Tin Quân Sự - Blog tin tức Quân sự Việt Nam: 08 tháng 5 2011

Paracel Islands & Spratly Islands Belong to Viet Nam !

Quần Đảo Hoàng Sa - Quần Đảo Trường Sa Thuộc Về Việt Nam !

Thứ Bảy, 14 tháng 5, 2011

>>'Sentinel R1 ' - 'Cú vọ' soi mói' Libya



Khi Mỹ ít can dự vào cuộc không kích Libya, các máy bay trinh sát của Anh được dịp thể hiện vai trò của mình.

Trong các chiến dịch không kích Libya, đảm trách nhiệm vụ trinh sát cho Không quân Hoàng gia Anh (RAF) là những chiếc máy bay trinh sát Sentinel R1.

Trước những chỉ trích của dư luận Libya và quốc tế về việc Liên quân lạm dụng Nghị quyết 1973 của Liên Hợp Quốc xa rời nhiệm vụ bảo vệ dân thường mà chỉ tập trung truy sát ông Gaddafi hoặc bắn giết bừa bãi, hãng BCC đã cử một nhóm phóng viên tác nghiệp trên một chuyến bay Sentinel R1 của Không quân Hoàng gia Anh, nhằm chứng tỏ, NATO đã "cân nhắc" và rất chắc chắn trước khi quyết định tấn công một mục tiêu nào đó ở Libya.

Dưới đây là bài viết của BBC quảng bá cho năng lực của máy bay trinh sát Sentinel R1 và cơ sở cho các quyết định không kích các mục tiêu ở Libya của NATO:

Đây là loại máy bay được hoán cải từ máy bay thương mại và có khả năng cung cấp những bức ảnh thời gian thực từ chiến trường với độ chính xác cao.

Trong tình hình chiến sự phức tạp giữa hai phe trung thành và đối lập với Đại tá Gaddafi hiện nay tại Libya, không có bộ binh tham chiến, làm thế nào để NATO có thể lựa chọn chính xác mục tiêu và đảm bảo không vi phạm các điều luật tham chiến của Liên Hợp Quốc? Câu hỏi được giải đáp bởi cách mà họ thu thập tin tức tình báo.

Một buổi chiều muộn tại căn cứ không quân RAF Akrotiri, đảo Cyprus trên biển địa Trung Hải, các nhân viên mặt đất đang kiểm tra lần cuối chiếc máy bay.

Họ được chuyển đến đây từ phi đội 5 đóng tại căn cứ Waddington khi NATO quyết định thiết lập vùng cấm bay trên không phận Libya.

Nhiệm vụ của những người này là đảm bảo cho chiếc máy bay thuộc loại máy bay trinh sát duy nhất của nước Anh - Sentinel R1 có thể hoạt động hoàn hảo.



Máy bay R1 Sentinel tại căn cứ

Phía dưới thân của chiếc máy bay là các thiết bị radar có thể rà soát hàng ngàn km2 trong một phút. Vì giống như một chiếc xuồng nên bộ phận chứa radar này được đặt tên là “canoe”, có nghĩa là chiếc xuồng.

Nguyên mẫu của chiếc máy bay trinh sát này là loại máy bay thương mại, có khả năng tùy chỉnh nội thất dễ dàng thường được các chính trị giá hay các siêu sao mua dưới dạng máy bay cá nhân.

Bên trong chiếc máy bay này được trang bị 3 bộ bàn ghế quay về phía cánh máy bay. Ngoài ra, còn có hàng loạt máy vi tính, một chiếc bàn nhỏ và ghế dành cho 4 hành khách.



Bố trí máy móc bên trong một chiếc R1 Sentinel

Truy tìm vũ khí hạng nặng

Trong thông báo lần chót, phi đội bay được nghe lại về nhiệm vụ của mình. Họ sẽ bay qua bầu trời Libya, tập trung vào các vùng bờ biển và các thành phố như Brega hay Sirte.

Công việc của họ là thu thập thông tin về nhất cử nhất động của Quân đội Libya, bất kỳ vũ khí hạng nặng nào cũng như việc di chuyển của những thường dân và các thay đổi trong cảnh quan.



Ảnh chụp từ độ cao 15 km của máy bay trinh sát R1 Sentinel

Sau khi họ đã xây dựng được bức tranh toàn cảnh về tình hình dưới mặt đất, thông tin sẽ được chuyển qua cho chỉ huy NATO đảm bảo an ninh vùng cấm bay.

Trung tá Anne-Marie Houghton, sĩ quan chỉ huy phi đội A, phi đoàn viễn chinh số 907 đóng tại đảo Cyprus giải thích: “Toàn bộ các chiến dịch phụ thuộc rất nhiều vào các ảnh chụp về từ máy bay trinh sát. Dựa vào các bức ảnh của chúng tôi cung cấp, họ sẽ biết tiếp theo phải làm gì và sử dụng thông tin một cách hiệu quả nhất. Quân đội Mỹ cũng có năng lực không kém nhưng chỉ quân đội Anh mới có những chiếc R1 Sentinel”.

'Bay theo' Sentinel R1 trinh sát Libya

Khi màn đêm buông xuống, nhóm phóng viên và toàn thể phi đội chiếc R1 cất cánh từ căn cứ Akrotiri, từng thành viên trong phi đội nhanh chóng về chỗ của mình, ngay phía dưới một ngăn bếp nhỏ được đánh số đang hâm nóng bữa ăn của họ.

Ngoài ra, họ cũng được phục vụ chè và cà phê trong suốt chuyến bay dài, có thể kéo dài đến 11 giờ. Toàn bộ phi đội chỉ dùng tên không kèm họ để gọi nhau vì các lý do an ninh.

Theo cơ trưởng James, đây là một chiếc máy bay có khả năng bay rất tốt. Vị cơ trưởng cho biết phi đội của anh có những chiến thuật và phương pháp đặc biệt để đối phó với các hệ thống phòng không. Chỉ cần có mối nguy hiểm xuất hiện trên màn hình, phi công sẽ biết cách đối phó với nó.

“Giá như chúng tôi có những chiếc bàn nạm vàng và ghế bành da thì tốt hơn, tuy nhiên thế này cũng đủ cho chúng tôi làm việc rồi” - James đùa. Sau vài giờ, ánh đèn từ thành phố Benghazi đã rõ ràng phía dưới chúng tôi và radar liên tục quét từ trên xuống dưới khu bờ biển.

Giải mã các bức ảnh

Trong toàn bộ khối NATO, chỉ có Mỹ và Anh mới có khả năng cần thiết để thực hiện các vụ trinh sát không ảnh này, và giá cả của nó cũng không rẻ chút nào.

Riêng tiền trang bị radar ASTOR cho năm chiếc Sentinel đã ngốn của nước Anh 1 tỷ bảng (1,64 tỷ USD). Số tiền này bao gồm mua mới và bảo trì chúng trong suốt 10 năm hoạt động.

Thực ra vẫn có rất nhiều vấn đề an ninh nhạy cảm nên nhóm phóng viên BBC không được xem các bức ảnh chụp mặt đất đang được "giải mã" ngay tại chỗ trên 2 máy phân tích đặt trên máy bay.

Tuy nhiên, từ khoảng cách hơn 11 km phía trước, chiếc radar vẫn đang thu thập các bức ảnh để máy phân tích so sánh với những bức ảnh đã được chụp trước đó để phát hiện các dấu hiệu chuyển động.

Thông tin này sẽ được chuyển đến cho chỉ huy chiến trường để quyết định chọn mục tiêu nào, hay không chọn mục tiêu nào nhằm tránh thương vong cho dân thường.

Đại úy Jim, chỉ huy nhiệm vụ nàny cho biết họ đang tìm các dấu hiệu chuyển quân của lực lượng trung thành với ông Gaddafi tại phía đông đất nước: “Chúng tôi liên tục phân tích cập nhật tình hình trong thời gian thực, tất cả những nỗ lực này chỉ nhằm mục đích bảo vệ tính mạng dân thường dưới mặt đất”.

Chris, một chỉ huy nhiệm vụ khác cho biết thông tin họ thu thập được là tối cần thiết cho chiến dịch: “Nhằm đảm bảo an ninh vùng cấm bay, chúng tôi phải chắc chắn hiểu khu vực mà chung tôi đang phải tác chiến.

Mặc dù không thể tránh khỏi nguy cơ cho phi đội từ các bệ phóng tên lửa phòng không của Libya, nhưng mọi người đều cho rằng các chuyến bay trinh sát này đều xứng đáng vì thông tin mà chúng thu thập được.

Sau 10 tiếng trinh sát, chiếc máy bay quay đầu trở về căn cứ trên đảo Cyprus.

Máy bay R1 Sentinel có khả năng hoạt động đến hơn 10 giờ đồng hồ liên tục.
Những bức ảnh do radar thu được sẽ được so sánh với những bức ảnh chụp bằng vệ tinh.

Tuy hiện đại và được việc nhưng những chiếc Sentinel R1 sẽ ngừng phục vụ sớm từ năm 2015 để tiết kiệm tiền, tính ra, thời gian phục vụ của chúng chỉ vỏn vẹn 8 năm.

Loại máy bay này vẫn hàng ngày bay lượn trên bầu trời Libya và Afghanistan, cung cấp thông tin tình báo giúp bảo vệ sinh mạng của nhiều binh lính trên chiến trường.

R1 Sentinel là loại máy bay được hoán cải từ máy bay thương mại Global Express. Chúng có chiều dài 30,3m, sải cánh 28,5m và cao 8,2m. Máy bay này có thể đạt tốc độ tới 1.100 km/h, bay liên tục hơn 10 giờ, có tầm hoạt động 9.250 km và có trần bay 15 km.

Máy bay được trang bị hệ thống trinh sát không ảnh ASTOR, radar SAR/MTI phát hiện chuyển động. Phi hành đoàn trên máy bay có năm người bao gồm một phi công chính, một phi công phụ, một chỉ huy nhiệm vụ và hai nhân viên phân tích ảnh.

Giá thành cả phi đội 5 chiếc R1 Sentinel và hệ thống các xe tiếp sóng mặt đất lên tới 1,56 tỷ USD.
[BDV news]


>> F-125 : Tham vọng to lớn của Hải quân Đức



Nhà máy đóng tàu Blohm Voss đã tiến hành lễ khởi công đóng mới siêu tàu khu trục tàng hình đa chức năng F-125.

Buổi lễ khởi công tàu khu trục đa chức năng F-125 đã diễn ra long trọng hôm đầu tuần này, những tấm thép đầu tiên đã được cắt dưới sự chứng kiến của các quan chức Bộ Quốc phòng và Hải quân Đức.

Sự kiện đánh dấu cột mốc quan trọng cho chương trình đóng mới tàu khu trục đa chức năng đầy tham vọng của Hải quân Đức. Dự kiến, F-125 sẽ được hoàn thành và bàn giao cho Hải quân Đức trong năm 2016.

Cội nguồn của tham vọng

Những năm chiến tranh thế giới thứ 2, Hải quân Đức là nỗi ám ảnh cho hải quân đồng minh. Các thiết giáp hạm, tuần dương hạm, khu trục hạm, lực lượng tàu ngầm của Hải quân Đức gây ra những tổn thất to lớn cho hải quân đồng mình.

Tuy nhiên, sau khi chiến tranh kết thúc, thế giới bước sang chiến tranh lạnh, Hải quân Đức không còn giữ được vị thế của mình trước đây.



Chương tình tàu khu trục F-125 thể hiện tham vọng to lớn của Hải quân Đức.

Để lấy lại hình ảnh của mình và tăng cường năng lực đối phó với những thách thức an ninh mới, Bộ Quốc phòng Đức đã lên kế hoạch xây dựng chương trình tàu khu trục đa chức năng mới.

Chương trình tàu khu trục đa chức năng F-125 được khởi xướng từ những năm 1990, tuy nhiên, mãi đến năm 2005, bản thiết kế của F-125 mới được phê duyệt.

Cũng phải chờ đến năm 2007, hợp đồng đóng mới của tàu khu trục F-125 mới được ký kết giữa Bộ Quốc phòng Đức và Tập đoàn ThyssenKrupp Marine Systems, và phải mất thêm 4 năm sau, công việc mới bắt đầu triển khai công việc xây dựng tàu.

Thiết kế

Bản thuyết minh thiết kế cho thấy F-125 được xếp vào loại tàu khu trục nhỏ, tuy nhiên lượng choán nước của F-125 là 7.200 tấn. Như vậy F-125 là bước đệm giữa tàu khu trục nhỏ và tàu khu trục hạng nặng.

F-125 là loại tàu khu trục được thiết kế để triển khai hoạt động trên toàn thế giới, có thể hoạt động trong vòng 2 năm trước khi trở về căn cứ, tàu có 2 thủy thủ đoàn khác nhau để thay đổi trong vòng 4 tháng mỗi lần.

Tàu khu trục F-125 được thiết kế theo công nghệ hiện đại, làm tăng khả năng tàng hình cho dù tải trọng tương đối lớn.

Cấu trúc thượng tầng được thiết kế tương tự như một ngọn tháp, bên trong bố trí các radar mảng pha đa chức năng, cung cấp khả năng quan sát 360 độ. Hai bên mạn tàu được thiết kế để làm giảm tối đa mặt cắt radar theo chiều ngang.

Vũ khí

Các hệ thống vũ khí được đưa vào bên trong để giảm khả năng bị phát hiện, được trang bị để đáp ứng cho nhiều nhiệm vụ khác nhau, từ chống tàu nổi, tàu ngầm, chống máy bay, chống tên lửa...

Ngoài ra tàu khu trục F-125 còn được trang bị một hệ thống vũ khí phi sát thương, nhằm cảnh báo và răn đe đối phương.



Pháo hạm đa năng OTO Melara 127mm cải tiến sẽ được trang bị trên tàu khu trục F-125.

Tàu khu trục F-125 được trang bi tổ hợp 8 tên lửa chống hạm RGM-84 Harpoon tầm bắn 130km. Pháo hạm Oto Melara 127mm cải tiến, tốc độ bắn trung bình 43 viên/phút, tầm bắn tối đa 23km, chống lại các mục tiêu mặt nước, chống lại các mục tiêu trên không trong cự ly 8,6km.

Ngoài ra, tàu còn trang bị 2 hệ thống tên lửa phòng không RIM-116 tầm bắn hiệu quả 9km, một được bố trí phía trước sau pháo chính, một được bố trí phía sau trên nhà chứa máy bay trực thăng.

Quanh thân tàu còn bố trí 10 súng phòng không 12,7mm với cơ chế hoạt động hoàn toàn tự động, cho phép đối phó hiệu quả với các mục tiêu trên không.

Đuôi tàu có sàn đáp và nhà chứa cho 2 trực thăng chống ngầm NH-90 với tầm hoạt động 790km.

Hệ thống điện tử

"Trái tim" của tàu khu trục F-125 là hệ thống dữ liệu chiến đấu đa chức năng FuWES (Fuhrungs-und Waffeneinsatz System). Được thiết kế dưới dạng các modun mở cho phép tạo sự linh hoạt cao trong hoạt động tác chiến và dễ dàng tiến hành các công tác sửa đổi và nâng cấp trong tương lai.

Radar quét mảng pha điện tử đa chức năng TRS-4D không quay như radar thông thường mà 4 mảng pha khác nhau được bố trí 4 bên trên tháp radar của cấu trúc thượng tầng.

Đây được xem là một trong những radar đi tiên phong ứng dụng công nghệ E Scan tại châu Âu, theo đó, chùm tia điện tử được điều khiển ở thời gian thực, có thể thực hiện nhiều công tác trinh sát và giám sát mục tiêu, điều khiển hỏa lực cùng lúc.

Hệ thống liên kết dữ liệu của tàu thiết kế theo chuẩn link-11,16, 22 theo tiêu chuẩn NATO. Ngoài ra, hệ thống định vị toàn cầu GPS, hệ thống laser dẫn hướng, hệ thống dẫn hướng quán tính trên biển và radar hàng hải.

Tàu khu trục F-125 không trang bị sonar mà sử dụng trực thăng NH-90 chống tàu ngầm. Hệ thống tác chiến điện tử trên tàu không được công bố, tuy nhiên nhiều khả năng sẽ dựa trên hệ thống Rheinmetall MASS.

Hệ thống động lực

Tàu khu trục F-125 được trang bị động cơ đẩy kết hợp diesel-điện-khí đốt CODLAG bao gồm: 1động cơ tuabin khí công suất 20MW, 2 động cơ diesel công suất 4,7 MW, 4 máy phát điện diesel công suất 2,9MW.



Hệ thống động cơ kết hợp này mang lại hiệu suất tối ưu và tiết kiệm nhiên liệu.

Các động cơ này kết nối với nhau thông qua 3 hộp số và 2 bộ ly hợp, truyền động ra 2 chân vịt. Sự kết hợp này giúp tiết kiệm nhiên liệu, giảm tối đa tiếng ồn khi hoạt động, đồng thời, giảm chi phí, kéo dài thời gian giữa 2 lần bảo dưỡng.

Động cơ CODLAG có thời gian hoạt động tới 30.000 giờ trước khi cần đại tu, trong trường hợp một trong các động cơ gặp sự cố, bộ ly hợp cho phép ngắt hoạt động của động cơ để tiến hành sửa chửa mà không ảnh hưởng đến khả năng hoạt đông của tàu.

Thông số cơ bản: Dài 145m, rộng 18,1m, mớn nước 5m, lượng choán nước 7.200 tấn tiêu chuẩn, tốc độ tối đa 26 hải lý/giờ, tầm hoạt động 4.000 dặm, thời gian hoạt động liên tục 21 ngày, số giờ hoạt động 5.000 giờ/năm.
[BDV news]


>>Al Qaeda & Các chiến thuật khủng bố mới



Bị truy lùng gắt gao, al Qaeda buộc phải thay đổi chiến thuật các vụ khủng bố của mình.

Suy yếu vì phải lẩn trốn

Hầu hết các chuyên gia phân tích đều cho rằng al Qaeda muốn tổ chức vài vụ tấn công qui mô lớn nhằm chứng minh khả năng và củng cố niềm tin đối với những người ủng hộ.

Tuy nhiên, thực tế là "nói luôn dễ hơn làm” và các tổ chức khủng bố đã buộc phải thay đổi mục tiêu.

Tất cả tiềm lực của al Qaeda trong suốt thập kỷ vừa qua đều tập trung cho mục đích duy trì và cầm cự. Bị suy giảm sức mạnh do mất nhiều lãnh đạo cấp cao, bị tấn công tại biên giới Afghanistan - Pakistan và bị máy bay do thám theo dõi gắt gao đã khiến tổ chức này không còn mạnh mẽ như khoảng 10 năm về trước.

Một số người châu Âu đi theo ủng hộ Jihad (thánh chiến Hồi giáo) đã tự bỏ tiền để mua vũ khí, di chuyển và lẩn trốn trong những vùng núi hẻo lánh ở biên giới Afghanistan-Pakistan.

Theo nhà phân tích Paul Cruickshank, một nhóm người tới từ Bỉ và Pháp đã “được huấn luyện trong những hẻm núi nhỏ, tránh xa khỏi tầm quan sát của các máy bay không người lái”.

“Số lượng chỉ huy cấp cao bị tiêu diệt quá nhiều khiến lãnh đạo al Qaeda phải ra lệnh cho các chiến binh luôn ẩn nấp trong hang núi”, ông Walid Othmani – một người Pháp đi theo al Qaeda cho biết.



Sống chui lủi trong các hang động ở biên giới Afghanistan-Pakistan là chuyện quen thuộc đối với những thành viên al Qaeda.

Sự tiến bộ trong khả năng do thám và tình báo của Mỹ và phương tây khiến cho khả năng al Qaeda thực hiện được những vụ tấn công liên hoàn tại Mỹ và châu Âu gần như là không thể.

Mỹ đã theo dõi gắt gao những đối tượng “có khả năng tham gia thánh chiến” và bắt giữ nhiều đối tượng tình nghi như Najibullah Zazi, Bryant Neal Vinas… Tại châu Âu, các quốc gia như Bỉ, Đức, Tây Ban Nha và Đan Mạch cũng thực hiện rất tốt chiến dịch ngăn chặn từ xa.

Theo giới thạo tin, cho tới nay những bằng chứng được thu thập từ căn nhà của bin Laden tại Abbottabad không cho thấy kế hoạch tấn công lớn nào nhằm vào Mỹ.

Nguồn tài chính cạn kiệt và bị theo dõi quá gắt gao khiến cho al Qaeda không có khả năng tổ chức những vụ tầm cỡ như vụ khủng bố 11/9. Xu hướng thay đổi được sang khủng bố đơn giản và ít chi phí được thấy rõ trong các vụ tấn công gần đây.

Theo các chuyên gia an ninh Mỹ, mối hiểm họa khẩn cấp trong lòng quốc gia này tới từ những “con sói đơn độc” tức giận vì vụ ám sát Osama bin Laden. Những phần tử khủng bố đơn lẻ này không đủ khả năng, tài chính để thực hiện các vụ tấn công tầm cỡ như vụ 11/9.

“Cái chết của Osama bin Laden nhiều khả năng sẽ tạo ra động lực cho các phần tử khủng bố thực hiện tấn công trên đất Mỹ, đặc biệt phải tập trung vào những phần tử đơn độc không chịu rằng buộc từ các tổ chức khủng bố”, bộ an ninh nội địa Mỹ và FBI khuyến cáo.

Mỏ dầu là mục tiêu mới

Theo Phó trợ lý bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ Mario Mancuso, mục tiêu tấn công của al Qaeda có thể chuyển hướng tới vùng Vịnh. “Về phương diện tổ chức, Mỹ là một mục tiêu khó tấn công.

Do vậy, lãnh đạo của chúng tôi đang hết sức quan tâm tới an ninh của các mỏ dầu ở vùng Vịnh và Arab Saudi. An ninh năng lượng là một lý do chủ đạo cho lợi ích của Mỹ trong khu vực này”, Mario Mancuso cho biết.

Đồng thời với việc dễ tổ chức, những cuộc tấn công vào các mỏ dầu cũng mang tính biểu tượng và tạo tiếng vang lớn. Lập luận này cũng phù hợp với quan điểm của các nhà lãnh đạo al Qaeda rằng kinh tế Mỹ rất “mỏng manh”.



Dầu mỏ và vận tải đường biển là những mục tiêu sẽ gây thiệt hại lớn cho nền kinh tế Mỹ và phương tây.


Ông Mario Mancuso cho biết, bản thân Osama bin Laden từng kêu gọi vào năm 2004: “Hãy tích cực ngăn chúng (phương Tây) tiếp cận với các mỏ dầu, hãy tăng cường số vụ khủng bố vào các mục tiêu này, đặc biệt tại Iraq và vùng Vịnh”.

Đây được coi là chiến thuật “chảy máu đến chết” của al Qaeda. Ngay sau cái chết của bin Laden, nhiều diễn đàn Jihad đã kêu gọi tấn công tàu biển ở vùng Hormuz cũng như kênh đào Suez.

Ngoài ra, những kẻ khủng bố khét tiếng mới như Anwar al Awlaki cũng đã rất thành công với chiến lược này. Tạp chí “Inspire” – tạp chí tuyên truyền cho Jihad đã quảng bá vụ al Qaeda tấn công máy bay không vận của Mỹ bằng chất nổ PETN giấu trong máy in với chi phí chỉ khoảng 4.000 USD.

Ám sát cũng là một hướng đi được al Qaeda chú trọng. Vào năm 2009, hoàng tử Arab Saudi Muhammed bin Nayef thoát chết trong gang tấc khi bị một kẻ đánh bom liều chết với thuốc nổ PETN giấu trong quần lót tấn công.

Vài tháng sau đó, 7 nhân viên CIA đã thiệt mạng trong một vụ đánh bom tại căn cứ CIA ở thành phố Khost.


[BDV news]


>> Công nghệ trực thăng Mỹ vô giá trị



Các quan chức ngoại giao của Trung Quốc và Pakistan đã lên tiếng bác bỏ tin đồn hai nước này đang hợp tác với nhau để chia sẽ xác máy bay trực thăng của Mỹ bị rơi.

Trước đó đã có những đồn đoán rằng, Trung Quốc đang xúc tiến các hoạt động với Pakistan để thu lại xác của chiếc máy bay trực thăng tàng hình mà Mỹ đã sử dụng trong chiến dịch tiêu diệt bin Laden tại Pakistan.

Theo đó, một trong số hai chiếc trực thăng phục vụ chiến dich đột kích tiêu diệt bin Laden đã bị bắn trúng và rơi xuống đất. Trước khi rút khỏi đây lực lượng đặc nhiệm Mỹ đã cho nổ bom phá hủy chiếc trực thăng này. Tuy nhiên, phần đuôi và một số bộ phận khác của máy bay vẫn còn sót lại ở chiến địa.



Phần đuôi của chiếc trực thăng này chứa nhiều điều bí ẩn.


Chiếc máy bay bí ẩn mà Mỹ sử dụng trong chiến dịch này khiến giới kỹ thuật quân sự rất tò mò bởi một số ý kiến cho rằng, chính nhờ loại trực thăng này mà lực lượng đặc nhiệm SEAL tiếp cận khu trú ẩn của bin Laden như vào chỗ không người.

Phần đuôi còn lại của chiếc trực thăng bị rơi hé lộ thiết kế chưa từng được nhìn thấy trước đó. Không chỉ Trung Quốc, nhiều nước khác đều quan tâm điều này.

Nhiều ý kiến cho rằng, với "truyền thống tình báo công nghiệp" và mối quan hệ tốt đẹp với Pakistan, Trung Quốc sẽ có nhiều cơ hội hơn ai hết trong việc tìm hiểu chiếc trực thăng bí ẩn này.

Trước những thông tin nói trên, phát ngôn viên của Bộ Ngoại giao Trung Quốc, Khương Du tuyên bố: “Những thông tin nói trên nghe có vẻ vô lý”, và thẳng thừng bác bỏ.

Một nguồn tin quân sự giấu tên của Trung Quốc đã nói với Thời báo Hoàn Cầu rằng, Trung Quốc chưa bao giờ yêu cầu Pakistan chia sẻ thông tin về xác của chiếc trực thăng nói trên.

Nguồn tin này cũng nhấn mạnh rằng, đây là một động thái của giới truyền thông phương Tây nhằm kích động xung đột ngoại giao giữa Bắc Kinh và Islamabad.



Không chỉ Trung Quốc mà nhiều nước khác cũng quan tâm tìm hiểu chiếc trực thăng bí ẩn này.

Trong khi đó đại sứ Pakistan tại Mỹ, ông Husain Haqqani trao đổi với CNN rằng: “Pakistan sẽ không chia sẻ bất kỳ công nghệ nào”.

Các mảnh vỡ sót lại của chiếc trực thăng bí ẩn được giới chức Pakistan thu giữ, sau khi lực lượng Mỹ rút khỏi khu trú ẩn của bin Laden.

Trong khi đó một nguồn tin quân sự giấu tên của Pakistan nói với ABC News rằng, phía Mỹ đã yêu cầu Pakistan trả lại phần còn lại của chiếc trực thăng này. Tuy nhiên phía Trung Quốc bày tỏ sự quan tâm. Vị quan chức quân sự giấu tên của Pakistan cho biết “Chúng tôi có thể cho họ (người Trung Quốc) một cái nhìn về phần còn lại của chiếc trực thăng này”

Các nhà phân tích quốc phòng cho rằng, rất khó để có thể tìm hiểu được nhiều công nghệ từ đống đổ nát này bởi vụ nổ làm biến dạng đặc tính của các vật liệu.



Ông Zhang Zhaozhong.

Zhang Zhaozhong một chuyên gia tại Học viện quốc phòng PLA trao đổi với Thời báo Hoàn Cầu rằng: “Pakistan có quyền bảo quản, trưng bày, nghiên cứu về xác của chiếc trực thăng và đó có thể coi là bằng chứng cho cuộc đột kích”.

Li Daguang một chuyên gia quân sự khác tại Học viện quốc phòng PLA tự tin tuyên bố rằng: “Công nghệ tàng hình không còn là điều bí mật đối với một số quốc gia đặc biệt là Trung Quốc, vốn đã phát triển được công nghệ tàng hình và sử dụng nó trong các máy bay chiến đấu tàng hình của mình”.

Ông Li cho biết thêm: “Công nghệ trong đống đổ nát là vô giá trị, hơn nữa các thiết bị quan trọng đã bị phá hủy trước khi lực lượng đặc nhiệm Mỹ rút đi”.

Dù các nhà ngoại giao có tuyên bố như thế nào đi nữa, thực hư của vấn đề này ra sao, thực tế lịch sử đã ghi nhận không ít trường hợp các hệ thống vũ khí mới được phát triển dựa trên việc tìm hiểu những đống đổ nát.
[BDV news]


Thứ Năm, 12 tháng 5, 2011

>> UAE nhận chiếc C-17 Globemaster III đầu tiên



Flightglobal đưa tin: Tập đoàn chế tạo máy bay Boeing của Mỹ đã chuyển cho Bộ Quốc phòng Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống Nhất (UAE) chiếc máy bay vận tải quân sự C-17 Globemaster III đầu tiên trong số những máy bay đã đặt hàng.




Theo nguồn tin trên, việc chuyển máy bay vận tải quân sự mang số hiệu 1223 đã diễn ra tại nhà máy của Boeing tại Long Beach, California. UAE sẽ nhận tất cả 6 chiếc máy bay C-17 Globemaster III.

Công ty Boeing đã giành được hợp đồng từ UAE cung cấp 6 máy bay vận tải quân sự C-17 vào tháng 1/2010. Sự kiện này đánh dấu việc UAE trở thành quốc gia thứ hai tại khu vực Trung Đông đặt mua máy bay vận tải này sau Qatar.

Chiếc máy bay thứ hai đã được lắp ráp xong và sơn màu; hiện nay việc sản xuất 2 chiếc C-17 tiếp theo đang diễn ra. Dự kiến, UAE sẽ nhận 4 chiếc C-17 vào năm 2011 và 2 chiếc vào năm 2012.

Hiện nay, UAE đang thực hiện chương trình mở rộng khả năng của hàng không vận tải quân sự. Cụ thể, Không quân UAE đang chờ đợi việc cung cấp 5 máy bay vận tải An-32. Trước đó, Bộ Quốc phòng UAE có kế hoạch sở hữu 12 chiếc C-130J Super Hercules của Mỹ, tuy nhiên kế hoạch này đã bị hoãn vô thời hạn. Nguyên nhân của quyết định trì hoãn chưa được tuyên bố.

Một phi công của UAE đã từng chia sẻ: C-17 sẽ tạo điều kiện cho UAE có khả năng thực hiện nhiều hoạt động viện trợ nhân đạo và các chiến dịch chiến lược khác trên khắp thế giới nhằm ủng hộ các sứ mệnh trong nước và quốc tế.

Máy bay vận tải tiên tiến C-17 Globemaster III có thể chở quân, trang thiết bị chiến đấu hoặc hàng viện trợ nhân đạo đến các sân bay nhỏ ở bất cứ nơi đâu trên thế giới.




Với tổng trọng lượng 77 tấn, máy bay C-17 có tầm bay xa khoảng 4.445km. C-17 có thể thực hiện các chuyến bay với vận tốc 830km/h.

Hiện tổng cộng 212 máy bay C-17 đã có mặt trên toàn thế giới, trong đó Lực lượng Không quân Mỹ sở hữu 193 chiếc. Máy bay C-17 có 19 khách hàng nước ngoài, trong đó có lực lượng không quân Anh, Canada và Australia.

[BDV news]


>> Không quân hiện đại của Việt Nam luyện tập



Nếu bạn đứng giữa một sân bay quân sự trong ngày huấn luyện thì mới cảm nhận hết những âm thanh tổng hợp của ngành kỹ thuật hàng không.

Đơn vị C35, B70 làm nhiệm vụ canh trời phương Nam. Những ngày này, cán bộ, chiến sĩ đơn vị đang tích cực ra quân huấn luyện. Tất cả như một đại công trường với những phần việc đảm bảo về kỹ thuật để những chú "chim sắt" có thể cất cánh thực hiện các bài tập trên không.

Ở đây có những quy định nghiêm ngặt đến "nghẹt thở," bởi kỹ thuật hàng không là ngành đòi hỏi cực kỳ khắt khe, một sai lầm nhỏ có thể dẫn đến những hậu quả lớn.

Trong những năm qua, Đoàn Không quân C35, B70 luôn hoàn thành chỉ tiêu huấn luyện của trên giao và bảo đảm an toàn tuyệt đối.


Cảnh các phi công và thợ máy Đoàn Không quân C35 trên các máy bay Su-30 tập luyện.



Máy bay đã được các thành phần kỹ thuật chuyên ngành của Đoàn Không quân C35 kiểm tra kỹ lưỡng, sẵn sàng chờ tiếp thu.


Phi công Đoàn Không quân C35 nhận bàn giao máy bay từ thợ máy.



Sau khi lên khoang lái, phi công sẽ dành một khoảng thời gian để làm công tác chuẩn bị. Thợ máy sẽ giúp họ đóng nắp khoang lái.




Đã yên vị trong khoang lái. Phía trên đầu hai phi công có một chú chim, loài động vật biết bay này là "kẻ thù không đội trời chung" theo cả nghĩa đen và nghĩa bóng với những chiếc máy bay. Một chú chim nhỏ bị hút vào động cơ khi máy bay đang hoạt động trên không sẽ gây hậu quả lớn.



Thợ máy rút thang lên buồng lái và những phụ kiện khác để máy bay có thể lăn ra đường băng.



Chiếc Su-30 đang trên đường lăn dẫn ra đường băng để cất cánh.



Biên đội bay trong bình minh.



Những chiếc máy bay đang tham gia huấn luyện trên không sẽ được quản lý và nhận lệnh trực tiếp từ đài chỉ huy cũng như các đài dẫn đường đóng ở các vị trí khác nhau.



Phi công Đoàn C35 trở về sau chuyến bay với nụ cười trên môi.

[BDV news]


>> Bae System trình làng xe bọc thép mới



Bae system đã tung ra thị trường một mẫu xe bọc thép chở quân hoàn toàn mới RG35 RPU.

Biến thể RG35 RPU được sản xuất tại nhà máy của Bae system ở Nam Phi, mẫu xe bọc thép chở quân mới đã chứng minh khả năng hoàn toàn mới trong việc bảo vệ tổ lái và binh lính đi kèm trước hỏa lực đối phương.

RG35 RPU mang một thiết kế khí động học hoàn toàn mới, mũi xe được thiết kế giống như phần mũi xe tăng, lưới tản nhiệt được bố trí hai bên thay vì ở trung tâm như các mẫu xe khác.



RG35 RPU được trang bị các modun bảo vệ rất chắc chắn.

Xe có 4 bánh lốp cỡ lớn, khoảng sáng gầm xe tương đối cao. Điều này cho phép xe hoạt động trên nhiều địa hình.

Chiếc xe đã chứng minh khả năng tuyệt vời trong trinh sát chiến trường và chở quân. Xe có thể được gắn vũ khí trực tiếp, hoặc gián tiếp lên tháp pháo trên nóc xe.

Vị trí này còn có thể gắn các thiết bị trinh sát như các camera hồng ngoại hay thiết bị điện tử để giám sát chiến trường, xe cũng có thể dễ dàng sửa đổi để chuyển đổi mục đích sang vận tải hàng hóa, đặc biệt trong trường hợp chiến sự ác liệt.

Xe được bọc thép chắc chắn, có thiết kế dạng các mô đun bảo vệ, giúp bảo vệ an toàn tuyệt đối cho tổ lái và binh sĩ đi kèm khỏi bom, mìn, lựu đạn, mảnh đạn pháo, vũ khí cá nhân.

Các nhà sản xuất còn cẩn thận bọc thép cho đáy xe để chống bom, mìn tự tạo.

Khối lượng rỗng của xe lên đến 21 tấn, nặng hơn xe thiết giáp lội nước PT-76 của Nga, khả năng mang tải trọng hàng hóa 3 tấn. Xe có khả năng mang theo 9 binh sĩ với đầy đủ trang bị.

Hiện tại động cơ sử dụng cho xe RG35 RPU chưa được công bố, song với khối lượng lên đến 21 tấn chắc chắn xe phải được trang bị động cơ rất mạnh mới có thể đảm bảo khả năng cơ động.

Xe RG35 RPU có thông số cơ bản, dài 5,2m, rộng 2,6m, tổng chiều cao 2,5m, khoảng sáng gầm xe 414mm.



Cửa lên xuống phía sau của xe RG35 RPU.



Phần mũi xe được thiết kế làm tăng khả năng bảo vệ xe trước các thiết bị nổ

[BDV news]


>> Israel nịnh nọt để Nga hạn chế bán vũ khí cho Iran



Đại sứ Israel Michael Oren tại Mỹ vừa khen ngợi vũ khí Nga vừa kêu gọi Moskav chặt chẽ trong các hợp đồng cung cấp vũ khí cho Syria và Iran.

Đây là một vấn đề trọng tâm trong mối quan hệ giữa Nga và các quốc gia như Israel và Mỹ.

Trong Hội thảo Nga - Do Thái kéo dài 10 ngày, ông Oren cho rằng Nga nên siết chặt sự kiểm soát đối với chương trình xuất khẩu vũ khí sang Trung Đông.

Ông Oren ca ngợi sự hiệu quả của hệ thống phòng thủ tên lửa của Nga nhưng cũng cảnh báo Nga không nên bán vũ khí này cho Syria và Iran.




Tại hội thảo, ông Oren còn kêu gọi người Do Thái tại Nga thuyết phục Chính phủ Nga giúp đỡ Israel trong nỗ lực ngăn chặn chương trình vũ khí hạt nhân của Iran.

Nga đã đồng ý cung cấp nhiên liệu hạt nhân cho nhà máy điện Bushehr của Iran vào năm 2005 và tỏ ra ngần ngại mỗi khi Liên Hợp Quốc thông qua lệnh cấm vận dành cho quốc gia này.

Trong quá khứ, Israel và Mỹ đã nhiều lần kêu gọi Nga chấm dứt việc bán hệ thống phòng thủ tên lửa tiên tiến S-300 cho Iran. Ngoài ra, Israel cho biết lực lượng hải quân của họ gặp nhiều sự đe dọa khi Nga cấp cho Syria hệ thống tên lửa siêu thanh chống tàu P-800 Yakhont.
[BDV news]


>> Trung Quốc đã ‘dòm ngó’ xác trực thăng bí ẩn



Pakistan vừa hé lộ tin làm giới chức Mỹ mất ngủ. Đó là: Trung Quốc bày tỏ sự quan tâm đặc biệt tới xác trực thăng bị SEAL bỏ lại.

Quan chức Pakistan nói rằng họ muốn nghiên cứu xác máy bay tàng hình cải tiến của Mỹ bị lực lượng SEAL bỏ lại sau vụ đột kích giết bin Laden, và cho biết thêm là người Trung Quốc cũng bày tỏ sự quan tâm.

Phía Mỹ đã yêu cầu Pakistan trao trả xác chiếc máy bay này nhưng một quan chức Pakistan nói với hãng ABC rằng người Trung Quốc cũng “rất quan tâm” đến xác chiếc máy bay này. Còn một quan chức khác thì khẳng định: “Rất có thể chúng tôi sẽ cho họ xem.”

Một quan chức Mỹ nói ông không biết chắc liệu Pakistan đã cho người Trung Quốc vào xem chưa, nhưng nói sẽ bị “sốc” nếu người Trung Quốc chưa được tiếp cận với chiếc máy bay bị nạn này.

Các chuyên gia ngành hàng không tin rằng, chiếc trực thăng này là phiên bản của trực thăng Black Hawk được cải tiến và có khả năng tàng hình cao, thể hiện trong chiến dịch bí mật tiêu diệt thủ lĩnh al-Qaeda.

Lực lượng SEAL đã đi trên chuyến bay này và đã cố ý thủ tiêu chiếc máy bay khi buộc phải bsoỏ lại trên sân sau trong dinh thự của bin Laden. Một bộ phận quan trọng của thân sau máy bay và các mảnh vỡ khác, có lơp sơn phủ bí hiểm giống vải mà trẻ em địa phương dùng làm đồ chơi.

Các chuyên gia nói rằng, cấu trúc khác thường của động cơ cánh quạt phía sau, trông như cái vành mũ lạ kỳ bao quanh và toàn bộ thân hình chiếc trực thăng cho thấy nó được cải tiến đặc biệt không chỉ nhằm bay êm mà còn tránh được phát hiện của radar.



So sánh phần đuôi của chiếc trực thăng bị bỏ lại ở Abbottabad và Black Hawk thông thường.

Xác của chiếc trực thăng rõ ràng đã trở thành một quân cờ mới trong trò chơi ngoại giao căng thẳng và đầy ăn thua giữa Mỹ và Pakistan, sau cuộc đột kích đơn phương khiến Islamabad “tự ái”.

Theo Richard Clarke, cựu cố vấn chống khủng bố của Nhà Trắng thì những tiến bộ về công nghệ tàng hình của chiếc trực thăng bỏ lại có thể trở thành “một món quà giá trị” đối với Trung Quốc, và “bởi vì Pakistan được tiếp cận với công nghệ tên lửa của Trung Quốc và các hệ thống vũ khí tiên tiến khác, Islamabad luôn tìm cách để trả ơn Trung Quốc”. Quan hệ giữa Trung Quốc và Pakistan đang là mối “quan hệ thân mật”.

Dan Goure, cựu quan chức Bộ quốc phòng và Phó Chủ tịch Viện Lexington nhận xét là có lẽ trực thăng tàng hình đã giúp cho đội đặc nhiệm SEAL có một lợi thế vô giá vào thời điểm trước khi nổ súng.

Những người hàng xóm của bin Laden ở Abbottabad, nói với ABC News rằng đêm hôm đó họ đã không nghe thấy tiếng trực thăng cho đến khi chúng ở ngay trên đầu.

Trước những thông tin này, quan chức Bộ quốc phòng kiên quyết không bình luận về bất cứ điều gì liên quan đến chiếc trực thăng bỏ lại. Tuy nhiên, Tổng thống Obama đã tiết lộ với tờ Washington Post, đó là một chiếc trực thăng trị giá 60 triệu USD.

Trong khi đó, theo báo cáo mới nhất về mua sắm của Bộ quốc phòng, giá một chiếc Black Hawk bình thường, tùy theo loại, không quá 20 triệu USD.

Nếu người Trung Quốc đã có dịp tiếp cận xác chiếc máy bay này thì đây không phải là lần đầu tiên Bắc Kinh có dịp hưởng lợi trên cái hại của công nghệ Mỹ. Năm 1999, một máy bay tàng hình ném bom Diều hâu đêm F-117A của Mỹ bị bắn hạ tại Serbia. Có nguồn tin xác nhận, Trung Quốc đã mua lại xác của chiếc máy bay này.

Đúng 12 năm sau, chiếc máy bay tàng hình đầu tiên của Trung Quốc, J-20 đã tiến hành bay thử đã gây chú ý quốc tế và khơi nên cuộc tranh luận liệu Trung Quốc có phát triển khả năng tàng hình máy bay dựa vào những điều họ đã học được từ chiếc máy bay Diều hâu đêm bị bắn hạ đó.

[BDV news]


>> Hải quân Ấn Độ tại Biển Đông: Sự khởi đầu suôn sẻ



Tạp chí “Strategic Affairs” số ra tháng 4 cho rằng sự có mặt bước đầu của Hải quân Ấn Độ tại Biển Đông là sự khởi đầu suôn sẻ trong việc giúp nước này đạt được các mục tiêu chiến lược ở khu vực.

Theo bài báo, sự đột phá hồi đầu năm nay của Hải quân Ấn Độ vào Biển Đông để từ đó tới Thái Bình Dương bắt đầu bằng cuộc tập trận với hải quân Singapore cùng với một số máy bay F-16 của không quân nước này được tiến hành từ 18-25/3.

Không như những năm trước, cuộc tập trận chung SIMBEX-2011 gồm một số tàu khu trục mạnh nhất của Ấn Độ và máy bay F-16 của không quân Singapore chỉ khai hoả giả. Cả hai nước đều thể hiện sự nhạy cảm đối với Trung Quốc, nước thời gian gần đây bắt đầu thể hiện sự bực tức trước việc các cường quốc bên ngoài tiến hành các cuộc tập trận như vậy ở vùng biển lợi ích của họ.



Các tàu chiến của Ấn Độ đã tới Biển Đông và việc tham gia cuộc tập trận Malabar với Hải quân Mỹ đầu tháng 4 tại khu vực Tây Thái Binh Dương đã thể hiện Ấn Độ như một cường quốc biển ở khu vực mà tất cả các nước vùng duyên hải hiện đều muốn có quan hệ hợp tác về hải quân.

Ngoại giao hải quân

Cuộc diễn tập Malabar tiếp tục là đỉnh điểm về mối liên kết của hải quân Ấn Độ. Các tàu của Hải quân Nhật Bản cũng dự định sẽ tham gia cuộc tập trận Malabar được tiến hành luân phiên hàng năm ở Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương. Nhật Bản vốn tham gia cuộc tập trận hải quân Malabar trong 5 năm qua song do thảm họa động đất và sóng thần đầu tháng 3 vừa qua nên đã rút các tàu này về nước. Mặc dù vậy, cuộc tập trận này vẫn được tiến hành với sự tham gia của Mỹ và Ấn Độ.

Việc các tàu chiến Ấn Độ tới Biển Đông hiện đã trở thành những nét nổi bật quen thuộc hàng năm được các giới phân tích chiến lược chú ý là do Trung Quốc đòi hỏi lợi ích của họ ở vùng biển này. Sau Chiến tranh Lạnh, lần đầu tiên Hải quân Ấn Độ có thể mạo hiểm vượt ra ngoài khu vực lợi ích của mình là Ấn Độ Dương, tới khu vực gần Biển Đông nhất. Trong số các nước ven bờ Biển Đông, Singapore là nước đầu tiên mời Ấn Độ phát triển quan hệ hợp tác giữa hải quân hai nước từ đầu những năm 1990.

Hải quân Singapore hành xử như một chủ nhà tốt và tiến hành đều đặn các cuộc diễn tập SIMBEX luân phiên hàng năm với Ấn Độ kể từ năm 1994. Điều này đã khích lệ Hải quân Ấn Độ tiến dần hơn vào Thái Bình Dương, nơi cách đây ít năm Hải quân Ấn Độ đã có các cuộc tiếp xúc với Hải quân Nhật Bản. Điều đó đã trở thành đề tài thảo luận trong các giới phân tích chiến lược khi Hải quân Ấn Độ thường xuyên tới Thái Bình Dương.

Khi Trung Quốc có những hành động hung hăng trong việc đòi chủ quyền ở Biển Đông, các quan chức ngoại giao và quân sự Mỹ đã phản ứng bằng tuyên bố rằng Mỹ có lợi ích quốc gia trong việc duy trì tự do hàng hải và tôn trọng luật pháp quốc tế tại Biển Đông. Trước đó, Trung Quốc đã nói với Mỹ rằng họ coi Biển Đông là một trong những khu vực “lợi ích cốt lõi” của họ và chỉ trích sự can thiệp từ bên ngoài vào khu vực này.

SIMBEX 2011

Tuy nhiên, khi Singapore mời Ấn Độ tham gia cuộc tập trận SIMBEX 2011, Hải quân Ấn Độ đã phái 3 tàu khu trục hàng đầu của mình gồm INS Delhi, INS Ranvijay, INS Ranveer, tàu chở dầu INS Jyoti và tàu hộ tống INS Kirch tham gia. Một máy bay liên lạc trên biển cũng được triển khai để xác định thời gian liên lạc thực tế và các tín hiệu trao đổi và phối hợp hoạt động giữa các tàu chiến.

Gần 1.400 lính thủy Ấn Độ đã tham gia cuộc tập trận, trong khi Hải quân Singapore phái 4 tàu chiến, một tàu ngầm và không quân nước này đã triển khai một số máy bay chiến đấu F-16 tham gia. Cuộc tập trận kéo dài khoảng 1 tuần, trong đó bao gồm giai đoạn ven bờ biển được tiến hành tại căn cứ hải quân Changi và giai đoạn sau tiến hành trên biển ở ngoài khơi Biển Đông. Sau đó, các tàu chiến Ấn Độ tham gia tiếp cuộc tập trận Malabar ở Thái Bình Dương.

SIMBEX được bắt đầu từ năm 1994 như một cuộc huấn luyện tập trung cho các cuộc tập trận chống tàu ngầm và từ đó ngày càng được tăng cường về quy mô cũng như mức độ phức tạp của cuộc tập trận, đồng thời nhấn mạnh các mối quan hệ quốc phòng giữa Hải quân Hoàng gia Singapore và Hải quân Ấn Độ. Hải quân hai nước có các cuộc trao đổi thường xuyên qua một loạt các hoạt động, trong đó có các chương trình trao đổi chuyên môn, các cuộc gặp gỡ giữa lính thuỷ và sĩ quan cũng như chương trình trao đổi các lớp đào tạo, huấn luyện. Theo Chuẩn Đô đốc Singapore Leong, hai nước hiểu biết lẫn nhau và có quan hệ tiếp xúc cấp cao trong quản lý an ninh hàng hải. Cuộc tập trận này được tiến hành hàng năm và luân phiên ở Biển Đông và Ấn Độ Dương.

Từ Biển Đông, các tàu chiến Ấn Độ đã tiến sâu hơn vào vùng biển này và đã ghé thăm hàng loạt cảng của các nước vùng duyên hải, trong đó có Việt Nam. Trong bối cảnh quan hệ không thật hữu nghị giữa Trung Quốc và Việt Nam, việc Ấn Độ phát triển sâu sắc các mối quan hệ chặt chẽ và mở rộng quan hệ với Hải quân Việt Nam khiến giới nghiên cứu chiến lược Trung Quốc tức giận cho dù họ không công khai phản ứng trước mối quan hệ ngày càng tăng lên này.

Trung Quốc tỏ ra rất bực tức khi cách đây 5 năm Hải quân Ấn Độ, Nhật Bản, Mỹ và Ôxtrâylia tiến hành cuộc tập trận ở Thái Bình Dương ngay phía trước cửa ngõ lãnh hải Trung Quốc. Sau đó, Ôxtrâylia đã rút khỏi cuộc tập trận tương tự do lo ngại phản ứng của Trung Quốc. Trên thực tế, việc dư luận nói về liên minh 4 quốc gia ở Thái Bình Dương đã làm cho Trung Quốc nổi giận và Ôxtrâylia cùng Ấn Độ cảm thấy “e ngại”. Tuy nhiên, Ấn Độ vẫn tiếp tục tham gia nhóm 3 nước trong các cuộc tập trận ở Malabar. Cuộc tập trận này ban đầu chỉ có Ấn Độ và Mỹ, sau đó Nhật Bản tham gia và chấp nhận hình thức tập trận ba bên này.

Thế nhưng, do xảy ra thảm họa sóng thần và động đất tàn phá đất nước hôm 11/3, Lực lượng phòng vệ Nhật Bản đã không tham gia cuộc tập trận năm nay. Malabar 2011 bao gồm các hoạt động của cả tàu nổi, tàu ngầm và không quân, trong đó các máy bay lên thẳng của hải quân của nước này cất và hạ cánh xuống các tàu chiến của hải quân nước kia. Các hoạt động khám xét, tấn công, tìm kiếm và truy bắt (VBSS), trong đó các đội VBSS Ấn Độ và Nhật Bản “tấn công” lên các tàu khu trục Mỹ để mô phỏng việc tìm kiếm một tàu buôn là đỉnh điểm của cuộc tập trận.

Hoạt động ngoại giao hải quân của Ấn Độ không chỉ hạn chế ở cuộc tập trận gồm ba quốc gia này. Cũng chính các tàu chiến Ấn Độ tham gia SIMBEX 2011 và Malabar 2011 đã giao lưu và tập trận với Hải quân Nga. Cuộc tập trận này mang tên INDRA phản ánh khát vọng mạnh mẽ của Ấn Độ muốn có quan hệ đối tác năng động với hải quân tất cả các nước khu vực này và các nhóm quốc tế.

Trên thực tế, các cuộc tập trận với một loạt nước thể hiện sự chấp nhận rộng rãi coi Ấn Độ như một cường quốc hải quân tốt, ôn hoà hiện có vai trò trong chính sách hàng hải, tìm kiếm cứu hộ trên biển và bảo vệ môi trường đại dương. Vai trò của Hải quân Ấn Độ trong cuộc chiến chống cướp biển được đánh giá cao trên thế giới cũng như các nước ven bờ Ấn Độ Dương đang ngày càng đòi hỏi Hải quân nước này phải hỗ trợ cho việc đối phó với các loại hình tội phạm khác nhau trên biển.

Tại Biển Đông, Hải quân Ấn Độ cũng có quan hệ với các nước khác như Inđônêxia và Malaixia. Việc phát triển quan hệ sâu sắc với các nước ASEAN bảo đảm cho Ấn Độ cơ hội tiến hành các chuyến thăm thường xuyên ở vùng biển gần lãnh hải Trung Quốc./.
[BDV news]


>> Năm con rồng khuấy động biển cả (Kỳ 1)



Bài viết của Lyle J. Goldstein, Trường Cao đẳng Hải chiến Hoa Kỳ phân tích, đánh giá chi tiết chức năng, nhiệm vụ của 5 đơn vị mà tác giả gọi là “Năm con rồng” hình thành nên lực lượng chấp pháp trên biển của Trung Quốc .

Trong thời đại mà sự phô trương lực lượng giữa các cường quốc diễn ra rất tinh vi, bảo vệ bờ biển có vai trò mới và quan trọng trên vũ đài thế giới. Khi Washington muốn thể hiện sự hối lỗi và muốn tiếp viện Gru-di-a đang bị bao vây mà không làm gia tăng căng thẳng vốn đã nóng bỏng ở quanh Hắc Hải, USCGC Dallas, một tàu tuần duyên lớn của Mỹ đã được phái đi.1 Xu hướng này đã trở nên rõ ràng từ lâu ở châu Á. Lần sử dụng các lực lượng chết người rộng rãi nhất của Tokyo sau chiến tranh thế giới II là hành động của lực lượng tuần duyên Nhật Bản chống lại một tàu thăm dò Bắc Hàn.2

Gần đây hơn, một tàu tuần duyên Nhật Bản đã đánh chìm một tàu cá Đài Loan trong một vụ va chạm gần đảo Senkaku/Điếu Ngư Đài đang tranh chấp ở vùng biển Hoa Đông, châm ngòi cho những tranh chấp ngoại giao tương đối nghiêm trọng.3




Những lực lượng tuần duyên hùng mạnh nhất châu Á này đang đặt ra một tiền lệ xấu. Ví dụ, Ấn Độ đã thông báo một vụ mua máy bay chiến đấu dài hạn táo bạo phục vụ cho việc tuần tra biển vào mùa thu 2008.4 Đội tuần duyên đã được cải thiện của Hàn Quốc, trong khi đó, đã mời các phóng viên nước ngoài tiến hành một chuyến du lịch gần các đảo do Hàn Quốc quản lý nhưng Nhật Bản cũng tuyên bố chủ quyền, làm cho chuyến tham quan mang ý nghĩa hiếu chiến.5

Với những thông tin trên, cùng với sự đồng thuận rộng rãi rằng sự trỗi dậy của Trung Quốc là một trong những hiện tượng quan trọng nhất ảnh hưởng đến an ninh quốc tế trong thế kỷ 21, điều lạ lùng là cơ cấu tổ chức, khả năng, văn hóa dịch vụ hay triển vọng của lực lượng tuần duyên Trung Quốc này hầu như không được biết đến. Trong khi lực lượng tuần duyên Nhật Bản đã thu hút đáng kể sự chú ý gần đây của giới học giả trong lĩnh vực này, những sự phát triển tương tự của Trung Quốc đã không được chú ý, mặc dù những tài liệu nguồn về vấn đề này ở Trung Quốc là rất dồi dào.6 Đáng chú ý là một chuyên gia hàng đầu về “phòng vệ biên giới” của Trung Quốc gần đây đã nhận định rằng công trình của ông “chỉ xem xét cách tiếp cận của Trung Quốc trong việc bảo vệ biên giới đất liền của nước này…Những nghiên cứu trong tương lai nên nghiên cứu cách tiếp cận của Trung Quốc đối với việc phòng vệ biển.”7

Tất nhiên, các học giả cũng đã tương đối chú ý đến sự phát triển của hải quân Trung Quốc, và điều này là hoàn toàn hợp lý.8 Tuy nhiên, những nghiên cứu về sự phát triển của hải quân Trung Quốc có xu hướng tập trung vào những tình huống tranh chấp xa bờ và căng thẳng, bao gồm những cuộc khai phá dưới biển và những cuộc tập trận đổ bộ, cũng như những tiềm năng trong tương lai với việc bảo vệ đường biển mở rộng, triển khai sức mạnh và răn đe hạt nhân. Một vụ việc được biết đến rộng rãi năm 2009 liên quan đến tàu do thám Mỹ và các tàu hải giám của Trung Quốc (cùng với các tàu đánh cá Trung Quốc) cũng đã làm rõ hơn sự hiểu biết về khả năng giám sát hàng hải phi quân sự của Trung Quốc.

Nhìn chung, các vấn đề bảo vệ bờ biển và đặc biệt là các vấn đề liên quan đến cái được gọi là an ninh phi truyền thống đã không được xem xét đầy đủ trong bối cảnh hàng hải Trung Quốc. Nếu nhận thức của Trung Quốc về vấn đề quản lý và giám sát bờ biển, an ninh cảng, cướp biển, buôn lậu ma túy, bảo vệ môi trường, tìm kiếm và giải cứu tiếp tục ít được biết đến bên ngoài Trung Quốc, hợp tác giữa các cường quốc biển Đông Á có thể cũng sẽ tiếp tục kém phát triển.9 Việc triển khai quân chưa từng có tiền lệ tháng 12 năm 2008 của hải quân Trung Quốc cùng với các lực lượng hải quân khác ở Vịnh Aden trong hoạt động chống cướp biển, không còn nghi ngờ gì nữa, là một bước tiến rõ rệt theo đúng hướng. Tuy nhiên, còn rất nhiều điều có thể và nên được thực hiện để tìm ra điểm chung với Trung Quốc trong việc đối phó với các mối đe dọa phi truyền thống.

Ngày nay, Trung Quốc còn khá yếu trong lĩnh vực trung tâm cực kỳ quan trọng - sức mạnh hàng hải, là sự kết hợp giữa năng lực thương mại và sức mạnh quân sự cứng và liên quan đến quản lý hàng hải, tức là thực thi luật pháp của một quốc gia và đảm bảo “trật tự tốt đẹp” ngoài khơi của quốc gia đó.10 Mặc dù đã có những tiến bộ lớn lao trong thập kỷ vừa qua, các cơ quan cưỡng chế hàng hải Trung Quốc vẫn chia rẽ và tương đối yếu. Nhiều chuyên gia Trung Quốc đã miêu tả tình trạng này một cách khá châm biếm là có quá nhiều “những con rồng khuấy động biển cả.”11 Ở Đông Bắc Á, khả năng tuần tra hàng hải yếu của Trung Quốc là ngoại lệ, đặc biệt nếu đem so sánh với khả năng tuần duyên của Nhật Bản (hay ở ngoài khu vực là Mỹ). Thật vậy, lực lượng tuần duyên của Nhật Bản gần đây đã được miêu tả là gần như, nếu không muốn nói là hoàn toàn, là hải quân thứ hai của Tokyo.12

Sự yếu kém tương đối của Trung Quốc trong lĩnh vực này là một điều bí ẩn và đã đặt ra câu hỏi nghiên cứu của bài này. Tình trạng yếu kém tương đối này được nêu ở phần một của nghiên cứu. Phần hai lần lượt miêu tả và phân tích tình trạng hiện tại của năm bộ máy thẩm quyền chịu trách nhiệm giám sát và quản lý hàng hải ở Trung Quốc ngày nay. Phần ba đưa ra câu hỏi là các cơ quan này, và bất kỳ một lực lượng tuần duyên thống nhất nào của Trung Quốc trong tương lai, có mối quan hệ như thế nào đối với hải quân Trung Quốc.

Trước khi đưa ra tác động và triển vọng, phần bốn sẽ đi sâu phân tích một loạt những lý giải vĩ mô cho sự yếu kém của các cơ quan tuần tra bờ biển Trung Quốc hiện nay. Phần năm phân tích các khả năng cho việc hợp tác an ninh hàng hải trong tương lai, bằng cách xem xét kỹ sự tham gia hàng hải dân sự Mỹ-Trung giữa các thực thể tuần duyên trong thập kỷ vừa qua. Phần cuối cùng làm rõ ba gợi ý chiến lược khả thi cho việc tăng cường khả năng tuần duyên của Trung Quốc. Toàn bộ nghiên cứu này dựa trên hàng trăm nguồn tài liệu tiếng Trung, các cuộc phỏng vấn tại Trung Quốc, và đặc biệt là một điều tra rất chi tiết và cực kỳ trung thực vào năm 2007 của giáo sư He Zhonglong và ba thành viên khác tại Học viện cảnh sát tuần tra biển Trung Quốc tại Ninh Ba.13

Sự phát triển đang diễn ra của các thực thể tuần duyên Trung Quốc thành những cơ quan quản lý hàng hải đồng bộ và hiệu quả đặt ra cả thách thức và cơ hội cho an ninh và ổn định ở Đông Á. Việc mở rộng khả năng sẽ tự nhiên dẫn đến sự thực thi chặt chẽ hơn các tuyên bố biển của Trung Quốc trước các nước láng giềng.14

Tuy nhiên, một kết quả triển vọng tốt đẹp hơn là việc tăng cường khả năng quản lý hàng hải của Trung Quốc sẽ dẫn đến việc Bắc Kinh sẽ sẵn sàng ủng hộ các quy tắc an ninh và an toàn hàng hải như một “nhân tố hàng hải” đủ năng lực và thiết yếu.

Sự yếu kém tương đối trong môi trường láng giềng mạnh

Những yếu kém của lực lượng tuần duyên Trung Quốc là nguồn tư liệu phong phú cho các nhà phân tích về biển Trung Quốc. Xem xét quy mô phát triển hàng hải của Trung Quốc, những nhà phân tích này cho rằng tiềm lực của lực lượng tuần duyên nước này là nhỏ bé và rời rạc. He Zhonglong và những cộng sự của ông viết: “Các lực lượng cảnh sát biển của chúng ta…không tương xứng với vị thế và hình ảnh của một siêu cường”.15

Ông và các tác giả nói thêm: “Hiện nay, trong hải đội của lực lượng tuần duyên, đa số là các tàu tuần tra có trọng tải nhỏ hơn 500 tấn, và con số trực thăng hải vận càng cho thấy lực lượng này không đạt đến những yêu cầu của một lực lượng chấp pháp trên biển toàn diện”.16 Các giáo sư của Học viện Cảnh sát Biển Ninh Ba cũng khẳng định rằng tình hình hiện nay là không thể chấp nhận được: “Trung Quốc là quốc gia có dân số đông, và các nguồn tài nguyên trên đất liền của nước này là không đủ. Các đại dương có thể thay thế và bổ sung không gian cho đất liền, và đối với các nguồn tài nguyên thì biển cũng có trữ lượng tiềm năng khổng lồ cùng với ý nghĩa chiến lược.”17

Ngược lại, những cường quốc ở Thái Bình Dương khác, đặc biệt là Mỹ và Nhật, duy trì các lực lượng tuần duyên rất mạnh. Các nhà phân tích hàng hải Trung Quốc ghi nhận đầy đủ và thấu hiểu thực tế so sánh bất lợi này. Quả thật, mức độ hiểu cặn kẽ của phía Trung Quốc về tiềm lực tuần duyên Mỹ và Nhật là rất ấn tượng, điều này ngay lập tức gợi cho người ta đồng thời sự đố kỵ lẫn ngưỡng mộ.19 Ví dụ như, để minh họa cho sự yếu kém của lực lượng tuần duyên Trung Quốc, He Zhonglong đã chỉ ra rằng Lực lượng Tuần duyên Hoa Kỳ (USCG) được trang bị 250 máy bay các loại, trong khi phía Nhật có 75 máy bay. Các đơn vị tuần duyên Trung Quốc, với tiềm lực không quân trực thuộc kém phát triển hơn, chắc chắn không thể triển khai nhiều hơn 36 máy bay các loại.20

Máy bay rất quan trọng một mặt trong việc tuần tra tầm xa và mặt khác trong các nhiệm vụ cứu hộ phức tạp. Hơn nữa, những yêu cầu mang tính chuyên nghiệp đòi hỏi lực lượng tuần duyên của một quốc gia phải duy trì các đơn vị không quân mạnh là rất lớn. Do đó, các con số kể trên phản ánh được khoảng cách rất lớn giữa lực lượng tuần duyên Trung Quốc và lực lượng tuần duyên của các quốc gia Thái Bình Dương khác, điều này được ghi nhận rõ ràng bởi các nghiên cứu của Học viện Ninh Ba.21

Bảng 1 minh họa rằng dù các đơn vị tuần duyên của CHND Trung Quốc (PRC) có tương đối nhiều tàu tuần tra loại nhỏ và rất nhỏ (dưới 1,500 tấn), Bắc Kinh vẫn có ít hơn cả Washington và Tokyo về số tàu loại vừa (1,500 – 3,000 tấn) và loại lớn (trên 3,500 tấn).22 Nghiên cứu của Học viện Ninh Ba chỉ thêm rằng Hàn Quốc (ROK) đã tiến hành thành công vào năm 1996 chiến dịch thống nhất các đơn vị chấp pháp trên biển riêng lẻ thành một Lực lượng tuần duyên Hàn Quốc thống nhất, hùng mạnh theo mô hình của Mỹ và Nhật.23


Động lực để Bắc Kinh nâng cấp năng lực tuần duyên của mình rõ ràng liên quan đến mục tiêu chiến lược tổng thể của nước này là tăng cường tiềm lực hàng hải nói chung và do đó, hoàn toàn phù hợp với sự phát triển nhanh của hải quân Trung Quốc. Quả thực, tác động của sáng kiến này đối với an ninh Đông Á là rất quan trọng và sẽ được phân tích ở phần kết luận của bài nghiên cứu này. Sắc thái trong các bài phân tích của Học viện Ninh Ba rõ ràng gợi cho chúng ta thấy tầm quan trọng của yếu tố an ninh quốc gia trong tư tưởng của người Trung Quốc về tiềm lực tuần duyên.

Ví dụ, những tác giả của phân tích kể trên nhìn nhận rằng “ngày nay, tư duy có từ thời Chiến tranh Lạnh vẫn tồn tại ở nhiều quốc gia… Vẫn có những thái độ thù địch”24. Xét đến vấn đề nhạy cảm liên quan đến chủ quyền ở Biển Đông, phân tích kể trên chỉ ra rằng: “Một mặt, Trung Quốc và 10 quốc gia thuộc khối ASEAN đã ký Quy tắc ứng xử trên Biển Đông ở Phnôm Pênh, [nhưng] ở mức độ nào đó, những gì đã diễn ra đó là chủ quyền và lợi ích của Trung Quốc đang tiếp tục bị xâm phạm nghiêm trọng”25.

Động cơ kể trên hoàn toàn không có gì bất ngờ và phù hợp trong bối cảnh chủ nghĩa dân tộc đang tồn tại mạnh mẽ trong giới trí thức Trung Quốc và trong các phân tích về chính sách nói chung.

Tuy nhiên, một luồng tư tưởng lớn khác liên quan đến việc xây dựng tiềm lực tuần duyên của Trung Quốc đang tồn tại rõ rệt mà nhận thức rõ về quá trình toàn cầu hóa và sự phụ thuộc lẫn nhau càng nhiều giữa các quốc gia. Theo luồng tư tưởng này, cũng có thể tìm thấy rõ ràng và chi tiết trong phân tích của Học viện Ninh Ba, chúng ta có thể nhận thấy một khái niệm tinh tế và đáng khích lệ rằng lực lượng tuần duyên, dựa trên tính chất linh hoạt của nó, có thể hoạt động như một bước đệm giữa các lực lượng hải quân khác, hỗ trợ trong việc làm dịu đi tranh chấp giữa các quốc gia có thể xảy ra tại Đông Á.

Theo dòng tư tưởng đó, khái niệm này càng được củng cố thêm, He Zhonglong và các cộng sự kết luận: “Mọi người sống với nhau trên cùng một hành tinh, và cùng đương đầu với những đe dọa chung, và có cùng những lợi ích chung”26. Một phân tích khác cũng chỉ ra tương tự rằng những mối quan hệ quốc tế mà các lực lượng tuần duyên khác đã gầy dựng được “rất nhiều lần thành công trong việc đẩy lùi các hoạt động tội phạm xuyên quốc gia”.27

Nghiên cứu của Học viện Ninh Ba cuối cùng cũng chỉ ra nguyên nhân nằm ở yếu tố tổ chức khi giải thích các yếu kém của lực lượng chấp pháp biển Trung Quốc. Như các tác giả của bản nghiên cứu viết:

“Mô hình tổ chức quản lý trên biển của Trung Quốc là chưa lý tưởng. Trong khoảng thời gian rất lâu, đã tồn tại một tình trạng “nhóm rồng lũng đoạn vùng biển”: trong tất cả các tình huống, luôn có rất nhiều bên tham gia, mỗi bên có quyền lực riêng của mình, với thẩm quyền chồng chéo, cũng như những lỗ hổng rõ ràng. Về mặt bên trong, điều này gây ra những vấn đề trong việc thi hành pháp luật sao cho phù hợp, trong khi xét về bên ngoài, không thấy có sự thống nhất trong các nỗ lực. Kết quả là cho ra đời một lực lượng thụ động, yếu kém và không hiệu quả.28

Trong khi bản thân lý giải này đã là khá thuyết phục, bài phân tích sẽ xem xét thêm một số nguyên nhân tiềm năng của sự yếu kém này, bên cạnh việc nghiên cứu những triển vọng cho việc cải tổ, tiềm năng cho việc phát triển xa hơn nữa hợp tác quốc tế về an ninh biển, và các gợi ý mang tính chiến lược liên quan đến an ninh Đông Á.
[Nghiencuubiendong news]


>> Nga muốn mua máy bay siêu khổng lồ An-225 Mriya



Nhà máy hàng không Kiev sẽ hoàn thiện máy bay vận tải siêu nặng An-225 Mriya nếu có khách hàng, chủ tịch hội đồng quản trị công ty Motor Sich (Ukraine) Vyacheslav Boguslayev cho biết.

Theo ông này, Bộ trưởng Quốc phòng Nga Anatoly Serdyukov khi thăm Nhà máy hàng không Kiev đã quan tâm đến khả năng hoàn tất chế tạo chiếc An-225 Mriya (Ước mơ) thứ hai chế tạo dở vào cuối thập niên 1980.

Thời Liên Xô, người ta ngay từ đầu đã khởi công chế tạo 2 chiếc An-225. Một chiếc đã hoàn tất và đang được khai thác bởi công ty Antonov Airlines, thuộc tổ hợp KHKT hàng không Antonov (ANTK Antonov). Chiếc thứ hai, theo một số nguồn tin, đã hoàn thành 60-70%. Trước đó, giám đốc điều hành của hãng Antonov nói rằng, để hoàn tất chế tạo chiếc An-225, cần có gần 100 triệu USD, trong đó 25 triệu chi cho mua động cơ.

Bộ Quốc phòng Nga trước đây không công bố ý định mua An-225. Kinh phí cho việc chế tạo hoàn tất và mua máy bay không được đưa vào chương trình vũ khí quốc gia giai đoạn 2011-2020 vốn có hiệu lực từ ngày 30.12.2010. Chương trình này có dự kiến mua các máy bay vận tải An-70 và An-124 Ruslan (An-124 sẽ được sản xuất tại Nga).

An-225 Mriya (testpilot.ru)

Năm 2004, An-225 đã được đưa vào Sách kỷ lục Guiness sau khi lập được số lượng kỷ lục nhiều nhất.

Liên đoàn hàng không quốc tế (FAI) đã ghi nhận 6 kỷ lục thế giới mà máy bay lập ngày 16, 18 và 19.6.2004, đưa số kỷ lục do máy bay lập được lên con số 240.

“Như vậy, An-225 đã lập 240 kỷ lục hàng không thế giới. Là máy bay cất cánh với trọng lượng tối đa (trọng lượng cất cánh 640,860 tấn) và lập được nhiều kỷ lục hàng không nhất, An-225 Mriya được đưa vào Sách kỷ lục Guiness”, - một đại diện ANTK cho hay.


An-225 (ANTK Antonov)

Cụ thể, các chuyên gia đã ghi nhận các kỷ lục tốc độ ở 2 hạng máy bay vận tải turbine phản lực С-1 và C-1t (trọng lượng cất cánh trên 300 tấn) trên 3 đường bay do FAI phê chuẩn. Tốc độ của An-225 trên đường bay Praha-Kiev là 684,67 km/h, Kiev-Ulyanovsk - 662 km/h, Tashkent-Kiev - 693,2 km/h.

Trước đó, ngày 11.9.2001, đã ghi nhận kỷ lục trọng tải khi máy bay đưa lên độ cao 2 km 253,82 tấn hàng. Lúc đó, tải trọng thương mại trên máy bay là 4 xe tăng do Bộ Quốc phòng Ukraine cung cấp.

Siêu máy bay vận tải An-225 được thiết kế và chế tạo năm 1984-1988, dùng để chở hàng kích thước lớn (trong khoang hàng và treo bên ngoài) trên các đường bay xa. Dự án An-225 còn là một bộ phận của chương trình phóng tàu vũ trụ từ máy bay.

An-225 Mriya là máy vận tải quân sự lớn nhất thế giới với trọng tải 250 tấn. Máy bay đã lập kỷ lục tuyệt đối chở 253,8 tấn hàng. Máy bay có khả năng đạt tốc độ bay đến 850 km/h và thường bay ở tốc độ đến 800 km/h. Tầm bay là gần 15.000 km. Máy bay được trang bị 6 động cơ có lực đẩy mỗi chiếc 229,5 kN. An-225 Mriya có mức độ tiêu chuẩn hóa cao về các hệ thống, tổ máy, tổng thành và linh kiện khung thân, động cơ và thiết bị với máy bay khổng lồ khác là An-124-100 Ruslan.

Hiện nay, trên thế giới chỉ có 1 chiếc An-225.
[Vietnamdefence news]


>> Đức bắt đầu đóng frigate lớp Type 125



Ngày 9.5.2011, tại xưởng đóng tàu của hãng Blohm + Voss (Đức) đã diễn ra lễ khởi công đóng frigate đầu tiên lớp Type 125 là F125 với việc cắt những tấm thép đầu tiên.

Tàu sẽ được khởi đóng vào tháng 11.2011. Dự kiến, F125 sẽ hoàn tất và chuyển giao cho Hải quân Đức vào năm 2016.

Tháng 8.2010, có tin Bộ Quốc phòng Đức, bất chấp những biện pháp tiết kiệm ngặt nghèo, vẫn dự định mua nhiều tàu nổi và tàu ngầm cho Hải quân Đức và chuyển giao bắt đầu từ năm 2012.


F125 (naval-technology.com)


Theo kế hoạch, từ năm 2016-2019, Hải quân Đức sẽ nhận vào biên chế 4 frigate mới.

Hợp đồng phát triển, đóng và bàn giao các frigate lớp Type 125 được ký với công-xooc-xi-om Thyssen-Krupp và Lurssen vào năm 2007.

Các tàu mới sẽ thay thế các frigate cũ lớp Bremen. F125 có lượng giãn nước 7.200 tấn, chiều dài 149,5 m, chiều rộng 18,8 m, mớn nước 5 m. Tàu có thể chạy với tốc độ 26 hải lý/h, cự ly hành trình 4.000 hải lý.



F125 (ARGE F125)

F125 sẽ được trang bị 8 tên lửa chống hạm RGM-84 Harpoon, 2 hệ thống tên lửa phòng không RAM Block II với 21 ngăn phóng mỗi hệ thống và 2 hệ thống pháo phòng không tầm gần, 1 pháo trọng lượng nhẹ 127 mm Otobreda bắn đạn tấn công mặt đất có điều khiển Vulcano tầm bắn trên 100 km, 2 pháo tự động điều khiển từ xa MLG 27 27 mm, 5 ụ súng máy điều khiển từ xa 12,7 mm Hitrole-NT và 2 súng trọng liên điều khiển bằng tay 12,7 mm.

Ngoài ra, tàu sẽ được trang bị các hệ thống tự vệ TKWA và MASS. F125 sẽ chở theo 2 trực thăng NHI NH-90.
[Vietnamdefence news]


>> 'Khoảng trống' giữa J-11 tới J-20



Những cái tên J-10, J-11 và J-20 đã xuất hiện nhan nhản và tốn không ít giấy mực của báo chí, thế nhưng sự gián đoạn giữa chúng là những khoảng tối mà Trung Quốc không muốn nhắc đến.

Kể từ lúc ngành công nghiệp sản xuất máy bay Trung Quốc chập chững những bước đầu tiên trong việc sản xuất máy bay chiến đấu, khi mày mò lắp ráp chiếc Zhong-0101- chiếc J-5 đầu tiên - từ phụ tùng máy bay Mig-17 được Liên Xô viện trợ, nước này chưa bao giờ để lại khoảng trống khi đặt tên cho những thế hệ máy bay chiến đấu của mình.

Công nghiệp hàng không quân sự Trung Quốc lần lượt cho ra: J-6 (bản sao Mig-19), J-7, J-8 (>> chi tiết) (bản sao, nâng cấp của Mig-21), J-9 (tiêm kích hạng nhẹ một động cơ phát triển dựa trên máy bay Mig-21, đã ngừng phát triển từ những năm 1980 để nhường chỗ cho việc nâng cấp máy bay J-8), J-10 (>> chi tiết) (máy bay thế hệ thứ tư đầu tiên của Trung Quốc tự sản xuất dựa trên thiết kế máy bay Lavi của Israel và F-16 họ nhận được từ Pakistan), J-11 (bản sao của Su-27SK). (>> chi tiết)

Tuy nhiên, kể từ J-11, bỗng dưng truyền thông Trung Quốc im ắng rồi nhảy phắt một bước tới việc công bố máy bay thế hệ thứ 5 đầu tiên với tên gọi J-20. Phải chăng họ đã từ bỏ truyền thống này để thể hiện một sự nhảy vọt? Thực tế không phải vậy, những mẫu J-12 cho đến J-19 đã và đang tồn tại, nhưng một số đã đi vào ngõ cụt, số khác đang được gấp rút hoàn thành, mang theo mình những kỳ vọng không kém "ngôi sao" J-20.

Bài viết dưới đây xin lần lượt điểm lại các mẫu máy bay ít được truyền thông Trung Quốc nhắc tới:

J-12

Đối với máy bay chiến đấu, việc yêu cầu cất/hạ canh trên đường băng ngắn luôn là một tiêu chí đáng để tiếp cận. Loại máy bay nào có khả năng cất/hạ cánh ở đường băng càng ngắn, càng có thể bố trí chiến đấu ở nhiều khu vực hơn, nhất là những đảo nhỏ không thể xây dựng được đường băng dài.

Vào đầu những năm 1970, Trung Quốc quyết tâm chế tạo ra một loại máy bay chiến đấu có khả năng cất/hạ cánh trên đường băng ngắn để thay thế cho máy bay Mig-19 đang sử dụng.

Do trình độ khoa học kỹ thuật thời đó chưa đủ để chế tạo ra những động cơ mạnh, các kỹ sư Trung Quốc buộc phải là giảm khối lượng máy bay đến mức tối đa. Từ quan điểm này, J-12 ra đời tại Nhà máy Công nghiệp Không quân Nam Xương.



J-12 tại sân bay trong một buổi thử nghiệm

Xuất phát từ quan điểm chế tạo, J-12 có thể được xem là một trong những máy bay chiến đấu phản lực nhẹ nhất thế giới với khối lượng rỗng chỉ có 3,2 tấn, khối lượng cất cánh thông thường 4,5 tấn, tối đa 5,3 tấn.

Được trang bị một động cơ Wopen WP-6 (bản sao của động cơ RD-9BF của Liên Xô), J-12 chỉ yêu cầu đường băng cất hạ cánh có độ dài dưới 500m, đây là một tiến bộ lớn khi so sánh với các máy bay cùng thời.



Số phận của loại máy bay J-12 khá đen đủi, nó đi thẳng từ phòng thiết kế đến bảo tàng

Tuy nhiên, với khả năng thể hiện quá yếu kém: Tốc độ tối đa chỉ đạt 1.300 km/h; bán kính tuần tiễu 688 km; bán kính chiến đấu 405 km, khối lượng vũ khí mang theo chỉ đạt hơn 1 tấn treo trên ba mấu treo vũ khí, kém xa J-7 (bản sao của Mig-21 được Trung Quốc sản xuất đại trà sau đó nên năm 1977), dự án sản xuất J-12 đã bị đình chỉ vĩnh viễn để nhường "vốn" đầu tư cho J-7 và J-8.

J-13

Tương tự J-12, J-13 cũng là một đề án sản xuất máy bay của Trung Quốc nhằm thay thế biên đội J-6 (Mig-19) cũ kỹ của nước này vào đầu những năm 1970. Tuy nhiên, J-12 được thiết kế tại Nam Xương còn J-13 là sản phẩm của Tổng công ty máy bay Thẩm Dương.



Máy bay J-13 có thiết kế cửa hút gió hình bán cầu hẹp hai bên thân tương tự như Mirage F1 của Pháp

J-13 được thiết kế là máy bay tiêm kích đánh chặn hạng nhẹ một động cơ. Ban đầu, J-13 có thiết kế tương tự như máy bay Mirage F1 của Pháp với hai cửa hút gió hai bên ép sát thân.

Tuy nhiên, đến đầu những năm 1980, khi máy bay thế hệ thứ 4 xuất hiện, đội ngũ thiết kế J-13 được đặt nhiệm vụ phải tạo ra mẫu máy bay có tính năng tương đương để khắc Mig-29 của Liên Xô hay F-16 của Mỹ.

Trong giai đoạn này, phiên bản J-13V ra đời với thiết kế cửa hút gió hình chữ nhật, phía dưới thân tương tự như máy bay J-10 ngày nay.



Máy bay J-13V (phía dưới) có cửa hút gió hình chữ nhật dưới thân tương tự J-10 ngày nay

J-13 có chiều dài 17,5m, sải cánh 10,4m và có khối lượng cất cánh là 11,66 tấn. Loại máy bay này có thể mang theo 4,5 tấn vũ khí trên các giá treo ở thân và cánh. Được trang bị động cơ WS-6, J-13 có thể đạt tốc độ 3.000 km/h (Mach 2,45) với tầm hoạt động lên tới 2.340 km.

Tuy nhiên, đến khi công việc thiết kế cơ bản hoàn thành, J-13 trở lên lỗi thời, do đó chương trình phát triển J-13 bị hủy bỏ để nhường chỗ cho loại máy bay hiện đại hơn là J-10 của Nhà máy Thành Đô.

Tuy vậy, một số thành quả thiết kế của J-13 vẫn được áp dụng cho các loại máy bay sau này của Trung Quốc như kiểu cửa hút gió (áp dụng cho J-10).

J-14

J-14 là một trong những bước đầu tiên của Trung Quốc nhằm chế tạo máy bay thế hệ thứ 5. Được coi là một thiết kế rất thành công, thiết kế của J-10B đã được Xưởng thiết kế của Thành Đô sử dụng lại, sửa đổi và nâng cấp để chế tạo ra một loại máy bay tiêm kích đa năng hạng nặng, có hình dáng giảm thiểu phản xạ sóng radar.


Máy bay J-10B, nguyên mẫu dùng để để thiết kế J-14

Tuy J-14 thiết kế chủ yếu dựa trên J-10, nhưng người Trung Quốc còn thêm thắt một vài kiểu dáng và một số bộ phận của MiG 1.44 MFI (Nga). Phần thân máy bay phình to về phía đuôi để chứa khối động cơ của YF-23 Black Widow.

Toàn bộ phần thân trước của máy bay có thiết kế dẹt kiểu “mũi vịt” tương tự máy bay tiêm kích - ném bom Su-34 và các cửa khoang vũ khí, càng tiếp đất có hình răng cưa giống như F-22. Để giảm thiểu thể tích khoang chứa càng tiếp đất, các ống của càng tiếp đất có thể lồng vào nhau tương tự như Eurofighter Typhoon của châu Âu.

Cửa hút khí của J-14 được thiết kế dưới phần bụng của thân trước, chỗ lồi của cửa hút khí này cũng làm giảm thiểu khả năng phản xạ sóng radar khi sóng tới từ phía trước. Tuy nhiên, việc bố trí cửa hút khí của J-14 khiến luồng khí vào động cơ sẽ bị méo nếu một động cơ gặp sự cố. Điều này dẫn tới mất an toàn cho máy bay.


J-14 có nhiều đặc điểm thiết kế vay mượn các loại máy bay khác nhằm giảm thiểu phản xạ sóng radar

Về vũ khí, J-14 dự tính được trang bị một pháo 6 nòng cỡ 23 mm tương tự pháo GSh 6-23 được lắp trên MiG-31 hay Su-24. Các vũ khí khác được đặt trong hai khoang nhỏ hai bên thân và một khoang lớn dưới bụng gồm các tên lửa đối không tầm ngắn PL-8, R-73 hay tên lửa tầm trung R-77, PL-12.

J-14 cũng được trang bị radar có khả năng bắt bám nhiều mục tiêu và hệ thống trinh sát quang điện tử FLIR, hồng ngoại IRST.

Buồng lái của J-14 cũng được thiết kế tối ưu với các thông số hiển thị trên các màn hình LCD đa chức năng (MFD). Kiểu thiết kế “bong bóng” của buồng lái cũng giúp tăng khả năng quan sát của phi công.

Ngoài ra, phi công J-14 còn được trang bị mũ bay tiên tiến với hệ thống hiển thị thông tin ngay trên mũ (HUD).


Hình vẽ tổng thể máy bay J-14

Từng xuất hiện trên báo chí vào khoảng năm 2006, nhưng đến thời điểm hiện tại các thông tin về J-14 đã mờ nhạt và gần như lãng quên. Khả năng lớn nhất là dự án này đã bị đình lại để Trung Quốc dồn toàn lực vào việc phát triển J-20 và các loại máy bay sử dụng trên tàu sân bay như J-15 hay J-18.

[BDV news]


Copyright 2012 Tin Tức Quân Sự - Blog tin tức Quân Sự Việt Nam
 
Lên đầu trang
Xuống cuối trang