Tin Quân Sự - Blog tin tức Quân sự Việt Nam: Quân đội Liên Xô

Paracel Islands & Spratly Islands Belong to Viet Nam !

Quần Đảo Hoàng Sa - Quần Đảo Trường Sa Thuộc Về Việt Nam !

Hiển thị các bài đăng có nhãn Quân đội Liên Xô. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Quân đội Liên Xô. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Năm, 21 tháng 3, 2013

>> Giải mật cuộc chiến biên giới Xô - Trung năm 1969

Nhiều năm về trước, cuộc xung đột biên giới giữa bộ đội biên phòng Xô viết và PLA (quân đội TQ), có nhiều điều ít được biết tới về cuộc xung đột này. Dưới đây là toàn cảnh một trận đánh ác liệt từ những chiến sĩ biên phòng – cách mà giới truyền thông quốc tế vẫn gọi là xung đột vũ trang biên giới.

>> Nhìn lại chiến tranh biên giới Việt - Trung 1979
>> Bí mật cuộc diễn tập quân sự lớn nhất của Liên Xô năm 1979


Lịch sử và địa lý của đảo Damanski

Damanski (Trân Bảo đảo theo cách gọi của người Trung Quốc) - hòn đảo nhỏ không có người ở trên sông Ussuri. Chiều dài khoảng 1500-1700 m, chiều rộng khoảng 500 m. hòn đảo nằm cách bờ là 47 mét tính từ phía Trung Quốc và 120 mét tính từ bờ bên Liên bang Xô viết. Tuy nhiên, theo thỏa thuận với Bắc Kinh vào năm 1860 và bản đồ được vẽ vào năm 1861, đường biên giới giữa hai nước đã chạy dài không phải trên đường trục tâm của dòng sông Ussuri mà chạy theo bờ sông bên Trung Quốc. Như vậy, hòn đảo trên thực tế lịch sử là một phần không thể tách rời của lãnh thổ Liên Xô.

Vào giữa năm 1968, những cái đầu nóng của Bộ tổng tham mưu PLA với mục đích tạo sức ép giải quyết vấn đề biên giới giữa CCCP và Trung Quốc đã vạch ra kế hoạch triển khai một đòn tấn công quân sự đủ mạnh trên khu vực biên giới Suifenhe. Tại khu vực này, các khu đồn trú của bộ đội biên phòng CCCP nằm gần với lãnh thổ Trung Quốc và việc đánh chiếm các đồn biên phòng này trên lý thuyết hoàn toàn không gặp khó khăn. Để giải quyết bài toán này, các đơn vị chiến đấu của quân đoàn 16 PLA được lệnh hành quân đến khu vực biên giới Suifenhe. Mục tiêu cần lấn chiếm đầu tiên được lựa trọn là là đảo Damaski. Theo khẳng định của một cán bộ thuộc Viện hàn lâm khoa học xã hội Trung Quốc ông Lý Dân Huệ, khu vực Damask được lựa chọn không phải là ngẫu nhiên.

Thứ nhất: Trong các cuộc đàm phán về đường biên giới, dường như Đảo Damaski có vẻ nghiêng về phía Trung Quốc, do đó, có thể phản ứng của Liên bang Xô Viết sẽ không quá gay gắt và quyết liệt. Thứ hai – Đảo Damaski nằm dưới quyền kiểm soát của quân đội Xô viết mới bắt đầu từ năm 1947, điều đó cho thấy, hiệu quả của các hoạt động lấn chiếm biên giới sẽ lớn hơn nhiều, so với các khu vực đang tranh chấp khác. Đồng thời, tại khu vực Damaski, Liên bang Xô viết chưa xây dựng được một khu vực phòng thủ biên giới đủ độ tin cậy về sức mạnh và cơ sở vật chất, điều cần thiết để tiến hành một đòn giáng trả dựa trên sức mạnh tổng hợp của các lực lượng.

25 Tháng 1 năm 1969, nhóm sĩ quan tham mưu của Quân khu Thẩm Dương đã hoàn thiện bản kế hoạch tác chiến mang tên "Trừng phạt". Để thực hiện được kế hoạch này, kiến nghị phải sử dụng lực lượng chủ công là 3 đại đội bộ binh và một số các đơn vị yểm trở và dự bị thê đội 2, bí mật triển khai trên khu vực đảo Damaski. Ngày 19 tháng 2 năm 1969, kế hoạch tác chiến mang tên “Trừng phạt” được phê chuẩn bởi Bộ tổng tham mưu PLA, thống nhất với Bộ Ngoại giao Trung quốc và nhận được sự đồng thuận của các nhà lãnh đạo cao cấp chính phủ.

Theo chỉ lệnh của Bộ tổng tham mưu PLA, lực lượng bộ đội biên phòng Trung Quốc được bổ xung thêm một trung đội tăng cường, tổ chức thành từ 2 – 3 nhóm tuần tiễu. Thành công của hành động quân sự dựa trên cơ sở của yếu tố bất ngờ. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, bước triển khai tiếp theo là đưa toàn bộ lực lượng tham chiến nhanh chóng thu dọn chiến trường, rút lui về tuyến phòng thủ đã chuẩn bị trước đồng thời khẳng định chủ quyền trên đảo bằng truyền thông.


Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Các quân nhân PLA với trước tác Mao Trạch Đông trên tay đang khẩu chiến với các sĩ quan biên phòng Liên xô trên biên giới.

Trong đó, đặc biệt quan trọng là lấy chứng cứ buộc tội quân đội Xô viết về các hành động xâm lấn “ vũ khí trang bị, các bức ảnh chụp”….

Sự kiện xung đột trên Damaski diễn ra như sau:

Vào đêm ngày mồng 1 rạng ngày mồng 2 tháng 3 năm 1969. Một lực lượng binh sĩ và sĩ quan lớn Trung Quốc bí mật tập hợp bên kia biên giới, bờ bên Trung Quốc của sông Ussri. Sau này đã xác định được, đó là một tiểu đoàn tăng cường của PLA, quân số gần 500 người biên chế thành 5 đại đội, hỏa lực chi viện gồm có 2 khẩu đội súng cối và 1 khẩu đội pháo. Hỏa lực đi cùng có pháo không giật, súng máy hạng nặng và súng máy hạng trung (thượng liên), súng phóng lựu chống tăng RPG-2 model Trung Quốc. Tiểu đoàn được biên chế trang bị đầy đủ cho chiến đấu. Theo các nguồn tin thu được sau này, các đơn vị này được huấn luyện đặc biệt nửa năm để tiến hành các hoạt động tác chiến trên đường biên. Cũng trong đêm đó 3 đại đội bộ binh quân số khoảng 300 người bí mật triển khai đội hình phòng thủ dọc theo đường bờ dốc tự nhiên. Tất cả các quân nhân Trung Quốc đều mặc áo choàng ngụy trang, vũ khí được chuẩn bị sao cho không gây tiếng động (buồng nòng được tưới pha-ra-phin, lưỡi lê được bọc bằng giấy, để không làm lóe sáng ban đêm).

Trận địa hỏa lực gồm có 2 khẩu đội súng cối 82-mm và một khẩu đội pháo binh (cỡ nòng -45 mm), kết hợp với súng đại liên cỡ nòng lớn, trận địa được bố trí sao cho có thể tiến hành phát huy hỏa lực vào vũ khí, phương tiện cũng như binh lực của quân đội Liên Xô bằng đường ngắm trực tiếp. Các trận địa súng cối (theo phân tích kết quả trận đánh) cũng được lấy tọa độ bắn rất chính xác từ trước. Trên toàn bộ hòn đảo, hỏa lực của tất cả các hỏa khí được tổ chức để có thể tạo ra một lưới lửa dầy đặc trên toàn bộ tiền duyên tiểu đoàn, có chiều sâu từ 200m đến 300 m.

2 tháng 3 vào lúc 10.20 (theo giờ địa phương ) từ trạm quan sát của Liên xô, ban chỉ huy biên phòng nhận được thông báo có hai nhóm quân nhân có quân số là 18 và 12 người, xuất phát từ trạm gác Hùng Sa. Hai nhóm quân nhân tiến về phía biên giới Xô viết với ý đồ thách thức rõ rệt.Đồn trưởng đồn biên phòng "Nhiznhie Mikhailovka" thượng úy Ivan Strelnikov nhận được mệnh lệnhngăn chặn và trục xuất những người Trung Quốc, cùng với một chiến sĩ lính biên phòng trên xe bộ binh cơ giới BTR-60PB (№ 04) và hai chiếc xe ô tô quân sự di chuyển cơ động về hướng những kẻ xâm phạm biên giới. Tính huống cũng được thông báo cho hai trạm trưởng hai trạm canh gác biên phòng hai bên sườn khu vực là B. Bubenin và Soroxov. Đồn trưởng đồn biên phòng "Kulebyakiny copki" nhận được mệnh lệnh yểm trợ cho phân đội của thượng úy Ivan Strelnikov.

Có thể nhận thấy rằng, mặc dù gần một tuần quân đội PLA cơ động binh lực số lượng lớn trong khu vực liền kề với khu vực biên giới, cùng với những hoạt động chuẩn bị đường hành quân cơ động về khu vực biên giới, nhưng từ Bộ tư lệnh quân khu Thái Bình dương hầu như không có một động thái tăng cường các hoạt động cảnh giới như tăng cường lực lượng cho các trạm biên phòng hoặc tiến hành các hoạt động điều nghiên, giám sát của các lực lượng trinh sát, tình báo quân đội. Hơn thế nữa, vào ngày Trung Quốc tấn công, biên chế của đồn "Nhiznhie Mikhailovka" chỉ có 1/2 quân số, cũng trong ngày đó theo biên chế có 3 sĩ quan chỉ huy, có mặt tại chỗ chỉ có Thượng úy Ivan Strelnikov, ở đồi biên phòng "Kulebyakiny sopki" quân số có mặt sẵn sàng chiến đấu có lớn hơn.

10.40 giờ, thượng úy I. Strelnikov tiến đến vị trí các quân nhân Trung Quốc xâm phạm biên giới chủ quyền, ra lệnh cho các chiến sĩ sẵn sàng, súng ở tư thế Mang và triển khai đội hình hàng ngang. Các chiến sĩ biên phòng chia ra thành hai tốp. Tốp thứ nhất do thượng úy I. Strelnikov chỉ huy, tốp thứ hai có 13 chiến sĩ do hạ sĩ Rabotri chỉ huy, có nhiệm vụ bảo vệ phía bên sườn của I. Strelnikov từ phía bờ sông phía Trung Quôc. Nhóm của I. Strelnikov trên khoảng cách 20 m tiến đến gần các quân nhân Trung Quốc. Thượng úy I. Strelnikov giải thích với bên quân nhân PLA về biên giới và yêu cầu họ quay trở về địa phận Trung Quốc.



Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Bức ảnh cuối cùng, được chụp bởi N. Petrov, Các quân nhân PLA tản ra các vị trí khác nhau và chỉ sau 1 phút, đã bắn thẳng vào các chiến sĩ biên phòng Xô viết. 2 tháng 2 năm 1969.

Đừng đằng sau chỉ huy trường là binh nhất N. Petrov, anh chụp ảnh và quay phim ghi lại các bằng chứng xâm phạm biên giới của các quân nhân PLA. Chụp một số các bức ảnh bằng máy ảnh Zorky – 4, sau đó bắt đầu quay phim. Đúng thời điểm đó một quân nhân PLA ra hiệu, hàng quân thứ nhất của PLA tản ra khỏi vị trí, hàng quân thứ hai hạ súng bắn thẳng vào đội hình của binh lính biên phòng Xô viết trên khoảng cách khoảng từ 1-2m. Tổ chiến sĩ biên phòng bao gồm Thượng úy J. Strelnikov, Thượng úy N.Buinevich thuộc Cục công tác đặc biệt, phòng số 57 lực lượng canh phòng biên giới., các binh sĩ N. Petrov, Vetrich, A. Jonas, V. Izotov, Alexander Shestakovhy sinh tại chỗ. Cùng lúc, từ phía hướng đảo Damaski, hỏa lực tập trung từ súng máy hạng nặng, tiểu liên, súng phóng lựu bắn thẳng vào tốp biên phòng xô viết còn lại. Một số chiến sĩ hy sinh tại chỗ, số còn lại phân tán và chiếm vị trí bắn trả. Nhưng do địa hình hoàn toàn trống trải, họ nhanh chóng bị bắn hạ, nhưng binh sĩ bị thương bị diệt bằng lưới lê. Cả hai tốp chiến sĩ biên phòng chỉ còn lại một chiến sĩ sống sót – binh nhất Gennady Serebrov. Anh bị thương ở tay, chân, lưng và bị đâm bằng lưỡi lê và bị ngất. Các chiến sĩ biên phòng - lính thủy của lữ đoàn tuần tiễu trên sông, khi đến chi viện cho phân đội của I. Strelnikov đã phát hiện ra và đưa về quân y viện.

Cũng vào thời điểm đó, phân đội của hạ sĩ Yu. Babanski tiếp cận trận địa, bị chậm lại so với phân đội của I. Strelnikov trên đường do xe bị trục trặc kỹ thuật. Lính biên phòng phân tán chiếm lĩnh vị trí chiến đấu và khai hỏa nhằm về phía binh sĩ của PLA. Đáp trả đợt phản công, binh lính PLA tập trung hỏa lực súng cối, súng máy hạng nặng và tiểu liên. Đặc biệt, các trận địa súng cối tập trung hỏa lực vào lớp băng xung quanh xe BTP và ô tô. Kết quả là một xe GAZ 69 bị bắn tan tành, một xe GAZ-66 bị hư hỏng nặng. Sau đó mấy phút, xe BTP№ 4 cùng kíp xe đến kịp chi viện cho Babanski. Hỏa lực dữ dội từ tháp pháo trên xe đè bẹp các điểm hỏa lực của đối phương, giúp cho năm chiến sĩ còn sống sót từ đội của Babanski thoát ra khỏi lưới lửa dày đặc.

Sau 10 – 15 phút chống trả dưới hỏa lực vượt trội nhiều lần của đối phương, tiếp cận trận địa là phân đội cơ giới của đội biên phòng số 1 thuộc đồn biên phòng "Kulebyakiny sopki" dưới quyền chỉ huy của thượng úy B. Bubenin.



Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Các chiến sĩ biên phòng đội số 1, tham gia chiến đấu trong các trận đánh ngày 02 và 15 tháng 3 trên đảo Damaski.1969.

Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Sơ đồ tác chiến ngày 2 tháng 2 năm 1969.

“Đổ bộ từ xe BTR, ẩn nấp ở sườn phía đông của bờ sông, chúng tôi triển khai đội hình chiến đấu hàng ngang và xông lên đảo - V. Bubenin kể lại - Khoảng 300m trước chúng tôi là nơi đã xảy ra thảm họa. Nhưng chúng tôi không biết điều đó. Chúng tôi có 23 người. Theo đội hình chiến đấu chúng tôi tiến về phía tiếng súng đang thưa thớt dần. Khi chúng tôi đi được khoảng 50 m, chúng tôi phát hiện, từ sườn dốc tự nhiên trên đảo, một trung đội binh sĩ PLA ồ ạt tấn công. Họ vừa la hét, vừa chạy và bắn. Khoảng cách giữa binh sĩ xô viết và PLA khoảng 150 – 200 m và nhanh chóng rút ngắn lại. Tôi không nghe thấy tiếng nổ, chỉ nhìn thấy từ nòng súng đối phương chớp lửa liên tục. Hiểu là bắt đầu trận đánh, nhưng lại cho rằng không phải sự thật, họ chỉ bắn đạn mã tử và dọa chúng tôi".

Hỏa lực phản kích của phân đội Bubenin thật dữ dội, đợt tấn công quyết liệt của PLA bị đẩy lùi ra phía sau sườn dốc che khuất tự nhiên trên đảo. Thượng úy Bubenin trúng thương, ra lệnh cho bộ đội lên xe, và quyết định đi vòng quanh đảo, tấn công từ phía sau đối phương.

"Lực lượng PLA rất đông – V. Bubenin thuật lại – họ ồ ạt nhẩy từ trên bờ sông dốc đứng xuống sông băng và xông thẳng lên đảo. Khoảng cách đến đối phương là 200 m. Tôi ra lệnh khai hỏa toàn bộ hỏa lực trên xe từ súng máy 14,5mm và 7,62mm. Sự xuất hiện của xe BTR ngay sau hậu phương khiến các binh sĩ PLA sững sờ, đến nối cả đám đông đang chạy đột ngột đứng sững lại, như vấp phải tường đá. Họ hoàn toàn bị choáng mất vài giây, đến nỗi không kịp cả bắn. Hỏa lực súng máy và súng bộ binh trên xe tạo thành một trận mưa đạn, khoảng cách giữa binh sĩ PLA và xe rút ngắn rất nhanh. Binh sĩ PLA vỡ trận, lớp bị đạn bắn gục, lớp quay trở lại bờ sông, cố gắng trèo lên rồi bị trượt xuống. Các sĩ quan PLA bắn thẳng vào những người lính rút lui để buộc họ lao vào trận đánh. Tình hình thật sự hỗn loạn, xe BTR và quân lính của PLA quấn lấy nhau trong một trận hỗn chiến giữa xe và người ở ngay bên bờ của đảo Damaski.

Mặc dù rất nhiều chiến sĩ biên phòng đã hy sinh, bản thân V. Buberin bị thương lần thứ 2, nhưng trận đánh vẫn diễn ra khốc liệt. Chuyển sang xe BTR thứ hai do xe số 1 bị hỏng, Buberin lại đánh tạt sườn đội hình tấn công của đối phương, đợt tấn công thứ hai bất ngờ đã tiêu diệt trạm chỉ huy tiền phương của tiểu đoàn PLA và sinh lực địch cũng bị tổn thất rất nhiều.

Trung tâm của trận địa là tiểu đội do Trung sĩ Ivan Larechkin chỉ huy, bình nhất Plekhanov Peter Kuzma Kalashnikov, Sergei Rudakov, Nicholas Smelov. Ở bên cánh phải, chỉ huy chiến đấu làTrung sĩ Alexei Pavlov. Trong bộ phận của anh có: Quản trị trưởng Victor Korzhukov, bình nhấtAlex Zmeev, Alex Sursev, Vladimir Izotov, Islamgali Nasretdinov, Ivan Vetrich, Alexander Yunhin, Vladimir Legotina, Peter Velichko và những quân nhân khác.

Đến 14.00 giờ cùng ngày, lực lượng biên phòng Xô viết đã chiếm lại đảo. Theo các bản tin chính thức, trong hơn hai giờ chiến đấu quyết liệt, bên PLA tổn thất 248 binh sĩ và sĩ quan, trong trận đánh này 31 chiến sĩ biên phòng đã hy sinh, hơn 20 người bị thương ở các cấp độ, quản trị trưởng Pavel Akylov bị bắt và bị bắn chết, xác bị ném trả cho lực lượng biên phòng.

Cuộc tấn công của quân đội Trung Quốc vào lực lượng biên phòng Liên xô đã gây lên phản ứng dữ dội trong chính quyền Liên bang Xô viết và các lãnh đạo Lực lượng vũ trang. 2 tháng 3 năm 1969. Chính quyền CCCP gửi công hàm cho chính quyền Trung Quốc, trong công hàm đã lên án quyết liệt hành động xâm phạm chủ quyền này. Trong đó có đoạn viết: “"Chính phủ Liên Xô dành cho mình quyền hành động quyết liệt nhằm ngăn chặn các hành động khiêu khích trên đường biên giới Liên Xô-Trung Quốc và cảnh báo chính phủ Trung Quốc rằng, mọi trách nhiệm đối với hậu quả của chính sách thiếu thận trọng với sự leo thang xung đột vũ trang trên biên giới giữa Trung Quốc và Liên Xô, thuộc về chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa" Nhưng phía Trung Quốc đã bỏ qua bức công hàm nghiêm khắc này.

Để ngăn chặn mọi hành động khiêu khích quân sự có thể tiếp tục leo thang, trong khu vực của các đồn biên phòng "Nhiznhi Mikhailovka" và "Kulebyakiny sopki" được điều đến từ lực lượng dự bị của quân khu biên giới Thái bình dương các đơn vị cơ giới ( hai đại đội bộ binh cơ giới, 2 trung đội xe tăng và khẩu đội cối 120 mm. Đơn vị bộ đội biên phòng số 57 được biên chế thêm một biên đội máy bay trực thăng Mi-4 thuộc phi đội máy bay biên phòng Ussuri. Vào đêm ngày 12 tháng 3 các đơn vị thuộc sư đoàn bộ binh cơ giới số 135 của Quân khu Viễn đông do tướng Nhesov chi huy bao gồm: trung đoàn BBCG số 199, trung đoàn pháo binh, tiểu đoàn xe tăng độc lấp 152, tiểu đoàn trinh sát độc lập số 131 và tiểu đoàn pháo phản lực Grad BM-21. Ở đây, bộ tư lệnh biên phòng quân khu Thái Bình dương đã ra lệnh thành lập cụm quân lực cấp chiến dịch và bổ nhiệm phó tư lệnh trưởng quân khu, đại tá G.Sechkinym.

Đồng thời cùng với những hoạt động tăng cường sức mạnh phòng thủ biên giới, đã tiến hành tích cực các hoạt động trinh sát thu thập thông tin. Theo những kết quả đạt được từ trinh sát, bao gồm cả trinh sát đường không và trinh sát vũ trụ, PLA tập trung vào khu vực đảo Damaski các lực lương rất lớn – chủ yếu là bộ binh và pháo binh. Ở chiều sâu 20 km so với đường biên đã xây dựng kho tàng quân sự, sở chỉ huy và điều hành tác chiến cùng với các công trình khác. Ngày 7 tháng 3 trên hướng Damaski và Kirkin đã xác định được lực lượng PLA tập trung đến 1 trung đoàn bộ binh cơ giới với các trang thiết bị tăng cường. Trong khoảng 10 – 15 km tính từ đường biên giới trinh sát phát hiện đến 10 khẩu đội pháo cỡ lớn. Ngày 15 tháng 3 phát hiện trên hướng Guberovski có một tiểu đoàn bộ binh, trên hướng Imacki – một trung đoàn cũng với xe tăng tăng cường, trên hướng Patenleymonov 2 tiểu đoàn tăng cường, trên hướng Pavlovo – fedorov một tiểu đoàn. Tổng số quân lực Trung Quốc tập trung trong khu vực tác chiến tuyến biên giới lên đến một sư đoàn cơ giới đi cùng với các phương tiện tác chiến tăng cường.

Trong những ngày này, phía PLA cũng tăng cường các hoạt động trinh sát mục tiêu, sử dụng cả các máy bay trinh sát. Phía Liên xô không triệt phá các hoạt động trinh sát của đối phương, cho rằng, nếu thấy được thực lực từ phía quân đội Xô viết. PLA sẽ chấm dứt các hoạt động khiêu khích. Nhưng điều đó đã không xảy ra.

Ngày 12 tháng 3 một cuộc gặp giữa đại diện của lực lượng biên phòng Xô viết và đại diện của lực lượng biên phòng Trung Quốc đã được thực hiện. Trong cuộc gặp, sĩ quan biên phòng Hutou của Trung Quốc, dựa vào trước tác Mao Trạch Đông, đã tuyên bố sẽ sử dụng vũ lực mạnh mẽ đối với lực lượng biên phòng đang canh giữ đảo Damaski của Liên xô để bảo vệ chủ quyền của Trung Quốc.

Ngày 14 tháng 3 vào hồi 11.15 các trạm quan sát xô viết phát hiện được một cụm binh lực PLA lớn đang cơ động về hướng đảo Damaski. Hỏa lực của súng máy đã ngăn chặn lực lượng này và toán quân buộc phải quay lại phía bờ của Trung Quốc.

Vào lúc 17.30 hai tốp lính PLA từ 10-15 người đã tiếp cận hòn đảo và bố trí các hỏa điểm trong đó có 4 súng máy và các vũ khí khác. 18.45, lực lượng PLA chiếm lĩnh bàn đạp tấn công ngay phía sau các hỏa điểm được củng cố vững chắc.

Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Sơ đồ tác chiến ngày 15 tháng 2 năm 1969.

Để ngăn chặn các đòn tấn công tiếp theo. 6.00 ngày 15 tháng 3 một lực lượng cơ động mạnh của đơn vị biên phòng dưới quyền chỉ huy của đại tá E. Yanshin (45 người được trang bị cả súng phóng lựu) trên 4 xe BTR-60pb. Yểm trợ cho lực lượng là thê đội dự bị bộ đội biên phòng – 80 người (thuộc trường Trung cấp Biên phòng của đơn vị biên phòng số 69 Quân khu biên giới Thái bình dương) trên 7 xe BTR-60pb cùng với súng phóng lựu đạn gaz hơi cay và súng máy hạng nặng.

10.05 cùng ngày, lực lượng PLA triển khai đánh chiếm đảo, hỏa lực của 3 khẩu đội súng cối dọn bãi bao trùm lên toàn bộ hòn đảo từ 3 hướng khác nhau, nhằm vào tất cả các khu vực của hòn đảo và bờ sông, nơi nghi ngờ binh sĩ biên phòng Xô viết có thể ẩn nấp.

Phân đội của E. Yanshina bắt đầu trận đánh:

"…trong xe chỉ huy ngột ngạt tiếng gầm rú của động cơ, tiếng nổ, khói xe và khói thuốc súng-Yanshin nhớ lại- Tôi nhìn ngang, Sylzenco (xạ thủ súng máy) vất cả áo lông, áo khoác, một tay nhấn cò súng, một tay cởi cúc cổ áo quân phục…anh chàng đứng phắt dậy, gạt bỏ ghế ngồi và đứng xả đạn vào đội hình tiến công của đối phương…..


Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Chỉ huy trưởng phân đội cơ động mạnh của đơn vị biên phòng số 57 đại tá E.I.Yanshin cùng với các chiến sĩ biên phòng của mình, 15 tháng 3 năm 1969.

“…Gần như không ngoái lại, xạ thủ Sulzenco giơ tay cho băng đạn mới. Xạ thủ số 2 Kruglov phải cố gắng lắm mới kịp nạp đạn. Tất cả đều im lặng, hiểu nhau qua hành động. Tôi ra lệnh – bình tĩnh, tiết kiệm đạn, đồng thời quay kính quan sát chiến trường, chỉ thị mục tiêu. Quân đội PLA, bất chấp lưới lửa dày đặc, tiếp tục đổ dồn lên tấn công. Hết đợt này đến đợt khác…Trong tiếng nổ, khói bụi của mìn và đạn pháo các xe bộ binh cơ giới khác hoàn toàn không thể nhìn thấy. Tôi ra lệnh không dùng mật khẩu: Tôi tiến công, Mankovsky và Klyge bắn che, yểm hộ sau lưng. Lái xe Smelov vào số và đạp gaz hết cỡ, xe chồm lên, vượt qua lưới lửa ngăn chặn, với tay lái điêu luyện, Smelov cơ động ngoằn ngoèo tránh các hố đạn pháo và đạn cối, xông thẳng vào đội hình tiến công của đối phương, tạo điều kiện cho hỏa lực trên xe. Đột ngột, súng máy im bặt, Sylzenco ngẩn người trong chốc lát. Nạp đạn, lên đạn và nhấn cò điện – chỉ phát một. Quân PLA ồ ạt xông đến. Sylzenco mở khóa nòng, sửa lại lẫy đẩy đạn. Đóng nắp hộp khóa nòng và nhấn cò. Hỏa lực của súng máy gần như trực diện vào đối phương. Tôi ra lệnh cho Smelov- Tiến-và đợt tấn công tiếp theo bị đẩy lùi.

Bị tổn thất một số chiến sĩ và mất 3 xe BTR, Yanshin buộc phải lùi lại bên bờ sông, đến 14.40 thay đổi biên chế và các xe BTR đã bị hỏng, bổ sung cơ số đạn đầy đủ, Yanshin lại tiếp tục tổ chức tấn công và đánh bật đối phương ra khỏi các vị trí địch chiếm được. Tăng cường thêm lực lượng dự bị, PLA tổ chức hỏa lực dữ dội của súng cối, pháo và súng máy hạng nặng vào các xe BTR. Kết quả là 1 xe BTR trúng một loạt đạn cối và pháo bắn trực diện, 7 chiến sĩ hy sinh tại chỗ. Sau mấy phút chiếc xe BTR thứ 2 bốc cháy. Thượng úy L. Mankovsky, bắn che cho đồng đội rút lui bằng súng máy trên xe, đã không thoát ra được và bị cháy cùng với xe. Trong vòng vây còn lại một xe BTR, trung úy Kluga chỉ huy. Xe kiên cường chiến đấu và cơ động linh hoạt, phải sau gần nửa giờ, phát hiện điểm yếu trong tuyến chiến đấu của đối phương, xe BTR đột phá rất mạnh, chọc thủng vòng vây và trở về đội hình chiến đấu. .

Trong thời gian cuộc chiến đấu diễn ra quyết liệt, một đại đội xe tăng 9 chiếc T-62 hành quân đến khu vực chiến sự. Ban chỉ huy trận đánh quyết định sử dụng phương án đòn đột kích từ phía sau đảo, sử dụng tình huống mà V. Bubenin đã thành công trong ngày 2 tháng 3. Trung đội xe T-62 do đại tá D.Leonov chỉ huy trưởng đơn vị bộ đội biên phòng Imansk. Nhưng đòn đột kích không thành công, lần này, lực lượng PLA đã sẵn sàng đón chờ tình huống. Khi các xe tăng xô viết tiến đến gần bờ sông phía Trung Quốc, hỏa lực dày đặc và tập trung của súng cối, pháo và súng chống tăng lập tức chùm lên các xe. Xe chỉ huy đầu tiên bị bắn vỡ hệ thống chuyển động và mất khả năng cơ động, hỏa lực lập tức đổ dồn lên xe bị trúng đạn. Các xe còn lại của trung đội vừa bắn vừa lùi về tuyến chiến đấu bên bờ bên này của biên giới. Mọi biện pháp cứu hộ và giải thoát cho xe bị hỏa lực súng bộ binh của PLA đẩy lùi. Đại tá D. Leonnov trúng thương vùng tim, hy sinh tại xe.

Mặc dù đã có những tổn thất nặng nề về binh lực, Matxcova vẫn chưa quyết định đưa lực lượng quân đội vào tham chiến. Quan điểm của Trung tâm rất rõ ràng. Khi trận đánh đang được tiến hành bởi lực lượng biên phòng, mọi vấn đề ngoại giao đều có thể đưa về Xung đột biên giới, dù có sử dụng vũ khí. Đưa lực lượng quân đội thường trực vào trận, sẽ làm tăng thêm cường độ xung đột, có thể trở thành xung đột vũ trang và chiến tranh nhỏ khu vực. Nếu xét đến những cái đầu nóng trong PLA, có thể xảy ra một cuộc chiến tranh lớn – giữa 2 nước có sở hữu vũ khí hạt nhân.

Tình hình chính trị đã quá rõ ràng với tất cả mọi người. Nhưng tình huống xảy ra, khi ngay bên cạnh mình các chiến si biên phòng hy sinh, còn các đơn vị chiến đấu thì khoanh tay bàng quang quan sát, cảm giác hoàn toàn không dễ chịu, sự không quyết liệt của lãnh đạo đất nước và quân đội đã gây lên sự bất bình và tức giận.

“Lực lượng quân đội kết nối vào mạng thông tin biên phòng, và tôi nghe thấy, các chỉ huy đơn vị kêu réo cấp trên của mình do không kiên quyết – Chủ nhiệm chính trị phân đội biên phòng Imanski trung tá A.D. Konstantinov nhớ lại – họ muốn lao vào trận đánh, nhưng bị trói buộc cả chân lẫn tay vì những chỉ lệnh bất động từ cấp trên. "

Khi từ vùng chiến sự có báo cáo về hai xe BTR của phân đội Yanshin bị bắn cháy, phó tham mưu trưởng ban tham mưu đội Grodekovski thiếu tá P. Kosinov quyết định tự mình nhận trách nhiệm cá nhân, trên 1 xe BTR xông vào trận tiếp ứng. Tiến đến sát 2 xe bị cháy, anh dùng xe của mình để che chắn cho kíp xe của các xe bị bắn cháy thoát khỏi vùng hỏa lực dày đặc. Nhưng khi rút lui, chính xe của Kosinov cũng bị bắn cháy, Kosinov bị thương cả vào hai chân và bị ngất. Các chiến sĩ biên phòng lôi được anh vào vùng an toàn, tưởng đã hy sinh nên đưa vào khu vườn, nơi tập trung tử sĩ. Rất may, khi bác sĩ quân y biên phòng kiểm tra thi thể liệt sĩ, phát hiện trong mắt anh đồng tử chưa bị rãn ra, xác định Kosinov vẫn sống, đã ra lệnh cho trực thăng cứu hộ đưa anh về Khabarovsk.

Matxcova vẫn im lặng, tư lệnh trưởng quân khu Viễn Đông, trung tướng O.Losik đã dũng cảm ra một quyết định duy nhất hỗ trợ lực lượng biên phòng. Lệnh cho Sư đoàn trưởng sư đoàn BBCG 135 chế áp binh lực đối phương bằng hỏa lực pháo binh sư đoàn, sau đó sử dụng tiểu đoàn 2 thuộc trung đoàn bộ binh cơ giới số 199 và các đơn vị của đoàn biên phòng số 57 đẩy lùi đối phương khỏi biên giới Liên bang Xô viết.

17.10 trung đoàn pháo binh và tiểu đoàn pháo phản lực Grad của sư đoàn BBCG 135 cùng với khẩu đội súng cối 120 mm của trung tá D. Krupeynikov khai hỏa. Trận tập kích hỏa lực kéo dài 10 phút. Đòn tấn công được tính vào chiều sâu đến 20 km. (theo một thông tin khác, vùng tập kích là khu vực có diện tích 10km chiều rộng và 7 km chiều sâu trên lãnh thổ Trung Quốc). Kết quả của đợt tập kích là toàn bộ lực lượng thê đội dự bị, kho tàng, trang thiết bị quân sự, các trạm cung cấp đạn và cơ sở vật chất cho tiền duyên cùng với binh lực của PLA bị tổn thất nặng nề, không có khả năng phục hồi. Cùng lúc, lực lượng chủ công bao gồm 5 xe tăng T-62, 12 xe BTR-60PB, đại đội 4 và đại đội 5 BBCG thuộc tiểu đoàn 2 trung đoàn BBCG số 135 (chỉ huy – đại tá A.Smirnov) phối hợp với một phân đội cơ giới mạnh của bộ đội biên phòng tấn công lên đảo. Binh sĩ PLA cố gắng chống trả, nhưng dưới hỏa lực dữ dội đành rút lui về phía biên giới.

Trong trận đánh ngày 15 tháng 3 năm 1969, đã hy sinh 21 chiến sĩ biên phòng, 7 chiến sĩ BBCG (lực lượng thường trực chiến đấu), 42 chiến sĩ biên phòng bị thương. PLA mất khoảng 600 người. Trong toàn bộ cuộc xung đột trên đảo Damaski Hồng quân mất 58 người. PLA tử thương gần 1000 binh sĩ. 50 quân nhân PLA bị bắn do đã bỏ chạy hoặc rút khỏi trận đánh. Hồng quân có 94 quân nhân bị thương, PLA khoảng vài trăm người.

Trận đánh kết thúc, 150 cán bộ chiến sĩ lực lượng biên phong được nhận các phần thưởng cao quý của nhà nước Xô viết. 5 quân nhân được nhân danh hiệu Anh hùng Liên bang Xô viết (Đại táD.V. Leonov – liệt sĩ, Thượng úy I.I Strelnikov – liệt sĩ, Thượng úy B. Bubenin, Hạ sĩ Yu.V.Babanski, tiểu đội trưởng tiểu đội hỏa lực thuộc trung đoàn BBCG số 199 Hạ sĩ V.V.Orekov). 3 người được nhận huân chương Lenin ((Đại tá A.D. Konstantinov, Trung sĩ V. Kanygin , Trung tá E. Yanshin) 10 người được nhận huân chương Cờ đỏ, 31 người nhận huân chương Sao đỏ, 10 người nhân Huân chương Vinh quang hạng III, 63 người – huy chương Vì lòng dũng cảm; 31 người – huy chương “ Vì thành tích trong chiến đấu”.

Trung Quốc tuyên bố dành thắng lợi trong xung đột biên giới vùng Damaski và thắng lợi thuộc về vũ khí trang bị PLA. 10 quân nhân PLA được tặng danh hiệu Anh hùng. Trong thông cáo chính thực của Bắc Kinh về sự kiện Damaski có nội dung như sau:

"2 tháng 3 năm 1969. Một nhóm quân nhân biên phòng Liên xô có số lượng khoảng 70 người, với 2 xe bộ binh cơ giới, một xe vận tải và một xe ô tô hạng nhẹ, đã xâm phạm đảo Trân Bảo thuộc Quận Hồ Lâm, Tỉnh Hắc Long Giang, tiêu diệt đội tuần tra biên giới của Trung Quốc, và tấn công gây tử vong nhiều chiến sĩ thuộc lực lượng biên phòng của ta. Hành động vô nhận đạo này đã buộc các chiến sĩ quân đội Trung hoa phải có hành động tự vệ.

15 tháng 3 năm 1969. Liên Xô, phớt lờ nhiều lần cảnh cáo của nhà nước Trung hoa, đã tiến hành các hoạt động tấn công, xâm chiếm đảo Trân Bảo với lực lượng lên tới 20 xe tăng, 30 xe bọc thép và 200 binh sĩ cùng với sự yểm trợ của không quân.

Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Yu.V. Babansky (bên phải) trong buổi lễ trao tặng huân chương tại điện Kremlin. Tháng 4 năm 1969.

Với lòng dũng cảm và ý chí quyết tâm cao, lực lượng quân đội và dân quân tự vệ đảo Trân Bảo đã đã đánh bại 3 đợt tấn công của quân đội Liên xô. Ngày 17 tháng 3 năm 1969, quân địch với lực lượng xe tăng, xe cứu kéo và bộ binh đã cố gắng lôi chiếc xe tăng bị quân ta bắn cháy về biên giới. Nhưng hỏa lực dữ dội của pháo binh Trung Quốc đã tiêu diệt một phần lớn lực lượng địch, số còn lại rút lui về phía bên kia biên giới Liên xô.

Sau trận xung đột vũ trang tại khu vực đảo Damaski, trên khu vực phòng thủ còn lại một tiểu đoàn bộ binh cơ giới, một tiểu đoàn xe tăng độc lập và tiểu đoàn pháo phản lực BM-21 “Grad”. Đến tháng 4 năm 1969, trong khu vực phòng thủ còn lại 1 tiểu đoàn BBCG và sau một thời gian ngắn cũng cơ động về nơi đóng quân cố định. Tất cả mọi con đường dẫn đến đảo Damaski từ phía Trung Quốc đều bị gài mìn phòng thủ dày đặc.

Trong thời gian này, chính phủ Liên bang Xô viết tiến hành những hoạt động nhằm điều chỉnh tình hinh bằng các giải pháp chính trị.

15 tháng 5 năm 1969, Nhà nước CCCP gửi cho phía Trung Quốc một bản tuyên bố, trong đó nghiêm khắc cảnh báo ngăn chặn các hoạt động khiêu khích trên tuyến biên giới hai nước. Trong công hàm có đoạn nêu rõ: “ nếu tiếp tục tiến hành các hoạt động xâm chiếm chủ quyền lãnh thổ thiêng liêng của đất nước Xô Viết, toàn thể Liên bang Xô viết và quần chúng nhân dân sẽ kiên quyết bảo vệ và giáng cho kẻ xâm lược những đòn quyết liệt".

Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Tang lễ thượng úy I.I Strelnikova tháng 3 năm 1969.

29 tháng 4 Chính quyền Xô viết tiếp tục đưa công hàm, nội dung có đề nghị phía Trung Quốc nối lại nhưng cuộc đàm phán về biên giới đã bị đứt đoạn từ năm 1964, đề nghị phía Trung Quốc kiềm chế các hoạt động khiêu khích trên tuyến biên giới, có thể gây thêm phức tạp cho tình hình đối ngoại chính trị giữa hai nước. Phía Trung Quốc không trả lời bức công hàm nói trên. Hơn nữa, Mao Trạch Đông, ngày 15 tháng 4 trong cuộc hội thảo với các đại biểu về những kết quả và thành tích đạt được của cuộc cách mạng văn hóa, đã nhắc lại những sự kiện xảy ra và kêu gọi chuẩn bị cho chiến tranh. Lâm Bưu trong báo cáo đọc tại Đại hội Đảng cộng sản toàn quốc lần thứ 9 (tháng 4 năm 1969) đã quy tội Liên xô liên tục xâm phạm biên giới Trung Quốc bằng vũ lực” Đồng thời cũng khẳng định định hướng Trường kỳ cách mạng và chuẩn bị chiến tranh.

Ngày 11 tháng 4 năm 1969 Bộ Ngoại giao Liên bang Xô viết gửi cho Bộ Ngoại giao Trung Quốc một công hàm, trong đó có đề nghị nối lại các cuộc đàm phán giữa các đại diện toàn quyền của cả hai nước CCCP và Trung Quốc, đồng thời tuyên bố sẵn sàng bắt đầu đàm phán vào bất cứ thời điểm nào, thuận lợi cho phía Trung Quốc.

14 tháng 4 trong công hàm trả lời, Bộ ngoại giao Trung Quốc thông báo rằng, những đề xuất của Bộ ngoại giao CCCP, liên quan đến việc giải quyết tình hình trên biên giới Trung Xô, sẽ được “nghiên cứu kỹ lưỡng và sẽ có trả lời trong thời gian tới".

Trong thời gian “nghiên cứu và trả lời” những xung đột vũ trang và khiêu khích quân sự vẫn tiếp tục diễn ra.

23 tháng 4 năm 1969 một đơn vị vũ trang của PLA xâm nhập biên giới của Liên bang Xô Viết, chiếm lĩnh đảo № 262 trên sông Amua, gần với khu dân cư Kalinovka. Đồng thời một lực lượng vũ trang khác được tập trung trên bờ sông Amua phía Trung Quốc.

2 tháng 5 năm 1969 trong khu vực của ngôi làng nhỏ Dulaty ở Kazakhstan lại xuất hiện một xung đột vũ trang biên giới. Nhưng lần nay các chiến sĩ biên phòng Xô viết đã sẵn sàng cho một cuộc xâm nhập và khiêu khích. Trước khi xảy ra khiêu khích, đơn vị biên phòng Makanchi đã được tăng cường lực lượng. Đến mồng 1 tháng 5 năm 1969 đơn vị biên phòng đã có 14 đội biên phòng cơ động, mỗi đội có 50 cán bộ chiến sĩ (Riêng đội biên phòng "Dulaty" - 70 người) và phân đội biên phòng cơ động mạnh (182 người) trên 17 xe BTR -60pb. Ngoài ra trên đoạn biên giới quản lý, khu vực đồn Macanchi tập trung một tiểu đoàn xe tăng độc lập của quân khu, theo kế hoạch liên kết phối hợp với các đơn vị quân đội, có thêm một đại đội BBCG và một đại đội Tăng, một trung đội súng cối chi viện hỏa lực thuộc đơn vị liên kết phối hợp lấy từ trung đoàn BBCG số 215 (đồn Vaxta) và một tiểu đoàn từ trung đoàn BBCG số 369 khu vực nông trường Druzba.

Các đơn vị tổ chức canh gác trên các điểm cao, lực lượng trinh sát tiền tiêu trên xa ô tô và kiểm tra, kiểm soát liên tục các tuyến đường, dải phân cách hai bên biên giới. Công lao chính của tinh thần cảnh giác cao độ của các đơn vị quân đội – biên phòng Xô viết thuộc về tư lệnh trưởng quân khu vùng biên giới phía Đông, trung tướng M.K.Merculov. Ông không những đã thực hiện các giải pháp nhằm tăng cường khả năng kiểm soát, ngăn chặn từ hướng Dylatin bằng các lực lượng của mình, mà còn đạt được yêu cầu tăng cường cảnh giác và liên kết phối hợp với bộ tư lệnh quân khu Turkestan.

Tình huống xảy ra như sau: Sáng ngày 2 tháng 5, phân đội tuần tra phát hiện một đàn cừu di chuyển qua biên giới Trung – Xô. Tiếp cận khu vực xảy ra tình huống, phân đội phát hiện một đội quân PLA quân số khoảng 60 người, Để ngăn chặn khả năng chắc chắn có chạm súng, phân đội biên phòng yêu cầu tăng cường thêm 3 phân đội bộ đội biên phòng từ các đội liền kề, đồng thời yêu cầu đại đội BBCG của trung đoàn BBCG số 369 cùng với một trung đội xe tăng và 2 phân đội biên phòng cơ động mạnh. Hoạt động triển khai ngăn chặn được sự yểm trợ ngay tức khắc của trung đoàn không quân cường kích ném bom, có căn cứ tại Ycharale, đồng thời báo động chiến đấu các đơn vị ở các khu vực gần là các trung đoàn bộ binh cơ giới và pháo binh, 2 tiểu đoàn pháo phản lực Grad và hai tiểu đoàn súng cối.

Để điều hành chuẩn xác các hoạt động sẵn sàng chiến đấu, ngay tức khắc được tổ chức cụm quân lực tác chiến liên hợp dưới quyền chỉ huy của Tham mưu trường quân khu biên giới Viễn đông, thiếu tướng Kolodyazhny , đóng tại đồn biên phòng Dylata. Đồng thời cũng là sở chỉ huy tiền phương của quân khu, dưới quyền chỉ huy của thiếu tướng G.N. Kutki.

16.30 Bộ đội biên phòng Xô viết bắt đầu tăng áp lực đẩy đối phương, cũng được tăng cường lực lượng hỗ trợ ra khỏi biên giới CCCP. Quân đội PLA, nhận thấy khả năng sẵn sàng chiến đấu và hỏa lực vượt trội nhiều lần từ phía đối phương, buộc phải lùi bước dần ra khỏi biên giới Liên xô. Tình huống được giải quyết cuối cùng bằng con đường ngoại giao từ ngày 18 tháng 5 năm 1969.

Ngày 10 tháng 6 tại khu vực sông Tasty trong vùng Semipalatinsk, một nhóm quân nhân PLA đột nhập sâu vào lãnh thổ Liên xô đến 400 m và khai hỏa từ súng tiểu liên vào lực lượng biên phòng. Lực lượng biên phòng xô viết lấp tức đáp trả, sau khi đấu súng các quân nhân PLA quay về biên giới phía Trung Quốc.

Ngày 8 tháng 7 năm 1969 một nhóm quân nhân Trung Quốc vượt biên giới, nấp trên đảoGoldinsky thuộc lãnh thổ Liên bang trên sông Amua và tấn công bằng súng tiểu liên và lựu đạn vào nhóm công nhân đường sông xô viết, cập đảo để sửa chữa các biển báo, kết quả một người chết, ba người bị thương.

Các tình huống xung đột trên đảo Damaski cũng liên tục diễn ra. Theo lời kể lại của chính V.Bubenin, vào những tháng cuối của mùa hè sau sự kiện xung đột vũ trang, có tới hơn 300 trường hợp buộc phải sử dụng vũ khí để chống lại các hoạt động khiêu khích. Tình huống tương tự như trong chiến tranh. Cho đến tận thời điểm, vào trung tuần tháng 6 năm 1969 tại khu vực Damaski lần thứ hai xuất hiện hệ thống pháo phản lực Grad dành cho thử nghiệm đến từ Baikonur (Đoàn trắc thủ thuộc đơn vị 44245, chỉ huy – thiếu tá A.A. Shumilin).

Trong đội trắc thủ pháo phản lực ngoài các quân nhân lực lượng pháo binh, còn có các chuyên gia về không gian vũ trụ của các chương trình tác chiến trên khoảng không thượng tầng khí quyển. Trong đó có: JK Razumovsky, chỉ đạo kỹ thuật tổ hợp chuyên gia về Mặt Trăng, Papazian- chủ nhiệm kỹ thuật tổ hợp chuyên gia kỹ thuật tên lửa, A. Tasha- chỉ huy trưởng kỹ thuật chế tạo tổ hợp radar Vega, LeonidKuchma – sau này là tổng thống nước cộng hòa Ucraina, lúc đó là chuyên gia kỹ thuật của cục nghiên cứu thử nghiệm, Kozlov- chuyên gia đo xa bằng sóng vô tuyến,.I A. Soldatov – kỹ sư thử nghiệm tên lửa và các chuyên gia kỹ thuật hàng không vũ trụ và tên lửa khác. Thử nghiệm pháo phản lực Grad được kiểm soát bởi ủy ban chuyên trách cao cấp của nhà nước, đứng đầu là tư lệnh trưởng các lực lượng tên lửa Kamanin.

Khả năng, các thử nghiệm pháo phản lực của thiếu tá A.A. Shumilin được thực hiện với mục đích thúc đẩy phía Trung Quốc bắt đầu các cuộc đàm phán hòa bình nhằm giải quyết những vấn đề tranh chấp. Dù sao đi nữa, ngày 11 tháng 9 năm 1969 trong thời gian thực hiện các cuộc đàm phán bí mật giữa thủ tướng chính phủ liên bang Xô viết ông A. Kosygin với thủ tướng Chu Ân Lai tại Bắc Kinh, đã đạt được thỏa thuận tiến hành các cuộc đàm phán chính thức về các vấn đề biên giới Liên xô – Trung Quốc, các cuộc đàm phán này bắt đầu vào ngày 20 tháng 10 năm 1969.

Nhưng một tháng trước khi có cuộc gặp cấp cao giữa hai nhà nước đã xảy ra một cuộc xung đột lớn trên đường biên giới và cướp đi hàng chục mạng quân nhân.

Thứ Sáu, 8 tháng 6, 2012

>> Những siêu phẩm có số phận hẩm hiu của Liên Xô (P1)

Một trong những điểm chung mà siêu phẩm của Liên Xô phải chịu cảnh chết yểu là do quá to, quá độc và quá lạ.

>> Kalinin K-7 - 'siêu pháo đài bay của Liên Xô



http://nghiadx.blogspot.com
Siêu pháo đài bay K-7 giữ kỷ lục mang bom nhiều nhất trong thời đại máy bay cánh quạt.


Nền công nghiệp quốc phòng của Liên Xô từng tạo ra nhiều vũ khí huyền thoại nhưng cũng không ít “siêu phẩm” có số phận hẩm hiu.

Những vũ khí có kích thước khủng đầu tiên của Liên Xô xuất hiện từ những năm 1930 không lâu sau khi nhà nước Liên bang Xô Viết ra đời.

Pháo đài bay K-7

Đầu năm 1930, nhà thiết kế máy bay Konstantin Kalinin đã nghiên cứu, phát triển, chế tạo thành công máy bay ném bom hạng nặng Kalinin K-7. Điều làm cho K-7 được xưng tụng như là kỳ quan thế giới vì nó sở hữu kích thước khổng lồ, một trong những máy bay động cơ cánh quạt lớn nhất từng được chế tạo trước khi lịch sử hàng không bước vào thời đại phản lực.

K-7 có sải cánh dài 53m, chỉ kém một chút so với cánh “pháo đài bay” B-52, nhưng diện tích cánh K-7 lớn hơn nhiều. Với biến thế quân sự, K-7 được xem là pháo đài với 12 tháp pháo có những bộ phận tiếp đạn được điện khí hóa - công nghệ cực kỳ hiện đại vào thời điểm đó.

Ngoài ra, máy bay có thể mang được 16 tấn bom, nếu so với pháo đài bay B-17 (2 - 3 tấn bom) hay B-29 (9 tấn bom) mà Mỹ tự nhận thì chẳng khác nào đem so “người không lồ và chàng tí hon”. Kỷ lục này giữ tới tận khi B-36, B-52 ra đời mới bị phá vỡ.

Độc đáo hơn, trong thiết kế K-7, Kalinin dự định phát triển biến thể chở khách. Nó có thể chứa được 128 hành khách trong cánh khổng lồ của máy bay, trên thân thiết kế 16 phòng hạng sang bên trong.

Nhưng các dự định không thành hiện thực, một phần vì thiết kế chứa quá nhiều tham vọng, trong khi công nghệ chưa thể theo kịp. Kalinin K-7 cất cánh thành công ngày 11/8/1933 nhưng từ đó nó bộc lộ một số vấn đề về tính không ổn định và sự rung mạnh do khung thân cộng hưởng tần suất động cơ gây nên.

Hậu quả, ngày 21/10/1933, K-7 gặp tai nạn do có sự cố cánh đuôi làm 14 người thiệt mạng. Dự án bị đình chỉ sau đó 2 năm. Tư liệu về K-7 ngày nay chỉ còn trong bức hình đen trắng và ảnh đồ họa máy tính.

Vài chục năm sau khi K-7 ra đời, công nghệ kỹ thuật Liên Xô tăng tiến vượt bậc và lại có thêm những siêu phẩm khủng hơn tiếp bước K-7.

Thủy phi cơ M-70 “chết trên giấy”

Những năm 1950-1960, Hải quân Mỹ vượt trội Liên Xô nhờ sức mạnh hàng không mẫu hạm đông đảo, hùng hậu trên biển. Ngược lại, Liên Xô vẫn chưa tìm ra thiết kế tàu sân bay phù hợp. Vì vậy, họ quyết định chọn giải pháp phát triển thủy phi cơ để tăng tầm tác chiến xa bờ. Năm 1956, Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô quyết định chọn phòng thiết kế OKB Myasischev thực hiện.

OKB Myasischev đã cho ra đời thiết kế thủy phi cơ ném bom M-70. Loại máy bay dùng kiểu cánh tam giác, cánh đuôi đứng, cánh ổn định nằm ngang trên cánh đuôi đứng. M-70 trang bị 4 động cơ phản lực (2 trên cánh và 2 ở hai bên cánh đuôi đứng) cho phép đạt tốc độ 950 - 1700km/h, tầm bay 6.500 - 7.500km, trần bay 18 - 22.000m.




http://nghiadx.blogspot.com
Thủy phi cơ chống tàu sân bay M-70

Theo thiết kế, máy bay này có trọng lượng cất cánh khoảng 200 tấn, đủ thể thấy kích cỡ khổng lồ của máy bay. M-70 mang thiết bị trinh sát ở sát cánh chính và thân máy bay, bom ở trong khoang. Tuy nhiên, dự án đã chết ngay từ trên giấy khi không được Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô thông qua.

Trước nguy cơ từ sức mạnh hàng không mẫu hạm của Mỹ, tham vọng tạo ra vũ khí đối phó mặc dù được thúc đẩy nhưng không thể mang lại kết quả gì trong nhiều năm, cho tới khi mẫu thử Sukhoi T-4 xuất hiện, le lói tia sáng cuối đường hầm giải pháp đối phó hiệu quả hạm đội tàu sân bay Mỹ.

“Sát thủ diệt tàu sân bay” T-4

Năm 1964, nhà sáng chế tài ba Pavel Sukhoi đã trình bày bản vẽ mẫu thiết kế máy bay ném bom chiến lược T-4. Chiếc máy bay ra đời nhằm đáp ứng yêu cầu của chính quyền Xô Viết về loại vũ khí có thể áp chế sức mạnh tàu sân bay Mỹ. Vì lẽ đó, Sukhoi T-4 ra đời được xem là siêu vũ khí của Liên Xô, thể hiện từ hình dáng tới công nghệ chế tạo.

Thiết kế khí động học T-4 cực kỳ ấn tượng. Máy bay có kết cấu cánh tam giác, rìa cánh được kéo dài đến gần buồng lái, có thêm 2 cánh mũi để tăng ổn định và cơ động. Phần mũi máy bay chúi xuống về phía trước, radar sẽ quan sát địa hình tốt hơn, tầm nhìn phi công không bị hạn chế. Kiểu dáng T-4 ở thời kỳ này làm người ta dễ liên tưởng tới máy bay chở khách siêu thanh Tupolev Tu-144S và Concorde (Pháp).

Vật liệu chế tạo T-4 được đánh giá là bước đột phá trong vật liệu sản xuất máy bay, với hợp kim titan và thép không gỉ. Nhờ đó, máy bay có thể chịu ma sát mạnh với không khí khi đạt vận tốc cực cao, 3.200km/g với 4 động cơ phản lực RD36-41.

http://nghiadx.blogspot.com
Máy bay ném bom chiến lược siêu thanh Sukhoi T-4.

Một điểm đột phá nữa thiết kế T-4, máy bay trang bị hệ thống điều khiển Fly-by-wire thay vì dùng hệ thống điều khiển cơ khí dự phòng. Sau này, trong thiết kế Su-27, Sukhoi đã phát triển hệ thống Fly-by-wire dựa trên loại dùng cho T-4. Cùng với T-4, phòng thiết kế OKB-155 tiến hành phát triển tên lửa siêu thanh Kh-45 (tầm bắn 600km, tốc độ Mach 6-7).

>> Số phận hẩm hiu của vũ khí chiến lược T-4

Tháng 8/1972, mẫu thử đầu tiên T-4 101 cất cánh thành công. Tính tới thời điểm tháng 1/1974, T-4 đã thực hiện 10 chuyến bay, đạt tốc độ Mach 1,3 ở trần bay 12.000m.

Mọi chuyện đang tiến triển rất tốt, với thiết kế khí động học ưu việt, sở hữu tốc độ cao, tầm bay xa, vũ khí uy lực, T-4 được hy vọng là “cơn ác mộng” kinh hoàng đối với tàu sân bay. Có thể tiêu diệt mục tiêu ở khoảng cách cực xa nằm ngoài tầm với hệ thống phòng không, tốc độ trần bay vượt tầm tiêm kích.

Tuy nhiên, đầu năm 1974, Ủy ban hàng không nhà nước Liên Xô ra quyết định đình chỉ dự án T-4. Cuối năm 1975, T-4 chính thức bị xóa sổ. Rất bí ẩn, siêu phẩm vũ khí chiến lược của Liên Xô kết thúc mà không có lời giải thích thỏa đáng được đưa ra. Một số ý kiến đưa ra là do T-4 ngốn quá nhiều ngân sách quốc phòng hoặc do Mỹ hủy bỏ dự án XB-70 - đối trọng T-4.

(Theo nguồn :: Báo Đất Việt)

Thứ Tư, 6 tháng 6, 2012

>> 'Món quà' Việt Nam tặng Liên Xô sau giải phóng

Đại tá Victor Kyznechov có những kỉ niệm khó quên tại Việt Nam, liên quan đến nhiệm vụ nghiên cứu các chiến đấu cơ F-5, A-37. Sau đây là những dòng cảm nhận được ông ghi lại trong những ngày tháng nhiều cảm xúc đó.


http://nghiadx.blogspot.com
Máy bay tiêm kích hạng nhẹ F-5 hoạt động trong Không quân Nhân dân Việt Nam


Một buổi tối tháng 11/1975, cố vấn kỹ sư trưởng của Không quân Nhân dân Việt Nam, Đại tá Mitin đến gặp chúng tôi. Ông chọn tôi, vì tôi có nhiều kiến thức trong lĩnh vực vô tuyến, cho một nhiệm vụ mà ông không nói trước.

>> Chiến thuật thống trị bầu trời của Mỹ từng bị đập tan ở Việt Nam
>> UAV Mỹ trong chiến tranh Việt Nam

Sau đó, chúng tôi rời Hà Nội và bay vào Đà Nẵng, nơi có căn cứ quân sự lớn nhất của Việt Nam.

Căn cứ quân sự này có 2 đường băng cất và hạ cánh hướng ra biển. Ở giữa căn cứ có một trung tâm quản lý. Ngoài ra, tại căn cứ này còn có 2 điểm điều phối bay, 1 trong 2 điểm đó được bảo vệ.

Trong căn cứ lúc đó có 150 trực thăng và máy bay do Mỹ sản xuất. Tất cả đều trong tình trạng tốt.

Tại đây chúng tôi có trách nhiệm đảm bảo tình trạng kỹ thuật cho những phương tiện hàng không này, chuẩn bị di rời chúng bằng đường biển, đường bộ sang Liên Xô.

Đầu tiên chúng tôi có nhiệm vụ nghiên cứu một chiếc F-5. Bởi các máy bay đều ở tình trạng tốt nên chúng tôi có thể xem xét kỹ từng chi tiết tại nhà chứa máy bay.

Chiếc F-5 đầu tiên đã bị chảy dầu ở bộ tản nhiệt và hỏng hệ thống liên lạc với trạm vô tuyến. Chúng tôi buộc phải chọn chiếc thứ 2, trong tình trạng hoàn hảo, và niêm phong lại để tránh bị đánh tráo thiết bị.

Cảm nhận đầu tiên của chúng tôi là F-5 có nhiều điểm nổi trội hơn so với MiG-21. Hầu hết các bộ phận đều có kích thước khá lý tưởng.

Chẳng hạn bộ phận máy phát có kích thước chỉ bằng 1/2, 1/3 so với máy bay của Liên Xô. Máy bay dễ dàng sử dụng đến nỗi hầu như chúng tôi không phải dùng đến tài liệu hướng dẫn. Để nạp thêm dầu thì dùng một chiếc xe đẩy chuyên dụng có chứa diesel.

Về cấu tạo, khoang lái của F-5 khá giống với MiG-21, tuy nhiên các bộ phận lại nhỏ gọn hơn, rất nhiều trong số đó có chỉ thị dạng băng chuyền. Khoang lái được sơn màu ngọc lam nhẹ (giống màu của MiG-23 sau này).

Cùng với máy bay, chúng tôi được nhận thêm rất nhiều bộ phận thay thế và tài liệu kỹ thuật.

Ngoài ra, các bạn Việt Nam còn chuyển cho chúng tôi rất nhiều trang thiết bị mặt đất: cả một hệ thống đầy đủ cần thiết để phục vụ cho việc kiểm tra, sửa chữa máy móc cho máy bay, cả một hệ thống bao gồm cả thiết bị kiểm tra và đo đạc, dùng cho 4 máy bay…

Chúng tôi cũng có cơ hội xem xét một chiếc máy bay cường kích A-37 cùng các thiết bị phụ tùng thiết yếu và các tài liệu kỹ thuật đi kèm.

Máy bay này còn đơn giản hơn cả F-5. Khoang lái có cấu tạo theo kiểu tổ hợp nhưng lại vô cùng thuận tiện, các thiết bị được lắp đặt giống như trên 1 chiếc trực thăng.



http://nghiadx.blogspot.com
Cùng với F-5, máy bay cường kích A-37 đã được Không quân Nhân dân Việt Nam sử dụng hiệu quả trên chiến trường Campuchia

Phía Việt Nam chuyển giao lại cho chúng tôi 2 động cơ dự phòng, được đóng trong 2 container đóng kín, có bơm khí trơ bên trong.

Đây là cách giúp thiết bị không chịu tác động xấu của môi trường và giúp bỏ qua khâu kiểm tra trước khi lắp đặt động cơ vào máy bay.

AC-119 là loại máy bay vận tải hạng nhẹ được mệnh danh là “máy bay chống du kích”, có khả năng lắp đặt thêm vũ khí để tấn công mục tiêu trên mặt đất, cũng được các bạn Việt Nam gửi đến cho chúng tôi xem xét. Tuy nhiên, loại máy bay này không gây cảm hứng với chúng tôi ngoại trừ các trang thiết bị đặc biệt trên máy bay.

Trực thăng CH-47 Chinook và UH-1 biến thể chiến đấu là 2 loại trực thăng thu hút được sự chú ý của chúng tôi.

So với Mi-8, UH-1 có nhiều ưu thế hơn. Máy bay nhỏ gọn hơn, nhưng lại được trang bị nhiều vũ khí hiện đại hơn: 2 súng máy 6 nòng, rocket và tên lửa có điều khiển. Khoang lái được thiết kế thấp, 2 bên sườn trực thăng được bọc thép.

Trong vòng 10 ngày chúng tôi đã xem xét kĩ lưỡng, tỉ mẩn từng loại máy bay trên và gửi chúng sang Liên Xô. Những chiếc máy bay này sau đó được Viện Nghiên cứu khoa học thuộc Lực lượng Không quân Liên Xô nghiên cứu.

Những chiến lợi phẩm trên chắc chắn đã giúp ích ít nhiều cho các kỹ sư Nga trong việc nghiên cứu và chế tạo các mẫu máy bay mới, hiện đại và tiện dụng.

Thứ Bảy, 12 tháng 5, 2012

>> G.K.Zhukov : tư lệnh của các chiến dịch lớn

Nhân dịp kỷ niệm 67 năm chiến thắng CN Phát xít, Đất Việt xin giới thiệu bài viết về nguyên soái G.K.Zhukov, thiên tài quân sự có đóng góp quan trọng trong Thế chiến II.


Tuổi ấu thơ nghèo khó và chí tự học

Sinh ngày 1/2/1896 trong một gia đình nông dân nghèo ở làng Strenkovka, tỉnh Kluga. 12 tuổi làm thợ học việc ở một cửa hàng đồ da. 19 tuổi, năm 1915 nhập ngũ, phục vụ trong một đơn vị kỵ binh Sa hoàng, tham gia đại chiến I (1914-1918). Sau Cách mạng tháng Mười Nga 1917, gia nhập Hồng quân và trở thành một sĩ quan kỵ binh ưu tú. 27 tuổi giữ chức trung đoàn trưởng và năm 42 tuổi là Phó Tư lệnh Quân khu Belorusia.

Những dòng ngắn ngủi trên chỉ mong phác họa đôi chút về chân dung vị Nguyên soái lừng danh của Đại chiến II, Georgi Konstantinovich Zhukov. Thực ra trước thềm 1939, ông đã trải qua hơn 40 năm đầy gian khổ. Hồi ức "Nhớ lại và suy nghĩ" của ông phát hành năm 1969, 5 năm trước khi qua đời, cho ta biết rõ hơn quá trình hình thành một bản lĩnh, một nhân cách hiếm có.


http://nghiadx.blogspot.com
Chân dung Nguyên soái Zhukov.

“Bảy tuổi đã cùng người lớn đi cắt cỏ, cố quá sức nên làm tay phồng lên... xấu hổ không dám nói với ai cả, cố hết sức chịu đựng và đến mùa gặt lúa mì... hấp tấp đưa liềm vào ngón tay út bên trái... đã bao nhiêu năm qua, vết sẹo ở đấy vẫn còn nhắc tới...”.

Ông được đi học mấy năm ở trường làng, năm 12 tuổi lên Moscow làm ở cửa hàng đồ da, từ 7h sáng đến 7h tối, có một tiếng buổi trưa để nghỉ ăn cơm. Vất vả như vậy nhưng ông vẫn kiên trì học thêm buổi tối về tiếng Nga, toán, địa lý, đọc sách khoa học phổ thông....

Tháng 6/1915, nước Nga tổn thất nhiều trên các mặt trận, đến đợt tổng động viên, ông lên đường. Một sự kiện quan trọng diễn ra trong đời binh nghiệp: Ngày 27/2/1917, ông gia nhập hàng ngũ Cách mạng.

Tháng 8/1918, ông phục vụ trong đoàn kỵ binh 4, sư đoàn kỵ binh Moscow của Hồng quân. Mùa xuân năm 1923 ông nhận nhiệm vụ chỉ huy trong đoàn, đây là cương vị đã rèn luyện để ông có nhiều kinh nghiệm về huấn luyện, điều hành sau này.

Ông lần lượt đảm nhiệm các chức vụ sư đoàn trưởng, quân đoàn trưởng trong những năm sau và đến năm 1938 làm Phó Tư lệnh quân khu Belarusia.

Ngày 2/6/1939, ông bay sang Mông Cổ để cùng các đơn vị quân đội nước này đánh bại quân Nhật ở Khankhin Gôn, chiến dịch kéo dài đến 30/8/1939, ngay trước khi quân Đức đánh vào Ba Lan mở đầu Đại chiến II.

Đầu tháng 5/1940, ông nhận quân hàm Đại tướng, giữ chức Tư lệnh quân khu đặc biệt Kiev, khi được I.V.Stalin hỏi về kinh nghiệm ở Khankhin Gôn, ông nói: “... Cuộc chiến đấu ở Khankhin Gôn là một trường học kinh nghiệm chiến đấu lớn”.

Tư lệnh của các chiến dịch lớn

Đầu năm 1941, ông là Tổng tham mưu trưởng quân đội, ở cương vị này, ông thể hiện tầm nhìn chiến lược của một thiên tài quân sự.

Đêm 21, rạng 22/6/1941, Đức tấn công toàn tuyến biên giới Liên Xô, 13.000 giờ ngày 22/6 ông được cử tới Tây nam làm đại diện Tổng hành dinh, 40 phút sau ông ngồi trên máy bay và sực nhớ ra “chưa ăn gì từ hôm qua”. Từ đó là những ngày đêm liên tục chỉ huy các chiến dịch lớn và đều chiến thắng.

Sau này, khi được hỏi chiến dịch nào ghi nhớ nhất, ông trả lời không do dự: Chiến dịch Moscow (30/9/1941-20/4/1942) một chiến dịch Liên Xô ở vào thế rất bất lợi, đã kiên cường phòng ngự, mưu trí phản công.

Quân Đức lúc đầu có lợi thế rất lớn: chiếm toàn bộ các nước Cộng hòa của Liên Xô: Litva, Latvia, Extonia và phần lớn Belorusia, Ukraine.

Tháng 9/1941, Đức sử dụng cụm tập đoàn quân trung tâm gồm 3 tập đoàn quân dã chiến và 3 tập đoàn quân tăng với 1.800.000 quân, 1.700 xe tăng, 14.000 pháo và cối, 1.390 máy bay mở cuộc tấn công quy mô với mật danh “Giông tố”, theo hai hướng nam, Bắc hòng tiến vào thủ đô Moscow.

Giai đoạn phòng ngự (30/9/1941-5/12/1941), Quân đội Liên Xô đã đánh trả quyết liệt khiến quân Đức tổn thất nặng nề, nhưng chúng vẫn chọc thủng được tuyến phòng ngự để tiến về sông Moscow, còn ở phía Nam thì bị chặn lại.

Cuối tháng 11, đầu tháng 12 ý định đột phá vào thủ đô Moscow của Đức thất bại, Hồng quân đã nắm quyền chủ động, có thêm sự tăng quân, vũ khí. Nhiều trận đánh có phương diện quân liên tục diễn ra, đẩy quân Đức lùi về phía Tây 100-300 km. Toàn cục Đức thiệt hại 500.000 người, 1.300 xe tăng, 2.500 pháo, trên 15.000 xe và khí tài khác.

Người ta nhớ rằng, trong những lúc gian khó nhất của chiến dịch bảo vệ thủ đô này, ông luôn ở vị trí trung tâm điều hành các phương diện quân, bên cạnh I.V.Stalin. Ông đến tận đơn vị cơ sở, nắm chắc vấn đề, khi báo cáo có bản lĩnh, thẳng thắn, không ngại va chạm với Tổng tư lệnh.

Các dự báo chiến lược, chiến dịch của ông đều đúng. Ngày 1/11/1941, giữa trăm ngàn gia khó, khi về đại bản doanh, Stalin hỏi tình hình có thể bảo vệ cho Lễ duyệt binh 7/11/1941 được không, ông khẳng định: Được!

Lễ duyệt binh có một không hai đã diễn ra đúng ngày kỷ niệm Cách mạng tháng Mười và từ quảng trường Đỏ, nhiều đơn vị đã đi thẳng ra chiến trường sát Moscow.

Ông viết: “Nếu có ai hỏi tôi điều gì nhớ nhất trong cuộc chiến tranh vừa qua, tôi luôn luôn trả lời, đó là cuộc chiến đấu ở Moscow. Trong điều kiện khắc nghiệt, hết sức phức tạp và khó khăn, quân đội ta đã được tôi luyện, can trường và sau khi có được một số phương tiện vật chất tối thiểu, đã chuyển từ một lực lượng đang rút lui phòng ngự, thành một lực lượng tiến công rất mạnh”.

Ngày 26/8/1942, ông được cử làm Phó Tổng tư lệnh tối cao và đến chiến dịch Stalingrad chỉ đạo.

Ngày 18/1/1943, ông được phong Nguyên soái Liên Xô, là người đầu tiên được phong Nguyên soái trong chiến tranh.

Từ lúc tham gia phòng ngự ở Leningrad ngày 9/9/1941, qua nhiều chiến dịch lớn, ông lại có mặt ở trận nổi tiếng: vòng cung Kursk, rồi tiêu diệt địch giải phóng Ukraine, Belorusia.

Ngày 29/7/1944, ông nhận danh hiệu Anh hùng Liên Xô lần 2.

Tháng 10/1944, chỉ huy phương diện quân Belorusia 1, đơn vị nòng cốt tiến vào sào huyệt của Đức quốc xã ở Berlin.

Ngày 20/4/1945 trận công phá lịch sử Berlin bắt đầu. 15h ngày 30/4/1945, ông là người được ủy nhiệm của I.V.Stalin chủ trì Lễ duyệt binh mừng chiến thắng ở Moscow.

http://nghiadx.blogspot.com
Tượng đài Nguyên soái Zhukov ở Nga.

Bình tĩnh, sáng suốt lúc cuối đời

Năm 1957, trên cương vị Ủy viên Bộ chính trị Đảng Cộng sản Liên Xô, Bộ trưởng Quốc phòng, đang thăm nhiều nước, khi về nhà, bị cách chức, ông bình tĩnh nhận quyết định nghỉ hưu. Một thời gian dài, ông ngủ và khi tỉnh dậy, vào rừng, đi câu bên suối nhỏ.

Năm 1969, sau nhiều năm nghiền ngẫm, thai nghén, được sự giúp đỡ của cơ quan lưu trữ và nhiều đồng đội, ông hoàn thành tác phẩm “Nhớ lại và suy nghĩ”, được xuất bản rộng rãi trên thế giới, trong đó có Việt Nam.

Trong lời tựa cuốn sách, ông viết “Tôi đã miệt mài với cuốn “Nhớ lại và suy nghĩ” này không phải chỉ trong một năm. Từ những tài liệu của cuộc sống rộng lớn, từ rất nhiều các sự kiện và những cuộc tiếp xúc, tôi muốn lựa chọn ra cái gì là thực chất và quan trọng nhất có thể nói lên thật xứng đáng sự vĩ đại của những sự nghiệp và thành tựu của nhân dân ta”.

Ông mất năm 1974, hưởng thọ 79 tuổi.

Nguyên soái G.K.Zhukov (1896-1974) là danh tướng kiệt xuất, Phó Tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang Liên Xô trong đại chiến II (I.V.Xtalin là Tổng tư lệnh) 4 lần Anh hùng Liên Xô..., người trực tiếp chỉ huy nhiều mặt trận Leningrad (1941), Moscow (1941-1942), Stalingrad (1942-1943), Vòng cung Kursk (1943), Berlin (1945)..., qua bao thăng trầm vẫn sống mãi trong lòng nhân dân Nga và bạn bè trên thế giới.

Thứ Năm, 10 tháng 5, 2012

>> Quân đội Mỹ đã đụng độ đặc nhiệm Liên Xô trên chiến trường Việt Nam ?

Với nhiều người Mỹ, vai trò của các cố vấn Liên Xô trong chiến tranh Việt Nam mãi là điều bí ẩn. Bởi họ không tin khả năng của người Việt Nam lẫn sự giúp đỡ tận tình của Liên Xô đối với Việt Nam.



Sự cần thiết của viện trợ và cố vấn Liên Xô

Không lâu sau khi phát-xít Đức đầu hàng ở châu Âu, Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa, đã được công bố thành lập. Sự thành lập quốc gia công nông đầu tiên ở châu Á, dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, về cơ bản đã thay đổi tình hình địa chính trị trong khu vực. Trong khi đó, người Pháp không có ý định rời bỏ khu vực cựu thuộc địa. Không lâu sau một cuộc chiến tranh mới và đẫm máu đã nổ ra.

Quân đội Anh do Tướng Gracie chỉ huy đã tạo điều kiện thuận lợi cho thực dân Pháp quay lại thuộc địa cũ, thay vì hứa sẽ trợ giúp giải giáp quân Nhật. Các nước đồng minh công khai vi phạm các quy định của Hiến chương Đại Tây Dương, trong đó nói rằng, tất cả các nước đã chiến đấu chống lại chủ nghĩa phát-xít sẽ nhận được sự tự do mà họ mong đợi.

Tuy nhiên, vào thời gian này Việt Nam đã cho thấy một sự gia tăng đáng kinh ngạc của tinh thần yêu nước, và thực dân Pháp đã gặp phải sự kháng cự mãnh liệt. Sau thất bại tại Điện Biên Phủ chính phủ Pháp đã buộc phải đồng ý ký Hiệp định Geneva.



http://nghiadx.blogspot.com
Hội nghị Geneva 1954. Ảnh: Internet

Theo sáng kiến của Liên Xô, cuối tháng 4/1954 tại Geneva đã diễn ra lễ ký văn kiện công nhận độc lập của Việt Nam, Lào và Campuchia, và khôi phục hòa bình tại khu vực. Kết quả, Việt Nam tạm ngăn cách bởi ranh giới vĩ tuyến 17.

Nếu như Hồ Chí Minh là nhà lãnh đạo có uy tín thực sự, có sự ủng hộ của đại đa số nhân dân Việt Nam, và được các nước XHCN hỗ trợ, thì Ngô Đình Diệm đơn giản chỉ là con rối tầm thường của phương Tây. Không lâu sau đó Diệm cũng bị mất đi sự ủng hộ vốn rất ít ỏi trong dân chúng và phải đối phó với cuộc chiến tranh du kích quy mô lớn trên toàn lãnh thổ miền Nam.

Những diễn biến nêu trên cho thấy kế hoạch bầu cử dân chủ như đã định tại Hội nghị Geneva sẽ bất lợi đối với phương Tây, bởi chiến thắng của Hồ Chí Minh là không thể đảo ngược. Ngay sau đó Mỹ can thiệp vào tình hình, tuy nhiên một cuộc chinh phục thần tốc đất nước này như ý đồ của Wasington đã không diễn ra.

Lãnh thổ miền Nam của Việt Nam gần như hoàn toàn được bao phủ bởi rừng rậm, tạo điều kiện cho lực lượng du kích dễ dàng ẩn náu. Những hành động quân sự quen thuộc và hiệu quả ở châu Âu, đã không áp dụng được ở đây, trong khi chính quyền miền Bắc cung cấp hỗ trợ đáng kể cho du kích địa phương.

Sau sự cố “Vịnh Bắc Bộ” Không quân Mỹ ném bom miền phá hoại Bắc Việt Nam. Những “Bóng ma màu đen” (Phantom) dội từng đợt bom xuống Hà Nội, phá hủy các mục tiêu quân sự và gây tác động tâm lý lớn đối với dân chúng. Lúc này hệ thống phòng không ở miền Bắc gần như không có, và người Mỹ nhanh chóng cảm thấy đắc ý khi không bị trừng phạt vì những tội ác.

Trong bối cảnh như vậy sự giúp đỡ từ phía Liên Xô cần phải tiến hành ngay không chậm trễ.

Người Mỹ đinh ninh giao chiến với Quân đội Liên Xô

Ngoài vũ khí, Liên Xô còn gửi đến Việt Nam cả những chuyên gia giỏi trong các lĩnh vực quân sự cũng nhưng dân sự. Điều này làm người Mỹ lo ngại thực sự.

Để minh họa cho sự lo ngại đó, các nhà làm phim Mỹ đã thực hiện bộ phim "Rambo". Trong đó, các đạo diễn Mỹ đã "đưa ra ánh sáng" những trận chiến khốc liệt giữa các "anh hùng" của họ và "những tên côn đồ khét tiếng" của lực lượng đặc biệt Nga. (*)

Trên thực tế, các chuyên gia và cán bộ Liên Xô có mặt ở miền Bắc Việt Nam chủ yếu tham gia đào tạo sĩ quan Việt Nam và dạy cách sử dụng vũ khí trang thiết bị quân sự của Liên Xô.

Trái ngược với mong đợi của người Mỹ, mà theo dự báo của họ, công việc đào tạo của chuyên gia Liên Xô đạt được kết quả phải mất ít nhất một năm. Người Việt Nam chỉ mất 2-3 tháng đã có thể làm chủ trang thiết bị quân sự do Liên Xô viện trợ và sử dụng các vũ khí mới đó chống lại người Mỹ.

Điều này dẫn đến sự nghi ngờ lớn trong quân đội Mỹ, họ cho rằng chuyên gia Liên Xô tham trực tiếp vào cuộc chiến, và rằng những phi công đối phương đang đối đầu với họ trên bầu trời không phải là những người Việt Nam mà là những phi công Xô-viết.

http://nghiadx.blogspot.com
Nhóm chuyên gia Liên Xô sang Việt Nam năm 1966. Ảnh: Internet

http://nghiadx.blogspot.com
Chuyên gia Liên Xô và các học viên Việt Nam. Ảnh: Internet

http://nghiadx.blogspot.com
Các chuyên gia Liên Xô xem xét mảnh vỡ máy bay B-52 bị bắn rơi ngày 23/12/1972 trên bầu trời Hà Nội. Ảnh: Internet

Không thể phủ nhận rằng người Mỹ có lý do để không tin tưởng vào sự đảm bảo của Liên Xô rằng, các chuyên gia quân sự chỉ làm nhiệm vụ cố vấn. Thực tế là phần lớn dân số của miền Bắc Việt Nam vừa mới được xóa mù chữ. Những khó khăn kinh tế thời hậu chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất hạ thấp thể lực của đa số dân chúng. Ngay cả sức lực tối thiểu của sự chịu đựng và sức mạnh ở nam giới bình thường cũng yếu. Theo đánh giá, thanh niên chỉ có thể cầm cự được trong vòng 10 phút chiến đấu với kẻ thù. Về kỹ năng trong việc thử nghiệm trên máy móc hiện đại là hoàn toàn không có.

Tuy nhiên, cần nhớ rằng, có hơn 10.000 người Việt Nam được gửi sang Liên Xô đào tạo quân sự và kỹ thuật-công nghệ quân sự hiện đại. Theo các đánh giá khác nhau, viện trợ hữu nghị cho Việt Nam tiêu tốn của ngân sách Liên Xô từ 0,5-2 triệu USD/ngày.

Đứng trước nhiều khó khăn này, trong năm đầu tiên của cuộc đối đầu bằng không quân miền Bắc Việt Nam (1964-1965) đã tiêu diệt một phần lớn số máy bay quân sự của Mỹ. Máy bay MiG đã giành được khả năng cơ động cao hơn trước những “bóng ma” huyền thoại của Không quân Mỹ, họ đã tấn công chớp nhoáng gây thiệt hại vào đội hình bay của quân đội Mỹ và trốn tránh thành công sau vụ tấn công.

Hệ thống phòng không là thách thức thật sự với Không quân Mỹ vì chúng được đặt dưới vỏ bọc của rừng rậm nhiệt đới, do đó, phần lớn máy bay ném bom Mỹ đã bị bắn rơi. Ngoài ra, công tác tình báo đã hoạt động thành công, thông báo kịp thời và trước thời hạn về những phi vụ xuất kích của máy bay đối phương.

Người Mỹ đánh giá, toàn bộ hệ thống phòng không của miền Bắc Việt Nam khi đó không cho phép bất kỳ máy bay tiêm kích nào qua mặt, đã được Liên Xô xây dựng, thông qua các cố vấn Liên Xô.

Đúng là đối với những cố vấn Liên Xô, những tháng đầu tiên ở Việt Nam là vô cùng căng thẳng. Điều kiện khí hậu khác nhau, xuất hiện các căn bệnh lạ, côn trùng gây phiền nhiễu không phải là vấn đề chính trong thực hiện nhiệm vụ của họ. Việc đào tạo các đồng chí Việt Nam không hiểu tiếng Nga diễn ra bằng cách “cầm tay chỉ việc”, bời vì không phải lúc nào cũng có sự giúp đỡ của thông dịch viên, một lực lượng thiếu hụt nghiêm trọng vào thời điểm đó.

Tuy nhiên, các chuyên gia Liên Xô không trực tiếp tham gia chiến đấu, vì họ có số lượng rất ít, và có "giá trị lớn" và không được phép đem ra đánh đổi trong bất kỳ trận chiến nào. Theo hồi ký của các cựu Liên Xô, họ thậm chí không có vũ khí cá nhân của mình.

Bên cạnh đó, Bộ Chỉ huy Mỹ nghiêm cấm việc bắn tàu và phương tiện vận tải của Liên Xô, bởi hành động như vậy có thể kích động một cuộc Chiến tranh thế giới thứ ba. Số vũ khí phòng không kể trên đến được với Hà Nội cũng là một kỳ tích, bởi trên suốt quá trình vận chuyển đã phải trải qua các vụ đánh bom ác liệt của Không quân Mỹ và cả sự dòm ngó của Trung Quốc.

Xua tan những nghi ngờ

Có ý kiến cho rằng, Liên Xô đã viện trợ cho Hà Nội những vũ khí đã lỗi thời. Điều này hoàn toàn là bịa đặt. Theo ý kiến của ông Nikolay Koliesnik, cựu trưởng đoàn chuyên gia Liên Xô tại Việt Nam, Chủ tịch Hiệp hội các cựu chiến binh Nga trong chiến tranh Việt Nam, những máy bay tiêm kích hiện đại nhất MiG-21 và cả hệ thống tên lửa đất đối không Dvina - những vũ khí, mà theo xác nhận của chính người Mỹ, ở thời điểm đó là đáng sợ nhất hành tinh.

Ông Kolesnik cũng đặc biệt nhấn mạnh trình độ chuyên môn cao của các chuyên gia Liên Xô được gửi sang Việt Nam, đồng thời cũng đánh giá cao tính kiên trì của người Việt trong việc học tập làm chủ vũ khí cũng như nắm vững khoa học quản lý nhanh nhất có thể.

Trong chiến tranh chống Mỹ Liên Xô đã viện trợ cho Việt Nam nhiều xe tăng các loại từ T-34 đến T-54. 2.000 xe tăng, 700 máy bay cơ động, 7.000 súng cối, cùng hơn 100 trực thăng và đã được Liên Xô chuyển giao cho Hà Nội, như là một nguồn viện trợ không hoàn lại và hữu nghị với Việt Nam.

http://nghiadx.blogspot.com
Xe bọc thép BTP-60PB được Liên Xô viện trợ.

http://nghiadx.blogspot.com
Pháo tự hành Su-100 quân đội Việt Nam nhận viện trợ từ Liên Xô

http://nghiadx.blogspot.com
Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử quân đội Việt Nam lần đầu tiên đã được Liên Xô viện trợ tổ hợp phòng không tự hành Su-23-4-Shilka mới nhất và hiện đại nhất thế giới vào thời điểm đó.

Chính quyền Mỹ biết rõ có sự giúp đỡ quân sự của Liên Xô cho miền Bắc Việt Nam, nhưng tất cả các chuyên gia, gồm cả chuyên gia quân sự, đều bắt buộc phải mặc trang phục dân sự, tất cả giấy tờ tùy thân của họ đều bị giữ lại ở Đại sứ quán Liên Xô tại Hà Nội, và cả đích đến cuối cùng của “chuyến công tác” của mình, họ cũng chỉ được biết vào phút chót. Yêu cầu về tính bí mật được người ta giữ kín cho đến khi chuyên gia Liên Xô rút khỏi Việt Nam, số liệu chính xác và tên tuổi của những người tham gia đã không được tiết lộ cho đến thời gian gần đây.

Ngày nay, Liên bang Nga như là người thừa kế trực tiếp của Liên Xô, đang tích cực xây dựng và củng cố mối quan hệ với Việt Nam. Bối cảnh chính trị đã thay đổi khác nhiều so với trước kia, tuy nhiên người dân Việt Nam vẫn giữ tình cảm biết ơn các cố vấn Liên Xô, còn những nhân vật của cuộc chiến bí mật đó luôn tự hào về sự tham gia của họ.

(*) Tất cả sự sợ hãi trước những người lính đặc nhiệm Liên Xô được tập trung thể hiện trong bộ phim "Rambo", như một cách để thuyết phục các chính trị gia Mỹ về cái gọi là "sự dính líu của Liên Xô ở Việt Nam". Thế nhưng, nếu tính ra, số quân nhân Liên Xô đến Hà Nội chỉ bằng khoảng 6/1.000 so với quân số Mỹ (chưa kể thêm 4.000 nhân viên gắn mác dân sự ở Nam Việt Nam). Rõ ràng sự sợ hãi được đề cập trong bộ phim "Rambo" chỉ là sự phóng đại.

Chưa có sự xác nhận chính thức nào của các bên về việc có hay không sự hoạt động của các toán lính biệt kích đặc nhiệm Liên Xô chống lại Quân đội Mỹ ở Nam Việt Nam. Trong khi trên một số mạng của Nga cũng có đề cập đến một số hoạt động của lực lượng biệt Liên Xô ở đây, tuy nhiên lượng thông tin rất ít ỏi. Đó là chiến dịch đánh cắp 1 trực thăng Mỹ Cobra tại Khe Sanh năm 1962 và một số hoạt động ở khu vực Tây Ninh.

Nếu tin vào những câu chuyện huyễn hoặc về những người Bolshevik với súng máy, ẩn nấp trong rừng rậm và tấn công lực lượng dân sự Mỹ ở miền Nam Việt Nam, ngày càng được phổ biến ở Hoa Kỳ, thì có thể kết luận rằng chỉ có 10.000 hay 11.000 binh sĩ Liên Xô chiến thắng trước đội quân nửa triệu người của Mỹ?

Thứ Tư, 14 tháng 12, 2011

>> Hé lộ bí mật Hiệp ước khiến Liên Xô sụp đổ



Cách đây 20 năm, ngày 8/12/1991, các nhà lãnh đạo Nga, Belarus và Ucraina tại khu rừng nghỉ dưỡng Belovezh, cộng hòa Belarus đã tập trung lại và ký kết Hiệp ước huyền thoại “Về việc thành lập Cộng đồng các quốc gia độc lập” (SNG) đánh dấu chấm hết cho sự sụp đổ Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết (gọi tắt là Liên Xô).

Nhân dịp 20 năm ngày đáng nhớ này, các phương tiện thông tin đại chúng Nga đã hé lộ những kỷ yếu chính thức những sự kiện đó và công bố những câu chuyện của những chứng nhân lịch sử mà dư luận chưa từng biết về cuộc gặp lịch sử của Tổng thống Nga Boris Yeltsin, Chủ tịch Xô viết Tối cao Belarus Stanislav Shushkevich và Tổng thống Ucraina Leonid Kravchuk tại khu điền trang Viskuli.

http://nghiadx.blogspot.com

Cựu giám đốc khu điền trang trong bài trả lời phỏng vấn “Báo Nga” đã bác bỏ huyền thoại rằng Hiệp ước được 3 nhà lãnh đạo ký kết trong hoàn cảnh “say mềm”. Còn cựu nữ thư ký, người từng được mệnh danh là “người đàn bà làm cho Liên Xô sụp đổ” kể rằng bà đã sử dụng chiếc máy tính cũ kỹ hiệu “Optima” ghi lại nội dung cuộc đàm phán của ba nhà lãnh đạo và cả văn bản của Hiệp ước này.

Trước thềm kỷ niệm ngày lịch sử này, các nhà xã hội học Nga đã tiến hành một cuộc thăm dò dư luận và kết quả cho thấy là đa số người Nga đều cho rằng đã có thể tránh được sự sụp đổ của Liên Xô, một số người được hỏi còn ủng hộ việc khôi phục lại Liên bang như cũ.

Những tư liệu chính thức

Tạp chí “Vlast” (Chính quyền) nhận định rằng trong Hiệp ước nêu trên chỉ rõ “Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết” là một chủ thể luật pháp quốc tế và thực tiễn địa chính trị đã chấm dứt sự tồn tại của mình”. Chính câu viết này sau đó là lý do để lên án ba nhà lãnh đạo làm sụp đổ Liên Xô. Tạp chí khẳng định trên thực tế ba nhà lãnh đạo chỉ tổng kết kết quả quá trình không thể đảo ngược được bắt đầu từ cuối nhăng năm 1980 của thế kỷ trước.

Tờ báo “Vedomoct” (Tin tức) nhận định “Liên Xô sụp đổ là do thời kỳ hỗn mang chính trị kết hợp với sự tích tụ vô vàn những vấn đề xã hội và kinh tế không được giải quyết từ nhiều năm để lại”. Một bộ phận lớn giới chức lãnh đạo trong Bộ Chính trị và Ủy ban trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô do Gorbachev cải tổ bị lâm vào tình trạng đứng ngoài cuộc sống thực tại, không muốn và không thể dự báo được những quá trình chính trị và kinh tế. Trong bối cảnh như thế, lãnh đạo ba nước Slavơ chỉ còn mỗi một việc là đánh dấu cái chết cho một quốc gia và một thể chế quan liêu không còn khả năng hoạt động.

Những dấu hiệu đáng lo ngại cho sụp đổ sau này đã xuất hiện trong giai đoạn của cái gọi là “duyệt binh chủ quyền” từ năm 1988 đến năm 1990. Tháng 3 năm 1990, đầu tiên là Cộng hòa Litva tuyên bố độc lập. Ban lãnh đạo Liên Xô đã tìm mọi cách để cứu vãn khỏi sự tan rã, nhưng vô ích.

Ngày 17/3/1991 tại Liên Xô đã tiến hành cuộc trưng cầu dân ý toàn Liên bang, theo đó 76,4% dân số tán thành “việc duy trì Liên Xô là một Liên bang đổi mới của các nước cộng hòa có chủ quyền”. Các nước cộng hòa như Ban tích, Mondova, Armenia và Gruzia đã phong tỏa cuộc trưng cầu này.

Tháng 4/1991 Gruzia tuyên bố ra khỏi thành phần Liên Xô. Cũng trong tháng 4, Tổng thống Liên Xô Gorbachev trong cuộc gặp với lãnh đạo 9 nước cộng hòa còn lại đã quyết định chuẩn bị một Hiệp ước liên bang, theo đó thành lập Liên bang các nước cộng hòa có chủ quyền (SSG). Tuy nhiên việc ký kết hiệp ước này đã bị cuộc chính biến của Ủy ban nhà nước về tình trạng khẩn cấp (GKChP) phá tan.

Từ thời điểm đó đất nước lao nhanh xuống dốc theo đà sụp đổ. Tháng 8/1991 Estonia, Latvia, Ucraina, Belarus, Mondova, Uzbekistan và Kirgizia cùng đồng thanh tuyên bố độc lập. Tháng 9/1991, theo quyết định của Xô viết Tối cao Tajikistan và Armenia cũng tuyên bố độc lập. Theo sau đó là Azerbaijan và Turmenia.

Ngày 25/11/1991 tại khu nhà nghỉ Novo-Ogarevo, ngoại ô Matxcova, người ta lại cố gắng khôi phục lại ký kết Hiệp định về việc thành lập Cộng đồng các quốc gia có chủ quyền (SSG) và dự định sang tháng 12 sẽ ký kết. Ngày 1/12/1991, chính quyền Ucraina trên cơ sở trưng cầu dân ý đã thông qua tuyên bố độc lập. Tổng thống Nga Boris Yeltsin phản ứng lại sự kiện này bằng việc tuyên bố rằng “nếu thiếu Ucraina, thì Hiệp ước liên bang chẳng còn ý nghĩa gì hết”. Cho đến thời điểm nay Nga và Kazakhstan vẫn chưa tuyên bố độc lập.

Ngày 8/12/1991, tại khu rừng nghĩ dưỡng Belovezh (Belarus), Tổng thống Nga Boris Yeltsin, Tổng thống Ucraina Leonid Kravchuk và Chủ tịch Xô viết Tối cao Belarus Stanislav Shushkevich đã ký kết Hiệp ước Belovezh và ngay ngày 10 – 12/12/1991 Hiệp ước này đã được phê chuẩn. Ngày 21/12/1991 Azerbaijan, Armenia, Kazakhstan, Kirgizia, Mondova, Tajikistan, Turmenia và Uzbekistan đã tham gia Cộng đồng các quốc gia độc lập (SNG). Gruzia là thành viên của SNG từ năm 1993 đến 2009.

Ngày 25/12/1991 Tổng thống Liên Xô Mikhail Gorbachev tuyên bố từ bỏ quyền hạn, còn trên đỉnh Điện Cremlin thay vì ngọn cờ đỏ búa liềm là ngọn cờ ba màu đỏ xanh trắng của Nga được treo lên.

Thứ Sáu, 9 tháng 12, 2011

>> Sự khủng khiếp của bom Nga



Tsar Bomba được kích nổ lúc 11:32 ngày 30 tháng 10 năm 1961 trên khu vực thử nghiệm hạt nhân Vịnh Mityushikha.

Tsar Bomba, dịch nghĩa "bom-Sa hoàng", là tên hiệu của quả bom khinh khí AN602 (mã hiệu "Ivan" (do những người phát triển nó đặt) — là vũ khí hạt nhân lớn nhất, mạnh nhất từng được cho nổ, và hiện vẫn là thiết bị nổ mạnh nhất con người từng cho nổ trong lịch sử nhân loại.

Được phát triển tại Liên xô, quả bom ban đầu được thiết kế để có đương lượng nổ khoảng 100 mêga tấn TNT; tuy nhiên, đương lượng nổ đã được giảm đi một nửa để giới hạn khối lượng bị phóng xạ sẽ phát tán. Chỉ một quả bom loại này được chế tạo và thử nghiệm ngày 30 tháng 10 năm 1961, tại quần đảo Novaya Zemlya.


http://nghiadx.blogspot.com
Đám mây hình nấm của Tsar Bomba


Những vỏ bom còn lại được đặt ở: Bảo tàng vũ khí hạt nhân Nga, Sarov (Arzamas-16); Bảo tàng Vũ khí hạt nhân, Viện nghiên cứu Kỹ thuật Vật lý Toàn Nga, Snezhinsk (Chelyabinsk-70). Không vỏ bom nào trong số trên có cùng cấu hình ăng ten như thiết bị thực tế đã được thử nghiệm.

Thiết bị này được gán cho nhiều cái tên trong văn học. Cái tên nào là chính xác, được đưa ra để đánh lạc hướng đối phương hay theo thực tế là vấn đề chưa được giải quyết: Số dự án- Dự án 700; Mã sản phẩm- Mã sản phẩm 202 (Izdeliye 202); Tên định danh- RDS-220 (РДС-220), RDS-202 (РДС-202), RN202 (PH202), AN602 (AH602); Bí hiệu- Vanya; Tên hiệu- Big Ivan, Tsar Bomba.

Thuật ngữ "Tsar Bomba" đã được tạo ra trong một sự suy luận với hai dự án lớn khác của nga, Tsar Kolokol, quả chuông lớn nhất thế giới của Nga, và Tsar Pushka, bích kích pháo lớn nhất thế giới. Dù quả bom được các nguồn tin phương Tây gọi tên như vậy, cái tên này hiện được sử dụng tại Nga.


http://nghiadx.blogspot.com
Địa điểm vụ nổ


Tsar Bomba là một quả bom khinh khí ba giai đoạn với một đương lượng nổ 57 megaton (Mt). Nó tương đương 10 lần lượng thuốc nổ được sử dụng trong Chiến tranh thế giới thứ hai, gồm cả Little Boy và Fat Man, những quả bom đã tàn phá Hiroshima và Nagasaki.

Một quả bom H ba giai đoạn sử dụng một quả bom hạt nhân ban đầu để tạo ra một phản ứng nhiệt hạch tiếp theo, như trong hầu hết các quả bom H, và sau đó sử dụng năng lượng từ vụ nổ này để tạo ra một giai đoạn nhiệt hạch lớn hơn nữa.

Tuy nhiên, có bằng chứng rằng Tsar Bomba có một số giai đoạn thứ ba chứ không phải chỉ là một giai đoạn rất lớn duy nhất.

Thiết kế ba giai đoạn ban đầu có khả năng tạo ra vụ nổ xấp xỉ 100 Mt, nhưng sẽ tạo ra quá nhiều bụi hạt nhân. Để giới hạn bụi hạt nhân, giai đoạn ba, và có thể cả giai đoạn hai, có một tamper chì thay cho một tamper uranium-238 (nó khuếch đại cực mạnh phản ứng bằng cách phân hạt các nguyên tử uranium với các neutron nhanh từ vụ nổ nhiệt hạch).


http://nghiadx.blogspot.com
Một vỏ bom kiểu Tsar Bomba được trưng bày tại Sarov


Điều này giúp làm hạn chế sự phân hạt nhanh bằng các neutron ở giai đoạn tổng hợp, vì thế xấp xỉ 97% tổng năng lượng có được từ sự tổng hợp hạt nhân (như vậy, nó là một trong những quả bom hạt nhân "sạch nhất" từng được chế tạo, tạo ra một khối lượng bụi hạt nhân khá nhỏ so với đương lượng nổ).

Có một sự khuyến khích rất lớn với kiểu thiết kế này bởi hầu hết bụi hạt nhân của vụ thử nghiệm bom sẽ rơi trên vùng lãnh thổ có người ở của Liên xô.

Các thành phần được thiết kế bởi một đội các nhà vật lý dưới sự lãnh đạo của Academician Julii Borisovich Khariton và gồm cả Andrei Sakharov, Victor Adamsky, Yuri Babayev, Yuri Smirnov, và Yuri Trutnev.

Một thời gian ngắn sau khi Tsar Bomba được cho nổ, Sakharov bắt đầu phát biểu chống lại các loại vũ khí hạt nhân, cuối cùng biến ông trở thành một người bất đồng.

Tsar Bomba được đưa tới nơi thử bởi một chiếc máy bay ném bom Tu-95V đã được sửa đổi đặc biệt, do Thiếu tá Andrei Durnovtsev điều khiển, cất cánh từ một sân bay trên bán đảo Kola.


http://nghiadx.blogspot.com
Vùng bị Tsar Bomba phá hoại hoàn toàn (ví dụ – phạm vi lớn hơn bản độ Paris): Vòng đỏ = Bị phá hủy hoàn toàn (bán kính 35 km), vòng vàng = quả cầu lửa (bán kính 3,5 km).


Chiếc máy bay ném bom được tháp tùng bởi một máy bay quan sát Tu-16 lấy các mẫu trên không và quay phim vụ thử nghiệm. Cả hai máy bay đều được sơn sơn phản quang trắng đặc biệt để hạn chế hư hại do nhiệt.

Quả bom, cân nặng 27 tấn, quá lớn với chiều dài 8 mét và đường kính 2 mét khiến chiếc Tu-95V chở nó phải bỏ các cửa khoang bom và thùng nhiên liệu trong thân. Quả bom được gắn một dù giảm tốc 800 kilôgam, để chiếc máy bay ném bom và máy bay quan sát có thời gian bay khoảng 45km khỏi điểm nổ.

Tsar Bomba được kích nổ lúc 11:32 ngày 30 tháng 10 năm 1961 trên khu vực thử nghiệm hạt nhân Vịnh Mityushikha (Sukhoy Nos Zone C), phía bắc Vòng Bắc Cực trên hòn đảo Novaya Zemlya tại Biển Arctic.

Quả bom được thả từ độ cao 10.5km; nó được dự định nổ ở độ cao 4km trên mặt đất (4.2km trên mực nước biển) bằng các cảm biến khí áp.


http://nghiadx.blogspot.com
So sánh các quả cầu lửa của một số loại vũ khí hạt nhân, gồm cả Tsar Bomba. Các hiệu ứng luồng gió rộng hơn rất nhiều lần bán kính của quả cầu lửa.


Ước tính ban đầu về đương lượng nổ của Hoa Kỳ là 57 Mt, nhưng từ năm 1991 mọi nguồn tin của Nga đều nói rằng nó có đương lượng nổ 50 Mt. Khrushchev đã cảnh báo trong một bài phát biểu được quay phim trước nghị viện Liên Xô về sự tồn tại của một quả bom 100 Mt (về kỹ thuật việc thiết kế một quả bom có đương lượng nổ này là có thể).

Quả cầu lửa chạm tới mặt đất, gần tới cao độ của chiếc máy bay ném bom, và được nhìn thấy và cảm thấy từ 1000km từ ground zero. Sức nóng của vụ nổ có thể gây bỏng độ ba 100 km (62 dặm) từ ground zero.

Đám mây hình nấm sau đó cao khoảng 64km (gần cao hơn bảy lần Núi Everest) và rộng 40km. Vụ nổ có thể được quan sát và cảm nhận thấy ở Phần Lan, làm vỡ kính cửa sổ tại Phần Lan và Thuỵ Điển.




Hội tụ khí quyển gây ra thiệt hại ở khoảng cách lên tới 1000km. Sóng địa chấn do vụ nổ gây ra có thể đo được thậm chí ở lần chạy quanh Trái đất thứ ba.

Mức sóng địa chấn của nó khoảng 5 tới 5.25. Lượng năng lượng khoảng 7.1 trên thang Richter nhưng bởi quả bom được cho nổ trên không chứ không phải ngầm dưới đất, đa số năng lượng không được chuyển thành sóng địa chấn.

Thứ Năm, 8 tháng 12, 2011

>> Nga khôi phục thế siêu cường bằng siêu vũ khí



Liệu nước Nga có thể giành lại vị thế siêu cường trước đây? Chiếc máy bay phản lực chiến đấu này chính là chìa khóa.


Quân đội Nga đang nỗ lực chế tạo nên một chiến đấu cơ thế kỷ 21. Liệu nước Nga có thể giành lại vị thế siêu cường trước đây? Chiếc máy bay phản lực chiến đấu này chính là chìa khóa.

Mới đây, Thủ tướng Nga Vladimir Putin đã đề xuất việc thành lập nên một "Liên minh Âu Á" gồm các quốc gia trong liên bang Xô Viết cũ. Động thái này được coi là một thách thức đối với phương Tây, và một cú huých nhằm tái thiết lại vị trí siêu cường của Moscow trước đây.

http://nghiadx.blogspot.com

http://nghiadx.blogspot.com
Sukhoi PAK T-50


Ông Putin đưa ra ý tưởng này trong bối cảnh quân đội Nga hồi sinh phi thường. Moscow đang rất muốn thiết lập lại sức mạnh thần kỳ của quân đội, trên thực tế, họ đã hứa chi 730 tỉ USD để trang bị lại các lực lượng vũ trang của mình với các loại vũ khí của thế kỷ 21 cho tới năm 2020.

Theo kế hoạch này, quân đội Nga sẽ tiếp nhận 1000 máy bay trực thăng mới, 600 chiến đấu cơ và 100 tàu chiến, bao gồm cả các hàng không mẫu hạm và 8 tàu ngầm hạt nhân trang bị tên lửa đạn đạo. Việc tăng cường dần lực lượng vũ trang cũng nhắm đến một thế hệ các tên lửa xuyên lục địa thế hệ mới và các hệ thống phòng không tân tiến.

Tất cả những điều này nghe đều rất hoành tráng. Nhưng trên hết thảy, Moscow có thể giành lại vị trí thống trị toàn cầu dựa vào một quân bài chủ chốt của quân đội hùng tráng của họ: phi cơ chiến đấu đẹp "mượt mà" thuộc "thế hệ thứ năm" được biết đến với tên gọi Sukhoi PAK T-50.

Với đôi cánh cụp phía sau và trông như một mũi tên sắc nhọn, T-50 là chiến đấu cơ đầu tiên và ấn tượng mà nước Nga thiết kế nên mà không phải kế thừa từ thời Xô Viết. Nhưng câu hỏi lớn đặt ra ở đây là, liệu Nga có đủ hầu bao để lắp rắp loại máy bay này?


Moscow không hề nản chí. Tổng thống Dmitri Medvedev đã giải thích từ tháng Hai rằng Nga cần bắt kịp NATO và Mỹ, sau hai thập kỷ bị coi là cường quốc "hạng ba". "NATO vẫn không ngừng nỗ lưc để mở rộng cấu trúc quân sự. Tất cả điều này kêu gọi việc hiện đại hóa về mặt chất lượng các lực lượng vũ trang của chúng ta và định hình lại hình ảnh của họ... chúng ta cần đổi mới vũ khí toàn diện" - ông Medvedev nói.

Chi tiêu quốc phòng của Nga đã tăng lên 10 lần kể từ khi ông Putin lên nắm quyền năm 2000. Cựu Bộ trưởng Tài chính Alexei Kudrin nói rằng, nếu như kế hoạch chi tiêu triển khai, Moscow sẽ tăng gấp đôi lượng tiền đổ vào quốc phòng vào năm sau, từ 3 % lên 6% GDP.

Tiền và động cơ đóng vai trò quan trọng với bất kỳ nước nào muốn trở thành siêu cường. Tiềm lực công nghiệp cũng vậy. Một số chuyên gia an ninh nghi ngờ rằng tổ hợp quân sự - công nghiệp của Nga khó có thể sản xuất nên các mặt hàng như vậy.

"Bây giờ thì tiền rất sẵn, và có thể là một dự án riêng lẻ như T-50 là khả thi, thậm chí trong các bối cảnh của Nga" - Vitaly Shlyko, một cựu Phó bộ trưởng Quốc phòng và là nhà lên kế hoạch chiến tranh thời Xô Viết, nói. "Nhưng Nga lại có xu hướng giảm công nghiệp hóa. Về cơ bản thì Nga vẫn là một đất nước ở thế giới thứ ba sống nhờ xuất khẩu dầu. Chương trình đổi mới vũ khí là một chiến dịch chính trị, để khiến Putin tự hào. T-50 chủ yếu chỉ là một phương tiện chính trị".

Nếu như T-50 là thật, đây quả là một chiến đấu cơ ấn tượng. Các quan chức quân đội gọi đây là chiến đấu cơ "thế hệ thứ 5". Đó là hạng chiến đấu cơ duy nhất mà Mỹ đã xuất xưởng thành công, với mẫu hình là loại tiêm kích "Chim ăn thịt" F-22.

Các chiến đấu cơ thế hệ thứ 5 đều có thể tàng hình, có siêu động cơ, bay với vận tốc siêu thanh và rađa trinh sát vượt tầm nhìn. Chúng cũng có các loại vũ khí tích hợp và các hệ thống điều hướng do trí tuệ nhân tạo kiểm soát, và bộ khung làm từ các vật liệu tân tiến.

Đó là những gì cần thiết để trở thành một siêu cường thực sự.

http://nghiadx.blogspot.com

http://nghiadx.blogspot.com
Liệu Nga sẽ cần tới bao nhiêu chiếc Sukhoi PAK T-50 để giành lại vị thế siêu cường?


Tới nay, T-50 vẫn đang gặp trục trặc. Khi một trong hai nguyên mẫu được đem ra trình diễn vào tháng 8/2011, nó có vẻ như chỉ biểu diễn được các động tác bay chậm và lượn vài vòng "bình thường". Ngày hôm sau, khi máy bay phải trình diễn trước công chúng, nó bị bốc cháy khi cất cánh và phải chôn chân trên mặt đất trong suốt buổi diễn.

"Chúng tôi thậm chí còn không hề biết các thông số cơ bản về nó, chẳng hạn như nó có động cơ mới hay cũ? Khi chúng tôi hỏi, họ chỉ nói rằng "đó là tối mật" - Alexander Golts, một chuyên gia quân sự, cho biết.

Trong những năm gần đây, ông Putin đã cố gắng để khôi phục lại tiềm lực của Liên Xô bằng cách gộp lại những tên tuổi của các chiến đấu cơ nổi tiếng nhất như Sukhoi, MiG, Tupolev, Ilyushin vào tập đoàn khổng lồ của nhà nước

Nhưng các chuyên gia cho rằng động thái này chỉ nhằm che dấu đi vấn đề chính. Gần một nửa các ngành công nghiệp quân sự thời Xô Viết cũ của Nga vẫn đang hoạt động. Chuyên gia quân sự Pavel Felgenhauer chobiết: điều đó cũng có nghĩa là những bộ phận lắp ráp thành một chiến đấu cơ của Nga hiện nay phải được sản xuất trong một nhóm, quy trình tiêu tốn thời gian và công sức, tiền bạc. "Tệ hơn là, có một khoảng cách về công nghệ quá lớn giữa công nghiệp Nga và phương Tây".

Tổng thống Medvedev từng gợi ý rằng có thể mua vũ khí ở nước khác. Nga cũng nhập khẩu một vài loại, bao gồm súng trường bắn tỉa của Đức và máy bay không người lái của Israel và tàu chiến của Pháp. Nhưng trong hàng ngũ lãnh đạo cấp cao nhất của Nga lại có mâu thuẫn vì việc nhập khẩu này. Với sự trở lại của một vị lãnh đạo bảo thủ và chủ nghĩa dân tộc như Putin vào năm tới, lựa chọn này sẽ khó khả thi về mặt chính trị.


Phi công huyền thoại của Nga là Magomed Tolboyev nói rằng ông là một trong những người hâm mộ T-50 nhất, nhưng cũng không dám chắc việc sản xuất chính thức loại máy bay này vào năm 2013 là hiện thực.

"Ngành công nghiệp hàng không của chúng tôi mất 20 năm đình đốn, hầu hết các nhà máy đều ngừng hoạt động, các chuyên gia đã rời đi" - ông Tolboyev cho biết. "Khoảng trông đó sẽ cần 10 đến 15 năm để lấp đầy. Bạn sẽ không thể chỉ đưa người vào một ngành công nghiệp trống rỗng và bảo họ bắt đầu sản xuất ra các cỗ máy tinh xảo và phức tạp được".
Copyright 2012 Tin Tức Quân Sự - Blog tin tức Quân Sự Việt Nam
 
Lên đầu trang
Xuống cuối trang