Tin Quân Sự - Blog tin tức Quân sự Việt Nam: 20 tháng 2 2011

Paracel Islands & Spratly Islands Belong to Viet Nam !

Quần Đảo Hoàng Sa - Quần Đảo Trường Sa Thuộc Về Việt Nam !

Thứ Bảy, 26 tháng 2, 2011

>> Người Trung Quốc nghĩ gì về Việt Nam?



Vương Cẩm Tư người Cát Lâm, nay ở Bắc Kinh. Tốt nghiệp nghiên cứu sinh Đại học Bắc Kinh ngành truyền thông điện ảnh, từng làm nhà báo, ca sĩ. Nay hoạt động tự do. Hội viên Hội Lịch sử Thế chiến II TQ, nhà nghiên cứu quan hệ quốc tế. Sau đây chúng tôi xin trích dịch bài viết suy nghĩ tìm hiểu về cuộc chiến tranh 1979 của Vương Cẩm Tư khi du lịch sang Việt Nam. Nội dung bài viết chỉ mang tính tham khảo, nó phản ánh quan điểm của một nguời dân Trung Quốc thuộc thế hệ trẻ.


Khác với tư duy quen thuộc của người Trung Quốc, trong mắt người Việt Nam, chiến tranh Trung-Việt không chỉ là cuộc chiến “Trung Quốc tự vệ đánh trả Việt Nam” kéo dài nhiều năm sau năm 1979 như dưới góc nhìn của người Trung Quốc, mà còn gồm cả cái gọi là sự “xâm chiếm” Việt Nam do các vương triều Trung Quốc trước đây tiến hành kéo dài tới hai nghìn năm kể từ thời Đông Hán.

Thượng tuần tháng 9 năm 2010, tác giả Vương Cẩm Tư xuất phát từ Bắc Kinh cùng mấy người bạn đến Việt Nam xem tình hình thị trường gỗ hồng mộc. Lúc rảnh rỗi, chúng tôi đã tìm hiểu về cuộc chiến “Trung Quốc tự vệ đánh trả Việt Nam”.

Đối với một người lớn lên ở vùng Đức Huệ tỉnh Cát Lâm như tôi, Việt Nam là nơi rất xa xôi, hầu như tôi không có quan hệ gì với quốc gia này. Thế nhưng mối liên hệ [với Việt Nam] lại từng gần gũi đến thế, bởi lẽ hồi ở tuổi thiếu niên tôi nhận được sự giáo dục chủ nghĩa yêu nước chính tông và lây nhiễm chủ nghĩa anh hùng cách mạng, quen thuộc “Phong thái nhuốm máu” và “Vòng hoa dưới núi cao” [bài hát và tiểu thuyết Trung Quốc viết về chiến tranh 1979], từng cùng thày trò toàn trường nghe các anh hùng Lão Sơn [một ngọn núi ở Hà Giang, nơi Trung Quốc tấn công lấn chiếm đất Việt Nam] báo cáo chuyên đề tại Cung Văn hoá công nhân Đức Huệ, tôi lại còn hăng máu đòi ra tiền tuyến Việt Nam liều mạng với quốc gia này mà không ngại hy sinh, cho dù sức mình còn chưa xách nổi ngọn giáo có tua hồng.

Để tìm hiểu cuộc chiến “Trung Quốc tự vệ đánh trả Việt Nam”, tôi có chủ ý đi thăm Bảo tàng Quân đội Việt Nam tại Hà Nội. Thật may là Bảo tàng này ở ngay chếch phía trước Đại sứ quán Trung Quốc, cách chưa đầy 100 mét, nhà Bảo tàng không lớn.

Tác giả từng thăm Bảo tàng Quân sự cách mạng Trung Quốc tại Bắc Kinh, cảm thấy cực ký hùng vĩ, oách hơn Bảo tàng Việt Nam nhiều. Quy mô và phong thái hai nhà bảo tàng quân sự của hai nước nên là sự thể hiện và hình ảnh thu nhỏ các mặt sức mạnh kinh tế, diện tích lãnh thổ và sức mạnh quân sự của hai nước.

Nhưng vào xem thì căn bản chẳng có trưng bày nội dung về cuộc chiến “Trung Quốc tự vệ đánh trả Việt Nam”, chỉ có các tư liệu Trung Quốc giúp Việt Nam chống Mỹ. Máy ảnh tôi mang theo thế là vô dụng, tôi cảm thấy có chút hẫng hụt.

Thỉnh thoảng có du khách Trung Quốc vào xem Bảo tàng, họ đến Việt Nam theo các đoàn du lịch. Khi nhập cảnh họ được [các nhân viên hải quan Trung Quốc] nhắc nhở chớ nói chuyện với người Việt Nam về cuộc chiến tranh này nhằm tránh tổn thương tình cảm của đối phương. Nhưng tôi thì bất chấp cái tình cảm gì gì ấy, xông thẳng tới hai nhân viên đứng ngoài sân Bảo tàng Quân đội Việt Nam hỏi cho ra nhẽ. Họ cũng mặc quân phục, một nam một nữ. Vì không hiểu tiếng Trung Quốc tôi nói nên họ lập tức đi gọi một hướng dẫn viên du lịch Việt Nam đến. Anh này chừng 30 tuổi, nói tiếng Trung rất thạo.

Nghe tôi hỏi đoạn lịch sử ấy, nụ cười của anh trở nên nghiêm trang: “Tôi biết Trung Quốc các ông tuyên truyền đây là cuộc chiến phản kích tự vệ, nhưng ông hãy thử nghĩ xem, có thể như thế được không? Việt Nam chúng tôi một nước nhỏ thế này mà có thể xâm lược nước các ông được sao? Hồi ấy cuộc Cách mạng Văn hoá của các ông vừa mới chấm dứt, rất nhiều mâu thuẫn và nguy cơ chưa giải quyết được, các ông bèn xâm lược Việt Nam để đổ vấy nguy cơ. Dĩ nhiên nguyên nhân không chỉ có vậy.”

Tôi nói, vì Việt Nam quấy nhiễu biên giới và xua đuổi Hoa kiều nên Trung Quốc mới phản kích tự vệ. Anh ta nói, chúng ta hãy tạm chưa tranh cãi ai sai ai đúng. Ai ngờ hướng dẫn viên du lịch Việt Nam này nhắc đến cả chuyện Nhật Bản bắt giữ thuyền trưởng Trung Quốc đi váo vùng biển đảo Điếu Ngư [Nhật gọi là Senkaku]. “Tôi thấy nhiều thành phố Trung Quốc bắt đầu [biểu tình chống Nhật], thực ra đó là kết quả việc chính phủ và giới truyền thông Trung Quốc kích động. Người Trung Quốc các ông quá thù hận. Người Việt Nam chúng tôi xưa nay không bao giờ thù hận nước khác, chúng tôi là một dân tộc hoà bình.” – anh nói.

Điều khiến tôi kinh ngạc không phải ở chỗ anh ta nói có đúng hay không mà là tôi không nghĩ anh hiểu Trung Quốc nhiều như vậy. Bên cạnh còn có một người Việt Nam biết tiếng Trung nói xen vào: Trung Quốc các ông một mặt nói thù hận là không hợp trào lưu của loài người, một mặt lại hết mức thù hằn Nhật Bản và các nước khác. Như thế chẳng phải là tự mâu thuẫn với mình, rất giả dối đó sao? Kinh tế các ông có thành công nữa cũng không được người ta tôn trọng.

Tôi bảo, Nhật Bản có sai, họ cũng từng xâm lược Việt Nam, Trung Quốc căm thù là bình thường, nhưng nhà nước chúng tôi không kích động, người Trung Quốc chúng tôi không căm thù Việt Nam.

Tôi kể, khi lính Trung Quốc gánh nước cho phụ nữ Việt Nam thì bị người phụ nữ ấy bắn lén từ sau lưng mà hy sinh, cả đến trẻ con Việt Nam 11, 12 tuổi cũng bắn giết Giải phóng quân, thật là lấy oán trả ơn. Tôi hỏi hướng dẫn viên du lịch thấy chuyện ấy như thế nào, anh bảo: “Các ông xâm lược vào đây, có thể nào không đánh các ông hay sao?”

Tôi cảm thấy đây là chuyện làm người Trung Quốc chúng ta xấu hổ khó xử. Sau này hướng dẫn viên du lịch ấy có gửi E-mail cho tôi, trình bày quan điểm của Việt Nam đối với cuộc chiến tranh này, viết bằng Trung văn.

Cho dù nhà Bảo tàng Quân đội Việt Nam không có nội dung cuộc chiến “Trung Quốc tự vệ đánh trả Việt Nam” nhưng khi tôi đến Bảo tàng Quốc gia Việt Nam thì lại nhìn thấy cái gọi là ghi chép về việc các vương triều Trung Quốc trước đây xâm lược Việt Nam; tại đây người ta có phân phát các tài liệu tiếng Trung Quốc giới thiệu lịch sử chuyện đó. Lại còn có trưng bày cái gọi là “Trung Quốc chiếm Việt Nam lâu tới 1000 năm”.

[Tài liệu của] Đại sứ quán Việt Nam tại Trung Quốc viết bằng Trung văn giới thiệu thế này: “Nhân dân Việt Nam từng nhiều lần bị nước ngoài xâm lược, gồm các vương triều Trung Quốc trước đây như triều Tống (thế kỷ 11), triều Nguyên (thế kỷ 13), triều Minh (thế kỷ 15) và triều Thanh (thế kỷ 18).” Người Việt Nam tự hào vì đã đánh bại quân Trung Quốc từ phương Bắc đến, lưu lại nhiều cái gọi là sự tích anh hùng “Chống Nguyên”, “Chống Minh” và “Chống Trung Quốc”. Trong thời gian đó liên tiếp xảy ra các cuộc khởi nghĩa anh hùng do Hai Bà Trưng (đời Hán), Triệu Trinh Nương (đời Tam Quốc), Mai Thúc Loan (đời Đường), Dương Đình Nghệ (đời Ngũ đại thập quốc) lãnh đạo chống lại sự thống trị tàn bạo của Trung Quốc, nhưng đều bị đàn áp.” Những nhân vật ấy được người Việt Nam coi là thần minh phù hộ bình yên và mưa thuận gió hòa để thờ cúng.



Chữ trên ảnh: 

Thành phố Hải Phòng Việt Nam dựng tượng Lê Chân, người được gọi là “nữ anh hùng” chống lại sự thống trị của nhà Đông Hán Trung Quốc.

Vương Cẩm Tư chụp. Ngày 10/9/2010 tại Hải Phòng.

Tác giả Vương Cẩm Tư còn thấy tại trung tâm Hải Phòng, một thành phố ở miền Bắc Việt Nam, có dựng một bức tượng đồng cao hơn ba chục mét, theo giới thiệu là “bà Lê Chân nữ anh hùng Việt Nam chống Trung Quốc xâm lược thời kỳ Đông Hán”.

Tương truyền Lê Chân xinh đẹp, tính tình hiền thục, quan lại Trung Quốc thèm khát muốn lấy làm vợ. Cả gia đình Lê Chân phản đối, kết quả quan Trung Quốc giết người nhà Lê Chân. Quyết tâm trả thù cho gia đình mình, bà Lê Chân vô cùng đau buồn căm phẫn về quê triệu tập binh sĩ tình nguyện chiến đấu anh dũng, cuối cùng bà hy sinh vẻ vang.

Tại Việt Nam, các nơi đều có nhiều nghĩa trang quân nhân, chủ yếu là kết quả chiến tranh với Mỹ, tiếp sau là các binh sĩ Việt Nam chết trong tác chiến với quân đội Trung Quốc; có thể thấy người Việt Nam vẫn rất tôn trọng họ. Nghe nói có phụ nữ trung niên Việt Nam không bán hàng cho người Trung Quốc, nguyên nhân do chồng bà bị quân đội Trung Quốc bắn chết trong cuộc chiến tranh Trung-Việt hồi trước.

“Hiện nay việc hoạch định biên giới trên bộ giữa hai nước Trung-Việt đã được giải quyết. Theo nguồn tin tin cậy, nước ta có một anh hùng chiến đấu năm xưa từng cố thủ trận địa, coi thường cái chết, có thành tích nổi bật, nhưng cuối cùng khi phân chia biên giới thì trận địa đó lại thuộc về Việt Nam; mới đầu tư tưởng người anh hùng ấy rất không thông, về sau anh đã nghĩ thông suốt, lợi ích quốc gia trên hết.”

Nói tới chuyện cách nhìn nhận người Trung Quốc, nhiều người Việt Nam đánh giá còn được, cũng có người nói thẳng: “Thường thôi”, “Không tốt, không bằng Nhật”. Lý do là Trung Quốc còn đe dọa họ, phẩm chất người Trung Quốc không tốt, bịp bợm lừa đảo; chất lượng hàng Trung Quốc không tốt, xe máy dùng 1-2 năm là hỏng; xe máy Nhật cấp cao hơn, dùng lâu bền. Quả vậy, tại Việt Nam tôi thấy xe máy hàng đàn mà hầu như rất ít xe Trung Quốc, tuyệt đại đa số là xe Nhật.

Lần này tôi sang Việt Nam đúng vào dịp đại lễ 1000 năm thủ đô Hà Nội Việt Nam, tại nhiều nơi có thể cảm nhận thấy ảnh hưởng lớn của lịch sử, văn hoá Trung Quốc.

Phụ nữ Việt Nam dung nhan xinh đẹp, thân hình nhỏ nhắn, dáng đi uyển chuyển.

Như có người nói, trong lịch sử mấy nghìn năm của mình, Việt Nam chiến tranh nhiều, hoà bình ít, xáo động nhiều, yên ổn ít, [ngườì Việt Nam] không suy tính quá nhiều những ân oán trong lịch sử và quý trọng hoà bình không dễ đến với mình.

Năm 2010 là dịp kỷ niệm 60 năm Trung Quốc-Việt Nam lập quan hệ ngoại giao, hai nước tận hưởng hoà bình, người buôn bán đi lại ngày càng thân mật, Hữu Nghị Quan thực sự hưởng tình hữu nghị chứ không phải là tranh chấp và khói súng. Phần lớn người Việt Nam rất nhiệt tình với Trung Quốc. Trên đoàn tàu hỏa cũ nát từ Hải Phòng đi thủ đô Hà Nội, tôi trò chuyện với các cô gái Việt Nam bằng thứ tiếng Anh đơn giản. Có một anh chàng chỉ biết nhõn một câu tiếng Trung nói oang oang với tôi trước mặt mọi người trên toa tàu: “Tôi yêu bạn!” Chúng tôi đều cười.

Nguyễn Hải Hoành lược dịch

Các ghi chú trong dấu [ ] là của người dịch

Bối cảnh cuộc chiến tranh 1979.
Năm 1975, Việt Nam thống nhất đất nước, bước ra khỏi cuộc chiến tranh khốc liệt kéo dài 30 năm giành độc lập dân tộc. Nền kinh tế của Việt Nam bị phá hủy hoàn toàn, cuộc sống của người dân vô cùng khó khăn. Thêm vào đó, chế độ diệt chủng PônPốt phát động cuộc chiến gây hấn ở biên giới phía nam của Việt Nam. Lợi dụng tình huống này "người bạn lớn" Trung Quốc, dùng chiến lược biển người, xua quân xâm lấn lãnh thổ Việt Nam ở phần biên giới phía bắc, và sau đó mở cuộc chiến tuyên truyền nhằm cố tình thay đổi lịch sử.


Dọc theo suốt chiều dài biên giới phía bắc của tổ quốc, những tấm bia tưởng nhớ các anh hùng liệt sĩ anh dũng hy sinh trong các cuộc chiến chống sự xâm lăng của Trung Quốc, vẫn trang nghiêm đứng đó, tạo nên một biên giới tâm linh vĩnh cửu bảo vệ tổ quốc. Trên tất cả các tâm bia này đều ghi rõ tên tuổi của các liệt sĩ, họ đều đã ngã xuống ở tuổi 20.

Nguồn 

- 越南人眼中的中越战争:贫穷落后是中国造成 2010-12-16 光明网
http://military.china.com/history4/62/20101216/16297986.html
- 越南人看中越战争:贫穷落后是中国造成 星岛环球网
www.stnn.cc 2010-12-21
http://history.stnn.cc/war/201012/t20101216_1476515.html
- 越南怎样看待中越战争 (2010-12-14 21:57)
http://blog.sina.com.cn/wangjinsi918



(vitinfo news)

>> Tàu sân bay độc nhất của Nga



Dù đã hoạt động 14 năm nhưng tàu sân bay Admiral Kuznetsov vẫn chưa một lần ngừng nghỉ vì đây là tàu sân bay duy nhất của Hải quân Nga.



Dù là quốc gia xuất khẩu vũ khí lớn trên thế giới nhưng Hải quân Nga chỉ có duy nhất một tàu sân bay hạng nặng là Kuznetsov Project 1143.5, đóng vào năm 1985 với trọng lượng nước rẽ 55.000 tấn.


Dự án phác thảo được bắt đầu vào năm 1977, hoàn thành vào tháng 7 năm 1980 và dự án được thông qua vào tháng 5/1982.


Việc đóng tàu sân bay hạng nặng được bắt đầu từ ngày 1.09.1982 tại nhà máy đóng tàu Biển Đen số 444 (thành phố Nicolaiev), ngày 26.07.1982, tàu chính thức được liệt vào danh sách các tàu chiến của Hải quân Nga.


Ngày 26.11.1982, tàu được đổi tên thành Leonid Brezhnev, ngày 6.12.1985 tàu được hạ thủy, ngày 11.08.1987 tàu đổi tên thành Tbilisi, còn ngày 4.10.1990 tàu đổi tên thành Đô đốc Hạm đội Liên bang Xô Viết Kuznetsov và mang tên đó đến ngày nay.


Ngày 25.12.1990, tàu đi vào hoạt động trong Hải quân Nga, còn ngày 20.01.1991, tàu chính thức thuộc biên chế của Hạm đội phương Bắc.


Tàu có thể chở được khoảng 50 máy bay gồm 26 máy bay chiến đấu và 24 máy bay trực thăng, ít hơn các tàu sân bay của Mỹ.


Vào năm 1990, các cuộc thử nghiệm quốc gia đối với tàu được tiến hành. Và trong quá trình thử nghiệm, tàu đã đi qua quãng đường dài 16200 hải lý và các máy bay thực hiện 454 chuyến bay từ boong tàu.


Vào tháng 12/1991, tàu đã thực hiện chuyến đi vòng qua châu Âu rồi trở về căn cứ đồn trú của Hạm đội phương Bắc.


Tàu sân bay hạng nặng Project 1143.5 dùng để chiếm ưu thế trên biển và trên không tại những vùng hoạt động của Lực lượng Hải quân, tấn công vào những mục tiêu trên biển và trên mặt đất của kẻ địch từ trên không cũng như yểm trợ lực lượng đổ bộ trên biển và lực lượng trên mặt đất.


Admiral Kuznetsvo là tàu chiến lớn nhất của Hải quân Nga

(Pravda news)

>> Tìm hiểu tàu đổ bộ tấn công



Ngoài các nước có tiềm lực kinh tế quân sự mạnh, một số nước khác cũng đầu tư nguồn lực quốc phòng khan hiếm vào các năng lực đổ bộ với tham vọng khiêm tốn nhất, nhất là tàu phục vụ vận tải đổ bộ (LPD), thông thường với lượng giãn nước trong khoảng 10.000- 20.000 tấn.

Có một số lượng lớn các lớp tàu đổ bộ trên thế giới mà mỗi lớp có chức năng cơ bản riêng của nó, trong đó bao gồm: Tàu chỉ huy đổ bộ (LCC), tàu đổ bộ tấn công thông dụng (LHA) và đa chức năng (LHD), tàu chở hàng đổ bộ (LKA), tàu vận tải đổ bộ (LPA), tàu phục vụ vận tải đổ bộ (LPD), tàu đổ bộ tấn công chở máy bay trực thăng (LPH), tàu đổ bộ có boong hạ cánh máy bay (LSD), và tàu đổ bộ xe tăng (LST).

Ngoài các nước có tiềm lực kinh tế quân sự mạnh, một số nước khác cũng đầu tư nguồn lực quốc phòng khan hiếm của mình vào các năng lực đổ bộ với tham vọng khiêm tốn nhất, nhất là tàu phục vụ vận tải đổ bộ (LPD), thông thường với lượng giãn nước trong khoảng 10.000- 20.000 tấn.

Một số tàu đổ bộ tấn công tiêu biểu trong hải quân các nước:

Mỹ

Các bờ biển đã trở thành một phần quan trọng trong mối quan tâm của Hải quân và Lực lượng lính thủy đánh bộ Mỹ. Các tàu chiến, tàu đổ bộ, máy bay trực thăng, và các hệ thống vũ khí đã được thiết kế riêng để đổ bộ được tới trên 900 quân bao gồm đội hình đổ bộ hàng tiểu đoàn.

Mỹ đã chế tạo 5 chiếc tàu đổ bộ tấn công (LHA) thông thường, 4 chiếc đã được đưa vào hoạt động.

Tàu đổ bộ tấn công đa chức năng (LHD): Đã chế tạo 8 chiếc và đưa vào phục vụ. Đó là các tàu to nhất và có năng lực lớn nhất trong kiểu này, cũng như có số lượng lớn nhất. Trong số này, tàu USS Bataan (LHD-5) là một trong các tàu đổ bộ 40.500 tấn mới hơn, boong rộng, được đưa vào phục vụ năm 1997. Tàu LHA-6 America, bề ngoài tương tự các thiết kế của các tàu LHD và LHA cùng thời, nhưng không có khoang chứa đuôi và khả năng để xếp dỡ thuyền đổ bộ và các xe hạng nặng, nhưng nó có đặc điểm nổi bật là năng lực hàng không lớn hơn đáng kể (2 chiếc F-35B hoặc 3 chiếc MV-22 nhiều hơn, 40% bề mặt khoang lớn hơn).



Tàu LHA-6 America (Ảnh: Globalsecurity)
Anh

Anh chỉ đứng sau Mỹ về năng lực đổ bộ. Hải quân Anh đã trang bị tàu Ocean vào năm 1998, nó là một phiên bản 21.500 tấn của lớp tàu đổ bộ Iwo Jima, mang máy bay trực thăng. Vào năm 2004, tàu Ocean đã kết hợp với 2 tàu vận tải phục vụ đổ bộ (LPD) nhỏ hơn- tàu Albion và tàu Bulwark- để tạo thành Lực lượng đổ bộ sẵn sàng, tương đương với Tổ hợp đổ bộ sẵn sàng Hải quân và Lính thủy đánh bộ của Mỹ.


Tàu Ocean (Ảnh: Naval-technology)
Pháp

Năng lực đổ bộ của hải quân Pháp đã được mở rộng trong những năm 1990 với việc đưa 2 tàu LPD lớp Foudre vào hoạt động, và sau đó trong năm 2006-2007 với 2 tàu LHD (hoặc PBC, theo tiếng Pháp) lớp Mistral (Tàu chỉ huy và đổ bộ).


Ảnh: Tàu Mistral (Ảnh: Naval-technology)
Hàn Quốc
Theo chương trình tàu đổ bộ tấn công LPX, Hàn Quốc có kế hoạch chế tạo các tàu có mã hiệu là LPH hoặc LH, tương tự như LHD và LPD theo các tiêu chuẩn quốc tế. Tàu đầu tiên, được đặt tên là Dokdo, đã được hạ thủy năm 2005, và đưa vào biên chế tháng 7/2007. Hàn Quốc có kế hoạch đóng thêm 3 chiếc vào khoảng 2010-2016.


Tàu Dokdo (Ảnh: Globalsecurity)
Nhật
Tàu chở máy bay lớn nhất 20.000 tấn DDH-161 Hyuga/16DDH của Nhật, không có khả năng đổ bộ, và tàu đổ bộ 13.000 tấn lớn nhất của Nhật là Osumi thì không có khoang chứa bên trong để dùng cho 4 máy bay trực thăng.


Tàu Dokdo Tàu DDH-161 Hyuga/16DDH (Ảnh: globalsecurity)
Italia
Italia đã hoàn thành đóng 2 tàu LPD- San Marco và tàu San Giorgio vào các năm 1988 và 1989.

Ban đầu, tàu chỉ huy của hải quân Italia, Cavour, được thiết kế như một chiếc LHD, sau đó được sửa đổi thành một tàu sân bay thuần túy 27.500 tấn - mặc dù tàu được trang bị tiện nghi cho 325 binh sĩ.


Tàu Cavour (Ảnh: Naval-technology)
Tây Ban Nha
Tàu đổ quân chiến lược của Hải quân Tây Ban Nha, được đặt tên là Juan Carlos I, là tàu LHD có lượng giãn nước đủ tải 24.700 tấn, được đưa vào phục vụ năm 2009. Tính đến nay, đây chiếc tàu chiến lớn nhất được đóng tại Tây Ban Nha.


Ảnh: Tàu Juan Carlos I (Ảnh: naval-technology)
Hà Lan
Tàu LPD 12.800 tấn Rotterdam của hải quân Hà lan có thể chở 600 quân và có thể tới 800 quân trong hành trình ngắn hạn. Đưa vào phục vụ năm 1998, Rotterdam là một bộ phận của Lực lượng đổ bộ Anh/Hà Lan, một liên minh phòng thủ có thể sẽ bao gồm cả Tây Ban Nha.

Tàu LPD Johan de Witt, có lượng giãn nước 16.680 tấn, có thể chở 547 quân, được đưa vào phục vụ năm 2007.


Tàu Johan de Witt (Ảnh: Seaforces)
Australia
Hải quân Hoàng gia Australia có chương trình đóng 2 tàu đổ bộ tấn công HMAS Camberra và HMAS Adelaide, được đưa vào hoạt động lần lượt vào các năm 2014 và 2015.

Nga
Nga đã thông báo có kế hoạch mua một tàu lớp Mistral LHD của Pháp, và đóng 3 chiếc khác theo thiết kế này tại Nga.

Tàu đổ bộ tấn công trong tác chiến
Trong môi trường xung đột cường độ thấp hiện nay, khả năng triển khai sức mạnh từ biển đã mang những chiều hướng mới. Điều đó dẫn tới sự ra đời của các công nghệ mới nhằm triển khai nhanh lực lượng trên bờ biển và đánh thắng đối phương nhờ các học thuyết về binh chủng hợp thành và bao vây thẳng đứng.

Trong suốt các cuộc tấn công và tác chiến đổ bộ, nhu cầu bị hạn chế hoặc không có hỗ trợ hậu cần do khoảng thời gian của các hoạt động đó quá ngắn, máy bay trực thăng thường là phương tiện quan trọng nhất. Máy bay hạ cánh chậm và tác chiến đổ bộ tàu thuyền đã hầu như được thay thế bằng tác chiến vượt tầm, khai thác vận chuyển thẳng đứng hoặc/và phương tiện cao tốc (ví dụ các xe đệm không khí và các tàu tấn công chạy nhanh loại nhỏ). Trong khi vẫn có nhiều tàu đổ bộ truyền thống được chế tạo và hoạt động, hầu hết các tàu đổ bộ tấn công đương thời được thiết kế với năng lực hàng không và có một khoang chứa phía đuôi cho các cầu nối tàu-đối-đất cao tốc hoạt động, nhanh hơn nhiều so với các thế hệ trước.

Các tàu đổ bộ lớn có thể hoạt động như tàu chỉ huy, có khả năng để bố trí một bộ tham mưu đổ bộ và các trang bị thông tin liên lạc rộng rãi cũng như các hệ thống chỉ huy-kiểm soát. Không gian sinh hoạt cho Lực lượng đổ bộ quân sự (EMF) yêu cầu bố trí khác so với các tàu khác, bao gồm không chỉ các tiện nghi (giường ngủ, nhà vệ sinh, nhà bếp, nơi giải trí…) mà còn cơ sở hạ tầng và những khả năng khác nữa. Do có không gian rộng trên tàu, đồng thời có thể bố trí các tàu thuyền nhỏ, các máy bay trực thăng, các tiện nghi, v,v… vai trò của chúng cũng mở rộng sang các hoạt động mới trong tác chiến cứu hộ đến các khu vực xa, vận tải, hoạt động trợ giúp nhân đạo và thiên tai. Các tàu đổ bộ có thể vận chuyển số lượng lớn nhân viên cứu trợ và/hoặc máy móc và trang thiết bị cứu hộ thậm chí không cần cầu cảng.

Các tàu đổ bộ còn được dùng cho mục đích thương mại như các chức năng bốc/dỡ hàng trên tàu chở phương tiện vận tải, tàu container. Mặt hạn chế chủ yếu của các loại tàu kể trên là mỗi loại đó được tối ưu hóa cho một chức năng riêng biệt cụ thể. Trong khi đó, nhiều loại tàu có thể sẽ được yêu cầu thực hiện tất cả các yêu cầu nhất định. Giá bán mỗi tàu cũng như chi phí bảo hành và vận hành có thể là trở ngại cho việc mua và sử dụng tàu.

(Globalsecurity news)

>> Tàu đổ bộ chủ lực của Trung Quốc



Hải quân Trung Quốc hiện có 54 tàu đổ bộ cỡ lớn và cỡ trung, có khả năng đổ bộ khoảng 12.000 quân, hoặc 1 sư đoàn.
Tàu đổ bộ cỡ lớn Hải quân Trung Quốc có 27 tàu đổ bộ cỡ lớn, bao gồm một tàu phục vụ vận tải đổ bộ (LPD) kiểu 071 lớp Ngọc Chiêu (Yuzhao), 7 chiếc kiểu 072 lớp Ngọc Khang (Yukan), 10 chiếc kiểu 072-II lớp Du Đình (Yuting), và 9 chiếc kiểu 072-III lớp Du Đình II (Yuting-II).

Tàu kiểu 071 Lớp Ngọc Chiêu
Gồm 1 chiếc, được biên chế tại hạm đội Nam Hải.



Tàu kiểu 071 Ngọc Chiêu

Các thông số cơ bản:

Lượng choán nước: 17.000 – 20.000 tấn
Chiều dài: 210 m
Chiều rộng:
26,5 m
Mớn nước:
7 m
Vận tốc:
20 hải lý/h
Tầm hoạt động: 6.000 hải lý (tại 18 hải lý/h)
Khả năng vận tải: 400-800 quân; 2 xuồng đổ bộ chở quân
và phương tiện; 2-4 máy bay trực thăng Z-8
Super Frelon.

Tàu kiểu 072 Ngọc Khang
Gổm 7 chiếc, biên chế tại hạm đội Đông Hải (Số hiệu lần lượt là 927, 928, 929, 930, 931, 932, 933).


Tàu kiểu 072 lớp Ngọc Khang

Lượng choán nước: 3.110 tấn (tiêu chuẩn), 4.170 tấn (đầy tải)
Chiều dài: 120 m
Chiều rộng:
15,3 m
Mớn nước:
2,9 m
Vận tốc:
Lớn nhất 18 hải lý/h; Tiết kiệm 14 hải lý/h
Tầm hoạt động:
3.000 hải lý (tại 14 hải lý/h)
Thủy thủ đoàn:
130
Khả năng vận tải:
200 quân, 10 xe tăng, 2 xuồng đổ bộ chở quân
và phương tiện (tổng cộng 500 t)

Tàu kiểu 072-II Du Đình
Gồm 10 chiếc: 5 chiếc tại hạm đội Đông Hải (908, 909, 910, 939, 940), 5 chiếc tại hạm đội Nam hải (934, 935, 936, 937, 991).


Tàu kiểu 072-II lớp Du Đình

Lượng choán nước:
4.800 tấn (đầy tải)
Chiều dài: 119,5 m
Chiều rộng: 16,4 m
Mớn nước:
2,8 m
Vận tốc:
Lớn nhất 17-18 hải lý/h; Tiết kiệm 14 hải lý/h
Tầm hoạt động: 3.000 hải lý (tại 14 hải lý/h)
Thủy thủ đoàn:
130
Khả năng vận tải:
250 quân, hoặc 10 xe tăng, hoặc 500 tấn hàng.

Tàu kiểu 072-III Du Đình II
Gồm 9 chiếc: 6 chiếc tại hạm đội Nam Hải (992, 993, 994, 995, 996, 997), 2 chiếc tại hạm đội Bắc Hải (911, 912), 1 chiếc tại hạm đội Đông Hải (913).


Tàu kiểu 072-III lớp Du Đình II

Lượng choán nước:
4.800 tấn (đầy tải)
Chiều dài: 119,5 m
Chiều rộng:
16,4 m
Mớn nước: 2,8 m
Vận tốc:
Lớn nhất 17 hải lý/h; Tiết kiệm 14 hải lý/h
Tầm hoạt động:
3.000 hải lý (tại 14 hải lý/h)
Thủy thủ đoàn:
104
Khả năng vận tải:
250 quân, hoặc 10 xe tăng, hoặc 500 tấn hàng.

Tàu đổ bộ cỡ trung
Hải quân Trung Quốc có 27 tàu đổ bộ cỡ trung bao gồm 11 chiếc kiểu 073-III lớp Ngọc Đăng (Yudeng), 10 chiếc kiểu 074 lớp Dục Hải (Yuhai), và 6 chiếc kiểu 074A.

Ngoài ra còn có 31 tàu đổ bộ khác được coi là cỡ trung kiểu 079 lớp Vu Liên (Yulian), hoạt động chủ yếu ở vùng ven bờ và biển Đông.

Tàu kiểu 073-III Ngọc Đăng
Gồm 11 chiếc: 4 chiếc tại hạm đội Đông Hải (941, 942, 943, 944), 7 chiếc tại hạm đội Nam Hải (945, 946, 947, 948, 949, 950, 990).


Tàu kiểu 073-III lớp Ngọc Đăng

Lượng choán nước: 1.460 tấn (tiêu chuẩn), 2.000 tấn (đầy tải)
Chiều dài:
87 m
Chiều rộng: 12,6 m
Mớn nước: 2,25 m
Vận tốc:
Lớn nhất 17 hải lý/h, kinh tế 14 hải lý/h
Tầm hoạt động:
1.500 hải lý (ở 14 hải lý/h)
Thủy thủ đoàn:
74
Khả năng vận tải:
179 quân, hoặc 6 xe tăng, hoặc 8 xe tăng hạng nhẹ,
hoặc 9 xe bọc thép, hoặc 12 xe quân sự, hoặc 250 tấn hàng

Tàu kiểu 074 Dục Hải
Gồm 10 chiếc: 5 chiếc tại hạm đội Bắc Hải (3111, 3113, 3115, 3116, 3117), 2 chiếc tại hạm đội Đông Hải (3229, 3244), 3 chiếc tại hạm đội Nam Hải (7593, 7594, 7595).


Tàu kiểu 074 lớp Dục Hải

Lượng choán nước:
800 tấn (đầy tải)
Chiều dài:
58,4 m
Chiều rộng:
10,4 m
Mớn nước: 2,7 m
Vận tốc:
14 hải lý/h
Tầm hoạt động:
N/A
Thủy thủ đoàn:
56
Khả năng vận tải: . 250 quân và 2 xe tăng, hoặc 100 tấn hàng

Tàu kiểu 074A
Gồm 6 chiếc: 2 chiếc tại hạm đội Bắc Hải (3128, 3129), 4 chiếc tại hạm đội Đông Hải (3232, 3233, 3234, 3235).


Tàu kiểu 074A

Lượng choán nước 800 tấn. Các thông số khác chưa được tiết lộ.

Tàu kiểu 079 Vu Liên
Gồm 31 chiếc được biên chế tại hạm đội Nam Hải.

Tàu kiểu 079 lớp Vu Liên

Lượng choán nước:
730 tấn (tiêu chuẩn), 833,4 tấn (đầy tải)
Chiều dài: 60,3 m
Chiều rộng: 10 m
Mớn nước: 2,36 m
Vận tốc: 12 hải lý/h
Tầm hoạt động:
1.000 hải lý (7 ngày)
Thủy thủ đoàn:
60
Khả năng vận tải:
5 xe tăng, hoặc 8 xe quân sự, hoặc 4 xe vận tải
kéo theo 4 khẩu pháo 85mm, hoặc 200 tấn hàng.


>> Chùm ảnh: T-90C, siêu tăng hiện đại nhất của Lục quân Nga



“Siêu tăng” hiện đại T-90C của Nga có khả năng “bơi”, “bay” và hỏa lực mạnh



“Xe tăng bay” T-90C của Nga có tổng trọng lượng 46,5 tấn, nhẹ hơn nhiều so với các dòng xe tăng cùng loại của nước ngoài và trên thực tế thì cũng khó có thể có chiếc xe tăng nào có thể so sánh với nó về tốc độ bắn.


Không những vậy, xe tăng T-90C của Nga còn có khả năng đặc biệt mà hiếm có loại xe tăng nào trên thế giới hiện nay có thể làm được Nga. Đó là khả năng tiêu diệt bất cứ xe bọc thép nào của đối phương trong phạm vi 5 km.


Theo nhận định của nhà thiết kế, chế tạo xe tăng Vladimir Nevolin, T-90C không hề thua kém bất cứ mẫu xe tăng thế hệ thứ 3 nào của nước ngoài.


Nó được trang bị hệ thống điều khiển hỏa lực hoàn toàn tự động nên có thể quan sát, phát hiện mục tiêu cả ngày lẫn đêm mà không phụ thuộc vào điều kiện thời tiết tốt hay xấu. Kính ngắm của xe tăng được tích hợp với camera cảm ứng nhiệt tiên tiến làm tăng khả năng quan sát.


Bên cạnh đó, tăng T-90C còn được trang bị lớp thép bảo vệ phản lực rất chắc chắn, có khả năng chống được đạn xuyên thép, đồng thời tổ hợp chế áp “Blind” trang bị trên xe sẽ giúp cho T-90C có thể tránh được tên lửa chống tăng có điều khiển của đối phương.


Khả năng vượt trội này của T-90C đã được thực nghiệm tại các sa mạc của Ấn Độ khi nhiệt độ ngoài trời là 50 độ C và nó có thể hoạt động trong phạm vi hàng nghìn km ở các khu rừng nhiệt đới ở Malaysia.


Hiện tại, xe tăng T-90C của Nga đang được coi là một trong những loại xe tăng hiện đại và nguy hiểm nhất thế giới. Ngoài Nga, T-90C còn được biên chế trong lực lượng vũ trang của Ấn Độ, Algeria và Ả Rập Xê út.

(vitinfo news)

>> “Đột nhập” căn cứ hải quân lớn nhất thế giới



Thành phố Norfolk, bang Virginia, Mỹ tự hào vì là quê hương của căn cứ hải quân lớn nhất của Mỹ và cũng là căn cứ hải quân lớn nhất trên thế giới.

“Ngự” trên diện tích rộng khoảng 1.720 hécta, căn cứ Hải quân Norfolk chiếm khu bến cảng dài khoảng 6km và khu bến tàu-cầu tàu trải dài trên 11km trên bán đảo Hampton Roads, thường được biết đến với cái tên Swell’s Point.

Đây là căn cứ hải quân lớn nhất thế giới, phục vụ cho 75 con tàu và 134 máy bay dọc theo 14 bến tàu và 11 nhà chứa máy bay, và là nơi tập trung đông nhất các lực lượng của hải quân Mỹ. Nhiệm vụ của căn cứ này là hỗ trợ và sẵn sàng cho các hoạt động tiếp tế hậu cần cho Hạm đội Đại Tây Dương của Mỹ. Nơi đây cung cấp các hải cảng, các sân bay, phi đội bay, các dịch vụ phục vụ cuộc sống của nhân viên quân sự và những dịch vụ quản lý nhân sự.



“Dàn” tàu chiến neo đậu ở các bến cảng của Norfolk.

Căn cứ Norfolk là nơi neo đậu của các tàu sân bay, tàu tuần dương, khu trục lớn-nhỏ, các tàu đổ bộ, tàu ngầm, tàu tiếp viện quân nhu, các máy bay. Các phục vụ trên cảng chịu trách nhiệm kiểm soát hơn 3.100 lượt tàu thuyền ra vào mỗi năm.

Về hoạt động trên không, mỗi năm có hơn 100.000 chuyến bay bắt đầu từ đây, tức là trung bình mỗi ngày có 255 chuyến bay cất cánh - hay cứ 6 phút một chuyến. Hơn 150.000 hành khách và 264.000 tấn thư từ và hàng hóa khởi hành mỗi năm trên các chuyến bay của Bộ chỉ huy Hàng không Lưu động hay trên các chuyến bay thuê từ sân bay của Căn cứ Hải quân Norfolk.


Cứ 6 phút có một chuyến cất cánh từ Norfolk.

Đây cũng là trung tâm hậu cần của Hải quân Mỹ phục vụ các hoạt động chiến trường của Bộ Tư lệnh Trung tâm và châu Âu, và cả đến vùng Caribbean.

Đầu thế kỷ 20, các sĩ quan hải quân cấp cao Mỹ đã thống nhất rằng khu vực này là địa điểm lý tưởng cho các hoạt động hải quân. Sau khi Mỹ tham gia Chiến tranh Thế giới thứ I tháng 4/1917, Bộ Hải quân Mỹ đã quyết định mua lại vùng đất này - bắt đầu chỉ là 192 hécta, và dành 16, triệu USD với tham vọng nhanh chóng biến đây thành căn cứ hải quân có một không hai trên thế giới.


Căn cứ Hải quân Norfolk những ngày đầu xây dựng…


… và dần trở thành căn cứ hải quân lớn nhất.

Điều đặc biệt là có tua du lịch thăm thú căn cứ này phục vụ cho các phó thường dân. Chỉ cần 45 phút khởi hành từ Trung tâm Thông tin và Du lịch Hải quân đặt ở 9079 Hampton, đích thân người của lực lượng hải quân sẽ lái xe bus đưa du khách thăm thú các tàu sân bay, tàu khu trục, tàu ngầm, tàu tấn công đổ bộ.

Tua này cũng đưa du khách đến những ngôi nhà lịch sử có từ thời Jamestown Exposition năm 1907. Đây được coi là vùng đất lịch sử của Mỹ, nơi năm 1907 từng diễn ra lễ kỷ niệm rất lớn 300 năm ngày thành lập khu định cư vĩnh viễn đầu tiên của người Anh ở châu Mỹ (năm 1607).


Phiên bản Tòa nhà hành chính của Pennsylvania ở Norfolk.

Có tới 21 bang đã xây dựng những tòa nhà hành chính bang kỷ niệm lịch sử của họ với miền đất này. Tòa nhà hành chính của Pennsylvania lớn bằng 2/3 phiên bản thật của Hội trường Độc lập, là một trong những ngôi nhà thu hút khách du lịch nhiều nhất ở đây. Tuy nhiên, du khách sẽ không được phép lên thăm tàu chiến.

(vitinfo news)

Thứ Sáu, 25 tháng 2, 2011

>> Quân đội Mỹ tiếp tục 'thắt lưng buộc bụng'



Với tình hình kinh tế gặp nhiều khó khăn, quân đội Mỹ phải tiến hành nghiên cứu lại và cắt giảm chi phí cho những dự án chế tạo vũ khí "đắt nhất thế giới".

Hải quân Mỹ thông báo đã giảm được chi phí dự kiến cho mỗi tàu ngầm lớp Ohio là 1 tỷ USD. Tuy nhiên, theo các quan chức cấp cao phụ trách vũ khí của Mỹ, mục tiêu cuối cùng của kế hoạch là cắt giảm hơn 2 tỷ USD cho mỗi tàu ngầm lớp Ohio mới.

“Các chuyên gia đã nghiên cứu những vấn đề gây ra chi phí quá lớn trong thiết kế của tàu ngầm, từ đó đưa ra các giải pháp tiết kiệm”,quan chức cấp cao của Mỹ Ashton Carter cho biết.



Tàu ngầm lớp Ohio trị giá lên tới 7 tỷ USD.

Tại hội nghị an ninh quốc gia của Mỹ vào ngày 22/2, ông Carter phát biểu: “Theo thiết kế nguyên bản, mỗi dự án chế tạo tàu ngầm SSBN (X) có chi phí khoảng 7 tỷ USD.

Hiện tại, chi phí này đã được giảm còn 6 tỷ USD và theo dự kiến, con số mong muốn cuối cùng là 4,9 tỷ USD. Nếu chi phí vẫn giữ nguyên ở mức 7 tỷ USD/ 1 tàu ngầm, hải quân Mỹ sẽ không thể chi trả nổi.”

Việc xem xét lại thiết kế vũ khí là một xu hướng mới của các quan chức quân đội để cắt giảm chi phí khi Mỹ vẫn gặp nhiều khó khăn về kinh tế.

Trong tương lai, nhiều chương trình của quân đội Mỹ như: máy bay ném bom thế hệ mới, xe thiết giáp chiến đấu trên bộ cũng như máy bay trực thăng vận tải thế hệ mới dành cho tổng thống Mỹ cũng sẽ được nghiên cứu lại.

(Defense News)

>> Quân đội Nga là 'thùng không đáy'



Kế hoạch tăng thêm 70.000 quân nhân ngay trong đợt cắt giảm nhân sự lịch sử của quân đội Nga khiến Bộ trưởng Tài chính Nga tỏ ý bất bình.

Trong hơn 2 năm, Bộ trưởng Quốc phòng Anatoly Serdyukov đã tiến hành một cuộc cải cách quân sự cấp tiến nhất trong 50 năm qua.

Theo đó, quân đội Nga đã thực hiện cải cách mạnh tay thậm chí là tàn nhẫn. Các nhân vật cấp cao đã buộc phải chấp nhận một thực tế chế độ phúc lợi trong quân đội mà các quan chức Nga được hưởng trong 150 năm qua đã không còn, bắt đầu bằng việc cắt giảm sĩ quan từ 355.000 người xuống còn 150.000 người (1).

Những thay đổi này đã gây ra một làn sóng phản ứng mãnh liệt của các cán bộ trong quân đội nhưng ông Serdyukov quyết tâm thực hiện.

Bộ Quốc phòng Nga đã nhận một cách hạn chế sinh viên mới vào học viện quân sự, những sinh viên đã tốt nghiệp hoặc hạ một cấp bậc quân hàm hoặc là miễn nhiệm.

Việc cắt giảm khoảng 200.000 cán bộ xuống còn 130.000 cán bộ tạo ra nhiều bức xúc. Chính phủ lý giải cho việc cắt giảm này là thiếu kinh phí chu cấp và bố trí công việc cho họ, bên cạnh đó, còn phải lo các chính sách chế độ cho những người sắp nghỉ hưu.



Quân đội Nga vừa trải qua đợt cắt giảm chưa từng có trong lịch sử.
Một thực tế có thể thấy là mức lương hiện nay trong quân đội Nga không đủ hấp dẫn với các chuyên gia có trình độ. Do đó việc cắt giảm quân số sẽ làm nâng mức lương trong quân đội để quy tụ những đội ngũ chuyên gia có trình độ chuyên môn cao.

Hơn nữa, một lý do quan trọng khác đó là các trung tâm đào tạo không thể đào tạo đủ cho 100.000 binh sĩ, như vậy sẽ có rất nhiều tinh hoa trong quân đội bị chuyển xuống những vị trí không phù hợp với khả năng của mình. Điều này sẽ làm giảm sức chiến đấu của quân đội Nga.

Tuy nhiên, trong một cuộc họp, các tướng lĩnh đã thuyết phục Tổng thống Medvedev chấp thuận tăng thêm 70.000 cán bộ cho quân đội (2). Điều này làm các quan chức dân sự Nga khó khăn trong việc giải bài toán thu - chi ngân sách. Trong mắt họ, quân đội Nga như "thùng không đáy" với ngân sách đất nước.

Phát biểu tại diễn đàn kinh tế Krasnoyarsk, Bộ trưởng Tài chính Nga, Alexei Kudrin đã tuyên bố rằng nếu tăng chi phí quốc phòng sẽ tạo bất ổn cho ngân sách nhà nước.

“Phải tăng thêm ngân sách khoảng 1,5% GDP mới có thể hiện đại hóa quân đội, đổi mới trang bị cho binh sĩ và gia tăng quy định cho ngành công nghiệp quốc phòng”, Ông Kudrin nói (3) Theo ông Kudrin, vì bất kì lí do gì, việc thêm 70.000 cán bộ sẽ tạo ra một gánh nặng về ngân sách bổ sung mà không tạo ra bất kỳ lợi ích hữu hình gì đối với an ninh quốc gia. Điều đó là một dấu hiệu cho thấy những cải cách quân sự rõ ràng đã đi theo một hướng khác.

(1) Cụ thể:

Cấp Tướng giảm từ 1.107 xuống còn 886 người. Cấp Đại tá giảm từ 25.665 xuống còn 9.114 người. Cấp Trung tá, Thiếu tá giảm từ 99.550 xuống còn 25.000 người; Cấp Đại úy giảm từ 90.000 xuống còn 40.000 người. Cấp Trung úy, Thượng úy tăng từ 50.000 lên 60.000 người.

Tỷ lệ sĩ quan và binh sĩ: 1 sĩ quan tương ứng với 15 binh sĩ và công nhân viên; 1 tướng lĩnh tương ứng với 1.100 binh sĩ và công nhân viên.

Quân đội Nga sẽ bỏ quân hàm Chuẩn úy từ năm 2009, sẽ giải thể 30/46 trường đào tạo Chuẩn úy chỉ giữ lại 16 trường đào tạo Chuẩn úy theo đề nghị của BTL Hải quân. Như vậy trong 140.000 chuẩn úy, chỉ còn lại 20.000, số Chuẩn úy này sẽ phiên thành quân hàm Thiếu úy.

(2) Bộ trưởng quốc phòng Serdyukov giải thích cho kế hoạch tăng số lượng quân nhân thêm 70.000 người là để phát triển lực lượng hàng không vũ trụ.

(3) Năm 1997, cựu Tổng thống Boris Yeltsin đã quyết định chi 3,5% GDP cho chi phí quốc phòng. Hiện nay, chi tiêu quốc phòng Nga khoảng từ 2,6-2,8% GDP.


(The Moscow Times)

>> Mỹ: Không cho J-20 cơ hội cất cánh



Mỹ đang nghiên cứu và đưa ra ý tướng về một loạt vũ khí tác chiến đường không tối tân nhằm vào Trung Quốc.

Không quân Mỹ dự kiến chi 3,7 tỷ USD trong vòng 5 năm tới phát triển máy bay ném bom tầm xa, tàng hình mới với ý định có thể thâm nhập khu vực phòng không của Trung Quốc.

Kể từ đầu năm 2010, Trung Quốc lần đầu tiên trình làng nguyên mẫu máy bay tiêm kích tàng hình mới J-20, tuyên bố đưa tên lửa hành trình chống hạm vào biên chế và ít nhất tạm thời bắt kịp Mỹ về số lần phóng vệ tinh (15 lần).



Đáp lại các màn “trình diễn” của Trung Quốc, Mỹ cho triển khai các máy bay không người lái trinh sát tầm xa tại Guam, tiến hành bay thử máy bay không người lái có thể cất cánh và hạ cánh trên tàu sân bay X-47B và bắt đầu phát triển tên lửa chống hạm siêu âm mới .

Đồng thời, Mỹ còn tuyên bố sản xuất máy bay ném bom thế hệ mới. Động thái này đánh dấu sự gia tăng chay đua vũ trang giữa Mỹ và Trung Quốc.

Theo đó, kế hoạch nằm trong ngân sách năm 2012 của chính quyền Obama. Cụ thể, đến giữa những năm 2020, Mỹ sẽ chế tạo khoảng 100 máy bay ném bom thế hệ mới nhằm thay đổi đáng kể cán cân quyền lực tại Thái Bình Dương.

Theo Phó Tư lệnh Không quân Mỹ, tướng Phillip Breedlove, một máy bay ném bom thế hệ mới sẽ được vũ trang tên lửa hành trình không mang đầu đạn hạt nhân cùng với các loại đạn mới. Thậm chí, máy bay này sẽ mang theo 2 máy bay không người lái tàng hình (UAV), có thể điều khiển từ máy bay ném bom. Như vậy, có thể hình dung, tầm tác chiến của các UAV sẽ nới rộng hơn rất nhiều so với hiện nay.

Các tên lửa và máy bay thế hệ mới được hứa hẹn là sẽ rất hiện đại, đi trước công nghệ của các nước khác hàng thập kỷ.

Theo tướng William Fraser, Tư lệnh Bộ Tư lệnh tác chiến Không quân Mỹ, Không quân nước này có thể sẽ trang bị thêm hệ thống laser hủy diệt cho các máy bay ném bom thế hệ mới vào một thời điểm trong tương lai.

Chương trình phát triển máy bay ném bom thế hệ mới của Lầu Năm Góc diễn ra đồng thời với việc phác thảo một kế hoạch tác chiến mới nhằm duy trì khả năng quân sự của Mỹ tại Thái Bình Dương.

Kế hoach có tên gọi “Tác chiến đường không trên biển” có ý định tăng sự phối hợp giữa các tàu Hải quân Mỹ và máy bay của Không quân nước này nhằm bảo vệ Đài Loan tốt hơn trước các cuộc tấn công có thể xảy ra từ Trung Quốc, đồng thời, cản trở các nỗ lực của Bắc Kinh mở rộng ảnh hưởng ra khỏi vùng lãnh hải của nước này.

Lực lượng Mỹ hiện nay có khoảng 160 máy bay B-1, B-2, B-52 được trang bị các loại bom và tên lửa dẫn đường là những nhân tố chính trong kế hoạch tác chiến tại Thái Bình Dương của Mỹ.

Tuy nhiên, trong số các máy bay trên, chỉ có B-2 (20 chiếc) có khả năng tránh được các radar của Trung Quốc; còn B-1 và B-52 có thể bị máy bay chiến đấu và tên lửa đất đối không của Trung Quốc “sờ gáy”.

Do đó, loại máy bay ném bom thế hệ mới có thể sẽ thay thế một số máy bay B-1 và B-52, tạo thành một lực lượng tác chiến tầm xa có khả năng sống sót cao hơn.

Không cho J-20 cất cánh
Theo tướng Gary North, Tư lệnh lực lượng Không quân Mỹ tại Thái Bình Dương, căn cứ Không quân Mỹ tại Guam đã bố trí một đơn vị B-52 và B-2 luân phiên.

Khi máy bay ném bom thế hệ mới sắp đưa vào sử dụng, Không quân nước này sẽ xây dựng các hầm chứa máy bay vững chắc có thể ở sâu dưới đất hoặc bọc thép để bảo vệ các loại máy bay này khỏi các loại tên lửa của Trung Quốc.


Trong kịch bản của giới quân sự Mỹ, các sân bay Trung Quốc sẽ bị tấn công phủ đầu, khiến J-20 không có cơ hội cất cánh tham gia không chiến.

Ông North còn nói bóng gió về một trong những vai trò của máy bay ném bom thế hệ mới có thể đảm nhận trong bất kỳ cuộc chiến tranh nào với Trung Quốc trong tương lai.

Theo ông, bí quyết để đánh bại J-20 là ngăn cản loại máy bay này cất cánh từ các căn cứ của Đại lục. Theo đó, Các máy bay ném bom thế hệ mới có thể được sử dụng để tấn công các sân bay Trung Quốc sớm trước hàng tiếng đồng hồ của cuộc xung đột.


(China Military)

>> Việt Nam mở rộng hợp tác quốc phòng



Mười quốc gia thành viên ASEAN, trong đó có Việt Nam đã nhất trí mở rộng hợp tác quốc phòng nhằm thúc đẩy sự ổn định và an ninh khu vực trong các hoạt động quân sự.

Dự thảo tuyên bố chung về tăng cường hợp tác quốc phòng giữa các nước thành viên ASEAN sẽ là chương trình nghị sự chính của Hội nghị Nhóm công tác Quan chức Cấp cao Quốc phòng ASEAN (ADSOM WG), tổ chức tại Surabaya, Đông Java, ngày 23/2.




Tổng Tham mưu trưởng Indonesia, Trung tướng Eris Herryanto cho biết, Hội nghị sẽ thảo luận một loạt các vấn đề liên quan đến an ninh khu vực ASEAN.

Ngoài ra, Hội nghị cũng sẽ thảo luận về các chương trình công tác hàng năm, hợp tác quốc phòng, như phát triển Mạng trung tâm gìn giữ hòa bình và hợp tác giữa các ngành công nghiệp quốc phòng ASEAN, ông Eris Herryanto nói.

“Kết luận của cuộc họp trong 3 ngày sẽ được đưa vào dự thảo Tuyên bố chung về Tăng cường Hợp tác Quốc phòng các nước ASEAN và Cộng đồng Toàn cầu để đối phó với những thách thức mới. Sau đó, dự thảo tuyên bố chung sẽ được đưa ra trước Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN, tổ chức ở Jakarta vào tháng 4/2011, để thông qua”, Trung tướng Eris Herryanto cho biết thêm.

Sau cuộc họp giữa các quốc gia thành viên ASEAN, sẽ tiến hành tổ chức hội nghị ADSOM+ với các đối tác đối thoại của ASEAN, như Mỹ, Australia, Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Nga, và New Zealand.

Hội nghị ADSOM+ WG sẽ thảo luận về dự thảo thành lập một nhóm chuyên gia công tác bao gồm 5 lĩnh vực hợp tác, như hoạt động hàng hải, hoạt động nhân đạo và xử lý thảm họa, các hoạt động gìn giữ hòa bình, đối phó với chủ nghĩa khủng bố, và công tác quân y, ông Eris Herryanto giải thích.

“Kết quả của cuộc họp hy vọng sẽ đặt nền tảng cho hợp tác quốc phòng giữa các nước thành viên ASEAN và các đối tác thoại của khối để xây dựng được chính sách cụ thể”, nguồn tin dẫn lời ông Eris Herryanto.


(Antara News)

>> Malaysia chi 600 triệu USD mua xe bọc thép FNSS



Chính phủ Malaysia cùng với tập đoàn sản xuất xe bọc thép hàng đầu của Thổ Nhĩ Kỳ đã ký một thỏa thuận mua 257 xe bọc thép FNSS trị giá 600 triệu USD.

Đây là hợp đồng xuất khẩu lớn nhất của công nghiệp quốc phòng Thỗ Nhĩ Kỳ.

Hợp đồng mua bán này được ký kết ngày 22/2/2011, nhân chuyến thăm của Thủ tướng Malaysia Najib Razak đến Thổ Nhĩ Kỳ. Trước đó, Malaysia đã từng mua một loạt xe bọc thép tương tự trị giá 300 triệu USD.




Xe bọc thép FNSS loại 8 bánh, chở được 14 binh sĩ.

Theo thỏa thuận mua FNSS, Thổ Nhĩ Kỳ sẽ chịu trách nhiệm thiết kế, sản xuất, cung cấp các hỗ trợ hậu cần, kỹ thuật. Công việc lắp ráp sẽ được tiến hành tại nhà máy DEFTECH của Malaysia, xe bọc thép này sẽ sử dụng tháp pháo được sản xuất bởi Denel của Nam Phi.

“Chúng tôi đã quyết định nâng cấp mối quan hệ ngoại giao hai bên lên tầm đối tác chiến lược”, thủ tướng Malaysia Raxzak trao đổi với các phóng viên tại thủ đô của Thỗ Nhĩ Kỳ.

257 chiếc xe bọc thép được mua lần này, bao gồm nhiều biến thể 4 bánh, 6 bánh, và 8 bánh tùy thuộc vào nhiệm vụ.

Đặc điểm của xe thiết giáp FNSS

FNSS là xe chiến đấu đổ bộ bọc thép có khả năng lội nước, được sản xuất bởi Tập đoàn FNSS của Thổ Nhĩ Kỳ, chính thức phục vụ trong quân đội Thổ Nhĩ Kỳ vào năm 2006. Xe đã trải qua quãng đường thử nghiệm là 11.000 km trên sa mạc và trên các địa hình khác, với kết quả rất khả quan.

Thân xe được bọc thép dày 7,62mm, theo tiêu chuẩn Nato STANAG-4569 Level 4 dành cho xe thiết giáp hạng nhẹ. Xe được vũ trang một pháo 25mm FNSS Sharpshooter Turret, hợp tác phát triển cùng với BAE Systems của Anh.

Pháo được trang bị hệ ổn định hai trục, cho phép bắn chính xác trong phạm vi 2.000-6.800m, tốc độ bắn 200 phát/phút, sơ tốc đầu nòng 1.100m/s, góc nâng của pháo từ -8 đến +49 độ, tầm bao quát 3600, súng máy đồng trục 7,62mm.


Phía sau xe bọc thép FNSS


Xe được trang bị hệ truyền động 2 trục (4x4 bánh), 3 trục (6x6 bánh ), 4 trục (8x8 bánh) với hộp số tự động 7 số tiến và 1 số lùi. Hệ thống treo khí nén bán tự động bằng máy kiểm soát và điều chỉnh khí nén, hệ thống chống bó phanh ABS giúp xe hoạt động hiệu quả trên các địa hình ghồ ghề, đồi núi. Xe có khả năng leo dốc 450, vượt vật cản cao 0,7m, mương rộng 1m.

Được trang bị động cơ diesel loại 525 Caterpillar Diesel, tiêu chuẩn khí thải EURO-3, công suất xe đạt 600 mã lực, tỷ lệ lực đẩy trên trọng lượng là 24,5 mã lực/tấn. Tốc độ tối đa 100km/giờ, tốc độ lội nước 10km/giờ, tầm hoạt động 1.000 km.

Kích thước cơ bản: Dài 6,6m (6×6), 8 m (8×8), rộng 2,7m, cao 2,17m, trọng lượng rỗng 16 tấn, đầy tải 24,5 tấn, xe có khả năng chở 10 người (6×6), 14 người (8×8).

(Defence News, FNSS)

Thứ Năm, 24 tháng 2, 2011

>> Sự thật về sự kiện Hoàng Sa 1974



Cách đây hơn 3 thập kỷ, ngày 19/01/1974, quân đội Trung Quốc đã tấn chiếm quần đảo Hoàng Sa, lúc này đang do chính quyền Sài Gòn quản lý.


Vậy mà, ngày 19/1/2011, mạng Văn phòng Báo chí Quốc vụ viện Trung Quốc (www.scio.gov.cn) đăng tin dưới dạng sự kiện về việc Trung Quốc chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam với nội dung như sau: "Ngày 19/1/1974, quân và dân quần đảo Tây Sa của ta (Trung Quốc) tiến hành tự vệ phản kích nguỵ quân miền Nam Việt Nam - kẻ đã liên tục xâm phạm lãnh hải, không phận, cướp chiếm các đảo và gây thương vong cho ngư dân ta, bảo vệ được chủ quyền lãnh thổ".

Vậy sự thật của sự kiện Hoàng Sa tháng 1/1974 là gì? Là một cuộc đáp trả tự vệ của quân dân Trung Quốc như mạng thông tin trên tuyên bố, hay là một cuộc xâm lược một vùng đất có chủ quyền không thể chối cãi của Việt Nam?

Chủ quyền không thể chối cãi
Hơn ba thập kỷ qua, trong bối cảnh quan hệ Việt-Trung có những bước thăng trầm, Việt Nam vẫn luôn khẳng định Hoàng Sa cùng với Trường Sa là một bộ phận lãnh thổ thiêng liêng của mình. Bởi vì chủ quyền ấy đã được minh chứng bằng thời gian và lịch sử của nhiều thế kỷ những cư dân và Nhà nước Việt Nam đã quản lý và khai thác vùng lãnh thổ trên biển Đông này.







Sơ đồ các hướng tấn công trận hải chiến Hoàng Sa ngày 19-1-1974

Sự xác lập chủ quyền Việt Nam tại Hoàng Sa (cũng như với Trường Sa) được minh chứng không chỉ bằng những tài liệu do người nước ngoài ghi chép như sách Hải ngoại ký sự của Thích Đại Sán viết năm 1696, hay của nhiều tác giả Tây phương như Le Poivre(1749), J,Chaigneau (1816-1819), Taberd (1833), Gutzlaff (1849)...; cũng như những di sản văn hoá vật thể và phi vật thể liên quan đến hoạt động của các Đội Hoàng Sa xưa ở cửa biển Sa kỳ và đảo Lý Sơn (Cù lao Ré), mà còn được ghi lại trên nhiều thư tịch, trong đó có những văn bản mang tính chất Nhà nước của Việt Nam.

Cho đến nay chúng ta vẫn có bằng chứng đầy đủ về chủ quyền của nhà nước Đại Việt (gồm cả Đàng Ngoài của các chúa Trịnh và Đàng Trong của các chúa Nguyễn đều tôn phò nhà Lê) qua Thiên Nam Tứ chí Lộ Đồ Thư trong Hồng Đức Bản Đồ hay Toản Tập An Nam Lộ trong sách Thiên Hạ Bản Đồ (của Đỗ Bá Công soạn năm Chính Hoà thứ 7-1686) và sách Phủ Biên Tạp Lục của bác học Lê Quý Đôn (1776)...

Tấm bản đồ trong Thiên Nam Tứ Chí Lộ Đồ được vẽ theo bút pháp đương thời với lời chú rất rõ ràng:

"Giữa biển có một dải cát dài gọi là Bãi Cát Vàng (Hoàng Sa) dài tới 400 dặm... Họ Nguyễn mỗi năm và cuối mùa Đông đưa 18 chiếc thuyền đến đấy lấy hàng hoá, được phần nhiều là vàng bạc, tiền tệ, súng đạn..."


Bia chủ quyền Hoàng Sa ở Việt Nam được dựng vào những năm 1930. Ảnh: chụp tại phòng lữu trữ tư liệu Hoàng Sa, Đà Nẵng

Còn bản đồ vẽ trong Toản Tập An Nam Lộ thì ghi chú rất rõ địa danh Bãi Cát Vàng trên biển khơi phía trước của những địa danh trên đất liền như các cửa biển Đại Chiêm, Sa Kỳ, Mỹ Á, phủ Quảng Nghĩa và các huyện Bình Sơn, Chương Nghĩa, Mộ Hoa.

Với sách Phủ Biên Tạp Lục của nhà bác học Lê Quý Đôn (1776), Hoàng Sa còn được mô tả kỹ hơn. Năm 1775, Lê Quý Đôn được Chúa Trịnh cử vào vùng đất Phú Xuân lãnh chức Hiệp trấn để lo việc bình định hai trấn mới thu hồi được từ Chúa Nguyễn là Thuận Hoá và Quảng Nam. Sách dành nhiều trang để mô tả về các "Đội Hoàng Sa" và "Bắc Hải" của chúa Nguyễn tổ chức cho dân vùng Tư Chính, Quảng Ngãi tổ chức thường kỳ việc vượt biển đến Hoàng Sa để thu luợm các sản vật đem về đất liền. Những tư liệu thu thập tại địa phương xã An Vĩnh (Cù lao Ré) còn nói tới "Đội Quế hương" cũng là một hình thức tổ chức do dân lập xin phép nhà nước được ra khai thác ở Hoàng Sa.

Qua thời Nguyễn, kể từ đầu thế kỷ XIX, trong điều kiện nước Việt Nam (dưới triều Gia Long) và Đại Nam (kể từ triều Minh Mạng) đã chấm dứt tình trạng cát cứ và phân tranh, thống nhất quốc gia thì việc quản lý lãnh thổ được ghi chép đầy đủ và lưu trữ tốt hơn. Tấm bản đồ được lập thời Minh Mạng Đại Nam Nhất Thống Toàn Đồ vẽ rất rõ cả một dải lãnh thổ gồm những đảo trên biển Đông được ghi chú là "Vạn lý Trường Sa" (tên gọi chung cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa theo quan niệm đương thời).

Hai bộ sách địa lý quan trọng của triều Nguyễn là phần Dư Địa Chí trong Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí (1821) và sách Hoàng Việt Địa Dư Chí (1833) đều đề cập tới Hoàng Sa trong phần viết về phủ Tư Nghĩa và đều chép lại những nội dung của các tài liệu trước, trong đó có hoạt động của các "Đội Hoàng Sa".

Bộ chính sử Đại Nam Thực Lục do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn liên tục cho đến thập kỷ đầu của thế kỷ XX đều nhiều lần ghi lại các sự kiện liên quan đến Hoàng Sa và Trường Sa như một bộ phận của lãnh thổ quốc gia. Ngay trong phần Tiền Biên chép về các tiên triều, bộ biên niên sử này cũng nêu lại những sự kiện từ thời các Chúa Nguyễn liên quan đến các quần đảo này.

Một thống kê cho thấy trên bộ sử này, trong phần chính biên ghi chép cho đến thời điểm in khắc đã có 11 đoạn viết về những sự kiện liên quan đến hai quần đảo này. Nội dung cụ thể như là việc nhà nước điều cho thuỷ quân và Đội Hoàng Sa ra đảo để "xem xét và đo đạc thuỷ trình" (quyển 50,52...đời Gia Long); cử người ra Hoàng Sa "dựng miếu, lập bia, trồng cây", "vẽ bản đồ về hình thế", "cắm bài gỗ dựng dấu mốc chủ quyền" (quyển số 104, 122, 154, 165 đời Minh Mạng).

Ngoài ra còn các bộ sách Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sự Lệ(1851) cũng ghi rõ những công việc nhà nước Đại Nam đã thực thi trên lãnh thổ Hoàng Sa. Và đặc biệt quý giá là những châu bản của các vị vua triều Nguyễn (tức là có thủ bút của nhà vua) có liên quan đến Hoàng Sa. Giá trị của những văn bản gốc này là sự thể hiện quyền lực của người đứng đầu quốc gia đối với vùng lãnh thổ này. Ví như, phê vào phúc tấu của bộ Công ngày 12-2 năm Minh Mạng thứ 17 (1836), nhà vua viết :"Mỗi thuyền vãng thám Hoàng Sa phải đem theo 10 tấm bài gỗ (cột mốc) dài 4,5 thước (ta), rộng 5 tấc, khắc sâu hàng chữ "Năm Bính Thân Minh Mạng thứ 17, họ tên cai đội thuỷ quân phụng mệnh đi đo đạc, cắm mốc ở Hoàng Sa để lưu dấu"; hay các châu phê về việc thưởng phạt người có công tội khi thực thi trách nhiệm ở Hoàng Sa, đạc vẽ bản đồ v.v...

Mãi đến năm 1909, lần đầu tiên Trung Quốc mới đề cập đến chủ quyền của mình đối với khu vực lãnh thổ này. Điều đó cho thấy, trong suốt 3 thế kỷ trước đó (XVII-XIX), các tài liệu thư tịch của Nhà nước Việt Nam kế thừa nhau đã liên tục thể hiện chủ quyền lịch sử và thực tiễn quản lý‎ đối với quần đảo Hoàng Sa cũng như Trường Sa.

Đến cuối thế kỷ 19 - đầu thế kỷ 20, Pháp với tư cách bảo hộ Việt Nam đã tiến hành quản lý Hoàng Sa - Trường Sa. Trong những lần tranh cãi giữa chính quyền bảo hộ Pháp và Trung Quốc về vấn đề Hoàng Sa, Pháp đã 2 lần yêu cầu Trung Quốc đưa vấn đề ra toà án quốc tế giải quyết, nhưng Trung Quốc không đồng ý.

Chủ quyền của Việt Nam còn được các nước thừa nhận ở một Hội nghị quốc tế quan trọng. Tháng 9/1951, tại Hội nghị Sanfrancisco, với 46/51 phiếu, các nước đã bác bỏ đề nghị trao Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Quốc. Cũng tại Hội nghị này, đại diện chính quyền Việt Nam lúc đó đã tuyên bố chủ quyền không thể tranh cãi của Việt Nam đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà không có nước nào phản đối.

Chính phủ Sài Gòn, sau đó là cả Chính phủ Sài Gòn và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam, cũng đều thực hiện chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa.

Dưới đây là một vài bằng chứng:

Năm 1956, lực lượng hải quân của Chính quyền Sài Gòn tiếp quản các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa khi Pháp rút quân về nước.

Năm 1956, Sở Hầm mỏ, kỹ nghệ và tiểu công nghiệp miền Nam tổ chức một cuộc khảo sát với sự giúp đỡ của hải quân của Chính quyền Sài Gòn trên 4 đảo: Hoàng Sa (Pattle), Quang Ảnh (Money), Hữu Nhật (Robert), Duy Mộng (Drumond).

Ngày 22-10-1956, Chính quyền Sài Gòn đặt quần đảo Trường Sa trực thuộc tỉnh Phước Tuy.

Ngày 13-7-1961, Chính quyền Sài Gòn đặt quần đảo Hoàng Sa, trước kia thuộc tỉnh Thừa Thiên, vào tỉnh Quảng Nam và thành lập tại quần đảo này một xã lấy tên là xã Định Hải, trực thuộc quận Hoà Vang và đặt dưới quyền một phái viên hành chính.

Từ 1961 đến 1963, chính quyền Sài Gòn lần lượt cho xây bia chủ quyền ở các đảo chính của quần đảo Trường Sa như: Trường Sa, An Bang, Song Tử Tây, v v...

Ngày 21-10-1969, Chính quyền Sài Gòn sáp nhập xã Định Hải vào xã Hoà Long cũng thuộc quận Hoà Vang, tỉnh Quảng Nam.

Tháng 7-1973, Viện Khảo cứu nông nghiệp thuộc Bộ Phát triển nông nghiệp và điền địa Sài Gòn tiến hành khảo sát đảo Nam Ai (Nam Yết) thuộc quần đảo Trường Sa.

Tháng 8-1973, với sự hợp tác của Công ty Nhật Maruben Corporation, Bộ Kế hoạch và phát triển quốc gia Sài Gòn tiến hành khảo sát phốt phát ở quần đảo Hoàng Sa.

Ngày 6-9-1973, Chính quyền Sài Gòn sáp nhập các đảo Trường Sa, An Bang, Itu Aba, Song Tử Đông, Song Tử Tây, Loại Ta, Thị Tứ, Nam Ai, Sinh Tồn và các đảo phụ cận vào xã Phước Hải, Quận Đất Đỏ, tỉnh Phước Tuy. Trận hải chiến sinh tử tháng 1/1974

Có ý thức về chủ quyền từ lâu đời của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, các chính quyền miền Nam Việt Nam đều bảo vệ chủ quyền đó mỗi khi có nước ngoài biểu thị ý đồ tranh giành hay xâm chiếm đảo nào đó trong hai quần đảo.

Ngày 16-6-1956, Bộ Ngoại giao chính quyền Sài Gòn tuyên bố một lần nữa khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Trường Sa. Đồng thời cũng trong năm này, Chính quyền Sài Gòn đã kịch liệt phản đối việc Trung Quốc chiếm nhóm đảo phía Đông quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam.

Ngày 22-2-1959, Chính quyền Sài Gòn bắt giữ trong một thời gian 82 "ngư dân" Trung Quốc đổ bộ lên các đảo Hữu Nhật, Duy Mộng và Quang Hoa trong quần đảo Hoàng Sa.

Ngày 20-4-1971, Chính quyền Sài Gòn khẳng định một lần nữa quần đảo Trường Sa thuộc lãnh thổ Việt Nam.

Ngày 13-7-1971 Ngoại trưởng chính quyền Sài Gòn khẳng định một lần nữa chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo đó trong cuộc họp báo ngày 10-7-1971.

Đỉnh điểm xung đột xảy ra vào tháng 1/1974, khi nhiều tàu chiến của quân đội Trung Quốc tiến hành đánh chiếm cụm đảo phía Tây của quần đảo Hoàng Sa.

Ngày 11-1-1974 khi Trung Quốc ngang nhiên tuyên bố các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, đang được chính quyền Sài Gòn quản lý, là một phần lãnh thổ của họ. Ngay sau tuyên bố nói trên, hải quân Trung Quốc đã mở màn chiến dịch xâm chiếm Hoàng Sa bằng cách tung nhiều chiến hạm và tàu đánh cá vũ trang xâm nhập hải phận Hoàng Sa.

Ngày 12-1-1974, ngoại trưởng Vương Văn Bắc của chính quyền Sài Gòn đã cực lực bác bỏ luận điệu ngang ngược và lên án hành động gây hấn của Trung Quốc

Ngày 16/1/1974, Chính quyền Sài Gòn đã ra tuyên bố với những bằng chứng rõ ràng về pháp lý, địa lý, lịch sử của Việt Nam đối với hai quần đảo. Đồng thời Bộ tư lệnh Hải quân Sài Gòn đã đưa bốn chiến hạm ra vùng biển Hoàng Sa để ngăn chặn các hoạt động vi phạm chủ quyền Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa của lực lượng vũ trang Trung Quốc nhưng với thái độ ôn hoà, kiềm chế.

Ngày 18/01/1974, Trung Quốc tăng viện thêm quân, chiến hạm tới quần đảo Hoàng Sa.

Ngày 19/01/1974, Trung Quốc và Việt Nam Cộng hoà đã có trận hải chiến ở khu vực đảo Quang Hoà.

Ông Lữ Công Bảy, người đã có mặt trong cuộc hải chiến Hoàng Sa 35 năm trước trong vai trò là thượng sĩ giám lộ trên chiến hạm HQ-4 hồi tưởng lại: “Đúng 8g30, phía Trung Quốc nổ súng trước. Một loạt đạn đại liên và cối 82 bắn vào đội hình người nhái Việt Nam làm hai binh sĩ tử thương và hai bị thương. Nhưng chỉ huy phía Việt Nam không thể ra lệnh cho các tàu nổ súng vì lực lượng người nhái đang ở vị trí cực kỳ nguy hiểm.

Đúng 10g20, bốn chiến hạm HQ-4, HQ-5, HQ-10, HQ-16 đồng loạt khai hỏa. Như đã chuẩn bị trước, hạm trưởng Vũ Hữu San ra lệnh “bắn”. Chiến hạm di chuyển với tốc độ cực nhanh, khói đen bốc lên ngùn ngụt, thân tàu rung lên bần bật vì trúng đạn, vì tiếng dội của các khẩu đại bác vừa khai hỏa.

Chiến hạm HQ-4 chạy uốn lượn như con rắn, hết sang phải lại sang trái nên đã tránh được loạt đạn đại bác của đối phương. Thế rồi các cột nước bùng lên, đạn rít xung quanh tàu vèo vèo. Một mảnh đạn phạt lủng đài chỉ huy, văng ra trúng chân trung úy Roa đang cố gắng theo dõi tàu Trung Quốc qua màn hình rađa. Thượng sĩ nhất giám lộ Ry trúng mảnh đạn nơi cánh tay trái. Hạ sĩ giám lộ Phấn, xạ thủ đại liên 30 trên nóc đài chỉ huy, bị thương nơi ngực, máu thấm đỏ cả áo. Tiếng la ơi ới của các anh em bị thương vọng lên đài chỉ huy.

Trong bộ đàm tôi đã nghe tiếng bạn tôi, trung sĩ nhất giám lộ Vương Thương, báo cáo: HQ-10 đã bị trúng đạn, hạm trưởng Ngụy Văn Thà tử thương, hạm phó Thành Trí trọng thương ngay bụng. Hầu hết sĩ quan, hạ sĩ quan và thủy thủ trên đài chỉ huy đều bị tử thương và bị thương rất nặng” (Trích Hoàng Sa - tường trình 35 năm sau: 30 phút và 35 năm - Nguồn: Tuổi Trẻ).

Trận hải chiến chỉ diễn ra trong vòng 30 phút. 74 binh sỹ Việt Nam Cộng hòa đã hi sinh.

Ngày 20/01/1974, Trung Quốc đã điều động thêm máy bay oanh tạc các đảo VNCH đóng giữ. Tính đến thượng tuần tháng 02/1974, Trung Quốc đã tạm chiếm quần đảo Hoàng SA và thiết lập căn cứ quân sự tại đây.


Tàu đánh cá vũ trang Trung Quốc chặn đường tàu VN trên đường ra Hoàng Sa. Ảnh tư liệu

Ngay sau khi Trung Quốc dùng vũ lực xâm chiếm toàn bộ các đảo phía tây quần đảo Hoàng Sa do VN quản lý, ngày 19-1-1974 và 14-2-1974 chính quyền Sài Gòn đã ra tuyên cáo về việc Trung Quốc “xâm lăng trắng trợn bằng quân sự” và tái khẳng định về chủ quyền của VN đối với Hoàng Sa.

Ngày 20-1-1974, ngoại trưởng chính quyền Sài Gòn cũng đã gọi điện và gửi thư cho chủ tịch Hội đồng Bảo an và tổng thư ký Liên Hiệp Quốc đề nghị những biện pháp cần thiết trước tình hình khẩn cấp về việc Trung Quốc dùng vũ lực xâm chiếm Hoàng Sa.

Trong khi đó, ngày 26-1-1974, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam VN cũng đã ra tuyên bố phản đối hành động xâm chiếm Hoàng Sa của Trung Quốc và công bố lập trường “về chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ” của VN.

Hành động dùng vũ lực đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa của Trung Quốc đã vi phạm Điều 2 của Hiến chương LHQ. Trước các hành động đó, các nước như Liên Xô, Hà Lan, New Zealand, Indonesia..., các tổ chức quốc tế như Tổng Liên đoàn Lao động thế giới, các lực lượng thanh niên Italia, Hội đồng công dân Australia, Viện Nghiên cứu xã hội Australia, Ủy ban Đại học Australia bảo vệ Đông Dương,...đã lên tiếng phản đối hành động xâm lược lãnh thổ bằng vũ lực của Trung Quốc. Đồng thời, cũng trong năm 1974, HĐBA LHQ đã thông qua Nghị quyết 3314 định nghĩa về hành vi xâm lược bằng vũ lực.

Sau ngày miền Nam giải phóng, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam VN đã nhiều lần tuyên bố khẳng định Hoàng Sa là của VN. Và ngày 5-6-1976, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Cộng hòa miền Nam VN đã lên tiếng bác bỏ những thông tin xuyên tạc về Hoàng Sa - Trường Sa và khẳng định hai quần đảo này là thuộc chủ quyền VN, từ trước đến nay đều do người VN quản lý.

Vậy đã rõ sự thật lịch sử về sự kiện Hoàng Sa 19/01/1974. Lịch sử vốn không thể che đậy, càng không thể tô vẽ hay xuyên tạc. Sử liệu còn đó, nhân chứng vẫn còn đó.

Trong khi lãnh đạo hai Đảng, hai nước luôn nhấn mạnh phương châm mười sáu chữ vàng và "bốn tốt" trong quan hệ Việt - Trung, những bài viết như trên đáng phải phê phán bởi nó sẽ làm vẩn đục tình hữu nghị, hợp tác mà lãnh đạo và nhân dân hai nước đang nỗ lực xây dựng.


(vietnamdefence news)

Copyright 2012 Tin Tức Quân Sự - Blog tin tức Quân Sự Việt Nam
 
Lên đầu trang
Xuống cuối trang