Tình báo Israel là lực lượng có tuổi đời non trẻ so với các bậc đàn anh ở Anh, Liên Xô, Pháp... nhưng tiến bộ rất nhanh và được coi là ngành tình báo thuộc loại hiệu quả nhất thế giới.
Ngành tình Israel báo thuộc loại hiệu quả nhất thế giới Chính nhờ hoạt động có tính nhà nghề cao của tình báo mà quân đội Israel luôn có khả năng sẵn sàng chiến đấu cao và là một trong những yếu tố then chốt giúp Israel luôn giành được thắng lợi trong các cuộc chiến tranh với các nước Arập kể từ năm 1948 khi nhà nước Do Thái ra đời. Hiện nay, đối tượng chủ yếu của tình báo Israel là chủ nghĩa khủng bố. Dưới đây xin khái quát vài nét về cộng đồng tình báo Israel. VARASH - Đây là chữ viết tắt của cụm từ “Vaadat rashet ha-Sherutim” trong tiếng Do Thái nghĩa là “Uỷ ban các chỉ huy tình báo”. VARASH về bản chất là cơ quan điều phối duy nhất của các cơ quan tình báo Israel, còn những người đứng đầu các cơ quan này là thành viên thường trực của Uỷ ban. Nhiệm vụ chủ yếu của Uỷ ban kể từ khi được thành lập vào năm 1949 là bảo đảm hiệu quả cho các chiến dịch của các cơ quan tình báo, khống chế, khoanh vùng sai sót, đổ vỡ và loại trừ, khắc phục những hậu quả tiêu cực khi xảy ra những sai sót, đổ vỡ. Nghị trình và thời gian các phiên họp của VARASH cho đến nay vẫn được giữ tuyệt đối bí mật. Theo truyền thống, Giám đốc Mossad đồng thời là Chủ tịch Uỷ ban. 1. MOSSAD - “Ha-Mossad le teum” - Viện Điều phối Trung ương Đây là tên chính thức của cơ quan tình báo quan trọng nhất, nổi tiếng nhất của nhà nước Do Thái, đồng thời cũng là cơ quan “trẻ tuổi” nhất so với các cơ quan còn lại vì nó được thành lập vào tháng 4/1951. Bởi vậy, mỗi khi nói về các “hiệp sĩ áo choàng và dao găm” của Israel thì trước tiên người ta nghĩ ngay đến các chiến dịch của Mossad mà gần như không bao giờ nhắc đến các cơ quan tình báo khác của nhà nước Do Thái mặc dù xét về số lượng cơ quan tình báo, Israel chỉ đứng thứ hai thế giới sau nước Mỹ. Tên đầy đủ của nó là Mossad Merkazi Le-modiin U-letafkidim Meyuhadim, tiếng Do Thái nghĩa là: “Viện Tình báo và An ninh Trung ương”. Mossad là một trong 5 cơ quan tình báo chủ chốt của Israel, đảm trách tình báo đối ngoại và các chiến dịch chính trị, bán quân sự ngầm ở nước ngoài, bao gồm cả ám sát những người Palestine bị cho là khủng bố và các đối tượng khác. Chỉ huy Mossad báo cáo trực tiếp cho Thủ tướng Israel. Giám đốc đầu tiên của Mossad là cán bộ tình báo chuyên nghiệp Reuven Shiloy. Chính ông là tác giả của chiến lược hành động của Mossad, theo đó, do quân số cán bộ tình báo biên chế ít nên Mossad chủ yếu dựa vào việc sử dụng cộng đồng người Do Thái ở nước ngoài. Mạng lưới của những người gọi là Sayanim (trợ thủ) được hình thành từ những người chủng tộc Do Thái, một mặt họ trung thành vô điều kiện với nước trú ngụ, đồng thời cũng có sự hậu thuẫn, giúp đỡ nhất định cho lực lượng điệp viên bất hợp pháp của Mossad. Liên quan đến các cán bộ tình báo trong biên chế thì người ta tập trung tuyển chọn họ trước hết trong số những người Israel đã hết hạn phục vụ trong quân đội, ưu tiên người có trình độ đại học. Nhưng việc tuyển chọn không chỉ dựa vào điều này, người ta còn nghiên cứu lai lịch xuất thân, các phẩm chất cá nhân, cá tính của các ứng viên. Sau đó, họ trải qua một giai đoạn thử thách. Những người vượt qua giai đoạn này được nhận vào Học viện Midhrash của Mossad. Các học viên ngay từ đầu được đặt bí danh và có câu chuyện nguỵ trang riêng mà họ phải tuân thủ trong quá trình học tập. Chương trình của Midhrash có mục đích đào tạo lực lượng điệp viên nhà nghề trình độ cao có khả năng hoạt động hiệu quả ở bất kỳ khu vực nào trên thế giới, trong những tình huống gay go, ác liệt nhất để tiến hành những chiến dịch đôi khi tưởng chừng như không tưởng. Một trong những chiến dịch đó là việc chuyển 21 tấn nước nặng từ Nauy thực hiện theo chỉ thị của vị giám đốc thứ hai, nhưng có lẽ là lỗi lạc nhất của Mossad là Isser Harel. Ông được bổ nhiệm giữ chức vụ này vào năm 1952 và trong 11 năm dưới quyền lãnh đạo của ông, Mossad đã thực hiện được không ít những điệp vụ chấn động. Mossad duy trì một số lượng lớn điệp viên mật ở các nước Arập và các nước khác, các nhân viên hoạt động của Mossad đã tiến hành các chiến dịch ngầm chống các kẻ thù của Israel và các cựu tội phạm chiến tranh quốc xã sống ở nước ngoài. Điệp vụ nổi tiếng nhất và do Isser Harel đích thân chỉ huy là vụ bắt cóc tên tội phạm chiến tranh Đức quốc xã Adolf Eichmann tại Argentina năm 1960 và đưa ra toà xét xử ở Israel về tội ác chiến tranh. Isser Harel cũng đã tiến hành chiến dịch “đánh vào” Ai Cập và Syria 3 tình báo viên: Ben Jair, Leon Tomas và Elia Cohen. Những người này đã thu thập được các kế hoạch tác chiến của người Arập, các sơ đồ và ảnh chụp nhiều mục tiêu chiến lược. Và tuy Elia Cohen và Leon Tomas cuối cùng cũng bị lộ và bị tử hình nhưng hoạt động của họ đã thể hiện tích cực ở kết quả tác chiến của quân đội Israel trong cuộc chiến 6 ngày năm vào tháng 6/1967. Người kế nhiệm Isser Harel vào năm 1963 là Thiếu tướng Meyr Amit, người đã tiến hành hàng loại cải cách cơ bản trong cơ cấu và chiến lược hoạt động của Mossad. Chính dưới thời ông, Học viện Midhrash và phòng máy tính được thành lập, biên chế của tổ chức lên tới 1.000 nhân viên và hoạt động của họ đã bảo đảm cho thắng lợi của các lực lượng vũ trang Israel. Ví dụ, họ đã tổ chức cướp những chiếc máy bay tiên tiến nhất của Liên Xô có trong trang bị của không quân các nước Arập. Năm 1964, điệp viên của Mossad đã tuyển mộ được viên đại uý không quân Ai Cập Abbas Khilmy để anh ta lái chiếc Yak-T bay sang Israel. Mùa hè năm 1966, viên sĩ quan Iraq Mounir Redfa đã cho chiếc MiG-21 của mình hạ cánh xuống một sân bay trong sa mạc Negev, Israel. Viên thiếu tá Ai Cập Bassam Alel lái chiếc MiG-23 cũng đã làm như thế. Trọng trách triển khai cuộc đấu tranh chống khủng bố Palestine, mà trước hết là với tổ chức “Tháng chín đen”, các phần tử vũ trang của tổ chức này đã giết hại các vận động viên Israel trong thời gian Thế vận hội Olympic 1972 ở Munich, Đức, được giao cho vị giám đốc thứ tư của Mossad - Thiếu tướng Zvi Zamir. Nhóm sát thủ Mitzwa Elohim (Cơn lôi đình của thần thánh) được thành lập theo lệnh của Thủ tướng Golda Meyer đã truy lùng và ám sát 11 tên tổ chức cuộc tàn sát ở Munich năm 1972, kể cả thủ lĩnh “Tháng chín đen” Hassan Salameh cũng đã bị giết chết. Năm 1976, các điệp viên Mossad đã giải cứu các con tin là các hành khách một máy bay hành khách Israel bị bắt cóc và bị giam giữ tại sân bay Entebbe, Uganda. Mossad còn dính líu đến một số vụ ám sát các thủ lĩnh Palestine ở châu Âu, Trung Đông và Bắc Phi. Đồng thời, Mossad cũng mắc không ít sai sót nghiêm trọng, trong đó lớn nhất là việc Giám đốc Mossad Zvi Zamir vào mùa thu năm 1973 đã không thể thuyết phục được ban lãnh đạo Israel tin rằng, quân đội Ai Cập và Syria đang sẵn sàng tấn công nhà nước Do Thái, nhất là khi đã có trong tay những tin tức không thể bác bỏ. Zvi Zamir đã biết chính xác đến cả ngày tháng và thời gian bắt đầu cuộc tấn công của người Arập, nhưng người ta đã không tin các báo cáo của Giám đốc Mossad. Năm 1974, Zvi Zamir được thay thế bằng Thiếu tướng Yitzhak Hofi. Chính dưới thời ông này, các cán bộ hoạt động của Mossad đã bảo đảm cho thắng lợi của chiến dịch có một không hai giải thoát những con tin của chiếc máy bay hành khách Pháp bị bọn khủng bố ở cách xa Israel 2.500 km - tại sân bay thủ đô Uganda. Một việc làm còn quan trọng hơn của Mossad có lẽ là việc tham gia phá hoại chương trình hạt nhân của Saddam Hussein. Ngày 5/4/1979, tại một kho ở Pháp, các nhân viên Mossad đã nổ phá 2 tổ máy năng lượng đã sẵn sàng gửi sang Iraq cho lò phản ứng hạt nhân đang được xây dựng ở đó. Tháng 7/1981, dựa trên tin tức tình báo của Mossad, các phi công Israel đã tiến hành thành công chiến dịch Sphinx, phá huỷ lò phản ứng Osirak của Iraq. Tuy nhiên, vấn đề chủ yếu đối với Mossad đã và vẫn là chủ nghĩa khủng bố Palestine mà tình trạng thắng bại luôn giằng co kéo dài. Một trong những thất bại là việc điệp viên Amina al-Moufti của Israel đã hoạt động trót lọt trong ban lãnh đạo tổ chức PLO gần 3 năm bị phát giác ở Beirut. Tháng 6/1982, tại thủ đô Li-băng, một người Palestine bắn chết tướng Cotiel Adam, người sắp thay Yitzak Hofi làm giám đốc Mossad. Do đó, cán bộ tình báo chuyên nghiệp Naum Admoni đã trở thành giám đốc Mossad. Trong số các chiến dịch thành công trong 7 năm Naum Admoni lãnh đạo Mossad có vụ gây nổ chiếc phà Palestine Al Avaz mà người Palestine định sử dụng để đổ bộ quân xuống Gaza, thủ tiêu đại tá PLO Mohammed Tamami, ám sát Abu Jihad, vị phó của Yasir Arafat chuyên trách các chiến dịch khủng bố ngay trong ngôi nhà của ông ta ở Tunis, giết nhà sáng chế Canada Gerald Bull, người đã thiết kế khẩu pháo tầm siêu xa cho Saddam Hussein... Đồng thời, họ cũng vấp phải những thất bại rất đau đớn. Vụ mưu sát bất thành thủ lĩnh HAMAS Khaled Mashaal ở Jordanie vào năm 1997 đã dẫn đến những hậu quả nặng nề. Kết quả là Israel đã buộc phải thả tự do vị giáo sĩ Palestine Ahmed Yassin và 70 người ủng hộ ông ra khỏi nhà tù. Tháng 2/1998, cảnh sát Thuỵ Sĩ đã bắt giữ 5 điệp viên Mossad trong khi đang mưu toan máy nghe trộm tại cơ quan đại diện Iran. Trong 2 năm cuối thế kỷ ХХ, ở Li-băng, đã bắt giữ và xét xử hơn 100 điệp viên người Arập địa phương của Mossad. 2. AMAN Cơ quan tình báo quân sự (TBQS) Aman là cơ quan tình báo lâu đời nhất của Israel, ra đời từ năm 1934 để ngăn chặn những cuộc tiến công liên tục của người Arập địa phương vào các làng Do Thái. Sau khi thành lập nhà nước Israel, TBQS được mang tên Sherut modiin và do Isser Beeri, sau đó là Haim Hertzog lãnh đạo. Haim Hertzog đã cải cách cơ quan này và trong một thời gian ngắn đã biến nó thành một cơ quan tình báo thực thụ có các trung tâm tình báo bình phong công khai ở nhiều nước châu Âu. Tháng 12/1953, cơ quan TBQS Israel đã được đổi tên thành AMAN (chữ viết tắt của Agaf modiin) và trở thành một cục của Bộ Tổng tham mưu. Trực thuộc cơ quan này có trinh sát bộ đội và tình báo lục quân. Đại tá Benjamin Jibly được bổ nhiệm làm Cục trưởng AMAN. Ông chủ yếu tập trung chú ý vào Ai Cập vì nước này rõ ràng đang chuẩn bị chiến tranh với Israel. AMAN gặp nhiều khó khăn trong việc thực hiện nhiệm vụ này bởi vì lực lượng điệp viên trước đây của AMAN ở Ai Cập chủ yếu là người Do Thái mà người Do Thái thì đang ồ ạt rời khỏi nước này. Jibly quyết định triển khai trên nước láng giềng phía Tây một lưới điệp báo-phá hoại mới. Chiến dịch Susanna bắt đầu vào tháng 5/1951 khi tình báo viên chuyên nghiệp Avraham Dar tới Cai-rô và ông đã xây 2 nhóm điệp báo gồm những thanh niên Do Thái. Nhưng không lâu sau, Dar đã bị một cán bộ điệp báo bất hợp pháp khác là Thiếu tá Meyer Bennet thay thế. Cuối năm 1953, ông này cũng bị gọi về và Đại uý Avri El-Ad được phái đến Cai-rô. Sự thay đổi xoành xoạch như thế và những sai sót của các nhân viên phá hoại đã làm cho chiến dịch Susanna thất bại hoàn toàn. Bản thân tổ trưởng điệp báo và toàn bộ các điệp viên đều đã bị phản gián Ai Cập tóm gọn và khi bị tra tấn đã khai ra chi tiết hoạt động của mình. Vụ đổ vỡ này đã gây thiệt hại to lớn cho Israel cả về quan hệ với các nước Arập, lẫn ở Tây Âu. Cả cục trưởng AMAN lẫn bộ trưởng quốc phòng đều bị mất chức. Tướng Jegoshafat Harkabi lên đứng đầu AMAN. Dưới quyền ông, TBQS Israel hoạt động thành công hơn, chẳng hạn đã bảo đảm hiệu quả cho cuộc hành quân đường trường chớp nhoáng của quân đội Israel qua bán đảo Sinai vào mùa thu năm 1956. Các điệp viên AMAN đã thực hiện hàng loạt vụ phá hoại tiêu diệt hàng loạt yếu nhân trong bộ chỉ huy quân sự Ai Cập. Năm 1959, Haim Hertzog lại lên cầm đầu TBQS, ông đã soạn thảo và thực hiện một kế hoạch quy mô triển khai mạng lưới điệp báo. Một trong những chiến dịch nổi tiếng nhất và hiệu quả nhất là việc cài điệp viên Wolfgang Lotz vào giới thượng lưu Cai-rô vào năm 1960. Lotz đã mở các quan hệ trong giới tướng lĩnh, trở thành nhân vật tin cậy, thân tín trong giới quan chức Ai Cập. Điều đó đã cho phép ông ta thu thập tin tức về biên chế và trang bị, về các kế hoạch tác chiến, tình hình bố trí các căn cứ không quân của quân đội Ai Cập và nhiều tin mật quan trọng khác. Mặc dù bị bắt vào năm 1965 nhưng những tài liệu, tin tức mà Lotz cung cấp đã đóng vai trò không nhỏ trong cuộc chiến 6 ngày. Trước cuộc chiến tranh này, Thiếu tướng Aaron Jarev được cử làm Cục trưởng TBQS và ông cũng đặc biệt chú trọng nhiệm vụ thu thập tin điệp báo về lực lượng vũ trang Ai Cập, Syria, Jordanie và Li-băng. Kết quả là đến năm 1967, AMAN đã có trong tay những thông tin chân tơ kẽ tóc về quân đội các nước này, đã cung cấp được cho Bộ Tổng tham mưu quân đội Israel những danh sách mục tiêu chi tiết trên lãnh thổ các nước này và dự báo được những vấn đề chính có thể nảy sinh trong quá trình chiến sự. Tuy vậy, các nhà lãnh đạo Ai Cập và Syria không cam tâm thất bại và nhờ sự giúp đỡ của Liên Xô họ đã ráo riết chuẩn bị báo thù. Bộ chỉ huy AMAN cũng đã nắm được tin này, song lại nghĩ rằng, người Arập sẽ không dám khai diễn cuộc chiến mới vì biết là một thất bại mới đang chờ đón họ. Ủng hộ quan điểm đó có cả Thiếu tướng Eliahu Zeira, Cục trưởng AMAN từ tháng 11/1972. Bất chấp vô số báo cáo tin tình báo của các điệp viên, không ảnh do thám và tin chặn thu kỹ thuật, Zeira đã thuyết phục được ban lãnh đạo quốc gia và Thủ tướng Golda Meyer tin rằng, Israel không bị đe doạ bởi một cuộc tấn công bất ngờ. Sự trả giá cho sự tự tin đó bắt đầu vào thứ bảy, ngày 6/10/1973... Dĩ nhiên, sau đó là sự trừng phạt, nhiều người ở AMAN, kể cả Zeira đã mất chức. Trong thập niên 1970, khi một thứ thể chế nhà nước Palestine xuất hiện ở Nam Li-băng, tình báo quân sự Israel do Tướng Shlom Gazit đứng đầu đã xác định được rất chính xác lực lượng và các kế hoạch hành động của lực lượng cực đoan. Tướng Yeoshua Sagui thay thế Tướng Gazit vào năm 1979 về cơ bản đã tổ chức hoạt động một cách đúng đắn cho các nhân viên của mình và các điệp viên trong hàng ngũ PLO nên trong thời kỳ gay cấn năm 1982, khi quân Israel tiến vào Li-băng, họ đã có đầy đủ thông tin về đối phương - không chỉ về người Palestine mà cả về các đội quân Syria trên lãnh thổ Li-băng. Trong 12 năm gần đây sau khi các thoả thuận Oslo dự định thành lập Nhà nước Palestine được ký kết, tình hình ở Israel đã thay đổi đột biến và cuộc đấu tranh với khủng bố Arập đã cuốn hút những lực lượng và phương tiện chủ yếu của TBQS Israel. Tuy vậy, chất lượng và số lượng tin tình báo về các đối thủ tiềm tàng của Israel không suy giảm, thậm chí còn hơi tăng nhờ việc tích cực áp dụng các phương tiện kỹ thuật. Trong số các phương tiện đó có mạng lưới các trạm quan sát ở cao nguyên Golan được trang bị các khí tài quang-điện tử tiên tiến nhất. Một giai đoạn mới trên hướng này việc phóng các vệ tinh do thám Ofeq bằng tên lửa đẩy vũ trụ. Hiện nay, AMAN là cơ quan tình báo hàng đầu của nhà nước Do Thái (Cục trưởng từ năm 2003 là Thiếu tướng Aaron Zeavi-Farkash) và đã đẩy Mossad xuống vị trí thứ hai. Quân số nhân viên TBQS Israel hiện là gần 7.000 người. Một số nhà quan sát coi Aman là đối thủ kình địch của Mossad và đã có tin về những xung đột giữa 2 cơ quan này. Chỉ huy Aman là cố vấn tình báo quân sự của bộ trưởng quốc phòng. 3. SHIN BET Tổng cục An ninh Chung Shin Bet phụ trách phản gián nội địa, tập trung vào các hoạt động phá hoại tiềm tàng, khủng bố và các vấn đề an ninh có tính chất chính trị cao. Shin Bet được chia thành 3 cục phụ trách các vấn đề Arập, các vấn đề phi Arập và bảo vệ an ninh (bảo vệ các sứ quán Israel, hạ tầng quốc phòng và hãng hàng không quốc gia El Al). Trong những năm 1980, thanh danh của Shin Bet bị hoen ố khi các điệp viên Shin Bet bị phát hiện đã đánh đến chết 2 người Palestine bị bắt do tham gia vụ bắt cóc 1 xe buýt. Trong thập kỷ 1990, Shin Bet bị công luận quốc tế theo dõi chặt chẽ vì họ sử dụng tra tấn đối với các tù nhân Palestine và vai trò của nó trong các vụ ám sát những người được cho là phần tử vũ trang Palestine. Shin Bet cũng bị chỉ trích do thất bại trong việc bảo vệ Thủ tướng Yitzhak Rabin vào tháng 11/1995. Sau vụ tai tiếng này, chỉ huy Shin Bet đã buộc phải từ chức. 4. CÁC đơn vị trinh sát/biệt kích Trước năm 1974, nhiệm vụ thủ tiêu những phần tử khủng bố do các nhóm lính tinh thuệ của các lữ dù do Mossad chỉ huy và các điệp viên của Mossad thực hiện. Nhưng sau chiến dịch chống bọn tội phạm đánh chiếm một trường học làm thiệt mạng cả bọn khủng bố và nhiều con tin, trong đó có 21 trẻ em, Israel đã quyết định thành lập các đơn vị đặc nhiệm chống khủng bố chuyên trách. Ngay từ đầu, các đơn vị này trực thuộc trực tiếp và hoạt động chủ yếu theo chỉ đạo của Tổng tham mưu trưởng quân đội Israel.Đơn vị đầu tiên là nhóm chiến đấu Yamam. Sau đó, bổ sung cho nhóm này còn có 6 toán đặc biệt nữa. Tất cả các đơn vị này đều đóng tại trường chống khủng bố ở căn cứ quân sự Matkal Adam và qua khoá huấn luyện cường độ cao. Một năm sau, lính đặc nhiệm đã thể hiện tính nhà nghề cao trên thực tiễn. Cộng thêm là các phương pháp hành động được chuẩn bị tuyệt vời cho trường hợp đánh bắt, tiêu diệt bọn cực đoan và giai thoát con tin. Hiện nay, có 3 đơn vị đặc nhiệm chính: Yamam, Sayeret Matkal và S-13. Yamam chủ yếu chịu trách nhiệm tiến hành các chiến dịch trên lãnh thổ Israel, Sayeret Matkal phụ trách địa bàn ngoài nước, còn S-13 trên biển (ven bờ biển Israel cũng như ngoài hải phận nước này). Các đơn vị đặc nhiệm được chia theo khu vực tương ứng với các quân khu: miền Bắc, miền Trung và miền Nam. Ở quân khu miền Bắc có 2 đơn vị, quân khu miền Trung có 3 đơn vị, quân khu miền Nam có 4 đơn vị. Nếu chiến dịch được tiến hành ở ngoài nước, thì người ta chọn đơn vị nào phù hợp nhất với nhiệm vụ đặt ra bất kể khu vực trách nhiệm. Được ưu tiên đặc biệt là đơn vị 7149 (tiểu đoàn Kalbia) đóng tại căn cứ không quân Sirkin. Vũ khí của đơn vị này là chó huấn luyện đặc biệt (gần 120 con). Số chó này được chia thành 4 đại đội: tìm-cứu, truy tìm, dò mìn và chiến đấu. Cần lưu ý rằng, gần như tất cả các đơn vị đặc nhiệm Israel đều nằm trong biên chế quân đội bởi vậy binh sĩ đều là lính nghĩa vụ (công dân Israel có nghĩa vụ quân sự 3 năm). Trường hợp ngoại lệ là đơn vị Yamam với nhân viên gồm hoàn toàn là binh sĩ chuyên nghiệp. Thuộc về lực lượng đặc nhiệm còn có đơn vị siêu mật Metzada chuyên tuyển mộ và phái điệp viên vào các quốc gia Arập. Các binh sĩ đơn vị này được tuyển chọn hoàn toàn từ người Do Thái đến Israel từ xứ Maghrib của người Arập. Họ rất giỏi ngôn ngữ của những nước mà họ đã từng sinh sống trước khi di cư về Israel và am hiểu về văn hoá Arập, tâm tính của những nơi cư ngụ trước kia bởi vậy họ không có gì khác biệt với những người bản xứ. Một trong những đơn vị đặc nhiệm hiệu quả nhất là Mistaravim (“trở thành người Arập”) được thành lập năm 1987. Đơn vị này được biên chế không chỉ những người xuất thân từ các nước Arập mà cả người Do Thái châu Âu. Mistaravim hoạt động trên lãnh thổ nhà nước Palestine với nhiệm vụ truy tìm và tiêu diệt những người bị cho là khủng bố. 5. NATIV NATIV, tên viết tắt của “Văn phòng liên lạc với người Do Thái”, được thành lập năm 1951 với nhiệm vụ kêu gọi người Do Thái di cư ồ ạt từ các nước thuộc khối XHCN. Từ những ngày đầu tiên, NATIV đã là một trong những cơ quan bí mật nhất trong cộng đồng tình báo Israel, chẳng hạn ở Tel Aviv chỉ có 6 người biết về sự tồn tại của nó. Trụ sở của NATIV đặt tại thôn Saron, không xa Tel Aviv, biên chế nhân viên không bao giờ vượt quá 200 người. Tuy quân số ít, nhưng bù lại nhân viên của Nativ có tính nhà nghề cực kỳ cao và được tuyển chọn rất khắt khe. Họ phải là những người trẻ, cực kỳ khoẻ mạnh về thể chất, bắt buộc đã phải có gia đình để tránh các vấn đề tình dục. Tất cả các nhân viên NATIV đều rất giỏi tiếng Nga và ít nhất một thứ tiếng Đông Âu nữa. Họ phải nắm vững kiến thức căn bản của đạo Do thái và những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Zion. Tất cả những phẩm chất của họ đều phục vụ cho nhiệm vụ thúc đẩy người Do Thái di cư về Israel. Tuy vậy, việc thu thập tin tức chính trị, kinh tế và kỹ thuật quân sự ở những nước mà nhân viên NATIV hoạt động cũng không kém phần quan trọng. Thông thường, họ hoạt động dưới bình phong nhân viên các phái bộ ngoại giao, nhưng hoàn toàn ẩn danh và độc lập với các đại sứ. Sau khi Liên Xô sụp đổ, hoạt động của NATIV được đẩy mạnh và hiện đang được tiến hành hầu như ở tất cả các nước SNG, đồng thời vai trò của nó như một cơ quan tình báo tăng mạnh. Việc thu thập tin tức được thực hiện bằng các phương pháp mà các cơ quan tình báo Israel khác không sử dụng. Chẳng hạn, NATIV không tuyển điệp viên, không áp dụng hình thức hoạt động mật mà chủ yếu sử dụng các liên hệ công khai hợp pháp. Một ví dụ là phương pháp “đọc báo/nghe đài” khi mà những nhân viên hợp pháp của NATIV thu thập từ các nguồn công khai những tin tức mà họ quan tâm và gửi về cho cán bộ chỉ đạo họ. Phương pháp này cực kỳ ít tốn kém và chỉ tốn không quá 15.000 USD/năm. Nhưng vào cuối thế kỷ ХХ đã diễn ra một loạt những vụ tai tiếng do các tổ trưởng địa bàn của NATIV thiếu thận trọng đã bắt đầu chỉ đạo nhân viên dưới quyền thu thập tin tức quân sự và lập tức bị các cơ quan an ninh Nga và các nước SNG khác phát hiện. Tuy nhiên, NATIV cho đến nay vẫn tiếp tục tồn tại và vẫn là một trong những nguồn cung cấp thông tin chính từ lãnh thổ Liên Xô trước đây. 6. LEKEM Văn phòng Quan hệ Khoa học LEKEM là cơ quan tình báo nhỏ và bí mật, tuyển điệp viên ở các nước phương Tây cho đến khi bị giải tán vào năm 1986 sau khi Jonathan Pollard, một nhà phân tích của tình báo Hải quân Mỹ, người đã bán những tài liệu tình báo tuyệt mật của Mỹ cho Israel, bị bắt. (Ngay sau khi Pollard bị bắt, Israel đã xin lỗi chính phủ Mỹ và khẳng định, những tiếp xúc với Pollard đã chưa được các quan chức tình báo cao cấp Israel cho phép). Sự ra đời của cơ quan tình báo siêu mật này vào năm 1957 có liên hệ trực tiếp với chương trình chế tạo vũ khí hạt nhân của Israel. LEKEM là từ viết tắt của Lishka le kishrei mada trong tiếng Do Thái nghĩa là “Văn phòng Quan hệ Khoa học” chuyên trách tình báo KHKT. Chỉ huy đầu tiên của cơ quan LEKEM, nhà tình báo dày dạn kinh nghiệm Benjamin Blumberg trước hết đã soạn thảo một kế hoạch tung tin giả toàn cầu nhằm che giấu việc xây dựng cơ sở nguyên tử Kamag ở gần khu dân cư Dimona trong sa mạc Negev. Sau đó, LEKEM tiến hành tìm kiếm ở nước ngoài uranium được làm giàu, các nhân viên của cơ quan này triển khai một cuộc săn tìm thực sự các vật liệu liên quan đến lĩnh vực hạt nhân trên khắp hành tinh và rất thành công. LEKEM đã bí mật đưa được khỏi Mỹ hơn 100 cryotron có thể dùng làm ngòi nổ cho bom đạt hạt nhân. Tháng 11/1968, các nhân viên LEKEM cùng với Mossad đã tiến hành chiến dịch Plumbat, đưa một cách bất hợp pháp 200 tấn oxit uranium Israel. Nói một cách ngắn gọn là LEKEM đã có công lao không nhỏ trong việc chế tạo quả bom nguyên tử của Israel (năm 1969). Nhưng các đầu đạn hạt nhân cần phải có phương tiện mang phóng và LEKEM cũng đã phải đảm nhiệm việc này. Kết quả là các công trình sư Israel đã nhận được những thông tin cặn kẽ và tài liệu, cũng như một số tên lửa DM-660 của Pháp. Chỉ vài năm sau, Israel đã thử nghiệm các tên lửa đất-đối-đất Luz và Jericho. Đỉnh cao sáng tạo và táo bạo của các nhân viên LEKEM là việc đánh cướp 5 tàu tên lửa lớp Jaguar từ cảng Cherbour ngay trước lễ Giáng sinh năm 1969 trong chiến dịch “Con thuyền Nô-ê” do Mordechai Limon chỉ huy. Một chiến dịch thành công khác liên quan đến nhiệm vụ bảo đảm phụ tùng cho các máy bay tiêm kích Mirage của Israel. Vấn đề đã được giải quyết bằng việc tuyển mộ được kỹ sư Thuỵ Sĩ Fraunknecht và điệp viên này đã lấy được hết cả bộ bản vẽ của chiếc máy bay Pháp. Những thành công này đã nâng cao đáng kể uy tín của Benjamin Blumberg. Tuy nhiên, năm 1981, ông dã bị cáo buộc lợi dụng chức vụ để tư lợi và bị cách chức. Chỉ huy mới của LEKEM là Rafael Eithan và dưới thời ông, số lượng tài liệu thu được đã tăng lên gấp 10 lần - tới 2.000 đầu/năm. Nhưng toàn bộ công lao của cơ quan này đã bị xoá sạch bởi một vụ tai tiếng om xòm khi công dân Mỹ Jonathan Pollard bị phát hiện là điệp viên Israel. Người tuyển Pollard là Đại tá Аvien Sella, khoản thù lao không nhỏ được trả qua LEKEM. Năm 1985, khi Pollard bị các cơ quan tình báo Mỹ phát giác, Israel đã từ chối đưa Pollard ra khỏi nước Mỹ và cũng không điệp viên này ẩn náu trong sứ quán Israel tại Washington. Vụ đổ vỡ này đã dẫn LEKEM đến bị giải tán vào năm 1986 và hiện nay không có thông tin chắc chắn về việc cơ quan nào ở Israel hiện nay chịu trách nhiệm cung cấp tin tức tình báo KHKT. Theo một số nguồn tin thì trách nhiệm của Lekem được giao lại cho Bộ Ngoại giao Israel. MỘT VÀI NHẬN XÉT Hoạt động của tình báo Israel gắn liền với sự sống còn của dân tộc Do Thái và của bản thân Nhà nước Israel. Tình báo Israel là tinh hoa trí tuệ, đỉnh cao ý chí và chủ nghĩa yêu nước của người Do Thái, do đó lực lượng này được nhà nước quan tâm đầu tư, phát triển; người dân kính trọng, yêu mến, che chở, giúp đỡ cả trong nước lẫn ở nước ngoài. Nói một cách khái quát, có thể thấy rằng triết lý của tình báo Israel dựa vào các yếu tố căn bản sau: Ưu tiên chất lượng, chứ không phải số lượng; chú trọng tinh nhuệ chứ không phải số đông. Coi yếu tố chính trị-yêu nước là phẩm chất quyết định của cán bộ, nhân viên. Lấy lợi ích quốc gia-dân tộc làm mục đích tối thượng, bất chấp thủ đoạn để đạt mục đích. Tuyển chọn chặt chẽ, huấn luyện bài bản, lập kế hoạch chu đáo, phối hợp chính xác, ra tay quyết liệt, đánh hiểm-diệt gọn. Tình báo Israel hoạt động có hiệu quả cao là do một số nguyên nhân chính sau đây: Sự chỉ huy trực tiếp, thống nhất chặt chẽ của lãnh đạo cao nhất Nhà nước và nhận thức rất đúng đắn của họ về vai trò của tình báo. Tình báo luôn là một ưu tiên quốc gia và là một trong những thành tố quyết định trong tiềm lực quốc phòng Israel. Sự ủng hộ, giúp đỡ nhiệt tình và hiệu quả của cộng đồng người Do Thái giàu có và đầy thế lực ở các địa bàn hoạt động. Tài năng tổ chức của các nhà lãnh đạo tình báo và tính nhà nghề cao của đội ngũ cán bộ, nhân viên.Tóm lại, hệ thống tình báo Israel được xây dựng chủ yếu để đối phó với các mối đe doạ từ bên ngoài (các nước Hồi giáo, Arập và người Palestine thù địch), phục vụ nhu cầu phòng vệ thiết yếu của quốc gia. Trong nửa thế kỷ chiến đấu và trưởng thành, tình báo Israel đã phát triển nghệ thuật điệp báo, tình báo quân sự, tình báo KHKT và tình báo hành động lên đến đỉnh cao. Thành công của tình báo Israel xứng đáng là tấm gương cho các cơ quan tình báo trên thế giới học hỏi. |
Hiển thị các bài đăng có nhãn Người Do Thái. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Người Do Thái. Hiển thị tất cả bài đăng
Thứ Hai, 15 tháng 8, 2011
>> Tìm hiểu lực lượng tình báo Israel
Thứ Sáu, 24 tháng 6, 2011
>> 'Pháo đài Brest', bản hùng ca của Hồng quân Liên Xô
Bộ phim Pháo đài Brest giúp người xem hiểu được phần nào về những ngày đầu cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của nhân dân Liên Xô.
3h sáng ngày 22/6/1941, Phát xít Đức bắt đầu cuộc chiến tranh xâm lược Liên Xô theo kế hoạch Barbarossa. Hầu hết các tập đoàn quân của Liên Xô đều bị bất ngờ trước đợt tấn công vũ bão của quân Đức với nhiều ưu thế về quân số, trang thiết bị cũng như việc không có kế hoạch phòng ngự nên phải chịu nhiều thiệt hại nằng nề. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh khó khăn những chiến sĩ Hồng Quân Liên Xô càng chứng tỏ được sự kiên cường của họ bằng những trận chiến quyết tử thủ chứ không chịu đầu hàng quân xâm lược. Những chiến sĩ ở pháo đài Brest là một trong những tấm gương như thế. Cuộc chiến của những chiến sĩ Hồng Quân Liên Xô chống lại Phát Xít Đức được thể hiện một cách xuất sắc qua bộ phim “Pháo đài Brest” của đạo diễn Nga, Alexander Kott. Hoàn cảnh lịch sử Với vị trí địa lý nằm ở cửa ngõ Đế quốc Nga và Ba Lan, pháo đài Brest (nay thuộc Belarus) và thành phố cùng tên nằm trên đường tiến quân của Cụm Tập đoàn quân Trung Tâm của Đức. Vì vậy, pháo đài Brest bị sư đoàn bộ binh của Đức tấn công với quân số khoảng 17.000 binh lính ngay từ những giờ đầu tiên của cuộc chiến. Trước đó, lực lượng đồn trú ở pháo đài Brest của Hồng quân chỉ có khoảng từ 3.500 binh lính của các đơn vị thuộc sư đoàn bộ binh 6 và 42, đội Biên phòng Cận vệ 17. Ngoài ra, trong pháo đài Brest còn có 300 gia đình của các quân nhân và các học viên của các trường quân sự thuộc hai Trung đoàn bộ binh 84 và 125. Cổng vào Pháo đài Brest. Dù đã chịu những đòn choáng váng sau đợt tấn công ồ ạt và bất ngờ của một đối thủ hoàn toàn áp đảo về trang bị và quân số, và bị vây chặt và hoàn toàn bị cắt đứt khỏi bất cứ nguồn tiếp tế nào từ nên ngoài, lực lượng Hồng quân tại pháo đài Brest vẫn chiến đấu kiên cường và liên tục tung những đòn phản công vào đối thủ. Kế hoạch ban đầu của Đức là làm chủ pháo đài Brest trong vòng 12 tiếng tuy bị kéo dài hơn 1 tháng. Ngày 30/6, quân Đức mới làm chủ được khu vực thành nội và đến cuối tháng 7 mới hoàn toàn làm chủ được pháo đài sau khi tiêu diệt các ổ đề kháng cuối cùng của Hồng quân. Thiếu tá Piotr Mikhailovich Gavrilov, một trong các sỹ quan Liên Xô chỉ huy phòng thủ pháo đài Brest, trực tiếp chỉ huy khu phòng thủ Đồn Đông. Ông bị quân Đức bắt sau ngày 23/7/1941 sau khi bị thương nặng. Ngày 8/5/1965, pháo đài Brest được phong danh hiệu Pháo đài Anh hùng theo sắc lệnh của Đoàn chủ tịch Xô Viết tối cao Liên Xô. Với chiến tích của mình, pháo đài Brest và câu chuyện về những người anh hùng của Hồng quân đã trở thành cảm hứng cho nhiều tác phẩm nghệ thuật trong đó có bộ phim “Pháo đài Brest”. Bộ phim “Pháo đài Brest” Bộ phim “Pháo đài Brest” (tên gốc tiếng Nga là Brestskaya krepost) của đạo diễn Alexander Kott ra mắt ngày 4/11/2010 vào dịp kỷ niệm 65 năm Ngày chiến thắng (9/5/1945-9/5/2010). Dự án phim nhận được tài trợ khoảng 7 triệu USD từ 2 nhà nước Nga và Belarus. Theo nhà biên kịch Konstantin Vorobiov của “Pháo đài Brest”, bộ phim được thúc đẩy bằng sự thành công của bộ phim tài liệu cùng tên ra mắt năm 2006. Brestskaya krepost được quay tại pháo đài Brest nhằm đảm bảo tính chân thực của bộ phim. Quá trình chuẩn bị cho bộ phim mất khá nhiều thời gian chủ yếu do quá trình viết kịch bản với những tranh cãi xung quanh tính chính xác so với lịch sử. Bộ phim bắt đầu khởi quay từ tháng 6/2009 và đóng máy vào tháng 12/2009. Poster bộ phim "Pháo đài Brest" Brestskaya krepost kể về cuộc chiến ở pháo đài Brest qua lời kể của Sasha Akimov (Aleksei Kopashov thủ vai), một học viên quân nhạc 15 tuổi. Bắt đầu bằng những thước phim về cuộc sống thường nhật của quân đồn trú và gia đình họ trong pháo đài Brest cũng như cuộc hẹn câu cá lúc 3h sáng ngày 22/6/1941 của Sasha và Anhia. Trong phim, lúc quân Đức tấn công, đã có người nghe tiếng bom rơi, pháo nổ vẫn tưởng nghĩ rằng "lại là diễn tập". Thậm chí, khi nhận ra bị tấn công rõ ràng, có sĩ quan còn kêu gọi "không để cuốn vào khiêu khích" hoặc người trông kho quân sự kiên quyết không phát vũ khí cho chiến sĩ Hồng quân vì.... "chưa có lệnh". Những chi tiết chân thực này đã khắc họa thành công sự bất ngờ của lực lượng Hồng quân đồn trú trong pháo đài Brest trước cuộc tấn công của quân Đức và cũng là bài học "Không để Tổ quốc bị bất ngờ" cho các lực lượng vũ trang. Sau 1 đêm thức giấc, Sasha thấy mình bị ném vào 1 cuộc chiến tranh. Bằng những hình ảnh như người thương binh liên tục quay máy phát điện bằng tay để các bác sĩ thực hiện mổ cho các thương binh hay viên sỹ quan không uống nước trong vài ngày nhưng vẫn để dành nước cho các thương, bộ phim khắc họa thành công những gian khổ, thiếu thốn mà các chiến sĩ hồng quân phải chịu đựng khi bị bao vây trong pháo đài Brest. Qua đó, Brestskaya krepost thể hiện rõ nét sự kiên cường của những người lính Hồng quân cũng như sự mưu trí, dũng cảm của họ, không chỉ phòng thủ họ còn tổ chức những đợt phản công gây thiệt hại cho quân địch hay hình ảnh viên sĩ quan ở lại cầm chân quân địch để đồng đội rút lui. Trả lời phỏng vấn hãng thông tấn Voice of Russia, đạo diễn Nga Aleksandr Kott khẳng định chủ đề của bộ phim là tái hiện tất cả những nỗi khủng khiếp mà nhân dân Liên Xô đã phải trải qua trong những ngày đầu chiến tranh: "Chính tại Brest, nơi tất cả mọi thứ thể hiện rõ nét nhất - từ hỗn loạn, kinh hoàng đến lấy lại sức mạnh và sự cứng cỏi. Phim rất kiệm lời, đây là bộ phim về trạng thái. Chúng tôi giới thiệu nhân vật trong những thời điểm đau thương bi tráng nhất trong đời họ, khi người ta cần phải lựa chọn. Ở đó có những người nhát gan trở thành mạnh mẽ, và ngược lại, có những kẻ phản bội. Những người bảo vệ pháo đài bị tản mát, họ chiến đấu mà không biết là ở bên cạnh mình, cách đó 100 m có ai đó còn sống và cũng đang chống cự". Tương phản với hình ảnh Hồng quân, “Pháo đài Brest” cũng cho thấy sự tàn bạo của quân Phát xít khi sử dụng tù binh là người già và trẻ em để ép đối phương đầu hàng. Bộ phim cũng thể hiện rõ những cố gắng của quân Đức trong việc đánh chiếm pháo đài bằng cách sử dụng những khẩu pháo hạng nặng, hơi ngạt, súng phun lửa, xe bọc thép và cả những trận không kích. Bộ phim kết thúc bằng cảnh chú bé học viên Sashka Akimov năm nào nay đã già dẫn người cháu đến thăm tượng đài tưởng niệm trận chiến bảo vệ pháo đài Brest. Tại đây 2 người đã được "trở về" với pháo đài Brest những ngày trước chiến tranh. Kết thúc của phim như một lời khẳng định, những anh hùng của pháo đài Brest sẽ sống mãi trong tâm trí mọi người. “Pháo đài Brest” nhận được lời khen của tổng thống Nga Dmitry Medvedev: “Đây là một bộ phim rất hay về cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại”. Dưới đây là một số hình ảnh trích trong bộ phim: Cuộc phản công của Hồng quân khu vực Đồn Đông dưới sự chỉ huy của thiếu tá Pyotr Mikhailovich Gavrilov. Chiến sĩ Hồng quân khắc lên tường dòng chữ "Thà chết không hàng" ngày 26/6/1941. Trung úy Andrey Mitrofanovich Kizhevatov ở lại cầm chân địch cho đồng đội rút lui. Binh lính Đức sử dụng người già, trẻ em và thương binh để ép các chiến sĩ Hồng quân đầu hàng. Quả bom 1800kg bị không quân Đức ném xuống làm rung chuyển pháo đài Brest. Quân Đức xử bắn Chính ủy Efim Moiseevich Fomin vì ông là người... "vừa Do Thái, vừa Cộng sản". [BDV news] |
Nhãn:
Chính ủy Efim Moiseevich Fomin,
Đế quốc Nga,
Hồng quân Liên Xô,
Người Do Thái,
Pháo đài Brest,
Phát xít Đức,
Thiếu tá Piotr Mikhailovich Gavrilov
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)
Chuyên mục Quân Sự
Hải quân Trung Quốc
(263)
Hải quân Mỹ
(174)
Hải quân Việt Nam
(171)
Hải quân Nga
(113)
Không quân Mỹ
(94)
Phân tích quân sự
(91)
Không quân Nga
(83)
Hải quân Ấn Độ
(54)
Không quân Trung Quốc
(53)
Xung đột biển Đông
(50)
Không quân Việt Nam
(44)
tàu ngầm
(42)
Hải quân Nhật
(33)
Không quân Ấn Độ
(16)
Tàu ngầm hạt nhân
(15)
Hải quân Singapore
(12)
Xung đột Iran - Israel
(12)
Không quân Đài Loan
(9)
Siêu tên lửa
(8)
Quy tắc ứng xử ở Biển Đông
(7)
Tranh chấp biển Đông
(7)
Xung đột Trung - Mỹ
(4)
Xung đột Việt-Trung
(2)