành tên lửa tầm xa) và tên lửa đạn đạo tầm gần Prihvi đều có thể mang theo đầu đạn hạt nhân. Đặc biệt, sau khi tiến hành thử hạt nhân nhiều lần, Ấn Độ càng lấy tên lửa đạn đạo tầm trung và tầm xa làm phương tiện mang theo quan trọng nhất của đầu đạn hạt nhân.

Đồng thời, Ấn Độ cũng dùng tên lửa đạn đạo làm lực lượng tấn công thông thường quan trọng. Tên lửa tầm gần Prihvi có thể tăng cường tấn công hỏa lực của Lục quân, hiệp đồng Lục quân và Không quân tiến hành tấn công tung thâm (chiều sâu), hoàn thành nhiệm vụ chi viện hỏa lực chiến trường.

Tên lửa tầm trung và tầm xa Agni cũng thông qua nâng cao độ chính xác bắn trúng, đổi nhiều loại đầu đạn thông thường phát triển khả năng tấn công thông thường.

http://nghiadx.blogspot.com
Ấn Độ vừa phóng thử thành công tên lửa đạn đạo xuyên lục địa Agni-5.

>> Khắc tinh của máy bay tàng hình (Kỳ 2)


Muốn đấu tranh thì trước hết phải tồn tại. Do đó, để tránh các đòn chí tử từ các chiến dịch chế áp đường không, các trạm radar thụ động được quan tâm và đề cao.

>> Khắc tinh của máy bay tàng hình (Kỳ 1)


‘Mâu’ và ‘thuẫn’ trong thời đại tàng hình

Khác với radar chủ động, radar thụ động không thể xác định được khoảng cách đến mục tiêu. Tuy nhiên, bằng việc sử dụng một ăngten rất cao để thu những sóng dài và sóng viba, nó có thể xác định nguồn của bức xạ một cách chính xác cũng như phân biệt được các mục tiêu gần.




http://nghiadx.blogspot.com
TAMARA-tiền thân của Vera-E. Ảnh: Ausairpower

Thụ động để sống sót

Hiểu rõ bất cập của việc sử dụng radar chủ động, đặc biệt khi công nghệ tàng hình được áp dụng triệt để cho máy bay chiến đấu, các nhà khoa học đã để tâm nghiên cứu radar thụ động, có khả năng thu bắt được những tín hiệu điện từ trường, dù nhỏ nhất của vật thể bay trong khi tăng khả năng sống sót cho hệ thống trinh sát radar trước chiến thuật SEAD.

Không có trạm phát nhưng sử dụng từ 3-4 trạm thu, radar thụ động đo độ chênh lệch về thời gian của các xung điện từ do mục tiêu phát ra, người ta có thể phát hiện và theo dõi mục tiêu cả trên không, trên biển và đất liền.

Tổ hợp radar thụ động đầu tiên xuất hiện là KOPAC, gồm 4 cabin đặt trên xe rơ-mooc, có khả năng theo dõi từ 1-6 mục tiêu cùng lúc. Tiếp sau đó là sự ra đời của RAMONA và các biến thể. Tổ hợp này có khả năng phát hiện mục tiêu trên cạn, trên không và dưới biển bằng việc phân tích các xung điện từ ở tần số từ 0,8-18 GHz. Nó có khả năng phát hiện và theo dõi đến 20 mục tiêu trong vòng 100 độ so với trạm trung tâm của tổ hợp.

Sau đó, TAMARA ra đời đã đáp ứng được yêu cầu chiến thuật và chiến lược của hệ thống phòng không. Tổ hợp này có thể phát hiện ra máy vô tuyến định vị, tổ hợp nhận diện “bạn-thù”, máy phát vô tuyến điện, máy đo khoảng cách DME, hệ thống trao đổi thông tin chiến thuật JTIDS, máy tạo nhiễu… hoạt động ở dải tần từ 0,82-18 GHz.

Thành tựu mới nhất và hứa hẹn nhất của tổ hợp radar bị động là PSS VERA, với biến thể xuất khẩu là VERA -E. Trong báo cáo thực hiện năm 2011 của mình, Barry Watts, thuộc Trung tâm đánh giá chiến lược và ngân sách Mỹ, đã gọi VERA-E là giải pháp “đầy hứa hẹn” của công nghệ chống tàng hình.

Khắc tinh của “siêu phẩm” F-22

Theo một số nguồn tin thì Vera-E có khả năng phát hiện được cả những loại máy bay tàng hình tiên tiến như B-2, F-117 và thậm chí là cả F-22 và F-35, có thể tự động theo dõi 300 mục tiêu cùng lúc. Vậy điều gì mang lại khả năng kỳ diệu này cho Vera-E.

Tổ hợp VERA điển hình gồm 3 đài thu ESM bố trí theo hình tam giác đều (trường hợp lý tưởng), mỗi đài bao quát một vùng quạt rộng 120 độ (3 đài là 360 độ) và một đài thu trung tâm được đặt ở giữa (gồm thiết bị xử lý tín hiệu và máy thu ESM thực hiện vai trò như một đài thu thứ cấp, đồng thời cũng là trạm thu tín hiệu tổng hợp do 3 đài thứ cấp truyền về).

VERA có thể phát hiện và theo dõi các xung điện từ phát ra từ mục tiêu dựa vào phương pháp đo khoảng thời gian trễ nhận được xung. Đài thu hoạt động ở dải tần rất rộng, từ 1 - 18 Ghz và thường tận dụng các hệ thống thu phát của radar giám sát thứ cấp (SSR) như, radar trên không, radar thời tiết, hệ thống thu phát dẫn đường chiến thuật hàng không (TACAN), hệ thống dẫn đường có các thiết bị đo xa (DME), tín hiệu truyền thông số và các tín hiệu nhiễu xung do đối phương phát ra để tính toán tọa độ mục tiêu.

http://nghiadx.blogspot.com
Ăng ten trạm thu của Vera-E. Ảnh: Defence Studies

Bằng cách so sánh thời gian tới của tín hiệu thu được ở 3 xung, hệ thống có khả năng tìm ra mục tiêu (lấy giao thoa của các mặt hipeboloite tạo ra từ xung thu được để xác định khoảng cách và góc phương vị cũng như độ cao của mục tiêu; sau đó dùng phương pháp định vị “vi sai thời gian tới của tín hiệu” để xác định toạ độ mục tiêu), đồng thời gửi thông tin đó cho các đài radar hoả lực của tên lửa phòng không để tiêu diệt mục tiêu khi thích hợp.

Ngoài Czech, VERA hiện đã có mặt tại Mỹ, Estonia. Dù tỏ ra rất quan tâm đến tổ hợp này giống như Ai Cập, Malaysia, Pakistan… nhưng Trung Quốc hiện vẫn chưa được toại nguyện dưới sức ép từ Washington. Việt Nam cũng đang tiến hành thảo luận để mua tổ hợp radar thụ động này và theo giới truyền thông Czech, việc mua bán dường như không hề gặp trở ngại gì đáng kể.

Bên cạnh phương pháp dùng radar, người ta còn dùng các sensor hồng ngoại để phát hiện các dấu hiệu hồng ngoại của mục tiêu tàng hình (chủ yếu là tên lửa) ở cự li ngắn và dùng các sensor quang điện trên máy bay tiêm kích để phát hiện các phương tiện bay tàng hình.

Hiện Mỹ đã thử nghiệm hệ thống sử dụng sự hỗn tạp của các loại sóng điện từ có bước sóng dài hiện bao phủ trái đất (gọi chung là tiếng ồn điện tử) để phát hiện mục tiêu di động, thay cho các trạm radar quân sự. Hệ thống này có khả năng phát hiện những mục tiêu di động có kích thước từ 10 m2 trở lên trong phạm vi 190km. Ưu thế của hệ thống này là nó không có máy phát radar của chính mình nên không thể bị phát hiện, do đó, không lo bị đối phương đánh trả hoặc chế áp.

Thứ Bảy, 21 tháng 4, 2012

>> Việt Nam có thể là nước đầu tiên mua Su-35 ?


Các quốc gia Đông Nam Á có thể trở thành khách hàng của loại máy bay chiến đấu tiên tiến Su-35 của Nga.

>> Tiêm kích Su-35s vô đối ?



Tờ “Bình luận quân sự độc lập” của Nga đưa tin, Nga sẽ không bán máy bay chiến đấu Su-35 cho Trung Quốc, mà các quốc gia Đông Nam Á có thể trở thành khách hàng của loại máy bay chiến đấu tiên tiến này.

Theo “Bình luận quân sự độc lập”, Việt Nam có thể trở thành quốc gia đầu tiên mua Su-35 của Nga. Lực lượng Không quân của Việt Nam có thể sử dụng loại máy bay chiến đấu hiện đại này để biên chế cho các phi đội chiến đấu.




http://nghiadx.blogspot.com
Máy bay chiến đấu đa năng Su-35 của Nga

 Chuyên gia phân tích quân sự Nga ông Maksim Pyatushkin cho rằng, nếu có đủ khả năng, Nga sẽ xem xét việc bán Su-35 cho các nước châu Á khác, chủ yếu là các nước Đông Nam Á.

Bởi đa số những nước này đều đang muốn hiện đại hóa hệ thống vũ khí và quan trọng là họ không có khả năng sao chép công nghệ máy bay chiến đấu.

So với Trung Quốc thì các nước Đông Nam Á đưa ra giá thấp hơn, nhưng có khả năng về bảo mật công nghệ an toàn hơn.

Việt Nam được coi là quốc gia Đông Nam Á có khả năng mua Su-35 đầu tiên.

Tờ Thời báo Hoàn Cầu của Trung Quốc trích dẫn nguồn tin nói là của “Bình luận quân sự độc lập” cho biết, theo một nguồn tin giấu tên từ giới công nghiệp hàng không Nga, sắp tới Nga sẽ cung cấp cho Việt Nam bản tài liệu giới thiệu về máy bay chiến đấu Su-35 và sự khác biệt giữa máy bay Su-35 và Su-30MK.

Su-35 là máy bay chiến đấu đa năng được nâng cấp và hiện đại hóa một cách toàn diện, được cho là sử dụng công nghệ kỹ thuật của máy bay chiến đấu thế hệ thứ 5. Do đó, nếu đối đầu với máy bay chiến đấu thế hệ thứ 4, nó sẽ tạo ra một lợi thế khác biệt lớn.

Máy bay chiến đấu Su-35 được lắp đặt 150 bộ cảm biến và ăng-ten khác nhau, có thể cung cấp các thông tin toàn diện qua hệ thống máy tính được lắp đặt trên máy bay.

Trong các dòng máy bay chiến đấu Su mà Không quân Nga đang sử dụng thì Su-35 được thiết kế bình chứa nhiên liệu lớn hơn 20%, do vậy thời gian bay của nó cũng tăng theo và có thể kiểm soát được khu vực rộng lớn hơn.

Tại phần thân của Su-35, ngoài hai tên lửa không đối không, nó còn được lắp đặt thêm hai tên lửa Kh-3, loại tên lửa chống tàu hiện đại.


>> 10 sự thật về ICBM Agni-V


19/4 là ngày đầy ý nghĩa đối với Ấn Độ bởi đất nước này đã bắn thử thành công loại tên lửa đạn đạo liên lục địa (ICBM) Agni-V.



Agni-V là một ICBM sử dụng 3 tầng nhiên liệu đẩy, có khả năng mang đầu đạn hạt nhân và được các nhà khoa học của Cơ quan nghiên cứu và phát triển Quốc phòng (DRDO) của Ấn Độ phát triển.

Dưới đây là 10 sự thật về loại tên lửa này:

1. Với sự kiện bắn thử thành công tên lửa Agni-V, Ấn Độ chính thức gia nhập câu lạc bộ các cường quốc sở hữu ICBM mà trước đó gồm Mỹ, Nga, Trung Quốc, Anh và Pháp. ICBM Agni-V có trọng lượng nặng tới 50 tấn và sẽ sẵn sàng sản xuất vào năm 2014 - 2015.

2. Họ tên lửa Agni, gồm Agni-V có vai trò quan trọng đối với Quân đội Ấn Độ trong việc đối mặt và duy trì cán cân sức mạnh quân sự với Trung Quốc, nhất là sau khi Bắc Kinh triển khai các loại tên lửa tầm xa của họ ở Tây Tạng.

3. Loại tên lửa này có thể tấn công toàn bộ các vùng lãnh thổ châu Á, vươn sang một phần châu Âu, châu Phi và một vùng lãnh thổ nhỏ của châu Mỹ. Do đó, sự xuất hiện của Agni-V đã làm thay đổi cuộc chơi. Agni-V sẽ làm cho cả thế giới phải kiêng nể Ấn Độ.



http://nghiadx.blogspot.com
Tầm bắn của tên lửa là hơn 5000km, bao trùm lãnh thổ Trung Quốc.


4. Một khi được phóng lên, không thể cản được sức mạnh của tên lửa này, nó di chuyển nhanh hơn một viên đạn nhưng lại mang đầu đạn hạt nhân nặng tới 1 tấn. Tên lửa có thể triển khai từ bệ phóng cỡ container, đặc biệt có thể phóng có tính cơ động cao.

5. Với tầm bắn xa tới 5.000 km, một khi được xác nhận và thông qua bởi các lực lượng quân đội sau một vài lần thử nữa, Agni-V sẽ là tên lửa bắn xa nhất của Ấn Độ.

6. Từ Agni-V, Ấn Độ sẽ hướng tới khả năng mang theo nhiều đầu đạn hạt nhân. Lúc đó, uy lực của nó sẽ vô cùng ghê gớm.

7. Agni-V có thể được sửa đổi cấu hình để biến thành tên lửa mang vệ tinh cỡ nhỏ và sau đó thậm chí có thể sử dụng để bắn rơi vệ tinh của đối phương.

8. Việc phóng tên lửa chỉ được thực hiện khi có lệnh trực tiếp từ Thủ tướng chính phủ Ấn Độ. Tuy nhiên, họ hy vọng rằng loại vũ khí giết người hàng loạt này chỉ được sử dụng với mục đích "duy trì hòa bình" và không gây chiến tranh.

9. Tên lửa Agni-V có chiều dài 17 m, ba tầng nhiên liệu đẩy đều sử dụng nhiên liệu rắn. Tâng đẩy động cơ đầu tiên sẽ đưa tên lửa lên độ cao khoảng 40 km. Tầng đẩy thứ hai sẽ đẩy tên lửa lên độ cao khoảng 150 km. Tầng đẩy thứ ba sẽ đưa lên 300 km so với mặt đất. Tên lửa cuối cùng sẽ đẩy nó lên độ cao khoảng 800 km.

10. Vụ thử hôm 19/4 là lần phóng đầu tiên của tên lửa Agni-V, theo tính toán, tên lửa có thể đạt tầm xa trên 5.000 km.

Một số hình ảnh vụ phóng thử tên lửa Agni-V của Ấn Độ hôm 19/4.

http://nghiadx.blogspot.com
Tên lửa Agni-V được đặt trên một bệ phóng cơ động và phóng lúc 8h5p trên đảo Wheeler.

http://nghiadx.blogspot.com
Theo dự tính ban đầu thì cuộc thử nghiệm sẽ diễn ra vào hôm 18/4, tuy nhiên nó đã bị hoãn lại do thời tiết xấu.

http://nghiadx.blogspot.com
Cuộc thử nghiệm thành công đánh dấu một bước tiến dài của chương trình tên lửa Ấn Độ


http://nghiadx.blogspot.com
Agni-V được ứng dụng nhiều công nghệ hiện đại trong lĩnh vực định vị và dẫn đường, đầu nổ và động cơ cũng có nhiều cải tiến.

http://nghiadx.blogspot.com
Hiện trong kho vũ khí của Ấn Độ có Agni-I với tầm bắn là 700 km, Agni-II với tầm bắn là 2.000 km, Agni-III và IV với tầm bắn lần lượt là 2500 và 3.500 km.

>> Nhật Bản sẽ có căn cứ quân sự tại Mỹ


Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản sẽ thiết lập một căn cứ quân sự trên lãnh thổ Mỹ để phục vụ cho hợp tác huấn luyện và tập trận giữa quân đội hai nước.





http://nghiadx.blogspot.com
Quân đội Nhật Bản (ảnh minh họa)

Giới truyền thông Nhật Bản mới đây đưa tin, nâng cao khả năng phòng thủ tại các quần đảo ở xa được coi là một vấn đề hết sức quan trọng đối với Nhật Bản.

Bởi vậy, Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản sẽ lần đầu tiên thiết lập một căn cứ quân sự trên lãnh thổ Mỹ để phục vụ cho hợp tác huấn luyện và tập trận giữa quân đội hai nước.

Các chuyên gia cho rằng, nếu kế hoạch này được thực hiện thì hợp tác an ninh Mỹ-Nhật sẽ bước vào một giai đoạn mới, đồng thời có thể tăng cường khả năng bảo vệ các quần đảo ở xa trước những mối đe dọa ngày càng gia tăng từ Trung Quốc.

Theo đó, Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản sẽ thiết lập một căn cứ quân sự tại đảo Tinian, thuộc quần đảo Mariana nằm ở phía tây bắc Thái Bình Dương, phía nam lãnh thổ Mỹ.

http://nghiadx.blogspot.com
Nhật Bản sẽ thiết lập một căn cứ quân sự tại đảo Tinian thuộc lãnh thổ Mỹ


Nhật Bản hy vọng sẽ thuê được một phần căn cứ quân sự Mỹ để các lực lượng Hải, Lục, Không quân của nước này có thể luân phiên đóng quân tại đây.

Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản tại đảo Tinian chủ yếu để thực hiện các nhiệm vụ huấn luyện và diễn tập cùng với Mỹ, Australia và các nước lân cận.

Trước tiên Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản dự kiến sẽ triển khai một số lượng nhỏ đến căn cứ Tinian. Đây sẽ trở thành căn cứ quân sự thường trú của quân đội Nhật Bản.

http://nghiadx.blogspot.com
Hải quân, Quân đội Nhật Bản (ảnh minh họa)

Đảo Tinian tiếp giáp với đảo Guam, một trung tâm có vị trí chiến lược đối với quân đội Mỹ tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương.

Điều này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho Nhật Bản trong các cuộc tập trận với quân đội Mỹ tại đây.

Trước đây, Nhật Bản đã từng xem xét việc điều quân đến căn cứ Guam của quân đội Mỹ. Nhưng Chính phủ Nhật Bản cho rằng Guam đó là hòn đảo quá nhỏ và sự lựa chọn cuối cùng là đảo Tinian.

Tờ tin tức Nhật Bản đưa tin, trước sự tăng cường mạnh mẽ, tham vọng tiến ra biển của Trung Quốc và nhưng căng thăng leo thang trên bán đảo Triêu Tiên, việc mở rộng quy mô những cuộc tập trận với quân đội Mỹ đối với Nhật Bản là hết sức cần thiết.

Cùng với đó là viêc thiết lập càng sớm càng tốt thế trận quốc phòng trên các quần đảo phía Tây Nam.

>> Tên lửa đạn đạo của TQ được chào bán ở Đông Nam Á


Tại triển lãm DSA 2012, công ty quốc phòng Trung Quốc đã đưa tới nhiều thiết kế vũ khí công nghệ cao, trong đó có cả tên lửa đạn đạo tầm ngắn.



Tại triển lãm DSA 2012, công ty quốc phòng Trung Quốc đã đưa tới nhiều thiết kế vũ khí công nghệ cao, trong đó có cả tên lửa đạn đạo tầm ngắn.

Tại triển lãm Dịch vụ Quốc phòng châu Á (DSA 2012) tổ chức từ 16-19/4/2012 tại Kuala Lumpur (Malaysia), nhiều công ty quốc phòng Trung Quốc tham dự và giới thiệu nhiều công nghệ vũ khí mới nhất của nước này.

Rầm rộ nhất là Tập đoàn Xuất nhập khẩu máy móc chính xác cao Trung Quốc (CPMIEC) đã đưa tới giới thiệu tại DSA nhiều hệ thống tên lửa, radar, UAV mới.

Về hệ thống tên lửa, CPMIEC đã táo bạo“chào hàng” hệ thống tên lửa đạn đạo đối đất tầm ngắn BP-12A – biến thể của tên lửa B611.




http://nghiadx.blogspot.com
Mô hình xe mang ống phóng tên lửa đạn đạo BP-12A mà Trung Quốc thường đưa tới các triển lãm.


Theo thông tin từ công ty, BP-12A có khả năng mang đầu đạn nặng 480kg, tầm bắn 80-280km. BP-12A hoàn toàn đáp ứng yêu cầu xuất khẩu, không bị hạn chế bởi Hiệp ước MTCR (cấm xuất khẩu các loại tên lửa đạn đạo có tầm bắn 300km, đầu đạn 500kg).

Tên lửa BP-12 sử dụng để tấn công các mục tiêu quan trọng như căn cứ tên lửa, pháo binh, trung tâm liên lạc, căn cứ tập trung đông quân, cơ sở hậu cần…

Trong hành trình bay, đầu đạn và thân tên lửa BP-12 không tách rời nhau. Mỗi xe phóng hệ thống BP-12A chứa 2 quả tên lửa trong container.

Ngoài BP-12A, CPMIEC còn tiếp thị hai hệ thống tên lửa phòng không tầm trung KS-1A và hệ thống phòng không tầm xa FD-2000.

Trong đó, hệ thống KS-1A có thể tiêu diệt máy bay trong cự ly 7-50km và tên lửa hành trình từ 7-30km.

Một khẩu đội tiêu chuẩn KS-1A gồm: xe radar mạng pha bị động SJ-231, 4 xe bệ phóng (8 đạn tên lửa trên xe và 16 đạn dự trữ), xe tiếp đạn, xe phục vụ hậu cần khác.

Mỗi xe bệ giá phóng mang được 2 đạn tên lửa, có 2 biến thể xe được dùng. Một loại, 2 tên lửa treo trên hai ray phóng nghiêng. Khi bắn, động cơ tên lửa phải được khởi động trước khi ray phóng tách đạn. Biến thể còn lại, tên lửa được bảo quản trong các container.

Còn hệ thống phòng không tầm xa FD-2000, thực chất là biến thể xuất khẩu từ hệ thống HQ-9.

Theo quảng cáo, “FD-2000 có thể tấn công đồng thời nhiều mục tiêu và hoạt động trong điều kiện bị gây nhiễu điện tử mạnh”.

FD-2000 cung cấp khả năng phòng không bảo vệ cơ sở chính trị, quân sự, kinh tế quan trọng. Nó có thể kết hợp với hệ thống phòng không khác tạo thành hệ thống phòng không đa lớp bảo vệ khu vực.

Tên lửa hệ thống có thể tiêu diệt tên lửa hành trình ở cự ly 7-24km, tên lửa không đối đất (7-50km), máy bay (7-125km), bom có điều khiển và tên lửa đạn đạn chiến thuật (7-25km).

Ngoài các hệ thống tên lửa, CPMIEC còn giới thiệu hệ thống trinh sát cơ không người lái SH-1, sử dụng để trinh sát khu vực, giám sát chiến trường. UAV SH-1 có tầm bay 180km, tốc độ 90-150km/h, trần bay 5.000m.

Trên SH-1 có thể trang bị một trong hai hệ thống điện tử tùy theo từng nhiệm vụ: hệ thống quan trắc kỹ thuật số CCD hoặc camera kỹ thuật số đa quang phổ.

Một sản phẩm gây nhiều sự chú ý khác là radar đo tham số sóng duy trì HK-CL có thể đặt trên xe bánh lốp hoặc trên tàu chiến. Loại radar này cho phép đo vận tốc, quỹ đạo của đạn pháo, rocket, tên lửa, đạn gây nhiễu, UAV…

>> Tìm hiểu chiến hạm tàng hình USS Johnson của Hải quân Mỹ


Ngày 16 tháng 4 năm 2012, Hải quân Mỹ đã thông báo rằng siêu hạm DDG-1002 đã được đặt tên theo tên của Tổng thống thứ 36 của Mỹ Lyndon B. Johnson.



http://nghiadx.blogspot.com

USS Lyndon B. Johnson (DDG-1002) là một tàu khu trục tàng hình hiện đại của Hải quân Hoa Kỳ, được thiết kế như một chién hạm đa năng, tập trung chủ yếu vào nhiệm vụ tấn công mặt đất.

Cùng với USS Zumwalt (DDG-100) và USS Michael A. Monsoor (DDG-1001), dự án chế tạo khu trục hạm DDG-1002 nằm trong chương trình Tàu chiến nổi Tương lai của Hải quân Hoa Kỳ. Trước đây được gọi là DD-21.

Dự án này hiện nay được đặt tên là DD(X) để phản ánh chính xác hơn mục đích của chương trình, đó là nhằm sản xuất một họ các tàu nổi có kỹ thuật tiên tiến, thay vì chỉ là một lớp tàu duy nhất.

Tàu khu trục thông thường (DD) chủ yếu thực hiện vai trò chống tàu ngầm trong khi tàu khu trục tên lửa điều khiển (DDG) là những hạm tàu nổi đa nhiệm (chống tàu ngầm, phòng không và chống tàu nổi đối phương).

Hơn những thiết giáp hạm huyền thoại của Hải quân Hoa Kỳ, DDG-1002 có khả năng mang các loại vũ khí tiên tiến, và sở hữu hệ thống động lực tích hợp hoàn toàn bằng điện.

Theo dự kiến, Mỹ sẽ đóng 32 tàu thuộc lớp tàu này tuy nhiên sự sắt giảm ngân sách quốc phòng, nên chỉ có 3 chiếc được đóng. Hải quân dự kiến mỗi tàu có trị giá gần 3,8 tỷ đôla. Nếu tính cả chi phí nghiên cứu và phát triển, thì con số này có thể lên tới 7 tỷ đôla mỗi chiếc.

Bối cảnh và ngân sách

Năm 2001, Quốc hội quyết đinh cắt giảm ngân sách các chương trình DD-21 (Tàu khu trục thế kỷ 21) xuống một nửa như là một phần của chương trình SC21. Sau đó chương trình được đổi tên là DD (X).

http://nghiadx.blogspot.com
Khu trục hạm tàng hình DDG-1000

Ban đầu, Hải quân dự kiến sẽ xây dựng 32 khu trục hạm thuộc lớp này. Sau đó giảm xuống còn 24 chiếc, rồi 7 chiếc, do các chi phí cho công nghệ mới và thử nghiệm quá lớn.

Ngày 23 tháng 11 năm 2005, Bộ Quốc phòng Mỹ quyết định xây dựng đồng thời 2 tàu khu trục DDG-1000 (USS Elmo Zumwalt) và DDG-1001 (USS Michael A. Monsoor):

1 tại nhà máy Ingalls của Northrop ở Pascagoula, Mississippi và 1 tại Bath Iron của General Dynamics ở Bath, Maine. Tuy nhiên lúc đó, ngân sách để xây dựng 2 con tàu này chưa được Quốc hội thông qua.

Vào cuối tháng 12 năm 2005, Hạ viện và Thượng viện đã đồng ý tiếp tục tài trợ cho chương trình. Tuy nhiên, Hạ viện Mỹ chỉ phân bổ một số tiển đủ để bắt đầu xây dựng trên một tàu khu trục của Hải quân theo kiểu “thử nghiệm công nghệ”.

Ngày 31 tháng 7 năm 2008, các quan chức Hải quân Mỹ đã đề xuất lên Quốc hội xây dựng các tàu khu trục lớp Arleigh Burke, và dường như không còn “đoái hoài” đến DDG-1000. Chỉ có hai tàu khu trục loại này được phê duyệt là sẽ xây dựng.

Giải thích cho điều này, Hải quân cho biết rằng các mối đe dọa trên thế giới đã thay đổi vì thế yêu cầu đặt ra là phải xây dựng thêm ít nhất 8 khu trục hạm Burkes, chứ không phải là DDG-1000.

http://nghiadx.blogspot.com
DDG-1000 được đóng tại nhà máy Ingalls của Northrop


Nhiều nghị sĩ Quốc hội Mỹ đã bày tỏ hoài nghi về khả năng chống lại các mối đe dọa trên thế giới của Hải quân, sau khi chi tiêu chi 10 tỷ trong khoảng thời gian 13 năm vào chương trình tàu nổi được gọi là DD-21, sau đó là DD (X) và cuối cùng là DDG-1000.

Tuy nhiên, chi phí này không bao gồm chi phí cho hai tàu DDG-1000 và DDG-1001. Tư lệnh Hải quân Mỹ Gary Roughead đã khẳng định sự cần thiết phải xây dựng các tàu khu trục DDG-1000 như một hệ thống phòng thủ tên lửa để chống lại các mối đe dọa từ tên lửa đạn đạo hay các tên lửa chống tàu của các nhóm vũ trang như Hezbollah.

Ngày 19 tháng 8 năm 2008, thư ký Hải quân Mỹ Donald Winter báo cáo rằng chiếc khu trục hạm tàng hình tương lai thứ 3 mang số hiệu DDG-1002 sẽ được xây dựng tại công xưởng Bath Iron của General Dynamics.

Vào ngày 6 tháng 4 năm 2009, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Robert Gates đã thông qua ngân sách quốc phòng năm 2010 trong đó có việc xây dựng tối đa 3 tàu DDG-1000.

General Dynamics là công ty đã nhận được hợp đồng đóng chiếc tàu thứ 3 theo quyết định của Lầu Năm Góc. Dự kiến, tàu khu trục DDG-1000 đầu tiên sẽ có chi phí 3,5 tỷ đôla, chiếc thứ hai khoảng 2,5 tỷ đôla, và chiếc thứ 3 thậm chí còn ít hơn.

Xây dựng

Cuối năm 2005, chương trình bước vào giai đoạn thiết kế chi tiết và giai đoạn tích hợp, trong đó Raytheon là công ty có nhiệm vụ tích hợp hệ thống. Cả Northrop Grumman và General Dynamics đều đảm nhiệm phần thiết kế cơ khí và hệ thống điện tử cho con tàu.

BAE Systems của Anh nhận được hợp đồng thiết kế hệ thống vũ khí tiên tiến và hệ thống phóng tên lửa thẳng đứng MK57.

http://nghiadx.blogspot.com
Khu trục hạm DDG-1001 được đóng tại công xưởng Bath Iron của General Dynamics


Hầu như tất cả các nhà thầu quốc phòng lớn (bao gồm Lockheed Martin, Northrop Grumman Sperry Marine, L-3 Communications) và một số nhà thầu nhỏ khác của Mỹ đều tham gia ở một mức độ nhất định trong dự án được xem là lớn nhất của Hải quân Mỹ.

Trước đó, việc phát triển và thử nghiệm 11 mô hình Phát triển Kỹ thuật (EDM) bao gồm hệ thống vũ khí nâng cao, hệ thống phòng – chữa cháy tự động, Radar băng tần kép (X – L), hồng ngoại, tích hợp hệ thống điện tử, tích hợp hệ thống chiến đấu dưới nước, hệ thống phóng tên lửa thẳng đứng, hệ thống máy tính, cấu trúc Tumblehome… đã diễn ra.

Ngày 14 tháng 2 năm 2008, Iron Bath đã nhận được hợp đồng xây dựng chiếc USS Zumwalt đầu tiên DDG-1000, và Northrop Grumman đóng chiếc thứ hai USS Michael Monsoor (DDG 1001), với chi phí 1,4 tỷ đôla mỗi chiếc.

Mốc thời gian xây dựng các tàu khu trục Zumwalt từ tháng 7 năm 2008:

Tháng 10 năm 2008: bắt đầu xây dựng DDG-1000 tại Iron Bath.

Tháng 9 năm 2009: bắt đầu xây dựng DDG-1001 tại Ingalls.

Tháng 4 năm 2012: bắt đầu xây dựng DDG-1002 tại Iron Bath.

Tháng 4 năm 2013: bàn giao DDG-1000 cho Hải quân.

Tháng 5 năm 2014: bàn giao DDG-1001.

Tên và số hiệu

Trong tháng 4 năm 2006, Hải quân công bố kế hoạch đặt tên cho con tàu đầu tiên của lớp Zumwalt theo tên của Cựu Tư lệnh Hải quân Mỹ Zumwalt với số hiệu DDG-1000.

http://nghiadx.blogspot.com
DDG-1002 chính thức được mang tên USS Lyndon B. Johnson từ ngày 16 tháng 4 năm 2012


Chiếc thứ hai mang số hiệu DDG-1001 sẽ được đặt tên theo tên của cố sĩ quan hải quân Michael A. Monsoor, người đã nhận được Huân chương Danh dự trong cuộc chiến chống khủng bố toàn cầu (GWOT) mà Hải quân công bố vào ngày 29 tháng 10 năm 2008.

Mới đây, ngày 16 tháng 4 năm 2012, Hải quân đã thông báo rằng chiếc khu trục hạm tàng hình thứ 3 mang số hiệu DDG-1002 sẽ được đặt theo tên cựu sĩ quan hải quân – Tổng thống đời thứ 36 của Hoa Kỳ Lyndon B. Johnson.

Thiết kế

Mặc dù có kích thước lớn hơn 40% so với một chiếc khu trục hạm lớp Arleigh Burke nhưng độ bộc lộ radar của DDG-1002 chỉ như một chiếc thuyền đánh cá và độ ồn chỉ tương đương với những chiếc tàu ngầm lớp Los Angeles.

Cấu trúc thân kiểu tumblehome hạn chế đến mức thấp nhất sự phản xạ sóng radar và vật liệu composite giúp cho con tàu khả năng chịu lực và tàng hình tốt hơn.

Thiết kế thân tàu kiểu Tumblehome

Siêu khu trục hạm DDG-1002 có thiết kế mạnh mẽ, và rất ấn tượng. Nhìn bên ngoài, siêu hạm trông giống như một “tuyệt tác nghệ thuật” trên đại dương.

Cả con tàu là một khối thống nhất đầy chắc chắn và hầu như các trang thiết bị trên tàu chẳng hạn như hệ thống tên lửa, súng, pháo kể cả radar, hệ thống kiểm soát hỏa lực, kiểm soát bay đều được “ẩn” ở bên trong.

http://nghiadx.blogspot.com
Thiết kế thân tàu kiểu Tumblehome


Thân tàu USS Lyndon B. Johnson được thiết kế theo kiểu thân tumblehome. Kiểu thân này được đề xuất lần đầu tiên trong thiết kế tàu chiến hiện đại bởi nhà máy đóng tàu Forges et Chantiers de la Mediterranee của Pháp ở La Seyne, Toulon.

Các kiến trúc sư Hải quân Pháp tin rằng thiết kế tumblehome, mà ở đó thân tàu bị vát dần lên trên và tất nhiên cả phía dưới, mũi tàu thấp và xuôi về phía sau sẽ giúp cho tàu tăng cường khả năng đi biển qua những kênh hẹp đồng thời tăng khả năng tàng hình và tránh cho tàu bị lắc lư mạnh khi gặp phải nhưng con sóng lớn đánh vào mũi tàu.

Hệ thống vũ khí tiên tiến (AGS)

DDG-1002 được trang bị hệ thống pháo phạm cải tiến AGS 155 mm có tính năng ưu việt. Hệ thống này bao gồm pháo cỡ nòng 155 mm trang bị đạn pháo tầm xa LRLAP (Long Range Land Attack Projectile) nặng 11 kg có độ chính xác đến 50 mét. Pháo hạm có tầm bắn 83 hải lý (154 km) và cơ số đạn lên tới 750 viên.

Hệ thống nạp đạn tự động được làm mát bằng nước, cho phép nâng tốc độ bắn lên tới 10 phát/phút. Hỏa lực kết hợp từ một cặp pháo hạm trên tàu khu trục USS Lyndon B. Johnson tương đương hỏa lực tổng cộng của 18 khẩu súng trường thông thường M198.

http://nghiadx.blogspot.com
Hệ thống phóng tên lửa thẳng đứng (VLS - Vertical Launch System)


Khu trục hạm USS Lyndon B. Johnson được trang bị một loại tổ hợp có thể phóng nhiều loại đầu đạn khác nhau mang tên thiết bị ống phóng thẳng đứng (VLS - Vertical launcher system).

VLS được trang bị cho các tàu hải quân, được đặt phía trong thân tàu, không chỉ cho phép phóng nhiều loại tên lửa khác nhau trên cùng một bệ phóng, mà còn bảo quản tốt hơn tên lửa trong môi trường biển, do vũ khí được cất giữ trong các khoang chứa kín.

http://nghiadx.blogspot.com

Các tính năng của VLS cũng giúp tiết diện phản xạ của chiếm hạm giảm đáng kể và “tàng hình” tốt hơn trước các thiết bị quan sát bằng radar cũng như các thiết bị quang ảnh của của đối phương.

Khác với các VLS trên khu trục hạm hiện đại của Nga dùng phương thức phóng nguội, các VLS trên các khu trục hạm DDG-1000 sử dụng phương thức khởi động phóng nóng.

Theo đó, tên lửa khởi động động cơ trực tiếp trong ống phóng, rồi được bắn ra khỏi bệ phóng. Phương thức này yêu cầu VLS phải có kết cấu chắc chắn và chịu được nhiệt độ cao. Ưu điểm của phương thức này là VLS có kết cấu nhỏ, nhẹ và dễ chế tạo.

Tàu khu trục DDG-1002 còn được trang bị một máy bay trực thăng chứa trong khoang, cất hạ cánh trên sàn bay ở phần thân sau của tàu.

Khả năng đánh chặn tên lửa đạn đạo

Trước và sau khí chiếc khu trục hạm đầu tiên DDG-1000 được chế tạo, nhiều người đã bày tỏ sự hoài nghi về khả năng đánh chặn tên lửa của siêu chiến hạm tàng hình hiện đại này.

Trong tháng 1 năm 2005, John Young, người phụ trách chương trình nghiên cứu phát triển, và thu mua của Hải quân Hoa Kỳ cho biết rằng DD (X) cần phải có hệ thống phòng không tiên tiến cùng với radar mới và khả năng sử dựng đồng thời các loại tên lửa hiện đại SM-1, SM-2, và SM-6.


Ngày 31 tháng 7 năm 2008, Phó Đô đốc Barry McCullough và Allison Stiller tuyên bố rằng DDG-1000 không thể thực hiện phòng không khu vực, cụ thể, là nó không thể sử dụng tốt các tên lửa Standard Missile-2 (SM-2), SM-3 hoặc SM-6 và không có khả năng chống tên lửa đạn đạo.

Dan Smith, giám đốc bộ phận Hệ thống phòng thủ tích hợp của Raytheon đã phản đối tuyên bố trên và cho rằng các hệ thống radar và hệ thống vũ khí về cơ bản giống như các tàu chiến khác có khả năng mang và phóng tên lửa SM-2.

“Tôi không hiểu tại sao tại sao Hải quân lại khẳng định rằng Zumwalt không có khả năng tích hợp SM-2" - Dan Smith nói.

Ngày 22 tháng 2 năm 2009, James Ace Lyons, cựu Tư lệnh Hạm đội Thái Bình Dương Hoa Kỳ, nói rằng công nghệ của DDG-1000 là cần thiết cho tương lai để tăng cường khả năng đánh chặn các tên lửa đạn đạo".

Trong năm 2010, Ủy banNghiên cứu Quốc hội Mỹ báo cáo rằng các khu trục hạm DDG-1000 có thể sẽ không được sử dụng trong hệ thống phòng thủ bờ biển BMD vì nó không sử dụng hệ thống Aegis tiêu chuẩn đã được phát triển cho BMD.

Khả năng mang tên lửa

Ban đầu, DD21 được thiết kế có lượng giãn nước 16.000 tấn với khoảng 117 đến 128 ô phóng tên lửa thẳng đứng. Tuy nhiên, cuối cùng, DDG-1000 được thiết kế nhỏ hơn so với các DD21, chỉ có 80 ô phóng (cell).

http://nghiadx.blogspot.com


Tàu được trang bị 20 module phóng tên lửa MK-57, một module phóng đa năng, với thiết kế dạng module điện tử tích hợp cung cấp khả năng phóng nhiều loại tên lửa khác nhau mà không cần đòi hỏi sửa đổi về phần mềm điều khiển phóng.

Ngoài ra, các tàu khu trục lớp Zumwalt có khả năng mang nhiều tên lửa Tomahawk, tên lửa đối không RIM-162 hơn các khu trục hạm hiện có như Ticonderoga hay Arleigh Burke.

Radar băng tần kép

Do thiết kế thân tàu kiểu Tumblehome nên hầu hết các bộ phận của tàu không được bộc lộ ra bên ngoài kể cả hệ thống radar. Khác với các khu trục hạm và các tàu chiến thông thường, ở DDG-1002 ta không thấy những cột anten radar hoành tráng nhưng cũng hết sức rườm rà.

Ở DDG-1002, toàn bộ hệ thống điện tử của tàu khu trục DDG-1002 được thiết kế với công nghệ hệ thống điện tử tích hợp IPS (Integrated Power System), với khả năng tự động hóa rất cao.

AMDR là một radar tầm xa đa năng có khả năng phát hiện, theo dõi và phân biệt các mục tiêu bay như tên lửa đạn đạo.

Do có khả năng làm việc đồng thời trong cả hai 2 băng tần X và S cho nên AMDR có hiệu suất làm việc cao hơn, xác suất mất mục tiêu thấp hơn, phạm vi hoạt động lớn hơn, độ chính xác vì thế mà cũng cao hơn các radar băng tần đơn SPY-3 hà SPY-4.

Đối với hệ thống phòng không, việc nâng cao độ nhạy máy thu và tăng cường khả năng chống nhiễu của radar là vô cùng cần thiết.

Nó đảm bảo cho toàn hệ thống có thể phát hiện chính xác mục tiêu, thực hiện bám sát và tiêu diệt mục tiêu trong môi trường nhiễu tự nhiên và nhiễu nhân tạo.

Radar băng tần kép AMDR trang bị trên khu trục hạm DDG-1002 đáp ứng tốt các yêu cầu trên. AMDR có các bộ xử lý tín hiệu riêng biệt cho từng băng tần làm việc cùng với hệ thống chống nhiễu hiện đại, màn hiện sóng cảm ứng tiên tiến và đăc biệt là khả năng tự động hóa ở mức độ rất cao.

AMDR được xem là sự nhảy vọt trong công nghệ chế tạo hệ thống radar cho các khu trục hạm hiện đại.

http://nghiadx.blogspot.com

Hệ thống radar băng tần kép AMDR được tích hợp radar băng tần X - tìm kiếm các xác định các mục tiêu tầm xa từ giới hạn đường chân trời, cung cấp thông tin về mục tiêu, chiếu xạ mục tiêu và radar băng tần S - theo dõi, phân loại tên lửa đạn đạo và tên lửa thông thường thông qua việc đánh giá quỹ đạo bay.

Ngoài ra, AMDR còn được tích hợp hệ thống giám sát các mục tiêu bay thấp và cực thấp, xác định các mối đe dọa từ đất liền, trên biển và hệ thống phối hợp giũa hai hai băng tần X - S.

Sonar

Tàu khu trục DDG-1002 được trang bị sonar băng tần kép được điều khiển bởi một hệ thống máy tính tự động hóa cao. Hệ thống sonar này được đánh giá là vượt trội so với sonar kéo theo trên tàu DDG-51.

Tự động hóa và Mạng máy tính

Tự động hóa sẽ giúp giảm số lượng thành viên thủy thủ đoàn do đó sẽ làm giảm bớt chi phí cho con tàu.

Đạn dược, thực phẩm, và các đồ dùng khác, tất cả đều được đặt trong các thùng chứa có thể lấy ra từ kho bởi một hệ thống xử lý vận chuyển hàng hóa tự động.

Khu trục hạm DDG-1002 được trang bị các máy tính bảng đơn PPC7D hiện đại chạy trên nền LynuxWorks 'LynxOS RTOS.

http://nghiadx.blogspot.com

Thông số kỹ thuật của siêu hạm tàng hình USS Lyndon B. Johnson (DDG-1002):

Lượng giãn nước: 14.564 tấn

Dài: 180 m.

Rộng: 24,6 m.

Lượng giãn nước trung bình: 4 m.

Động cơ đẩy: 2 động cơ tuốc bin khí Rolls-Royce Marine Trent-30 công suất 105.000 mã lực.

Tốc độ: 30 hải lý.

Thủy thủ đoàn: 140 người.

Radar: Radar đa năng băng tần kép AMDR

Vũ khí:

20 × MK 57 VLS: 80 cell.

Tên lửa đối không RIM-162: 4 cell

Tên lửa chiến thuật Tomahawk: 1 cell

Tên lửa chống tàu ngầm (ASROC): 1 cell

2 × 155 mm AGS

2 × Mk 110 57 mm CIGS

Máy bay: 1máy bay trực thăng SH-60 LAMPS hoặc 1 máy bay trực thăng MH-60R, 3 UAV Fire Scout MQ-8.

Dự án tàu khu trục tương lai DDG-1002 thể hiện một lối thiết kế và quan điểm tác chiến hải quân hoàn toàn mới của Hải quân Mỹ. Siêu khu trục hạm DDG-1002 cùng với USS Zumwalt (DDG-100) và USS Michael A. Monsoor (DDG-1001) được thiết kế để đối phó với các mối đe dọa hiện tại và cả tương lai.

Siêu hạm tàng hình DDG-1002 được dự định sẽ thay thế cho tàu khu trục lớp Arleigh Burke hiện có và hình thành nhóm tác chiến tương lai của Hải quân Mỹ. Mặc dù chi phí đắt đỏ, lại mới được nghiên cứu chế tạo nhưng DDG-1002 quả thực là một “siêu phẩm”, một siêu chiến hạm của Hải quân Hoa Kỳ.

>> Khắc tinh của máy bay tàng hình


Chiếu xạ mục tiêu và nhận tín hiệu phản hồi để bám, bắt các vật thể bay là nguyên tắc làm việc chính của các loại radar chủ động.



Chiếu xạ mục tiêu và nhận tín hiệu phản hồi để bám, bắt các vật thể bay là nguyên tắc làm việc chính của các loại radar chủ động.

Ngay cả trong thời đại tàng hình, với một chút thay đổi, nguyên tắc này vẫn được phát huy hiệu quả.

>> Tìm hiểu tổ hợp radar VERA-E

Để "biến mất" khỏi sự theo dõi của các lực lượng radar trinh sát, chiến thuật đầu tiên mà các nhà kỹ thuật quân sự sử dụng là giảm tiết diện phản xạ radar bằng các thiết kế góc cạnh.

Khi chùm tia điện từ của radar chiếu vào mục tiêu, gặp các bề mặt góc cạnh sẽ bị tán xạ và khiến radar nhận được tín hiệu phản hồi yếu ớt.

Chế độ làm việc mới

Thường để vô hiệu hóa chiến thuật này, người ta phát lên mục tiêu nhiều năng lượng hơn bằng anten radar lớn hơn và máy phát mạnh hơn hoặc phải có máy thu nhạy hơn để phát hiện năng lượng này.

Tuy nhiên không phải lúc nào 2 cách này cũng khả thi. Vì có thể làm tăng giá thành radar, tăng kích thước radar khiến hệ thống giảm độ linh hoạt, hoặc là gặp rắc rối với việc xử lý tạp âm.




http://nghiadx.blogspot.com
Giraffe sử dụng sóng phát đa búp kéo dài thời gian theo dõi mục tiêu. Nguồn: d.i.d


Thay cho các giải pháp kinh điển đó, các nhà thiết kế cho thử nghiệm các chế độ hoạt động mới của radar như dùng tốc độ quét điện tử để ghi lại tín hiệu nghi ngờ bằng các trị số nằm dưới ngưỡng cài đặt cho mục tiêu thực, sau đó kiểm tra lại chúng.

Giải pháp này đã được áp dụng cho radar ba chiều Giraffe.

Để tránh mất thời gian bắt bám các mục tiêu giả, các nhà khoa học đã sử dụng khái niệm "bám trước khi phát hiện" và sử dụng các thuật toán để phát hiện các mục tiêu tàng hình.

Theo đó, radar sẽ tiến hành xử lý tất cả các tín hiệu mà nó thu nhận được và xây dựng thành các đường bám thử.

Dựa vào hành trình của các mục tiêu mà ta xác định được đâu là mục tiêu thật, đâu là mục tiêu giả.

Cũng vẫn những hệ thống radar đó, nhưng thay vì sử dụng các tần số cao, người ta để radar hoạt động ở dải tần UHF và VHF (tần số thấp, sóng dài).

Những nghiên cứu mới đây đều chứng minh rằng, sóng dài đặc biệt có hiệu quả trong việc phát hiện các mục tiêu tàng hình, nhất là khi bước sóng bằng 2 lần kích thước mục tiêu.

Radar băng VHF Nitel 55G6 do Nga sản xuất là minh chứng cho điều này.

Hoạt động ở băng tần VHF, radar có thể bám các mục tiêu có tiết diện phản xạ radar thấp, như tên lửa hành trình và máy bay tàng hình, với độ chính xác cao.

Để đạt được hiệu quả cao nhất, người ta thường sử dụng radar đa tần: ở tần số thấp để quan sát cự li xa, ở tần số cao để xác định chính xác các tham số mục tiêu trong không gian, sau đó kết hợp với các biện pháp khác để đưa ra kết luận chính xác về mục tiêu.

Biến mạng di động thành radar

Để đối phó với thủ đoạn này, sử dụng radar 2 trạm, với trạm thu và trạm phát đặt tại những vị trí khác nhau, là một biện pháp hiệu quả.

Trạm thu thường đặt ở trận địa cách xa máy phát, khi đó khả năng thu được sóng phản xạ năng lượng sẽ lớn hơn nhiều, đồng nghĩa với việc thu được nhiều dấu hiệu của mục tiêu hơn.

Sử dụng radar hai trạm đang là xu thế tại nhiều nước trên thế giới. Ngoài hiệu quả trong việc thu bắt tín hiệu mục tiêu tàng hình, người ta có thể lợi dụng sóng của các đài phát thanh, truyền hình, thậm chí là mạng điện thoại và các nguồn bức xạ điện từ (kể cả nhiễu của đối phương) làm trạm phát, giúp giảm đáng kể tiền đầu tư vào radar.

Đối với mạng điện thoại di động, trạm gốc điện thoại di động sẽ biến thành máy phát. Tín hiệu thu từ "máy phát" này sẽ được diễn giải trên máy thu có kích cỡ rất nhỏ.

Không chỉ phát hiện ra vị trí mục tiêu tàng hình nhờ tính toán khác biệt về pha, với bản chất đa hướng của mình, hệ thống còn có thể phân biệt được máy bay và tên lửa tàng hình.

Biến mạng điện thoại di động thành các mạng radar là một hướng đi nhiều triển vọng bởi khi đó hệ thống radar lúc này sẽ có độ dự phòng lớn (phạm vi khai triển rộng) trong khi khó bị gây nhiễu và khả năng bị phá huỷ lại cực kì thấp (phải phá hủy toàn bộ hệ thống điện thoại di động hoặc khóa tất cả máy thu).

Hiện nay trên thế giới đã phát triển một loại radar cao tần hai căn cứ, cự ly phát hiện lên đến vài chục km, tín hiệu điện tử có thể phát hiện được tên lửa hành trình tàng hình, máy bay ném bom tàng hình, máy bay lên thẳng và máy bay không người lái tàng hình.


http://nghiadx.blogspot.com
Nitel 55G6 do Nga sản xuất. Nguồn: Ausairpower

Đưa radar lên trời

Một biện pháp hiệu quả khác phát hiện các phương tiện tàng hình là đưa trạm radar lên không. Bởi các biện pháp tàng hình cho máy bay hoặc tên lửa hành trình thường chú trọng đối phó với hệ thống radar mặt đất mà ít quan tâm đến những trạm radar trên trời - trên vệ tinh hoặc trên vũ trụ.

Đây là lý do khiến các nhà khoa học quân sự nghĩ đến việc nâng cấp hệ thống radar theo dõi trên mặt đất thành hệ thống chống tàng hình đặt trên vũ trụ hay trên các khí cầu tầng không cao.

Đối với những máy bay lên thẳng tàng hình, người ta dùng radar laser để phát hiện. Loại radar này được cấu thành từ kính nhìn xa kiểu phát xạ, máy laser, máy đo dò, máy xử lý dữ liệu và máy hiện hình.

Nó hoạt động dựa trên nguyên tắc của radar thông thường, chiếu laser đến mục tiêu, rồi thu nhận tín hiệu phản xạ và phân tích.

Radar laser đặc biệt nhạy cảm với nồng độ khí hidrocacbon trong luồng khí thoát ra từ máy bay lên thẳng bởi nồng độ này cao gấp 100 lần nồng độ khí quyển.

Đây là căn cứ để hệ thống radar phát hiện máy bay tàng hình lên thẳng khi đang hoạt động ở chế độ bay bám hay chế độ bay treo.

Thứ Sáu, 20 tháng 4, 2012

>> Ấn Độ 'ảo mộng' với tên lửa ?


Sự hưng phấn của Ấn Độ sau vụ phóng tên lửa thành công bất ngờ bị báo Trung Quốc “dội gáo nước lạnh”.



Theo giới truyền thông Ấn Độ, với tầm bắn hơn 5.000km, tên lửa liên lục địa Agni-5 có thể bắn tới hầu hết các khu vực của Trung Quốc, kể cả khu vực bờ biển miền Đông nước này.

“Loại tên lửa này sẽ vô hiệu hoá mối đe dọa từ Trung Quốc. Vụ thử nghiệm là nỗ lực để tạo ra sự cân bằng với Trung Quốc hơn là cố gắng vượt qua họ”, Uday Bhaskar, cựu chỉ huy hải quân Ấn Độ và hiện là nhà phân tích thuộc Quỹ hàng hải quốc gia ở New Delhi nhấn mạnh.

Tờ Global Times của Trung Quốc nhận định, công nghệ tên lửa của Ấn Độ quả thực đang phát triển rất nhanh. Quốc gia này phóng thành công tên lửa Agni-4 với tầm bắn 3.500km và nay là Agni-5 có khả năng nhắm mục tiêu cách xa 5.000km.

Tuy nhiên, tờ báo Trung Quốc cho rằng, Ấn Độ đang ảo tưởng về sức mạnh tên lửa của mình. Tên lửa của New Delhi chỉ có tầm bắn 5.000km trong khi khả năng của các tên lửa “mang quốc tịch” Nga, Trung Quốc, Mỹ và Pháp vượt 8.000km.


http://nghiadx.blogspot.com
Báo Trung Quốc cảnh báo về mối nguy hiểm Ấn Độ tự đặt ra cho mình sau vụ phóng tên lửa. Ảnh minh họa: CBCNews.

Theo Global Times, sức mạnh quân sự mà Ấn Độ phát triển trong thời gian qua dường như không tương xứng với tiềm lực quốc gia. New Delhi vẫn còn nghèo và cơ sở hạ tầng cũng còn lạc hậu song chính quyền cũng như người dân nước này lại cương quyết phát triển tiềm lực hạt nhân.

Trong khi đó, phương Tây cũng chọn cách phớt lờ mọi hiệp ước liên quan đến kiểm soát hạt nhân và tên lửa để ủng hộ Ấn Độ. Không chỉ vậy, phương Tây còn làm thinh trước thực tế là chi tiêu quân sự của New Delhi đã tăng tới 17% trong năm 2012 và quốc gia này một lần nữa trở thành nhà nhập khẩu vũ khí lớn nhất trên thế giới.

“Ấn Độ không nên đánh giá quá cao sức mạnh của mình. Ngay cả khi quốc gia này sở hữu tên lửa có khả năng tấn công các mục tiêu chiến lược tại Trung Quốc thì điều đó cũng không có nghĩa là New Delhi có thể ngạo mạn giành mọi lợi thế trong các tranh chấp với Bắc Kinh. Ấn Độ nên nhớ rõ rằng, tiềm lực hạt nhân của Trung Quốc lớn hơn rất nhiều. Trong tương lai gần, New Delhi sẽ không còn chút cơ hội để sánh kịp với Bắc Kinh trong cuộc đua vũ khí”, Global Times cảnh báo.

Tờ báo cũng nhấn mạnh, Ấn Độ không nên quá sùng bái giá trị của các đồng minh phương Tây cũng như lợi ích mà quốc gia này có được khi tham gia vào “cuộc chơi kìm chế Trung Quốc” của phương Tây. Nếu New Delhi đánh đồng các vụ thử tên lửa chiến lược tầm xa với khả năng răn đe Bắc Kinh thì sẽ làm gia tăng sự thù địch và đó thực sự là một “sai lầm chết người”.

Trung Quốc và Ấn Độ nên phát triển mối quan hệ thân thiết nhất có thể. Dù mục tiêu này khó có thể đạt được nhưng hai nước ít nhất cũng cần biết chịu đựng lẫn nhau và học cách cùng chung sống hòa bình.

Vị thế quốc gia mới nổi cho thấy hai nước càng nên tăng cường hợp tác trên chính trường quốc tế. Cả New Delhi và Bắc Kinh đều không nên tìm kiếm sự cân bằng quyền lực thông qua uy lực của tên lửa.

Nền địa chính trị châu Á sẽ ngày càng phụ thuộc vào bản chất của mối quan hệ Trung - Ấn. Sự hòa bình và thịnh vượng trong khu vực có vai trò tối quan trọng đối với cả hai nước. Ấn Độ và Trung Quốc cùng phải có trách nhiệm duy trì nền hòa bình và ổn định này, đồng thời cảnh giác với những mưu đồ can thiệp từ bên ngoài.



Ấn Độ đưa tin tên lửa đạn đạo Angi-5 phóng thử thành công


Global Times nhấn mạnh, Bắc Kinh hiểu được khao khát bắt kịp với Trung Quốc của Ấn Độ. Tuy nhiên, Trung Quốc, với tư cách là mục tiêu chiến lược của Ấn Độ, sẵn sàng coi New Delhi là một “đối thủ hòa bình”.

Vì những lý do lịch sử, Trung Quốc và Ấn Độ đang cảnh giác lẫn nhau. Tuy nhiên, khách quan mà nói, Bắc Kinh không dành nhiều mối quan tâm để đối phó với New Delhi, trái ngược với thái độ thù địch mà Ấn Độ dành cho Trung Quốc. Vì vậy, Trung Quốc hy vọng Ấn Độ giữ bình tĩnh để cả hai sẽ cùng hưởng lợi.

Trong khi đó, trái ngược với những lời lẽ “răn đe” của Trung Quốc, Tổng thư ký NATO khẳng định, tổ chức này không coi Ấn Độ là một hiểm họa tên lửa, bất chấp chương trình phát triển tên lửa tối tân của nước này.

Tương tự, Washington hôm nay cũng kêu gọi các quốc gia hạt nhân kìm chế và ngừng chỉ trích Ấn Độ về vụ phóng tên lửa có tầm bắn trọn lãnh thổ Trung Quốc hay châu Âu này.

Khi được hỏi liệu tên lửa Agni-5 mà Ấn Độ vừa phóng có thể tấn công vào sâu lãnh thổ Trung Quốc không, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Mỹ Mark Toner cho biết, Mỹ quan tâm về vụ phóng, nhưng không đề cập cụ thể về vấn đề này với Ấn Độ.

“Tôi chỉ muốn nói, chúng tôi kêu gọi các quốc gia hạt nhân kìm chế bởi Ấn Độ cũng tham gia hiệp ước chống phổ biến vũ khí hạt nhân”, ông Mark Toner nhấn mạnh.

>> Tìm hiểu họ tên lửa Hellfire II


Tính đến tháng 4/2012, Mỹ đã bỏ ra số tiền hơn một tỷ USD cho các biến thể mới của loại tên lửa không đối đất nổi tiếng Hellfire của mình.

Hiện nay, Hellfire (lửa địa ngục) là loại tên lửa không đối đất chủ lực hiện trang bị cho quân đội Mỹ cũng như đồng minh.

Biến thể tiêu chuẩn của loại tên lửa này sử dụng loại đầu tự dẫn laser bán chủ động với tầm bắn tới 9.000 mét. Hiện nay, tên lửa Hellfire đang được trang bị cho hầu hết các đoàn trực thăng tấn công của Mỹ như AH-64, AH-1, OH-58D, MH-60S/R, S-70 và thậm chí là trực thăng Eurocopter Tiger của Pháp và Australia.

Không có khả năng phóng từ các máy bay tấn công siêu âm như loại tên lửa MBDA Brimstone của Anh, tuy nhiên tên lửa Hellfire II lại rất đa dụng với nhiều biến thể và khả năng phóng từ các UAV tấn công như MQ-1 Predator cùng các bệ phóng cá nhân đặt trên giá ba chân.



http://nghiadx.blogspot.com
Cấu tạo bên trong tên lửa Hellfire II biến thể K

Cho đến thời điểm này, tên lửa Hellfire II đang được sản xuất với rất nhiều biến thể.

Biến thể cơ bản nhất là AGM-114K sử dụng đầu đạn nổ lõm chuyên dùng để diệt các mục tiêu bọc giáp nặng như xe tăng và công sự kiên cố.

Bản nâng cấp của AGM-114K là AGM-114K-A được trang bị thêm một vòng kim loại cứng có khả năng vỡ tung thành nhiều mảnh văng nhỏ khi nổ, giúp tăng tính sát thương của tên lửa khi tấn công các mục tiêu không bọc giáp tại các địa hình trống trải.


http://nghiadx.blogspot.com
Đầu nổ của biến thể AGM-114K-A được trang bị thêm một vòng kim loại cứng đã khía sẵn hình thoi để tạo ra những mảnh văng chết người khi nổ.


Biến thể thứ hai AGM-114M được thiết kế chủ yếu sử dụng trong hải quân. Đầu đạn của biến thể này đơn thuần là loại nổ phá mảnh, vốn rất hiệu quả trong việc tấn công các loại thuyền nhẹ hay xe cộ đơn thuần.

Biến thể thứ ba AGM-114N sử dụng đầu đạn nhiệt áp (tương tự loại đầu đạn của pháo phản lực TOS-1 hay súng phóng lựu RPO của Nga). Với loai đầu đạn này, nó có thể dễ dàng đốt cháy các mục tiêu trong hang động, công sự nhà cửa hay tạo ra một vụ nổ với bán kính sát thương cực kỳ lớn.

http://nghiadx.blogspot.com
Hellfire-II có thể gắn trên giá ba chân để sử dụng như một loại tên lửa chống tăng cá nhân hay tên lửa đối hạm hạng nhẹ.


Biến thể mới hiện đại nhất của Hellfire II là AGM-114R “đa năng” đang được sản xuất.

AGM-114R được trang bị bộ phận dẫn đường cải tiến giúp tên lửa có xác suất đánh trúng mục tiêu cao hơn nhiều so với bản AGM-114K-A.

Đặc biệt nhất, biến thể này được trang bị một đầu đạn đa năng có thể sử dụng để chống lại cả ba loại mục tiêu chính là xe tăng, các công sự kiên cố và mục tiêu ít bọc giáp.

Dự kiến, trong tương lại AGM-114R sẽ là biến thể được sử dụng nhiều nhất của tên lửa Hellfire.

Theo giám đốc chương trình sản xuất tên lửa Hellfire, trung tá Mike Brown, điểm đặc biệt nhất của tên lửa này là phi công có thể chọn chế độ nổ cho đầu đạn tùy thuộc vào mục tiêu ngay trong khi thực hiện nhiệm vụ chứ không cần phải đặt trước tại căn cứ.

Yếu tố này là đặc biệt hữu dụng trong điều kiện chiến trường khi kẻ địch có thể thay đổi chiến thuật rất nhanh, vào bất cứ lúc nào.

http://nghiadx.blogspot.com
Biến thể trang bị đầu đạn đa năng AGM-114R có khả năng đối phó với nhiều loại mục tiêu trên chiến trường.


Ngoài ra, Hellfire II còn có hai biến thể khác không liên quan đến loại đầu đạn sử dụng là AGM-114L và AGM-114P.

Biến thể L được tăng cường thêm một đầu dò radar ở băng sóng milimét giúp tên lửa có khả năng “bắn và quên”. Đầu dò này sẽ nhận thông tin trực tiếp từ radar trang bị trên trực thăng AH-64D hay AH-1 để tìm kiếm mục tiêu.

Biến thể P được chế tạo chủ yếu để trang bị cho các UAV bay ở độ cao lớn với khả năng chống chịu tốt hơn với điều kiện môi trường khắc nghiệt, ví dụ như nhiệt độ tại điểm phóng có thể chênh lệch tới 50 độ C so với nhiệt độ tại mục tiêu.

Hệ thống đo đạc ba chiều của tên lửa AGM-114P giúp nó có khả năng bắt bám mục tiêu với góc 360 độ, giúp nó có khả năng sử dụng trên những UAV không có khả năng bay treo như trực thăng.

http://nghiadx.blogspot.com
Lắp ráp tên lửa AGM-114P cho UAV tấn công


Hiện nay, cộng thêm với 8,75 triệu USD hợp đồng mua thêm bộ phận phụ cho tên lửa Hellfire II bản R, Mỹ đã bỏ ra hơn một tỷ USD cho chương trình phát triển này.

>> Unha-3 nổ tung vì lãnh đạo Triều Tiên duy ý chí?


Hôm 13/4, sau khi rời bệ phóng 1-2 phút, tên lửa đẩy Unha-3 của Triều Tiên đã nổ tung thành 20 mảnh rơi trên biển.



Cùng ngày, chính quyền Triều Tiên đã lên tiếng xác nhận cuộc phóng thất bại và cho biết các chuyên gia đang tìm hiểu nguyên nhân sai sót. Nhiều khả năng, những nguyên nhân này sẽ không bao giờ được tiết lộ. Do đó, đây sẽ là đề tài hấp dẫn cho những chuyên gia.

Ngay lập tức, một số chuyên gia Hàn Quốc đã đưa ra lập luận của mình tìm hiểu vì sao Unha-3 nổ tung.

Tách tầng không thành công?

Tầng nhiên liệu đầu tiên của Unha-3 đã xé toang thành 20 mảnh rơi trên vùng biển phía Tây Taean, cách xa điểm dự định tách tầng (gần phía Tây bán đảo Byeonsan (Hàn Quốc).

Thông thường, 56% vụ phóng lỗi gặp vấn đề ở tầng phóng thứ nhất. Các vụ nổ thường phát sinh từ việc rò rỉ nhiên liệu động cơ đẩy hoặc máy bơm tuabin gặp trục trặc hơn là việc tách tầng không thành công.

Giáo sư Yoon Woong-sup, ĐH Yonsei, cho biết: “Nếu vấn đề xảy ra trong quá trình tách tầng thì khả năng thấp là tầng động cơ đẩy thứ nhất khó nổ tung bởi lượng nhiêu liệu đã được đốt cháy hết.” Theo ông này,

Nhưng ông Cho Kwang Rae – lãnh đạo dự án phóng vệ tinh thuộc Viện Nghiên cứu Hàng không Bũ trụ Hàn Quốc khẳng định có vấn đề trong việc tách tầng. “Không thể loại trừ lỗi xảy ra trong quá trình tách tầng động cơ thứ nhất,” ông nói.

Một số chuyên gia khác cho rằng, trong vụ phóng Unha-2 năm 2009, tên lửa đã vào quỹ đạo vì thiếu lực đẩy cần thiết. Có thể, trong cuộc phóng 2012, Triều Tiên rút kinh nghiệm cố gắng sửa chữa sai lầm bằng việc tăng thêm nhiên liệu nhưng lại gây ra vấn đề khác.


http://nghiadx.blogspot.com
Mô phỏng tên lửa Unha-3 tách tầng động cơ thứ nhất thành công, tầng thứ hai kích hoạt.


Nằm càng gần xích đạo thì càng dễ trong việc đưa các trọng tải lên quỹ đạo bởi lực đẩy cộng hưởng thêm vận tốc quay trái đất. Thế nhưng, Triều Tiên nằm ở tọa độ 39,4 vĩ độ bắc, bệ phóng Tongchang-ri nằm ở xa xích đạo, cách khoảng 4.300km (so với khoảng 3.100km đối với sân bay vũ trụ NASA tại Florida - Mỹ), điều đó khiến vệ tinh khó khăn trong việc vươn tới độ nghiêng quỹ đạo so với các quốc gia khác.

Ngoài ra, tầm phóng của tên lửa Triều Tiên “hạn hẹp” do phải tránh đường bay có thể bay qua lãnh hải các quốc gia khác, hoặc có thể gây ra nguy hiểm cho người dân các nước đó nếu tên lửa nổ.

Một cách giải thích khác nhưng thiếu thuyết phục, có thể do tên lửa đi không đúng đường bay nên bộ phận tự hủy được kích hoạt.

Thất bại vì duy ý chí?

Một số lý giải khác cho thất bại này cho rằng Triều Tiên đã quá vội vàng thực hiện cuộc phóng để kịp cho lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh Chủ tịch Kim Il Sung.

Không rõ tại sao những người lãnh đạo cuộc phóng lại quyết định phóng vệ tinh khi màn sương sớm vẫn bao quanh bệ phóng vào sáng ngày 13/4, sớm hơn một ngày so với dự đoán các chuyên gia.

“Triều Tiên đã không có sự chuẩn bị đầy đủ ở bệ phóng Tongchang-ri (Trung tâm Sonhae), chúng tôi có cảm giác họ đã quá vội vàng. Họ có thể đã cẩu thả trong khâu kiểm tra cuối cùng, bởi thời gian không còn nhiều trước ngày sinh nhật Kim Il Sung”, quan chức chính phủ Hàn Quốc nói.


http://nghiadx.blogspot.com
Phải chăng Triều Tiên đã vội vàng, cẩu thả trong những bước kiểm tra cuối cùng?


Bước tiến hay bước lùi?

Dù lý do là gì, tên lửa tách tầng không thành công hay đã có rò rỉ động cơ…, lần phóng này đã thất bại. Và cũng như cuộc phóng vệ tinh năm 2006, 2009 mọi nguyên nhân đều được giấu kín.

Tuy vậy, lần phóng 2012 đã có một sự khác biệt nhất định, bởi đây là lần đầu tiên Triều Tiên công khai thừa nhận thất bại. Hai lần phóng trước, Triều Tiên đều tuyên bố thành công dù cả thế giới nhìn nhận kết quả trái ngược.

Tháng 4/2009, tên lửa đẩy Unha-2 đã không thể đưa vệ tinh Kwangmyongsong-2 lên quỹ đạo, nhưng tầng động cơ thứ hai và thứ ba đã tách thành công. Với Unha-3 thì ngược lại, lỗi đã xảy ra ở ngay tầng thứ nhất và nổ tung trên không.

Người ta có thể dễ dàng cho rằng đây là bước lùi lớn của Triều Tiên. Thế nhưng, một số chuyên gia Quân đội Hàn Quốc tỏ ra cảnh giác. “Rất nhiều quốc gia có nền công nghệ tiên tiến, tên lửa đã nổ tung ngay trên bệ phóng. Vì vậy, điều đó không có nghĩa công nghệ Triều Tiên bước lùi,” ông này cho biết.

“Sự thật thì công nghệ tên lửa tầm xa của Triều Tiên tụt hậu khá xa so với các nước phương Tây, nhưng dẫu sao họ đã có những bước tiến đáng kể từ năm 1988,” một chuyên gia tên lửa Hàn Quốc nói.

Tên lửa đẩy Unha-3 có chiều cao 32,01m, đường kính thân 2,41m, tổng trọng lượng 85 tấn, trọng tải 100kg.

Tên lửa kết cấu với 3 tầng động cơ: tầng thứ nhất có thời gian đốt nhiên liên 120 giây, tầng thứ 2 110 giây và tầng cuối cùng 40 giây.

>> Trung Quốc, Mỹ sẽ phát sinh xung đột nghiêm trọng?


Các lãnh đạo cấp cao Trung Quốc ngày càng xem mối quan hệ Trung-Mỹ như “một trò chơi có tổng bằng không”.



Ông Kenneth Lieberthal, Giám đốc phụ trách nghiên cứu Trung Quốc của Trung tâm John L. Thornton tại Brookings, cựu thành viên của Hội đồng An ninh Quốc gia dưới thời Tổng thống Bill Clinton cho biết, khi thảo luận về mối quan hệ với Mỹ một cách trực tiếp hay gián tiếp, thì các quan chức Trung Quốc về cơ bản đều thông qua một “tư duy số không”.



http://nghiadx.blogspot.com
Khó có giải pháp trong quan hệ Trung-Mỹ?


Một chuyên gia phân tích những ảnh hưởng của Trung Quốc cho biết, các lãnh đạo cấp cao Trung Quốc ngày càng xem mối quan hệ Trung-Mỹ như “một trò chơi có tổng bằng không”.

Tức là, nếu kinh tế và chính trị Mỹ tiếp tục trượt dốc thì Trung Quốc lại càng ở thế thượng phong trong một thời gian dài.

Mới đây, Viện Brookings tại Washington và Viện nghiên cứu chiến lược quốc tế Đại học Bắc Kinh đưa ra một báo cáo mang tên “Đối phó với sự nghi ngờ chiến lược lẫn nhau giữa Mỹ và Trung Quốc”.

Theo báo cáo này, nhà phân tích chiến lược, chuyên gia cố vấn của Bộ Ngoại giao Trung Quốc, ông Vương Tập Ân cho rằng, Trung Quốc coi Mỹ là một quốc gia đang trong quá trình suy giảm trầm trọng.

Nhưng đồng thời nhấn mạnh, Washington đã cố gắng để trở lại, thậm chí đang cố làm suy yếu sự trỗi dậy về quân sự và kinh tế Trung Quốc, với mục đích cuối cùng là ngăn cẳn Trung Quốc đã trở thành quốc gia mạnh nhất trên thế giới.

Tuy nhiên, cả hai chuyên gia Kenneth Lieberthal và Vương Tập Ân đều nhận định rằng, mối quan hệ giữa Mỹ và Trung Quốc đang ngày càng này sinh những mối nghi ngời lẫn nhau.

Nếu không có những bước tiến tích cực trong thời gian tới, quan hệ hai nước có thể sẽ biến thành một cuộc đối đầu quân sự trong tương lai.

Ông Vương đã đưa ra một giải pháp trong mối quan hệ này tới các nhà lãnh đạo Trung Quốc là, Mỹ không còn là một cường quốc đáng sợ và đáng tin cậy như trước nữa.

Ngược lại, với việc phát triển mạnh trong lĩnh vực quân sự và kinh tế,Trung Quốc ngày càng tự tin hơn trong vai trò là một nước lớn.

http://nghiadx.blogspot.com
Trung, Mỹ sẽ phát sinh xung đột?


Đặc biệt là kể từ khi bắt đầu cuộc chiến tranh ở Iraq, khoảng cách giữa hai nước đã bị thu hẹp đáng kể.Năm 2003, GDP của Mỹ gấp 8 lần Trung Quốc, nhưng đến nay chỉ còn có 3 lần.

Ông Vương nhấn mạnh, thời kỳ của Trung Quốc đã đến, giờ đây, Mỹ đã thuộc về “một mặt trái của lịch sử”.

Các nhà lãnh đạo Trung Quốc đang ngày càng tin rằng về lâu dài, Trung Quốc sẽ giành chiến thắng trong cuộc chạy đua với Mỹ. Ở một mức độ nhất định, chuyên gia Lieberthal của Mỹ cũng xác nhận điều này.

Cách đây không lâu, tại một hộ thảo đươc tổ chức tại Đại học Thanh Hoa, Trung Quốc, ông Lieberthal cho biết, hai bên ngày càng nhìn nhận theo một khung hướng đó là, quan hệ hai nước có thể trở thành một cuộc đối đầu quân sự sau 15 năm nữa.

Điều này có nghĩa rằng hai nước sẽ tăng đáng kể chi tiêu quân sự để tiến hành ngăn chặn lẫn nhau.

“Trường hợp xấu nhất là hai bên có thể gây ra xung đột vũ trang thực sự, song cuộc đối đầu đó sẽ không mang lại nhiều kết quả.

Đây chỉ là hệ quả của việc hai bên không tiếp tục kiềm chế và muốn loại bỏ lẫn nhau”. Ông Lieberthal nhấn mạnh.

>> Khu trục hạm DDG-116 được tăng sức mạnh bằng tên lửa Mk41


BAE Systems đã nhận được 1 hợp đồng trị giá 22,9 triệu đôla để hiện đại hóa hệ thống phóng tên lửa thẳng đứng cho tàu khu trục DDG-116 của hải quân Mỹ.


http://nghiadx.blogspot.com


MarketWatch (The Wall Street Journal) hôm 16 tháng 4 cho hay, công ty BAE Systems của Anh đã nhận được 1 hợp đồng trị giá 22,9 triệu đôla để hiện đại hóa hệ thống phóng tên lửa thẳng đứng cho tàu khu trục DDG-116 Arleigh Byrke của Hải quân Mỹ và xây dựng thêm các tổ hợp tên lửa phòng thủ AEGIS Ashore (AEGIS trên bờ).

"Chúng tôi rất vui khi được tiếp tục hỗ trợ Hải quân Hoa Kỳ cung cấp hệ thống phóng theo phương thẳng đứng Mk41 cho lớp tàu khu trục DDG-51.

Việc cung cấp đầy đủ hệ thống Mk41 sẽ giúp Hải quân Mỹ thực hiện tốt các nhiệm vụ mở rộng," - Ông Mark Signorelli, phó chủ tịch kiêm giám đốc kinh doanh hệ thống vũ khí của BAE Systems nói.

Tháng 6 năm 2011, BAE Systems hoàn thành hợp đồng cung cấp các thành phần cơ khí của thiết bị phóng. Đây là một phần trong hợp đồng cung cấp hệ thống phòng thủ bờ biển AEGIS Ashore, thành tố cấu thành nên hệ thống phòng thủ tên lửa châu Âu.

AEGIS Ashore được phát triển dựa trên hệ thống Aegis trên tàu chiến và được trang bị hệ thống phóng thẳng đứng Mk41với tên lửa đánh chặn SM-3.

http://nghiadx.blogspot.com


Hợp đồng này sẽ được thực hiện bởi một số bộ phận của BAE và các nhà thầu phụ ở Aiken (South Carolina), Farmingdale (New York), Fort Totten (North Dakota), Louisville (Kentucky), Minneapolis (Minnesota), Aberdeen (South Dakota) và York (Pensilvanya).

Phần lớn công việc sẽ được thực hiện trong năm 2013-2015.

BAE Systems và Lockheed Martin sẽ làm việc với nhau để sản xuất hệ thống phóng tên lửa Mk41 cho các tàu chiến mặt nước hiện có và tương lai.

Trước khi đặt bút kỹ vào hợp động cung cấp các hrrj thống Mk41 cho Hải quân mỹ, BAE đã có hơn 30 năm kinh nghiệm trong sản xuất, thiết kế và bảo trì các hệ thống phóng tên lửa thẳng đứng cho Hải quân các nước trên toàn thế giới.


http://nghiadx.blogspot.com

Khu trục hạm DDG-116 của Hải quân Mỹ

DDG-116 sẽ là con tàu thứ 66 của dự án Arleigh Burke. Đầu tiên Hải quân Mỹ có kế hoạch hạn chế số lượng tàu khu trục lớp này là 62 chiếc.

Năm 2008 đã thông qua quyết định tăng chương trình đóng mới tầu khu trục thuộc dự án Arleigh Burke lên 75 chiếc.

Tàu khu trục mới nhất lớp Arleigh Burke số hiệu DDG- 111 Spruens đã được biên chế vào Hải quân Mỹ ngày 1/10/2011.

Copyright 2012 Tin Tức Quân Sự - Blog tin tức Quân Sự Việt Nam
 
Lên đầu trang
Xuống cuối trang