Tin Quân Sự - Blog tin tức Quân sự Việt Nam: 01 tháng 4 2012

Paracel Islands & Spratly Islands Belong to Viet Nam !

Quần Đảo Hoàng Sa - Quần Đảo Trường Sa Thuộc Về Việt Nam !

Thứ Bảy, 7 tháng 4, 2012

>> Chỉ vì Iran mà Israel bị cả thế giới ghét ?


Theo đuổi chiến lược ngăn chặn hạt nhân, Israel không ngừng kêu gọi tấn công Iran để ngăn nước này sở hữu vũ khí hạt nhân, đe dọa sự tồn vong của Nhà nước Do thái. Tuy nhiên, đã đến lúc Israel phải nghĩ đến chuyện sống chung với một nhà nước hạt nhân Iran.



>> Israel có tấn công Iran?
>> Các kịch bản xung đột Iran-Israel (kỳ 1)
>> Chiến tranh Iran - Israel gần kề?
>> Nếu Israel tấn công Iran: Khó đến mức nào?

Tư duy mâu thuẫn

Những năm 1960, Israel chủ trương phát triển khả năng hạt nhân với mục đích cuối cùng là đảm bảo an ninh. Trong trường hợp sự tồn vong của đất nước bị đe dọa, vũ khí hạt nhân sẽ là lựa chọn cuối cùng để Israel chống lại kẻ thù. Chiến lược này được gọi là “Lựa chọn Samson" – chiến lược răn đe bất cứ quốc gia nào có ý định tấn công đe dọa đến sự tồn vong của Nhà nước Do thái sẽ lãnh hậu quả là sự đáp trả quyết liệt bằng tên lửa, hạt nhân từ phía Israel.

"Lựa chọn Samson" được đặt theo tên một anh hùng trong kinh thánh của người Do thái, chấp nhận chết chung với kẻ thù bằng hành động giật sập ngôi đền Philistine.

Tuy nhiên, cũng trong thời gian này, người Israel bị chi phối bởi niềm tin rằng bất cứ đối thủ nào của họ phát triển vũ khí hạt nhân cũng đều là mối đe dọa đối với sự tồn vong của Nhà nước Do thái và do đó, phải bị ngăn chặn bằng mọi giá. Niềm tin này là cơ sở để hình thành Học thuyết Begin với phát súng mở màn là sự kiện Thủ tướng Israel Menachem Begin quyết dùng vũ lực để ngăn chặn chương trình hạt nhân của Iraq năm 1981.



http://nghiadx.blogspot.com
Israel cho rằng bất cứ đối thủ nào của họ chủ trương phát triển vũ khí hạt nhân đều là mối đe dọa đến sự tồn vong của Nhà nước Do thái nên phải bị ngăn chặn bằng mọi giá. Ảnh minh họa: bikyamasr.


Song một nghịch lý là: "Lựa chọn Samson” chủ trương tìm kiếm và phát triển các lợi thế tiềm năng cơ bản cho Israel để răn đe các kẻ thù sở hữu vũ khí hạt nhân của họ. Trong khi đó, Học thuyết Begin lại chủ trương ngăn chặn bất cứ tham vọng phát triển vũ khí hạt nhân nào từ các đối thủ của họ.

Cuộc tranh luận mãi vẫn chưa có hồi kết về chương trình hạt nhân của Iran rõ ràng đã làm lộ ra những mâu thuẫn trong tư duy chiến lược của Israel. Có vẻ như, Học thuyết Begin xuất phát từ việc Israel không tin tưởng vào khả năng ngăn chặn hạt nhân của họ.

Mặc dù “Lựa chọn Samson” của Israel ủng hộ cho Học thuyết Hủy diệt lẫn nhau (MAD) để ngăn chặn chiến tranh hạt nhân giữa các quốc gia, giới lãnh đạo Israel ngày nay lại không tin vào chiến lược này. Họ cho rằng, việc để yên cho kẻ thù phát triển các khả năng hạt nhân chính là hành động “nối dáo cho giặc”, đẩy Israel vào tình thế nguy hiểm.

Cảm giác bất an, nỗi sợ hãi bị tấn công – kết quả của giả định rằng Nhà nước Do thái luôn phải chống chọi với các mối đe dọa sinh tồn – trở thành lý do để Israel tìm kiếm sự bảo đảm an ninh tuyệt đối. Cốt lõi trong chiến lược của người Israel chính là khái niệm rằng họ chỉ có thể tồn tại trong trường hợp họ giành được ưu thế vượt trội hơn kẻ thù về mặt quân sự. Do đó, Israel luôn muốn giữ thế độc quyền hạt nhân trong khu vực.

Điều này giải thích tại sao Israel tiến hành các cuộc không kích vào các cơ sở hạt nhân bí mật của Iraq năm 1981 và vào Syria năm 2007 nhằm bảo đảm thế độc quyền về khả năng hạt nhân của họ.

Trong khi chương trình hạt nhân là một chiến lược để tìm kiếm sự bảo đảm cuối cùng cho kịch bản ngày tận thế trong trường hợp tất cả kẻ thù liên minh lại với nhau và dốc toàn lực tấn công, đe dọa hủy diệt Nhà nước Do thái thì những đối thủ truyền thống của Israel lại chẳng màng đến chiến lược ngăn chặn hạt nhân của nước này.

Bằng chứng là, chiến lược ngăn chặn hạt nhân của Israel không ngăn được việc Syria và Ai Cập tấn công xâm lược Israel năm 1973 và việc Iraq phóng tên lửa vào lãnh thổ nước này năm 1991.

Ngoài ra, một bằng chứng dễ thấy nhất chính là tình trạng bạo lực leo thang liên tục ở dải Gaza dẫn đến việc Israel phải hứng chịu các trận mưa rocket do các nhóm vũ trang Hezbollah hoặc Hamas tiến hành nhằm vào các khu dân cư đông đúc của Nhà nước Do thái trong suốt thập kỷ qua. Đáng nói là, các nhóm vũ trang này tấn công chống lại Israel bất chấp việc nước này luôn là lực lượng chiếm ưu thế trên chiến trường.

Theo sử gia Avner Cohen, chương trình hạt nhân của Israel đã được khởi động mà không có những phân tích cẩn thận về các mục tiêu chiến lược lâu dài, cách thức áp dụng và các vấn đề liên quan khác đến khả năng răn đe của nó.

Càng cố chống Iran, Irael càng bị chán ghét

Thực tế là, ngày nay, phần lớn chiến lược gia của Israel theo đuổi Học thuyết Begin: ngăn chặn các đối thủ sở hữu vũ khí hạt nhân bằng mọi giá.

Tuy nhiên, việc kích động một cuộc chiến chống lại Cộng hòa Hồi giáo nhằm ngăn chặn nước này sở hữu vũ khí hạt nhân chứng tỏ rằng Israel nghi ngờ khả năng ngăn chặn một nhà nước hạt nhân Iran theo như chiến lược hạt nhân của họ. Nói cách khác, họ không có đủ niềm tin vào chiến lược ngăn chặn hạt nhân - “Chọn lựa Samson” dựa trên Học thuyết hủy diệt lẫn nhau (MAD) bằng tên lửa, hạt nhân.

Không ít người mù quáng cho rằng giới lãnh đạo Iran - bị thúc đẩy bởi hệ tư tưởng tôn giáo cứu thế sai lầm – sẽ sử dụng vũ khí hạt nhân để tiêu diệt Israel, bất kể cái giá phải trả là gì.

Những người khác thì lại lập luận thậm chí, trong trường hợp các nhà hoạch định chính sách Iran là những người có lý trí, thì thế giới quan bí ẩn cộng với quan hệ lạnh nhạt với Israel có thể sẽ khiến Tehran, vì một hiểu nhầm nào đó mà có thể khởi động cho sự leo thang hạt nhân mang lại những hậu quả khôn lường.

Một lập luận phổ biến khác chống lại MAD xuất phát từ quan ngại Iran sở hữu vũ khí hạt nhân sẽ dẫn đến sự phổ biến loại vũ khí hủy diệt trên khắp Trung Đông.

Đáng bận tâm là, giới lãnh đạo Israel ngày nay cũng không ủng hộ MAD – cốt lõi của chiến lược “Chọn lựa Samson” của họ. Giới chức Israel cho rằng, để yên cho kẻ thù phát triển các khả năng hạt nhân chính là hành động “nối dáo cho giặc”, đẩy Israel vào thế nguy hiểm.

http://nghiadx.blogspot.com
Giới lãnh đạo Israel cho rằng để yên cho kẻ thù phát triển vũ khí hạt nhân là hành động "nối giáo cho giặc". Ảnh minh họa: news4u.

Điều này giải thích tại sao Israel tiến hành các cuộc không kích vào các cơ sở hạt nhân bí mật của Iraq năm 1981 và vào Syria năm 2007 nhằm để đảm bảo thế độc quyền về khả năng hạt nhân của họ.

Tuy nhiên, hành động kích động cho một cuộc chiến chống lại Iran hiện nay của Israel cũng tiềm ẩn rất nhiều rủi ro và chỉ khiến hình ảnh của Nhà nước Do thái trong mắt cộng đồng quốc tế ngày càng xấu xí đi. Thậm chí, nó kích động tình cảm chống Nhà nước Do thái phổ biến rộng rãi hơn trên phạm vi thế giới. Nicky Larkin, một nhà làm phim người Ireland nhấn mạnh: “Chống Israel được coi là một phần bản sắc Ireland của chúng tôi, giống như việc chúng tôi ghét người Anh vậy”.

Thêm vào đó, cách đây không lâu, tờ Economist chạy bài xã luận tiêu đề “Nỗi ám ảnh Auschwitz”, cáo buộc căng thẳng và bất ổn ở Trung Đông mãi không dứt chính là do nỗi sợ hãi bị tấn công mù quáng của người Israel - sinh ra từ sau vụ tàn sát người Do thái thời Đức Quốc xã. Vì sợ hãi, Israel bị ám ảnh về một bóng ma hạt nhân Iran, do đó, biến Iran thành kẻ thù số 1 của họ. Bài xã luận “Nỗi ám ảnh Auschwitz” nhấn mạnh rằng “người Israel về mặt tâm lý đã chuyển căn nguyên gây ra nỗi lo sợ của họ vào một đối tượng không mấy liên quan: Iran”.

Nhưng trong khi một cuộc tấn công Iran sẽ khiến Israel đối mặt với không ít rủi ro, đe dọa đến sự tồn vong của họ, thì thực tế, chính phủ nước này còn phải đối mặt với câu hỏi quan trọng khác. Đó là liệu theo đuổi một cuộc tấn công nhằm vào Cộng hòa Hồi giáo có thể chấm dứt khát vọng sở hữu vũ khí hạt nhân của họ hay không.

Đây là câu hỏi mà Nhà nước Do thái cần phải trả lời trước khi đưa ra bất cứ hành động liều lĩnh nào. Đã đến lúc, Israel cần cân nhắc một cách nghiêm túc về việc sẽ tiếp tục ngăn chặn một nhà nước hạt nhân Iran hay sống chung với họ. Rõ ràng, nếu Học thuyết Begin thất bại, không còn cách nào khác Israel sẽ phải tính chuyện làm thế nào để sống chung với một nhà nước hạt nhân Iran.

Israel thề sẽ ngăn chặn Cộng hòa Hồi giáo đạt được giấc mơ hạt nhân nhưng có vẻ như họ lại chưa chuẩn bị cho những gì sẽ xảy ra nếu họ thất bại để đạt được mục tiêu này. Cho đến nay, các nhà hoạch định chính sách của Israel vẫn tránh thảo luận công khai để tìm ra chiến lược chung sống với một nhà nước hạt nhân Iran. Lý do là, họ sợ bàn về vấn đề này sẽ tác động tiêu cực đến chiến lược ngăn chặn hạt nhân của họ và gây ra sự lầm tưởng rằng họ chấp thuận để Iran sở hữu vũ khí hạt nhân.

Tuy nhiên, thực tế là, các cuộc tranh luận công khai về vấn đề này có khả năng sẽ làm tăng nhận thức và hiểu biết về việc làm thế nào để Israel có thể thực thi chiến lược ngăn chặn hạt nhân của họ hiệu quả nhất và để tránh bất cứ sự leo thang nguy hiểm nào liên quan đến vấn đề này. Đồng thời, nó giúp điều chỉnh, xóa bỏ các mâu thuẫn trong chiến lược hạt nhân của nước này.

>> Tìm hiểu tổ hợp radar VERA-E


Trong cuộc chiến tranh Nam Tư, Tamara (thế hệ trước của VERA) đã góp phần phát hiện và bắn rơi F-117 khiến Mỹ sửng sốt.

Theo nguồn tin từ Bộ Quốc phòng Cộng hòa Séc (CH Séc), trong chuyến thăm vừa qua tới Việt Nam của Bộ trưởng Quốc phòng Vondra, hai bên đã thảo luận về việc cung cấp một số hệ thống giám sát thụ động tiên tiến VERA-E.

>> Việt Nam sắp mua radar VERA mà Trung Quốc mơ ước

Hệ thống radar thụ động VERA (CH Séc gọi là Věra) hay gọi chính xác hơn là hệ thống giám sát thụ động (PSS) VERA do Công ty kỹ thuật ERA của Cộng hòa Séc chế tạo.

Hệ thống cho phép đo đạc sự chênh lệch thời gian (TDOA) của các xung điện từ do mục tiêu phát ra tới bốn trạm cảm biến trên mặt đất để phát hiện và theo dõi những vật thể phát xạ trên không, trên biển và cả trên đất liền. Qua đó tính toán, xác định tọa độ của mục tiêu về cả khoảng cách, góc phương vị, độ cao để liên kết với các hệ thống điều khiển hỏa lực tên lửa tiến hành tiêu diệt mục tiêu, kể cả tất cả các loại máy bay tàng hình tiên tiến như B-2, F-117 và thậm chí F-22, F-35, chứ đừng nói gì tới J-20.

VERA hoạt động như một nguồn thu thập các thông tin độc lập về mọi động thái, hoạt động, sự di chuyển của tất cả các mục tiêu trên không, trên biển và trên đất liền để có thể thực hiện nhiệm vụ giám sát và hỗ trợ cho các hệ thống radar của Trung tâm Giám sát Không phận Cộng hòa Séc.


http://nghiadx.blogspot.com
Đài trinh sát thụ động của hệ thống VERA S/M.


Sự ra đời của nó đã góp phần cải thiện hiệu quả, hỗ trợ hoạt động của các hệ thống giám sát thụ động trước đó như hệ thống Tamara và Tacan mà CH Séc đang sử dụng.

Các cuộc thử nghiệm chứng minh rằng, hệ thống VERA (bản nội địa) có khả năng hoạt động với tầm xa từ 400 - 500 km.

Phần mềm hệ thống hiện nay có khả năng tự động và theo dõi đồng thời lên tới 300 máy bay/mục tiêu khác nhau trong thời gian thực.

Người Séc khẳng định VERA có thể phát hiện máy bay tàng hình B-2 của Mỹ từ cự li rất xa, khoảng 250km.

Lịch sử phát triển

Hệ thống VERA ngày nay được bắt nguồn từ là hệ thống giám sát thụ động PRP-1 Kopáč, PSS đầu tiên được phát triển cho quân đội Liên Xô từ năm 1963, có thể theo dõi 6 mục tiêu khác nhau.

Nối tiếp sau đó là hệ thống KRTP-81 Ramona (NATO gọi là Soft Ball) được phát triển vào năm 1979, có thể phát hiện và theo dõi đồng thời 20 mục tiêu.

Năm 1987, hệ thống được phát triển lên thành KRTP-86 Tamara (định danh NATO là Trash Can), có thể phát hiện 23 mục tiêu radar và 48 mục tiêu IFF (nhận dạng bạn thù).

Khi đó, Cộng hòa Séc nằm trong khối XHCN ở Đông Âu nên các hệ thống giám sát thụ động trên đều được xuất khẩu rộng rãi trong khối.

Sau biến cố chính trị năm 1989, các kỹ sư và quan chức lãnh đạo của Tesla đã thành lập công ty mới là Era ở Pardubice, chuyên sản xuất các dòng cảm biến thế hệ tiếp theo của hệ thống VERA.

PSS VERA là sự phát triển mới nhất trong bề dày lịch sử phát triển hệ thống ESM TDOA của Cộng hòa Séc, và là sự kế thừa của hệ thống trinh sát thụ động tinh vi Tamara.

Năm 1995, hệ thống giám sát thụ động VERA đã được thử nghiệm thành công trong mọi điều kiện thời tiết và được vận hành liên tục bởi một nhóm các chuyên gia đến từ Trung tâm Các hệ thống Thụ động Lực lượng Không quân và từ Bộ Tư lệnh Phòng không của Quân đội Cộng hòa Séc.

Nguyên mẫu hệ thống VERA đầu tiên đã được CH Séc triển khai lắp đặt và bố trí ở một khu vực có độ cao 1.000 m để phát huy được khả năng giám sát tất cả các động thái đang xảy ra trên bầu trời và trên mặt đất của đất nước.

Tháng 10/2006, Tổng công ty Rannoch tuyên bố mua lại ERA, tháng 2/2007 chính thức đổi tên thành Tổng công ty ERA, tháng 7/2008 ERA được mua lại bởi SRA International. Và gần đây nhất, tháng 11/2011, ERA Pardubice lại được mua lại bởi công ty xuất nhập khẩu vũ khí thương mại Omnipol của CH Séc.

Nguyên lý hoạt động, đặc điểm kỹ - chiến thuật của PSS VERA-E

Biến thể xuất khẩu của PSS VERA là VERA-E, tất cả các thành phần của hệ thống đều được đặt trên xe cơ động để thuận tiện trong quá trình di chuyển, ẩn náu và triển khai.

Hệ thống được triển khai điển hình bao gồm 3 đài thu ESM bố trí theo hình tam giác đều (trường hợp lý tưởng), mỗi đài bao quát một vùng quạt rộng 120 độ (3 đài là 360 độ) và một đài thu trung tâm được đặt ở giữa (gồm thiết bị xử lý tín hiệu và máy thu ESM thực hiện vai trò như một đài thu thứ cấp, đồng thời cũng là trạm thu tín hiệu tổng hợp do 3 đài thứ cấp truyền về).

http://nghiadx.blogspot.com
Mô phỏng cách thức triển khai và khả năng tác chiến của hệ thống VERA-E.


Cảm biến thế hệ đầu của hệ thống VERA chỉ có thể phát hiện và theo dõi các xung điện từ phát ra từ mục tiêu dựa vào phương pháp đo khoảng thời gian trễ nhận được xung. Đài thu hoạt động ở dải tần rất rộng, từ 1 - 18 Ghz và thường tận dụng các hệ thống thu phát của radar giám sát thứ cấp (SSR) như, radar trên không, radar thời tiết, hệ thống thu phát dẫn đường chiến thuật hàng không (TACAN), hệ thống dẫn đường có các thiết bị đo xa (DME), tín hiệu truyền thông số và các tín hiệu nhiễu xung do đối phương phát ra để tính toán tọa độ mục tiêu.

Các đài thu thứ cấp sẽ thu tín hiệu nhận được do mục tiêu phát ra và truyền về trung tâm theo đường truyền sóng vi ba kiểu điểm - điểm (point - to - point). Trung tâm xử lý sẽ tính toán độ trễ của các xung từ ba trạm thu truyền về để tính ra TDOA (khoảng chênh lệch thời gian tới) của các xung ở mỗi đài thu.

TDOA của một xung từ một đài thu bên cạnh và đài thu trung tâm sẽ xác định vị trí mục tiêu dựa vào việc lấy giao của các mặt hipeboloit. Trạm thu con thứ hai sẽ cung cấp TDOA của nó và tạo ra một hipeboloit thứ hai.

Giao của hai hipeboloit sẽ xác định mục tiêu trên một đường thẳng, cung cấp một tọa độ 2D về mục tiêu (khoảng cách và góc phương vị). Khi đó, giao của hipeboloit do trạm thu thứ ba sẽ tạo ra tọa độ về độ cao mục tiêu, cung cấp một tọa độ vị trí đầy đủ dạng 3D. Máy tính trung tâm sẽ tổng hợp giao hội mọi tín hiệu thu về, theo phương pháp định vị "vi sai thời gian tới của tín hiệu" trên các tam giác, sẽ xác định được rất nhanh tọa độ mục tiêu.

Đồng thời ngay khi tọa độ mục tiêu được xác định, thông tin về mục tiêu sẽ được truyền về các đài radar hoả lực của tên lửa phòng không, nhờ thế cũng có thông số bắn ban đầu, đạn được phóng lên, bám sát liên tục máy bay và tiêu diệt ở cự ly thích hợp.

http://nghiadx.blogspot.com
Mô phỏng tọa độ mục tiêu trên không gian 3 chiều.


Trạm radar đa năng

Theo một số nguồn tin, đài trinh sát thụ động VERA-E có thể kết hợp liên thông tín hiệu với các phân đội hoả lực tên lửa SAM của Việt Nam hiện nay như S-125, S-300... để có thể tấn công phá hủy mục tiêu bằng tên lửa. Đây là một đặc điểm khá quan trọng của hệ thống trong việc liên kết thành một mạng lưới phòng không tích hợp, chống lại mọi đòn tấn công đường không của đối phương.

PSS VERA hoạt động chính xác hơn ở dải sóng cực ngắn, bộ đo thời gian vốn có của hệ thống phụ thuộc phần lớn vào trạm thu trung tâm. Trong thực tế, khoảng cách giữa các trạm thu con ở càng xa nhau thì độ chính xác càng cao, nhưng người ta thường triển khai hệ thống từ 3 - 4 trạm, khoảng cách các trạm con tới trạm trung tâm từ 15 - 40 km (cực đại là 50 km) để đảm bảo được cả hai yêu cầu về độ chính xác và cự li phát hiện mục tiêu.

Đặc điểm quan trọng khác của PSS VERA là nguyên lý hoạt động của hệ thống có thể phát hiện ra tín hiệu bức xạ và xác định được vị trí của các đài radar chủ động khác của đối phương mà không hề bị phát hiện. Các mục tiêu trên mặt đất như xe tăng, xe trinh sát, rađar, các mục tiêu trên biển như tàu chiến, radar trên tàu... đều có thể phát hiện và tính toán được chính xác tọa độ, để hỗ trợ cho các đơn vị phòng thủ bờ biển, pháo binh...

http://nghiadx.blogspot.com
Tại trung tâm xử lý, kíp vận hành hệ thống chỉ đơn giản gồm 2 người (1 lính cộng với 1 sỹ quan) với các thiết bị điện tử trong xe xử lý tín hiệu trung tâm rất hiện đại.


Theo các chuyên gia, PSS VERA là một hệ thống hiệu quả, bổ sung và hỗ trợ cho những hệ thống radar chủ động đang tồn tại trong việc giám sát không phận của bất kỳ một quốc gia nào.

Thông số kỹ thuật của PSS VERA-E.

+ Thông tin đầu ra của máy tính xử lý trung tâm có tốc độ cập nhật vị trí mục tiêu có thể điều chỉnh từ 1 - 5 giây.
+ Độ nhạy máy thu của trạm thu thứ cấp rất cao (-100 dBm)
+ An ten thu của trạm thứ cấp có kích thước lớn, dài 1,3 m, rộng 0,9m, nặng 120 kg. Nguồn công suất 24 V DC/250 W.
+ Anten thu tín hiệu đường truyền điểm - điểm có đường kính 600 mm (400 mm), nặng 24 kg, chùm sóng tín hiệu rất hẹp 1,26 độ, sử dụng nguồn công suất thấp 24V DC/20 W.
+ Dải tần hoạt động cơ bản từ 1 - 18 Ghz, có thể lựa chọn thêm hai dải tần hoạt động khác là 0,1 - 1 Ghz và 18 - 40 Ghz.
+ Khả năng phát hiện và theo dõi đồng thời 200 mục tiêu khác nhau. Bao gồm tất cả các mục tiêu như radar, các hệ thống phát đáp TACAN, đài gây nhiễu, các điểm truyền sóng vô tuyến trong dải tần.
+ Mức độ tự động hóa rất cao.
+) Yêu cầu bảo dưỡng không quá cầu kỳ.

http://nghiadx.blogspot.com
Trung tâm xử lý tín hiệu của toàn hệ thống được đặt trên xe cơ động.


radar thụ động VERA-E không phát sóng mà chỉ thu tín hiệu dựa trên nguyên lý, trong một môi trường không gian đồng nhất, bất kỳ một “xao động” nào của vật thể bay cũng tạo ra các sóng điện từ trường, tuỳ theo mức độ ít nhiều.

Khắc tinh của máy bay tàng hình

Máy bay tàng hình (MBTH) có nhiều cách “giấu mình”, đã tạo ra rất ít sự bộc lộ đó. Nhưng suốt hành trình bay, MBTH cũng phải liên lạc và phải mở thiết bị xác định độ cao, phải mở khoang vũ khí… Có MBTH gặp mưa, tác dụng tàng hình bị giảm…lúc này, máy thu, cảm biến của radar thụ động có thể thu liên tục tất cả các dấu hiệu ấy để tính toán tọa độ chính xác về mục tiêu, hỗ trợ tên lửa phòng không tiêu diệt MBTH.

http://nghiadx.blogspot.com
Đài thu tín hiệu thụ động thứ cấp của hệ thống VERA-E.


Một nhược điểm của radar chủ động là, xung phát đi, nếu gặp máy bay tàng hình, sóng bị hấp phụ hoặc tán xạ ra nhiều hướng làm cường độ tín hiệu quay trở lại máy thu quá yếu, máy thu coi như bị "mù". Đó là chưa kể một số máy bay có thiết bị “cảm nhận” đang bị “bắt sóng”, và đối phó bằng các tên lửa chống radar.

Tuy nhiên, với nguyên lý hoạt động của các hệ thống radar thụ động, khả năng sống còn cao hơn gấp nhiều lần. Các cuộc chiến tranh ngày nay đều diễn ra bằng các đòn đánh "phủ đầu" sử dụng sức mạnh không quân, MBTH "luồn lách" qua các hệ thống radar phòng không chủ động của đối phương và "vô hiệu hóa" chúng. Chính vì vậy, lúc này các hệ thống radar thụ động sẽ là đòn đáp trả "tương xứng", luôn sẵn sàng bắt bám mục tiêu MBTH để cho tên lửa phòng không tiêu diệt.

Xu hướng phát triển công nghệ quân sự hiện nay đang tập chung chủ yếu vào các giải pháp tàng hình, vì thế, các phương pháp "chống tàng hình" cũng đang được rất nhiều quốc gia chú trọng. Các đài radar thụ động cũng đang được nhiều nước như Israel, Đức, Nga, Mỹ... tích cực nghiên cứu chế tạo. Tuy nhiên, các chuyên gia cho rằng, VERA cùng với Kolchuga mới thực sự là hai hệ thống trinh sát thụ động có khả năng phát hiện MBTH tốt nhất thế giới.

Các biến thể

Nhà sản xuất cung cấp hệ thống cũng đã tạo ra các cấu hình VERA khác nhau, gồm:

VERA - P3D, đã được thương mại hóa, phạm vi hoạt động ngắn hơn và được dùng để giám sát các thiết bị phát đáp của các phương tiện mặt đất ở các cảng hàng không.

VERA - AP, giám sát không lưu tầm xa cho dân sự và chỉ hoạt động trong dải tầm từ 1030 - 1090 Mhz.

VERA - E, biến thể từ hệ thống ESM của quân đội, và dành riêng cho xuất khẩu. Như vậy, có thể khẳng định Việt Nam sẽ mua hệ thống VERA-E.

VERA S/M biến thể cơ động cho riêng quân đội CH Séc sử dụng. Ngoài ra còn một số biến thể cho các nhiệm vụ khác nhau như VERA - ADSB, VERA - HME, VERA ASCS và BORAP.

Chiến tích trên chiến trường và thương trường

Nam Tư đã sớm có hệ thống radar thụ động Tamara (thế hệ trước của VERA), cùng với các loại radar khác, góp phần phát hiện và bắn hạ tại chỗ 1 máy bay F-117 của Mỹ trong bảo vệ vùng trời Kosovo năm 1999. Chính vì vậy, Tamara mà sau này là VERA đã được rất nhiều nước trên thế giới rất quan tâm đến.

Máy bay tàng hình F-117, một máy bay mà không quân Mỹ vẫn cho là “trong suốt điện từ” nhưng lại bị bắn hạ bởi một hệ thống tên lửa SA-3 đã lỗi thời với sự hỗ trợ của hệ thống Tamara. Có thể chính vì vậy, tháng 8/2005, quân đội Mỹ đã từng gửi một nhóm chuyên gia quân sự của mình đến thành phố Pardubice, phía Đông Bohemia để tiếp quản một đài radar thụ động VERA do CH Séc sản xuất từ nhà xuất khẩu vũ khí Thomas CZ.

Tại đây, nhóm chuyên gia quân sự Mỹ đã được huấn luyện cách vận hành hệ thống VERA mà sau này, một hệ thống như vậy đã được CH Séc cung cấp cho Mỹ nhằm mục đích nghiên cứu. Từ đó đến nay, có nhiều dư luận đánh giá, bàn luận về loại radar thụ động này của CH Séc, với nhiều thông tin đáng chú ý.

http://nghiadx.blogspot.com
F-117 Nighthawk của Không quân Mỹ được cho là đã bị hệ thống Tamara phát hiện và cung cấp tham số bắn cho tên lửa S-125 của Nam Tư bắn rơi năm 1999.


Ở CH Séc, lần đầu tiên, hai hệ thống giám sát thụ động, biến thể di động của hệ thống VERA S/M đã được bàn giao cho Trung đoàn số 53, thuộc Trung tâm Giám sát Thụ động đóng ở České Budějovice vào ngày 7/12/2004.

Theo báo cáo năm 2005 của Mỹ, Việt Nam, Pakistan, Malaysia và Ai cập đã thể hiện sự quan tâm đến PSS VERA của CH Séc. Tuy nhiên, tại thời điểm đó mới chỉ có Estonia là có được hệ thống này sau CH Séc, Mỹ là nước quốc gia nước ngoài thứ hai mua hệ thống VERA.

Năm 2004, thông qua công ty xuất nhập khẩu quân sự Omnipol, Trung Quốc đã đặt mua của Cộng hòa Cezch tất cả 6 hệ thống Vera-E trị giá 55,7 triệu USD. Tuy nhiên Mỹ đã gây sức ép với Thủ tướng Séc không được bán loại vũ khí này cho Trung Quốc, vì vậy hợp đồng đã không được thực hiện.

Theo đài truyền hình CT của CH Séc, việc nước này bán vũ khí công nghệ cao cho Việt Nam, điển hình là hệ thống giám sát thụ động VERA sẽ không gặp phải trở ngại nào. Trong khi đó, Trung Quốc vẫn tiếp tục bị “cấm vận” đối với loại vũ khí phi sát thương này.

(ĐVO)

>> Siêu tên lửa Brahmos


Tên lửa hành trình mới sẽ có tốc độ nhanh gấp 5-7 lần vận tốc âm thanh, đó là tiết lộ của ông ông Praveen Pathak về dự án hợp tác phát triển tên lửa mới giữa Nga và Ấn Độ.



Tại triển lãm vũ khí Defexpo cuối tháng 30/3, ông Praveen Pathak, người đứng đầu chương trình phát triển tên lửa hành trình BrahMos, khẳng định: "Vũ khí mới sẽ có khả năng bay ở tốc độ hành trình "siêu vượt âm" (hypersonic) Mach 5 - Mach 7, ông nói.

"Chúng tôi muốn tạo ra một vũ khí có thể sẽ không khác nhiều so với loại tên lửa BrahMos đang được chế tạo về trọng lượng và kích thước, để có thể sử dụng được các bệ phóng đã được triển khai trên tàu và hay các bệ phóng di động. Cách lựa chọn này sẽ không mất quá nhiều việc để chuyển đổi hệ thống như vậy lên siêu vượt âm", ông Pathak nói thêm.

"Nga đã có kinh nghiệm lâu dài trong việc phát triển vũ khí tốc độ cao và động cơ phản lực siêu âm, đây là một chương trình Nga - Ấn có thể hoàn thành", ông Pathak nói với Douglas Barrie, nhà phân tích của Viện nghiên cứu chiến lược Quốc tế có trụ sở tại London, Anh.

"Thiết kế của một tên lửa siêu thanh chính hãng có khả năng sẽ "mới hơn” loại tên lửa 3M55 Onyx/BrahMos đang sử dụng hiện nay. Tên lửa sử dụng động cơ phản lực mới để duy trì tốc độ bay siêu âm trong toàn hành trình của nó", ông Pathak nói.



http://nghiadx.blogspot.com
Dựa trên tên lửa BrahMos, Nga và Ấn Độ sẽ tạo ra một số biến thể tên lửa mới có những ưu điểm vượt trội.


Trước đây, Cơ quan phát triển và nghiên cứu quốc phòng DRDO của Ấn Độ từng giới thiệu mô hình thí nghiệm công nghệ siêu vượt âm ở một triển lãm hàng không.

NPO Mashinostroeniye, đối tác của Ấn Độ trong chương trình BrahMos, đã phát triển một tên lửa siêu vượt âm có tên 3M25 Meteorit, tuy nhiên họ chưa một lần nào trưng bày loại tên lửa này.

Cùng thời điểm này, một số tuyên bố của Nga và Ấn Độ cho biết, hai nước sẽ hợp tác phát triển một biến thể mới của tên lửa hành trình siêu âm BrahMos có khả năng tấn công tàu sân bay. Tuy nhiên hai tuyên bố này có thể không phải là một, do dự án phát triển biến thể chống tàu sân bay của tên lửa BrahMos chỉ có tốc độ siêu âm Mach 2,5 - 2,9.

Ấn Độ cũng sẽ tiến hành bắn thử nghiệm lần đầu đối với biến thể tên lửa hành trình siêu âm BrahMos phóng từ máy bay Su-30MKI của họ vào cuối năm 2012 "Chúng tôi hy vọng vào cuối năm 2012 sẽ tiến hành phóng thử lần đầu từ một máy bay. Nó sẽ là một vụ phóng từ trên không", ông nói.

Công việc tích hợp biến thể tên lửa BrahMos phóng từ trên không cho máy bay Su-30MKI đang được thực hiện cho Không quân Ấn Độ. Trong đó đã có một vài máy bay Su-30MKI được thay đổi cấu hình để mang được tên lửa BrahMos.

Lực lượng Không quân Ấn Độ đã sẵn sàng nhận được đủ các bệ phóng tên lửa BrahMos (biến thể đất - đối - đất) để trang bị cho hai tiêu đoàn tên lửa. Những tên lửa này sẽ được triển khai ở những căn cứ gần biên giới của Ấn Độ để có thể tấn công các căn cứ không quân, các đơn vị phòng không và các trạm radar của kẻ thù, ông Pathak cho biết.

Trong tháng 3/2012, Ấn Độ đã bắn thử thành công một tên lửa hành trình siêu âm BrahMos (biến thể đất - đối - đất, cải tiến lên Block III). "Tên lửa đã bay đạt tầm bắn cực đại, 290 km. Ở giai đoạn cuối đã bay bổ nhào xuống độ cao thấp. Đây là một yêu cầu của lực lượng mặt đất", ông nói thêm, một cuộc tấn công theo kiểu “bổ nhào” là cần thiết đối với những mục tiêu ở địa hình đồi núi.

BrahMos, được phát triển từ loại tên lửa hành trình hải quân 3M55 Yakhont bởi hãng NPO Mashinostroeniye của Nga, là một vũ khí có khả năng nhất trong các loại tên lửa cùng lớp, tên lửa có tầm bắn xa tới 290 km, tốc độ siêu âm cực đại Mach 2,8, trang bị đầu đạn lên tới 250 kg, có mặt cắt tiết diện phản xạ radar thấp và hành trình tấn công có thể thay đổi, bao gồm các độ cao bay thấp nhất là 10 m và có thể bay cao tới 14.000 m. Tên lửa hoạt động theo nguyên lý bắn vào quên. Biến thể BrahMos phóng từ mặt đất có trọng lượng phóng lên tới 3 tấn.

>> Australia là "tài sản chiến lược" của Mỹ


Gần đây, Mỹ-Australia đã thảo luận về nhiều vấn đề hợp tác quốc phòng, một báo cáo của Australia còn đề nghị cho tàu sân bay Mỹ neo đậu.


http://nghiadx.blogspot.com
Quần đảo Cocos của Australia (Vòng màu đỏ. Ảnh từ Internet).

Ngày 28/3, quan chức Chính phủ Australia thừa nhận, đã thảo luận với quan chức Mỹ về khả năng máy bay Mỹ đến đồn trú ở quần đảo Cocos trên Ấn Độ Dương, nhưng là ý tưởng lâu dài.

Đóng quân ở quần đảo Cocos là “khả năng lâu dài”

Ngày 27/3, tờ “Bưu điện Washington” dẫn lời của một số quan chức Mỹ và Australia, hai bên cho rằng, quần đảo Cocos có thể trở thành căn cứ lý tưởng cho máy bay trinh sát (do thám) và máy bay không người lái Global Hawk của quân Mỹ.

Hải quân Mỹ đang nghiên cứu phát triển “Global Hawk” phiên bản cải tiến, được gọi là “máy bay do thám trên biển khu vực rộng không người lái”, dự kiến trang bị vào năm 2015.

Ngày 28/3, Bộ trưởng Quốc phòng Australia Stephen Smith cho biết, triển vọng máy bay Mỹ đóng ở quần đảo Cocos “rất xa vời”.

Ông cho biết, qua thảo luận, quan chức hai bên cho rằng, công trình trên đảo cần cải tạo quy mô lớn, nâng cấp sân bay dự kiến cần khoảng 75-100 triệu đô la Úc (khoảng 78-104 triệu USD).

Stephen nói: “Tôi và đồng nghiệp Mỹ không thảo luận bất cứ chi tiết nào, cho dù là với Robert Gates (cựu Bộ trưởng Quốc phòng) hay Leon Panetta (Bộ trưởng Quốc phòng đương nhiệm)”. “Đây là khả năng lâu dài, cần phải nhìn như vậy”.

http://nghiadx.blogspot.com
Máy bay do thám không người lái Global Hawk Mỹ.


Thủ tướng Australia Julia Gillard cho biết, Australia và Mỹ thảo luận về mở rộng hợp tác quốc phòng tại khu vực này, bao gồm cả khả năng sử dụng quần đảo Cocos. Bà không phủ nhận thông tin của tờ “Bưu điện Washington”, nhưng đồng thời nói rằng, về rất nhiều vấn đề thảo luận với Mỹ vào tháng 11/2011, “không có bất cứ sự tiến triển thực chất nào”.

Quần đảo Cocos cách bờ biển phía tây Australia khoảng 3.000 km, nằm ở vùng biển phía nam Indonesia, do một loạt các rạn san hô tạo thành.

Hiện nay, Quân đội Mỹ đang có căn cứ liên hợp hải-không quân ở đảo Diego Garcia – cách Ấn Độ khoảng 1.600 km về phía nam. Quan chức Mỹ cho biết, căn cứ này đã hoạt động hết công suất, khả năng mở rộng thêm nhỏ, hơn nữa thỏa thuận cho thuê sẽ hết hạn vào năm 2016.

Tìm kiếm hợp tác quốc phòng

Chiến lược quân sự mới của Tổng thống Mỹ Barack Obama xác định khu vực châu Á-Thái Bình Dương là trọng tâm chiến lược. Tháng 11/2011, Australia và Mỹ đã đạt được thỏa thuận, tìm cách tăng cường hợp tác quốc phòng.

Bộ trưởng Quốc phòng Australia Smith cho biết, 3 trọng điểm hợp tác hiện nay là lực lượng Lính thủy đánh bộ Mỹ đóng tại Darwin-Australia, tăng các chuyến bay của máy bay Mỹ ở miền bắc Australia, và tàu chiến Mỹ sử dụng căn cứ hải quân Stirling ở thành phố Perth-Australia.


http://nghiadx.blogspot.com
Tàu sân bay USS George Washington - Hải quân Mỹ.


Theo thỏa thuận, lực lượng Lính thủy đánh bộ Mỹ sẽ thay phiên nhau đóng tại Darwin, tốp 250 binh sĩ đầu tiên đã đến, cuối cùng quân đồn trú sẽ lên tới 2.500 binh sĩ.

Tờ “Washington Post” cho biết, một bản báo cáo căn cứ quân sự gần đây của Australia đề nghị tăng cường đóng quân ở duyên hải phía bắc và phía tây, xem xét lợi ích an ninh của Mỹ, đưa ra phương án căn cứ.

Báo cáo cho biết, căn cứ Sterling “có thể giúp cho Hải quân Mỹ triển khai và hành động ở Đông Nam Á và Ấn Độ Dương”, cần cải tạo quy mô lớn, từ đó tiếp nhận tàu sân bay, tàu chiến mặt nước cỡ lớn khác và tàu ngầm hạt nhân tấn công của quân Mỹ.

Một số quan chức Quân đội Mỹ cho biết, vị trí của Perth xa xôi, nhưng có thể địa điểm tiếp tế và bảo trì quan trọng của Hải quân Mỹ ở khu vực Ấn Độ Dương. Họ cho biết, quân Mỹ chỉ dự định “làm khách” ở Australia, không tìm cách xây dựng căn cứ.

Một số quan chức Australia cho biết, sẽ không vội vã đưa ra quyết định về tương lai của căn cứ Stirling, nhưng gần đây sự quan tâm của Quân đội Mỹ đối với căn cứ này tăng lên, Phó Tham mưu trưởng Hải quân Mỹ Mark Ferguson tháng 2 đã thăm Australia, Bộ trưởng Hải quân Ray Mabus trong tháng này dự kiến đến thăm Perth và Darwin.


http://nghiadx.blogspot.com
Tàu ngầm hạt nhân tấn công Seawolf của Quân đội Mỹ.


Trong một lần phỏng vấn, Mabus cho biết: “Australia luôn là đồng minh lâu đời nhất, đáng tin cậy nhất của chúng tôi. Có thể nói, chúng tôi sẽ luôn quan tâm tới các hành động và quan điểm của Australia”.

Ngoài Perth và quần đảo Cocos, Australia còn đề xuất xây thêm một căn cứ hải quân ở thành phố bờ biển phía đông Brisbane. Mỹ quan tâm đến quan điểm này.

Một quan chức cấp cao của Quân đội Mỹ giấu tên cho biết: “Australia là đồng minh duy nhất của chúng tôi ở Ấn Độ Dương”. “Chúng tôi cho rằng, chúng tôi cần bỏ thêm nhiều thời gian hơn ở Ấn Độ Dương. So với Tây Thái Bình Dương, quốc gia chúng tôi có quan hệ tốt ở khu vực này ít”.

Một quan chức Australia nói với phóng viên tờ “Bưu điện Washington” rằng: “Nói về ảnh hưởng tổng thể của các bạn ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương, trọng tâm chiến lược của các bạn (Mỹ) đang chuyển xuống phía nam.

Trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh (thế kỷ trước), Australia (vị trí) xem ra không quan trọng như vậy. Nhưng, khi các bạn (Mỹ) thực sự cuốn hút bởi các hòn đảo ở khu vực Đông Nam Á, tầm quan trọng của Australia xem ra được nâng lên rất nhiều”.

“Australia trở thành tài sản chiến lược của Mỹ”

Đảng Xanh Australia phản đối máy bay Mỹ vào đóng ở quần đảo Cocos, lý do là máy bay không người lái của Mỹ tập kích đường không có thể làm chết rất nhiều dân thường. Người phát ngôn các vấn đề quốc phòng của Đảng Xanh nói:

“Đối với một số người, theo dõi, giám sát nghe ra thì dường như vô hại. Nhưng, căn cứ này sẽ làm cho quân Mỹ có thể dễ dàng phát động cuộc tấn công chí tử hơn.

Nếu nói chúng ta học được gì trong 40 năm qua, thì chúng ta chắc chắn phải cẩn thận, không nên trở thành đồng lõa cho những việc làm rủi ro này”.


http://nghiadx.blogspot.com
Australia trở thành "tài sản chiến lược" của Mỹ khi chuyển trọng tâm chiến lược đến châu Á-Thái Bình Dương. Trong hình là các bang của Australia.


Quần đảo Cocos có khoảng 600 dân, họ lo ngại vườn nhà của họ biến thành căn cứ của Quân đội Mỹ. Từ năm 1966-1971, để đem lại “proton” cho căn cứ quân Mỹ ở đảo Diego Garcia, nhà cầm quyền Anh và Mỹ yêu cầu tất cả người dân trên đảo phải di dời.

Doanh nhân John Clunies sống 30 năm ở đảo Cocos. Ông nói với phóng viên Công ty Phát thanh Australia rằng, nghị sĩ Công đảng Warren Snowdon hồi đầu tháng này đã đến thăm quần đảo Cocos, cho biết, “đời này của chúng ta” sẽ không thấy xuất hiện của Quân đội Mỹ. Nhưng, “khó có thể yêu cầu họ đưa ra bảo đảm. Họ cơ bản không muốn thảo luận vấn đề này”.

Chủ nhiệm Trung tâm Nghiên cứu Quốc phòng và Chiến lược, Đại học Quốc lập Australia Hugh White cho biết, trọng tâm chiến lược của Mỹ chuyển tới châu Á-Thái Bình Dương, có nghĩa là sau Chiến tranh Việt Nam, lần đầu tiên Mỹ coi Australia là “tài sản chiến lược” cạnh tranh với nước khác.

Báo chí Trung Quốc bình luận Australia nếu tham gia chiến lược quân sự mới của Mỹ, sẽ là sai lầm, có thể bị cuốn vào cuộc tranh chấp giữa Mỹ với nước khác.

>> Cụm tàu sân bay TQ cần 4 tàu khu trục loại 052D


Tàu khu trục Type 052D có lượng choán nước 8.000-9.000 tấn, đưa vào hoạt động năm 2016-2020.



>> Khu trục hạm Type 052C của Hải quân Trung Quốc

Mạng tin tức công nghiệp quốc phòng Nga cho biết, những năm gần đây, Trung Quốc nỗ lực đạt được đột phá trong lĩnh vực chế tạo tàu khu trục hiện đại lớp Aegis tương tự như Mỹ.



http://nghiadx.blogspot.com


Trung Quốc hy vọng thông qua hệ thống phòng thủ tên lửa trên biển trên tàu khu trục Type 052 liên tục được cải tiến tương tự như Hải quân Mỹ để tiến hành phòng không và phòng thủ tên lửa cho cụm chiến đấu tàu sân bay trong tương lai.
Chuyên gia quân sự Nga cho rằng, tàu khu trục Type 052C mới nhất của Trung Quốc (được gọi là Aegis Trung Hoa) hiện đã bước vào giai đoạn sản xuất hàng loạt.

Khi tàu sân bay đầu tiên của Trung Quốc sắp được trang bị, Trung Quốc có kế hoạch tiếp tục chế tạo 2 tàu 052C, để thực hiện nhiệm vụ phòng không của cụm chiến đấu tàu sân bay trong tương lai.

Tàu khu trục 052C là một loại tàu khu trục trang bị radar mảng pha quét điện tử và thiết bị phóng tên lửa thẳng đứng, nó đã tăng cường rất lớn khả năng phòng không cho Hải quân Trung Quốc, theo đó Hải quân Trung Quốc cũng đã có khả năng xây dựng hệ thống phòng không và phòng thủ tên lửa mang tính khu vực.

Tin cho biết, Trung Quốc còn có kế hoạch chế tạo 4 tàu khu trục Type 052D có lượng choán nước 8.000-9.000 tấn, dự kiến đi vào hoạt động năm 2016-2020.

Khi đó, Hải quân Trung Quốc sẽ có khả năng tiến hành phòng không và phòng thủ tên lửa cho cụm chiến đấu tàu sân bay.

http://nghiadx.blogspot.com


Tàu 052C tiếp tục sử dụng thiết kế cơ bản thân tàu 052B, hệ thống động lực và công nghệ tàng hình thân tàu của nó tương đồng với tàu 052B. Kết cấu phía trên được cải tạo chút ít, tháp ở mũi tàu sử dụng radar mảng pha quét điện tử cao hơn 052B, thân tàu áp dụng chế tạo modul hóa để rút ngắn thời gian chế tạo. Lượng choán nước của tàu tăng mấy trăm tấn so với 052B, mớn nước tăng 0,1 m, lượng choán nước đầy khoảng 7.000 tấn. Kết cấu kho chứa máy bay tuy rộng như thân tàu, nhưng chỉ bố trí một kho chứa máy bay, sức chứa chủ yếu dùng để lắp hệ thống phóng thẳng, máy bay trực thăng chống tàu ngầm của nó vẫn lựa chọn Ka-28 do Nga chế tạo.


Báo Nga cho biết, hiện nay trong lĩnh vực hệ thống phòng không và phòng thủ tên lửa trên biển, trình độ của Trung Quốc đã đạt trình độ của các nước châu Âu. Cùng với việc tàu khu trục Type 052C đi vào hoạt động với số lượng lớn, trình độ của Hải quân Trung Quốc đã cùng một cấp độ với Nga, Pháp, Anh, Đức.

Nhưng, hiện nay trình độ của Trung Quốc vẫn không thể đuổi kịp Mỹ, trước hết là còn có khoảng cách với Mỹ về độ cao và khoảng cách do thám mục tiêu, tốc độ xử lý thông tin. Ngoài ra, lượng choán nước tương đối nhỏ của tàu Type 052C làm cho đơn vị phóng thẳng đứng của nó giảm, hỏa lực liên tục rõ ràng không đủ. Nhưng, Trung Quốc tin rằng, sau khi tàu 052D đưa vào biên chế sẽ xóa bỏ khoảng cách với Mỹ.


http://nghiadx.blogspot.com
Tàu khu trục 052C Lan Châu.


http://nghiadx.blogspot.com
Tàu khu trục 052C Lan Châu.


http://nghiadx.blogspot.com
Ý tưởng biên đội tàu chiến - Hải quân Trung Quốc.


http://nghiadx.blogspot.com
Tàu khu trục tên lửa 052D (ý tưởng của dân mạng)


Thứ Sáu, 6 tháng 4, 2012

>> Chiến tranh Nam Tư : Tác chiến theo quy ước là chuốc lấy thất bại


Kinh nghiệm sử dụng chiến đấu bộ đội phòng không (PK) trong các cuộc chiến tranh cục bộ vẫn ít đượcbiết đến và hầu như không được vận dụng trong huấn luyện chiến đấu cho các đơn vị PK.


Cho đến cuối thập kỷ 1990, khoảng cách giữa sự gia tăng về số và chất lượng của các phương tiện tiến công đường không-vũ trụ của Mỹ và các nước NATO với sự phát triển hầu như chậm lại của các lực lượng và phương tiện PK của các nước có khả năng bị tấn công đường không bằng tên lửa đã đạt đến điểm nguy hiểm. Những biện pháp kỹ thuật và tổ chức muộn màng nhằm nâng cao hiệu quả PK của các nước này đã không mang lại kết quả đáng kể.




http://nghiadx.blogspot.com
Không quân Mỹ trong chiến tranh Nam Tư 1999 đã khẳng định được đẳng cấp cao của mình. Các máy bay ném bom В-2А xuất phát từ lục địa nước Mỹ, thực hiện các chuyến bay xa không hạ cánh kéo dài đến 30 giờ với 4 lần tiếp dầu trên không để ném bom nước này (Không quân Mỹ)


Khả năng và sức mạnh tiến công đường không đã được Mỹ và NATO thể hiện trong các chiến dịch:

- “Cáo sa mạc” (Operation Desert Fox): Tấn công đường không bằng tên lửa vào Iraq năm 1998

- “Sức mạnh cương quyết” (Operation Determined Force), Mỹ đặt mật danh cho chiến dịch này là “Sức mạnh Đồng minh” -(Opertaion Allied Force): Cuộc xâm lược Nam Tư của NATO năm 1999

- “Tự do bất diệt” (Operation Enduring Freedom: Chiến dịch chống khủng bố ở Afghanistan năm 2001-2002 

- “Cú sốc và sự kinh hoàng” [Operation Shockand Awe] (Chiến dịch xâm lược Iraq năm 2003).

Từ góc độ đối kháng lực lượng và phương tiện tiến công đường không và PK, có ý nghĩa nghiên cứu nhất là Chiến dịch Determined Force, trong đó các lực lượng KQ và PK không lấy gì làm mạnh của nước Nam Tư đã bị chia rẽ vì mâu thuẫn nội bộ đã phải đối phó với một lực lượng KQ và hải quân (HQ) hùng mạnh của liên quân NATO.

Trong chiến dịch này, có lẽ chưa có KQ và PK của nước nào lại phải đồng thời thực hiện một tổ hợp các nhiệm vụ PK như vậy. Các chuyên gia quân sự nước ngoài cho rằng, các cuộc xung đột vũ trang có thể xảy ra trong tương lai gần sẽ diễn ra theo kịch bản tương tự. Bởi vậy, Chiến dịch Determined Force cần được chú ý đặc biệt.

Trong Chiến dịch Determined Force, một lực lượng đa quốc gia của NATO với vai trò hàng đầu của quân đội Mỹ đã được huy động. Lần đầu tiên, quân đội Đức đã đóng vai trò tích cực trong hoạt động tác chiến, trước đó sự tham gia của họ chỉ hạn chế ở việc yểm trợ tài chính hoặc cung cấp lực lượng bảo đảm. Các sân bay của Italia, Đức, Anh, Pháp, Hungary và Thổ Nhĩ Kỳ đã được sử dụng tích cực để triển khai các đơn vị không quân chiến thuật NATO tham chiến.

Giới lãnh đạo chính trị-quân sự NATO đã giành vị trí trung tâm cho các phương tiện tiến công đường không-vũ trụ trong việc đạt được các mục đích của Chiến dịch Determined Force.

Nhằm mục đích đó, họ đã xây dựng và tiến hành một chiến dịch tiến công đường không từ ngày 24/3-10/6/1999 gồm 3 giai đoạn chính.



http://nghiadx.blogspot.com
Máy bay tiêm kích tàng hình tối tân vào thời điểm năm 1999 F-117 đã bị tiểu đoàn TLPK S-125 bắn rơi trong chiến tranh ở Nam Tư (Không quân Mỹ)

Mục tiêu chủ yếu của giai đoạn 1 mà lãnh đạo NATO đặt ra là: giành ưu thế trên không, chế áp hệ thống PK Nam Tư và loại khỏi vòng chiến những mục tiêu chính của hạ tầng quân sự tại Kosovo.

Trong vòng 2-3 ngày đêm, NATO dự định dùng các cuộc tấn công đường không chủ yếu được thực hiện vào ban đêm để tiêu diệt các đài radar, các phương tiện hoả lực, các đầu mối thông tin liên lạc và các sở chỉ huy KQ và PK, làm rối loạn công tác lãnh đạo nhà nước và chỉ đạo chiến tranh của Nam Tư. Ngoài ra, họ còn dự định gây tổn thất lớn cho lực lượng quân sự tại các điểm trú đóng thường xuyên và cô lập các lực lượng quân đội ở Kosovo..

Giai đoạn 2 trù tính: tiếp tục thực hiện các đòn tấn công bằng bom và tên lửa để tiêu diệt các mục tiêu trên toàn lãnh thổ Nam Tư.

Các nỗ lực chính được tập trung vào tiêu diệt các đơn vị lục quân, vũ khí và kỹ thuật quân sự, cũng như các mục tiêu quân sự các cấp, kể cả cấp chiến thuật. Ở giai đoạn này, lãnh đạo NATO đặt ra mục tiêu chính là cô lập khu vực chiến sự..

Trong giai đoạn 3, NATO trù định: thực hiện các cuộc tấn công vào những mục tiêu nhà nước và công nghiệp quốc phòng quan trọng của Nam Tư nhằm làm suy yếu tiềm lực kinh tế-quân sự của Nam Tư và đè bẹp ý chí kháng chiến của nhân dân Serbia.

Khi bắt đầu chiến sự, lực lượng KQ và HQ liên quân NATO gồm gần 300 máy bay chiến đấu, trong đó có 8 máy bay ném bom chiến lược và 35 tàu.

Tiếp đó, để thực hiện các mục tiêu của chiến dịch tiến công đường không, NATO đã thành lập lực lượng liên quân gồm hơn 600 máy bay chiến đấu (tổng cộng có hơn 1.000 máy bay), trong đó có các các máy bay ném bom chiến lược tàng hình tối tân В-2А và các máy bay tiêm kích tàng hình F-117A, hơn 60 tàu các loại, trong đó có 4 tàu sân bay.

Đặc điểm nổi bật của lực lượng này là trong biên chế của nó có một số lượng lớn máy bay không người lái các loại. Tổng cộng đã tập trung tại khu vực xung đột gần 40 máy bay không người lái (gần 20 chiếc của Mỹ, gần 10 chiếc Pháp và hơn 10 chiếc của Đức).


http://nghiadx.blogspot.com
Các loại bom đạn sắp được sử dụng chống các mục tiêu của quân đội và kinh tế Nam Tư (Hải quân Mỹ)


Các mẫu vũ khí hiện đại (tên lửa hành trình phóng từ biển và trên không), cũng như các mẫu vũ khí chính xác cao mới như bom có điều khiển JDAM được dùng làm những phương tiện tiến công đường không chính.

Lực lượng KQ chiến lược, chiến thuật của KQ và KQHQ Mỹ chiếm hơn 50% lực lượng KQ liên quân NATO.

Trong thành phần lực lượng NATO, HQ Mỹ chiếm hơn 30% tàu chiến và 90% tên lửa hành trình phóng từ biển Tomahawk.

Trong chiến dịch không kích chống Nam Tư, NATO đã thực hiện hơn 20.000 phi vụ xuất kích và phóng đi 870 tên lửa hành trình (792 tên lửa hành trình phóng từ biển và 78 tên lửa hành trình phóng từ trên không), trong đó phóng 374 tên lửa hành trình phóng từ biển vào các mục tiêu trên lãnh thổ Kosovo.

Gần 80% tên lửa đã được sử dụng để tiêu diệt các mục tiêu tĩnh kiên cố và có PK mạnh (các mục tiêu nhà nước và quân sự quan trọng, các sở chỉ huy và các đầu mối thông tin, các căn cứ KQ và phương tiện PK) nhằm làm giảm thiệt hại trong các hoạt động tiếp sau của KQ. 20% tên lửa còn lại dùng để phóng vào các mục tiêu công nghiệp lưỡng dụng (các xí nghiệp công nghiệp hoá chất, lọc dầu và chế tạo máy).

KQ và PK Nam Tư gồm có: 1 quân đoàn KQ (2 lữ đoàn KQ, 1 trung đoàn trực thăng, 1 phi đội trực thăng vận tải) và 1 quân đoàn PK (1 lữ TLPK, 2 trung đoàn KQ tiêm kích và 6 trung đoàn TLPK) với tổng cộng 10 phi đội KQ chiến đấu (5 phi đội tiêm kích-bom, 2 phi đội tiêm kích và 1 phi đội huấn luyện chiến đấu), 1 phi đội KQ hỗ trợ (huấn luyện), 5 phi đội trực thăng và 32 tiểu đoàn PK. Tổng cộng có 136 máy bay chiến đấu, 132 bệ phóng TLPK tầm trung, 30 máy bay hỗ trợ và 53 trực thăng.

http://nghiadx.blogspot.com
Vũ khí đang được lắp lên máy bay F-117 (Không quân Mỹ)


Trong trang bị của KQ Nam Tư có các máy bay tiêm kích MiG-21bis và MiG-29, máy bay tiêm kích-bom J-22 Orlo (Đại bàng), máy bay cường kích hạng nhẹ G-4 Super Galeb và máy bay trinh sát MiG-21R và 1R.

Loại máy bay hiện đại nhất của quân đoàn KQ là MiG-29, nhưng số lượng chỉ có 13 chiếc. Các máy bay tiêm kích MiG-21 là loại đã cũ và không thể đối phó hiệu quả với các máy bay của liên quân NATO. Chúng thích ứng kém với các cuộc không chiến tầm xa với các máy bay tiêm kích chiến thuật F-15 và F-16 trang bị tên lửa tầm bắn đến 80 km.

Hiện đại hơn cả trong các đơn vị tiêm kích-bom là các máy bay tiêm kích-bom J-22 Orlo với các ưu điểm hiển nhiên là trang bị tên lửa chính xác cao lắp đầu tự dẫn truyền hình và laser Maverick vốn đã thể hiện hiệu quả cao trong chiến sự ở Trung Cận Đông.

KQ Nam Tư trú đóng tại các sân bay thường trực được trang bị khá tốt. Các máy bay và trực thăng được bố trí phân tán tại các sân bay này và có áp dụng các biện pháp nguỵ trang.

Nhằm đánh lừa đối phương và gây khó khăn cho việc phát hiện các mục tiêu thật, trên các sân bay có bố trí một số lượng lớn các mô hình máy bay chiến đấu.

Một bộ phận máy bay chiến đấu được giấu trong các hầm trú ẩn, nhiều hầm trú ẩn trong số đó được xây dựng rất khéo léo. Ví dụ, tại sân bay Pristina, các hầm trú ẩn cho máy bay được xây dựng trong lòng núi nên khó bị phát hiện và làm cho KQ hầu như không thể tấn công tiêu diệt từ trên không.

Nòng cốt của hệ thống PK Nam Tư là các hệ thống TLPK đã lạc hậu của Liên Xô như S-75 Dvina, S-125 Pechora, Kvadrat, Strela-1 (lắp trên xe thiết giáp BRDM) và Strela-10 (lắp trên xe thiết giáp MTLB), tên lửa phòng không mang vác Strela-2 (3), Stinger, và pháo PK.

Để bảo vệ thủ đô Belgrade, Nam Tư chủ yếu sử dụng các tiểu đoàn TLPK trang bị S-125 đã được các chuyên gia Nam Tư hiện đại hoá. Tất cả các tiểu đoàn này đều được trang bị hệ thống điều khiển hoả lực tự động hoá của hãng Marconi và 2 tiểu đoàn được trang bị các trạm hồng ngoại của hãng Philips.

Việc sử dụng các trạm ảnh nhiệt thụ động do phương Tây sản xuất trong các hệ thống S-125 đã bảo đảm khả năng sống còn, tính bí mật, bất ngờ sử dụng, tính vững chắc trước nhiễu tích cực và tiêu cực và khả năng tác chiến cả ngày lẫn đêm.

Công tác nguỵ trang binh khí kỹ thuật tại các trận địa rất được chú trọng. Nhằm mục đích đó, người ta đã sử dụng các phương tiện nguỵ trang trong biên chế và sẵn có. Ví dụ, các cabinn điều khiển chiến đấu được phủ các tấm cao su dày 15-20 mm. Sau đó, đặt tấm lát bằng gỗ tròn.

Để giảm hiệu quả các cuộc tấn công của địch vào các phương tiện PK, Nam Tư sử dụng rộng rãi các bộ tạo giả bức xạ đài radar mang vác. Chúng được bố trí tại các trận địa phóng, cách đài an ten hay đài điều khiển, trinh sát và dẫn đường (SURN) của hệ thống TLPK vài trăm đến vài ngàn mét.

Công suất bức xạ của bộ tạo giả là 5-6 kW. Trong thiết kế của nó có sử dụng các magnetron được dùng trong máy móc điện tử trên khoang của máy bay MiG-21 và có tần số công tác giống các thiết bị phát của hệ thống TLPK.

Ban đầu, công suất và thời gian làm việc của các bộ tạo giả bức xạ đài radar không đủ lớn và trang bị trên khoang của máy bay NATO vẫn có khả năng phân biệt, nhận dạng chúng. Vì thế, trong đa số các trường hợp, phi công NATO vẫn dẫn được tên lửa chống radar HARM vào thiết bị bức xạ của các phương tiện hoả lực PK, bỏ qua bộ tạo giả.

Sau đó, thiết kế của bộ tạo giả bức xạ radar đã được cải tiến. Các tham số bức xạ của nó trở nên giống như các tham số của radar của hệ thống TLPK. Tuy các bộ tạo giả được chế tạo tại các nhà máy, nhưng vẫn không đủ đáp ứng nhu cầu.

Việc KQ NATO đã mất rất nhiều thời gian và tên lửa chống radar để tiêu diệt một số đài radar và phương tiện PK có trang bị một số bộ tạo giả bức xạ radar đã cho thấy hiệu quả của các bộ tạo giả này. Ví dụ, trong 30 ngày tác chiến, KQ NATO đã phóng vào 2 bộ tạo giả radar bảo vệ 2 đại đội TLPK Kvadrat và 1 bộ tạo giả radar bảo vệ 1 tiểu đoàn S-125 lần lượt 14 và 15 tên lửa chống radar HARM, nhưng các hệ thống TLPK vẫn không bị tổn hại.

Một phương tiện hiệu quả không kém trong việc nâng cao khả năng sống còn của hệ thống TLPK là các bộ phản xạ góc được bố trí thành từng cụm hay đơn lẻ tại các trận địa giả và trận địa thật ở khoảng cách đến 300 m so với đài radar hay đài điều khiển, trinh sát và dẫn đường của hệ thống TLPK.

Việc sử dụng các bộ phản xạ góc đạt hiệu quả cao nhất khi sử dụng kết hợp với cấu trúc của trận địa. Khi đó, công sự cho radar được đào với tính toán sao cho bộ phát xạ bên dưới của anten nằm ngang mặt đất. Điều đó làm giảm 20-30% cự ly phát hiện, nhưng đồng thời do ảnh hưởng của mặt đất bên dưới và hạ thấp bộ phát xạ mà trường radar của đài radar bị biến dạng ít nhiều và cho phép tận dụng tối ưu nhất tác dụng của cá bộ phản xạ góc.

Ví dụ, KQ NATO đã phóng vô hiệu quả 8 tên lửa chống radar vào một trận địa được cấu trúc như vậy của 1 trung đoàn TLPL Kvadrat được trang bị 2 nhóm bộ phản xạ gíc đặt cách đài radar P-15 ở khoảng cách 100 và 300 m. Đã có trường hợp tên lửa chống radar HARM đã phóng vào chiếc bừa đĩa bị bỏ lại trên cánh đồng cách đài radar gần 3 km.

Kinh nghiệm tác chiến đã cho thấy hầu như trong tất cả các trận đánh PK đều có sự sử dụng ồ ạt tên lửa chống radar. Đó là vì bộ chỉ huy NATO muốn giảm bớt tối đa tổn thất có thể của KQ chiến đấu trong chiến dịch đường không trước các phương tiện PK Nam Tư.

Do đó, để phát hiện vị trí và xác định chính xác toạ độ và thực hành tấn công các trận địa của các phương tiện PK đang hoạt động, KQ NATO đã áp dụng các thủ đoạn khiêu khích đi kèm với chuyến bay tốp của máy bay tiêm kích (10-15 chiếc) gần khu vực sát thương của các hệ thống TLPK và thực hiện các động tác giả vào công kích mục tiêu.

Hoạt động tác chiến của các đơn vị PK của quân đội Nam Tư có đặc điểm chính là sử dụng nhiều những trận đột kích, cơ động và di chuyển trận địa hầu như hàng ngày. Một số tiểu đoàn TLPK S-125 và các đại đội TLPK Kub, theo lệnh của bộ chỉ huy, đã được rút khỏi biên chế của lữ đoàn PK và các trung đoàn PK để chuyển thuộc trực tiếp bộ chỉ huy quân đoàn PK và sau đó được sử dụng theo kế hoạch của bộ chỉ huy quân đoàn PK. Việc chỉ huy hoả lực trong quá trình chiến sự được thực hiện cả từ bộ chỉ huy quân đoàn PK, lẫn thông qua các bộ chỉ huy của lữ đoàn PK và các trung đoàn PK.

Mọi hoạt động cơ động và di chuyển phương tiện PK thường được thực hiện về đêm không theo đội hình đoàn xe. Binh khí kỹ thuật được di chuyển từng xe một, với địa điểm và thời gian đến được ấn định, có tính tới tốc độ hành quân ở chế độ im lặng vô tuyến hoàn toàn. Để nguỵ trang, việc di chuyển trong đa số các trường hợp được thực hiện lẫn trong đoàn xe dân sự hay đoàn người sơ tán và bề ngoài phương tiện kỹ thuật được thay đổi tối đa bằng các phương tiện sẵn có.

Điều đáng lưu ý là trong thời gian không quá 1-1,5 phút sau khi bắn, đơn vị PK đã phải thu hồi khí tài và lên đường đến khu vực tập kết. Khu vực tập kết thường có các địa vật tự nhiên hoặc nhân tạo có thể dùng để nguỵ trang như (các khe trũng, các hăng-ga...), và chỉ thực hiện từ đó.

Thời gian chờ đợi (1-1,5 phút) được xác định căn cứ vào thời gian mà các máy bay NATO có thể tổ chức tấn công vào các trận địa của đơn vị. Khi rẽ khỏi đường ô tô và di chuyển đến trận địa phóng, các xe khí tài tắt đèn pha và đèn tín hiệu quanh xe. Chiến thuật hành quân này tỏ ra khá hiệu quả. Thực tế đã không xảy ra một cuộc tấn công nào vào trận địa phóng của PK Nam Tư do bị lộ khi hành quân.

Việc thay đổi trận địa phóng được thực hiện trong các trường hợp sau đây:

- Sau khi phóng: Thay đổi ngay lập tức. Sau khi bật radar phát xạ trong chu trình bắn để phục vụ việc thực hành sau đó nhiệm vụ bắn (hoặc không thực hành).

- Sau khi có máy bay không người lái trinh sát của NATO bay qua: Thay đổi ngay lập tức. Theo lệnh từ sở chỉ huy trung đoàn và theo kế hoạch thay đổi trận địa phóng tại khu vực cơ động chiến đấu.

Hiệu quả nhất là việc cơ động 1 trung đoàn TLPK vào vùng núi mà trên đó KQ NATO tiến hành lập đội hình các tốp máy bay tấn công. Bộ chỉ huy NATO nghĩ rằng, các Nam Tư không thể đưa các phương tiện PK vào vùng này nên đã không áp dụng các biện pháp cần thiết phòng chống TLPK.

Việc cơ động được thực hiện ban đêm và bí mật đối với tình báo đối phương, có áp dụng tối đa các biện pháp nguỵ trang chiến thuật. Sau khi KQ NATO tập trung, trung đoàn TLPK Kvadrat bất ngờ tấn công bằng tất cả các phương tiện hiện có. Tổn thất của NATO là không dưới 5 máy bay chiến đấu.

Trong quá trình tác chiến của các đơn vị PK đi kèm với việc sử dụng ồ ạt tên lửa chống radar, phía Nam Tư đã có những điều chỉnh lớn đối với các quy định bắn mục tiêu bay.

Chẳng hạn, khu vực sát thương của các hệ thống TLPK đã bị giảm đi 50% để bảo đảm việc phát xạ ở mức tối thiểu và xác suất tối ưu tiêu diệt mục tiêu bay. Các thiết bị phát radar của các phương tiện hoả lực được bật lên khi cự ly tới mục tiêu là không quá 20 km (tức là mục tiêu luôn nằm trong khu vực sát thương).

Các tên lửa và loạt đạn thay thế được chuẩn bị từ trước. Thời lượng hoạt động của thiết bị phát radar, được xác định bằng thử nghiệm, là không được quá 6 s. Nếu trong quãng thời gian này (nhất là về đêm) mà không bắt bám được mục tiêu thì thiết bị phát radar bị tắt đi. Sau 10 s, thiết bị phát radar được bật lại hoạt động trong 6 s. Nếu trong quãng thời gian bật lại này, vẫn không bắt được mục tiêu thì sau đó thiết bị phát radar không được bật lại nữa. Trong trường hợp bắt bám được mục tiêu thì lập tức tiến hành phóng đạn mà thường là đồng thời bắn 2 quả đạn tên lửa.

Khi bắn ban ngày, hệ thống ngắm quang truyền hình được dùng làm phương tiện trinh sát chính bởi vì hệ thống các khí tài tự động hoá Krab (của hệ thống TLPK Kvadrat) ở chế độ “Radio” (Vô tuyến) không được sử dụng do đối phương gây nhiễu.

Thông tin chỉ thị mục tiêu được truyền qua điện thoại chỉ rõ phương vị và cự ly. Số liệu về độ cao bay của các mục tiêu bay thường không được cung cấp do các khí tài vô tuyến đo cao cơ động đã bị tiêu diệt. Các kíp trắc thủ đài điều khiển, trinh sát và dẫn đường sử dụng khí tài ngắm quang truyền hình để sục sạo mục tiêu. Tần suất để lọt mục tiêu không quá 0,7.

Nếu kíp trắc thủ đài điều khiển, trinh sát và dẫn đường bật đài trinh sát mục tiêu (SRTs) để tìm kiếm mục tiêu thì thường dẫn tới kết quả đài bị không dưới 2 tên lửa chống radar tấn công. Trong khi đó, không phải lúc nào trên màn hình của đài cũng nhìn thấy tên lửa chống radar.

Nhờ áp dụng chiến thuật phục kích đón lõng, hệ thống TLPK Kvadrat thường bảo đảm được tính bất ngờ trong sử dụng vũ khí mà không bị KQ NATO đối phó bằng nhiễu và tên lửa chống radar.

Ví dụ, 1 đại đội TLPK được di chuyển đến Kosovo ở chế độ hoạt động bình thường đã tiêu diệt được 1 trực thăng chiến đấu của NATO và một số tên lửa hành trình.

Các hệ thống TLPK Kvadrat và S-125 cực kỳ ít khi được dùng để bắn máy bay không người lái và tên lửa hành trình để tránh làm lộ trận địa. Phương tiện chính để đánh tên lửa hành trình và máy bay không người lái là hệ thống TLPK Strela thuộc tất cả các kiểu loại mà Nam Tư có trong tay và pháo phòng không cỡ nhỏ.

Khi phát hiện được các tốp máy bay lớn (15-20 máy bay), PK Nam Tư để cho chúng bay qua đội hình chiến đấu của mình và chỉ nổ súng khi những máy bay đơn lẻ hay các tốp máy bay nhỏ (2-4 chiếc) lọt vào khu vực sát thương.

Họ chỉ bắn vào máy bay đi đầu trong trường hợp quãng thời gian giữa các mục tiêu trong tốp là hơn 1 phút, và bắn chiếc đi sau cùng khi quãng thời quan giữa các mục tiêu trong tốp ngắn hơn.

Thông thường, sau khi phát hiện có TLPK bắn lên, các máy bay NATO thường cố thoát khỏi khu vực sát thương càng nhanh càng tốt bằng cách vứt bỏ vũ khí mang theo, sử dụng các loại nhiễu và thực hiện cơ động tránh đạn tên lửa.

Gần 90% lần phóng TLPK là ở chế độ bắn đuổi. Các lần phóng đơn lẻ 1 quả TLPK cơ bản là bắn trượt, còn phóng 2 quả TLPK thường tiêu diệt được mục tiêu. Việc đánh giá kết quả bắn bằng cách sử dụng radar của hệ thống TLPK không được áp dụng. Ngay sau khi đầu đạn TLPK nổ, tất cả các thiết bị phát radar được tắt đi.

KQ tiêm kích chỉ được sử dụng trong 3 ngày đầu sau khi chiến sự bùng nổ bởi vì trang bị vô tuyến điện tử và vũ khí hàng không của các máy bay Nam Tư (MiG-29, MiG-21) không cho phép tiến hành không chiến ngang bằng với máy bay NATO. Sau đó, KQ Nam Tư không tham chiến nữa.

Toàn bộ các thông tin về hoạt động của các phương tiện tấn công đường không-vũ trụ của NATO được tập trung và phân tích tại sở chỉ huy quân đoàn PK Nam Tư. Các đơn vị radar hầu như không được huy động tham gia cuộc xung đột.

Các phương tiện radar tiến hành sục sạo mục tiêu ở chế độ phát xạ trong thời gian ngắn. Việc phát hiện kịp thời, xác định hướng bay và vị trí của các phương tiện tiến công đường không của NATO do các hệ thống trinh sát vô tuyến điện tự động hoá KRTP-86 Tamara do Cộng hoà Czech chế tạo đảm nhiệm.

Hệ thống này với tầm hoạt động đến 450 km có khả năng sống còn cao và tính bí mật trong hoạt động. Nó hoạt động không dựa trên nguyên lý định vị vô tuyến chủ động mà dựa trên việc ghi nhận và phân tích bức xạ của các khí tài vô tuyến điện tử trên máy bay.

Để bảo toàn khả năng chiến đấu của các đơn vị PK, theo lệnh của bộ chỉ huy PK Nam Tư, các đài radar của các trung đoàn và tiểu đoàn PK đã được ghép vào hệ thống chung trinh sát máy bay địch và được rút khỏi các khu vực trận địa (các trận địa phóng) của các đơn vị này.

Nếu các đài radar này bị loại khỏi vòng chiến, sở chỉ huy của lữ đoàn hay trung đoàn PK nhận thông tin tình báo về tình hình máy bay địch qua kênh điện thoại từ sở chỉ huy quân đoàn PK và các đài quan sát triển khai thành 2 tuyến (mỗi tuyến 8 đài): tuyến 1 cách 30 km, tuyến 2 cách 80 km so với sở chỉ huy các đơn vị TLPK.

Nhiều khi phía Nam Tư sử dụng tin tức từ những người yêu thích vô tuyến điện nghiệp dư để thông báo việc KQ NATO cất cánh từ các sân bay đóng quân. Trong đa số các trường hợp, việc thông báo mối đe doạ của máy bay NATO được thực hiện 10-15 phút trước khi các đòn không kích bắt đầu.

Đáng chú ý là công tác chuẩn bị có kế hoạch và định hướng cho quân đội để đối phó với cuộc tấn công. Ban lãnh đạo chiến tranh Nam Tư, khi thấy tình hình xung quanh Kosovo có chiều hướng diễn biến tiêu cực và âm mưu của NATO giải quyết vấn đề Kosovo bằng vũ lực, đã áp dụng hàng loạt biện pháp chuẩn bị KQ, các lực lượng và phương tiện PK Nam Tư để đối phó cuộc xâm lược có thể xảy ra.

Các lực lượng và phương tiện PK Nam Tư đã được kịp thời chuyển sang trạng thái sẵn sàng chiến đấu cấp độ cao. Việc trực chiến được thực hiện suốt ngày đêm bởi các kíp trắc thủ đủ hoặc thiếu.

Các tiểu đoàn TLPK S-125 tiến hành thay đổi trận địa 5 ngày/lần, còn các đại đội TLPK Kub cứ 2-3 ngày thay đổi trận địa 1 lần. Nam Tư đã xây dựng các kế hoạch phân tán một phần lực lượng máy bay từ các sân bay thường trực sang các sân bay dự bị và các khu vực đường cao tốc có cấu trúc phù hợp.

Đầu tháng 3/1999, một đoàn quân sự Nam Tư đã đến thăm Iraq. Các chuyên gia Nam Tư đã tìm hiểu chiến thuật hoạt động của KQ Mỹ trong các chiến dịch “Bão táp sa mạc” và “Cáo sa mạc” chống Iraq, nghiên cứu kinh nghiệm tác chiến của PK Iraq, các phương pháp hiệu quả để nguỵ trang binh khí kỹ thuật và phát hiện máy bay F-117.

Ngay trước khi cuộc xâm lược của NATO diễn ra, radar tại một số trạm radar cố định của PK Nam Tư đã được tháo dỡ và di chuyển đến các trận địa dự bị. Ở các trạm khác, radar phát hiện mục tiêu bay chỉ được huy động trong thời gian ngắn. Từ ngày 19/3/1999, trong các đơn vị TLPK tầm trung và ngắn đã thực hiện chế độ im lặng vô tuyến.

Sau những ngày đầu tiên của chiến dịch không kích của NATO, bị tổn thất lớn nhất là các trận địa cố định của PK Nam Tư: các sở chỉ huy KQ và PK, các sân bay và trạm radar cố định. Vì nguyên nhân này và do liên quân NATO sử dụng tích cực các khí tài tác chiến điện tử nên việc chỉ huy tập trung các lực lượng và phương tiện PK đã bị phá vỡ. Các đơn vị PK Nam Tư đã phải tác chiến phi tập trung trong các khu vực trách nhiệm của mình.

Trong chiến dịch không kích Nam Tư, theo một số nguồn tin, KQ liên quân NATO đã mất 31 máy bay chiến đấu, 6 trực thăng, 11 máy bay không người lái và gần 40 tên lửa hành trình. Ngoài ra, do bị bắn bị thương, 3 máy bay NATO đã phải hạ cánh bắt buộc xuống các sân bay Sarajevo (Bosnia-Herzegovina) và Skopje (Macedonia).

Tổn thất của Nam Tư là 20 máy bay (8 MiG-29 và 12 MiG-21), trong đó 12 máy bay (4 MiG-29 và 8 MiG-21) bị tiêu diệt trên mặt đất; 13 đài radar bị loại khỏi vòng chiến.

Việc phân tích công tác tổ chức PK lãnh thổ và PK các mục tiêu của Nam Tư, cũng như các hoạt động của các lực lượng và phương tiện PK Nam Tư chống lại các cuộc tiến công đường không của NATO cho phép nêu ra một số đặc điểm tích cực và tiêu cực trong hoạt động của các lực lượng và phương tiện PK Nam Tư.

Có lẽ đặc điểm quan trọng nhất trong hoạt động tác chiến của KQ và PK Nam Tư là thời gian tác chiến khá dài trong điều kiện KQ NATO chiếm ưu thế áp đảo về số lượng-chất lượng.

Đặc điểm này được lý giải bởi một loạt yếu tố:

- Trước hết là sự dũng cảm và kiên cường của bộ đội KQ và PK Nam Tư. Tuy thua kém đối phương về số và chất lượng vũ khí, KQ và PK Nam Tư vẫn tiêu diệt được một số lượng đáng kể các phương tiện tiến công đường không của NATO. Việc PK Nam Tư bắn rơi 1 máy bay F-117A, niềm tự hào của công nghiệp quốc phòng Mỹ tại thời điểm đó, là một sự kiện thực sự chấn động;

- Nghệ thuật chỉ huy khéo léo các lực lượng và phương tiện của KQ và PK vốn là kết quả của trình độ huấn luyện chiến thuật-chiến dịch cao của đội ngũ chỉ huy quân đội Nam Tư. Không có đủ lực lượng và phương tiện KQ và PK để tiến hành chiến dịch phòng ngự đường không và tác chiến giành ưu thế chiến dịch trên không, phía Nam Tư đã không trực diện đối đầu với KQ NATO để tránh tổn thất một bộ phận KQ và lực lượng PK mặt đất. Nam Tư đã tập trung lực lượng và phương tiện KQ và PK để bảo vệ những mục tiêu quan trọng trong hậu phương đất nước và quân đội ở Kosovo, tức là sử dụng các phương tiện bảo vệ của mình để giành ưu thế chiến thuật trên không có tính đến các điều kiện địa-vật lý của khu vực;

- Sự sẵn sàng chiến đấu cao của các đơn vị KQ, PK ngay trong thời bình. Hệ thống trú quân và trận địa rộng khắp đã cho phép bộ chỉ huy Nam Tư ngay trước khi cuộc xâm lược diễn ra đã kịp thời phân tán KQ sang các sân bay dự bị và nguỵ trang, nhờ thế đã giảm tối đa hiệu quả các đòn khôngg kích của KQ và tên lửa hành trình NATO nhằm vào các căn cứ KQ chính Batanica, Golubovca, Ponjava và Novi Sad. Các đơn vị PK Nam Tư mà nòng cốt là các hệ thống PK cơ động, từ trước khi diễn ra cuộc xâm lược, đã được báo động và nhanh chóng thay đổi địa điểm trí quân, rút sang các khu vực đóng quân dự bị. Các hành động này của KQ và PK Nam Tư đã khiến cho tin tức tình báo, trinh sát của NATO về hệ thống mục tiêu của KQ và PK Nam Tư lập tức bị lỗi thời;

- Nghệ thuật nguỵ trang mục tiêu xuất sắc của KQ và PK. Nam Tư đã xoá tan hoàn toàn huyền thoại về sự toàn năng của các phương tiện trinh sát và vũ khí hiện đại. Theo lời khẳng định của William Cohen, Nam Tư đã không còn quân đội sau những trận không kích ác liệt. Dĩ nhiên, ý ông ta nói là cả KQ và PK Nam Tư. Tu nhiên, điều sửng sốt đối với đa số các nhà quan sát là quân đội Nam Tư đồn trú ở Kosovo đã rút khỏi Kosovo gần như đủ biên chế, cùng vũ khí và trang bị. Hầu như toàn bộ các máy bay chiến đấu MiG đã tự bay khỏi sân bay Pristina, trong đó 11 chiếc bay ngay và 3 chiếc còn lại bay đi sau vài ngày sửa chữa nhỏ. Trong khi đó, theo các báo cáo của NATO thì các máy bay này bị coi là đã bị tiêu diệt và theo số liệu do thám vũ trụ thì chỉ còn lại các mảnh vụn của các máy bay này.

Sau đó, các sĩ quan NATO đã có dịp tận mắt nhìn thấy những "mảnh vụn" này. Những chiếc máy bay MiG bị phá huỷ mà các vệ tinh chụp ảnh được hoá ra là các mô hình đồ chơi làm bằng gỗ dán, ván hay mô hình bằng cao su bơm hơi. Trước khi xảy ra xung đột, Nam Tư đã chế tạo đến 200 mô hình máy bay MiG-29 và MiG-21 bằng gỗ dán và đã khiến các phi công tốn nhiều công sức, bom đạn để tiêu diệt chúng;

- Xây dựng những hầm trú ẩn cho máy bay tại các sân bay và sử dụng các đoạn đường cao tốc làm đường băng cất-hạ cánh. Trước khi chiến tranh nổ ra, Nam Tư đã xây dựng tại 10 sân bay của mình 98 hầm bê tông cốt thép; theo một số nguồn tin chỉ có 40 trong số đó (tức 41%) bị tiêu diệt trong chiến tranh và 30 bị hư hỏng. Tuy phá huỷ được các đường băng và đường lăn chính trên các sân bay Nam Tư, nhưng KQ NATO vẫn không làm cho KQ Nam Tư mất đi các sân bay như đã làm ở Iraq năm 1991. Nam Tư đã sử dụng thành công các đoạn thẳng của các tuyến đường ô tô rải nhựa để phân tán KQ tiêm kích. Ban đầu, chỉ có các đơn vị MiG-21 được triển khai đến đó, sau đó trong các trường hợp đơn lẻ các đơn vị máy bay tiêm kích MiG-29 cỡ lớn hơn cũng áp dụng chiến thuật này. Bộ chỉ huy Nam Tư tìm cách bố trí các máy bay tiêm kích hạ cánh gần các đầu đường để khi một làn đường bị hỏng thì dễ dàng kéo máy bay sang làn đường khác. Dĩ nhiên là ngay cả ở các sân bay mới cũng áp dụng mọi biện pháp nguỵ trang quy định;

- Sử dụng bẫy hồng ngoại. Được biết, Nam Tư đã sử dụng tại các sân bay những thiết bị nung nóng, trong đó có các lò vi sóng, để hút về mình các vũ khí hàng không lắp đầu tự dẫn hồng ngoại của địch và bằng cách đó bảo vệ các máy bay và các mục tiêu của Nam Tư;

- Sử dụng rộng rãi các hệ thống TLPK tầm ngắn có hiệu quả khá cao và ít chịu tác động của khí tài tác chiến điện tử, bắn vào các mục tiêu quan sát được bằng mắt. Điều đó đã buộc KQ NATO phải bay ở độ cao không dưới 3.000 m và làm giảm được hiệu quả bắn của tên lửa hành trình. Ví dụ, kết quả sử dụng tên lửa hành trình Tomahawk phóng từ biển là thấp hơn dự kiến 20%. Theo các nguồn tin, chỉ có 60-70% trong tổng số tên lửa hành trình được sử dụng tiêu diệt được mục tiêu thay vì 80-90% theo tính toán như đã đạt được trong điều kiện lý tưởng của chiến tranh Iraq năm 1991.

Sự kiện bắn rơi F-117A cũng rất đáng chú ý. Tham gia bảo vệ Belgrade có cả đại đội 3 được trang bị các hệ thống TLPK S-125 của Lữ đoàn 250. Trong vòng 3 ngày đầu không kích, đại đội đã không bật đài điều khiển tên lửa để tránh bị đối phương phát hiện. Liên lạc giữa sở chỉ huy và các trận địa hoàn toàn thực hiện qua cáp điện thoại. Các trận địa được thay đổi gần như hàng ngày. Lực lượng điệp báo Serbia theo dõi các sân bay NATO ở Italia sử dụng điện thoại di động để báo về Belgrade mỗi khi máy bay NATO xuất kích. Tham gia báo cáo về đường bay của máy bay NATO còn có các đội viên quan sát ngay trên lãnh thổ Serbia. Tiểu đoàn trưởng TLPK Dani Zoltan đã khéo léo bố trí đài điều khiển tên lửa để có thể phát hiện máy bay Mỹ với xác suất cao. Đài điều khiển chỉ được bật lên trong vài giây để không làm lộ vị trí với các máy bay chỉ huy/báo động sớm AWACS của NATO. Tên lửa được phóng đi khi máy bay địch đã lọt sâu vào khu vực sát thương của hoả lực PK. Chiếc F-117A đã bị bắn rơi cách các trận địa phóng của tiểu đoàn 13 km. Ngoài ra, chiếc F-117A này còn bay theo đường bay thường lệ nó đã bay 3 đêm trước mà không có lực lượng bảo vệ.

Sau vụ này, các máy bay tàng hình F-117A chỉ xuất kích khi có các máy bay tiêm kích trang bị tên lửa chống radar HARM hộ tống và mỗi lần đường bay đều được thay đổi. Sau đó, người Serbia không còn tổ chức được cuộc phục kích nào thành công như thế nữa. Tuy nhiên, sau đó, đại đội 3 của Lữ 250 PK còn bắn rơi 1 máy bay F-16 và ngăn chặn được một số cuộc tập kích của KQ NATO. Trong các trận đánh này, đại tá Zoltan đã không tổn thất lấy 1 người hay 1 đơn vị binh khí kỹ thuật nào.

Một đặc điểm trong hoạt động tác chiến của KQ Nam Tư là sự tham gia ít ỏi của KQ tiêm kích Nam Tư. Trong quá trình chiến sự, lực lượng này chỉ thực hiện một số ít trận không chiến. Đó là vì lãnh đạo Nam Tư muốn bảo toàn lực lượng KQ của mình trong bối cảnh NATO có ưu thế áp đảo về KQ. Các máy bay tiêm kích Nam Tư ít khi cất cánh và tác chiến không lâu, thành từng tốp nhỏ chủ yếu để đánh chặn nhanh từ vị trí phục kích vì bay lâu trên không là cực kỳ nguy hiểm. Các máy bay chỉ huy và báo động sớm AWACS của NATO lập tức phát hiện máy bay Nam Tư cất cánh và dẫn đường cho các máy bay tiêm kích PK trang bị tên lửa không-đối-không có tầm bắn hiệu quả đến 80 km đến chặn đánh.

Các phi công tiêm kích Nam Tư không có những vũ khí như thế nên đã dùng chiến thuật để đối phó. Ngay khi vừa rời đường băng, họ lập tức lẩn vào các khe núi, bay thấp để thoát khỏi sự đeo bán của máy bay AWACS và của những máy bay tiêm kích do máy bay AWACS điều đến, và chọn thời điểm để công kích máy bay địch. Sau khi tấn công, họ lập tức rút xuống các khe núi hoặc hạ xuống độ cao cực nhỏ.

Một trong nét nổi bật trong tác chiến của KQ Nam Tư là hiệu quả sử dụng KQ tiêm kích thấp. Đó là vì lực lượng máy bay tiêm kích hiện đại MiG-29 có số lượng ít (15 chiếc), các máy bay MiG-21 thì vừa ít vừa không thích ứng với không chiến tầm xa bằng tên lửa với các máy bay tiêm kích F-15 và F-16. Điều đó dĩ nhiên đã được phản ánh ở mức độ tổn thất của KQ tiêm kích Nam Tư. Phía Nam Tư không có khả năng bổ sung cho những tổn thất đó. Tuy nhiên, cũng có những trường hợp máy bay tiêm kích Nam Tư đã thành công, ví dụ Miroslav Druginic trong 1 đêm đã bắn rơi 6 tên lửa hành trình.

Trong tác chiến của KQ và PK Nam Tư đã bộc lộ nhiều nhược điểm:

- Khi chiến tranh bùng nổ, chỉ huy KQ và PK Nam Tư đã bị lúng túng nhất định, họ nắm không chắc tình hình tác chiến, suy giảm sự chỉ huy tập trung các lực lượng và phương tiện thuộc quyền.

- Trong cuộc chiến tranh, Nam Tư tỏ ra thụ động trong sử dụng KQ cường kích. Tuy có trong tay hơn 50 máy bay tiêm kích-bom và các máy bay cường kích hạng nhẹ có khả năng tấn công các sân bay và tàu chiến NATO ở biển Adriatic, nhưng phía Nam Tư đã không tận dụng khả năng này.

- Sự tập trung hoá chỉ huy quá mức (không có lệnh của sở chỉ huy PK trung ương thì đại đội trưởng không có quyền thay đổi trận địa phóng) đã dẫn tới việc nhiều đơn vị đã không thay đổi trận địa trong vòng 4-5 ngày.

- Phải thừa nhận nhược điểm nghiêm trọng nhất của PK Nam Tư là nó đã không thành công với tư cách một hệ thống và đã không hoàn thành nhiệm vụ phòng thủ và bảo vệ các mục tiêu trên lãnh thổ quốc gia. Gần như 100% mục tiêu công nghiệp dầu mỏ, 70% mục tiêu của công nghiệp hàng không, 40-50% các nhà máy xe tăng, đạn dược, gần 70% đường ô tô và đường sắt, 20-80% hạ tầng quân sự bị loại khỏi vòng chiến.

- Chiến thuật sử dụng lực lượng và phương tiện PK của Nam Tư một mặt đã cho phép bảo toàn được lực lượng chủ lực của PK với mức độ tổn thất, theo các nguồn tin, là khoảng 30-35% và khả năng chỉ huy tương đối đối với các lực lượng và phương tiện PK và điều này có thể sẽ có tác dụng tích cực một khi NATO mở chiến dịch trên bộ chống Nam Tư. Tuy nhiên, mặt khác, nó đã không bảo đảm bảo vệ các mục tiêu của tiềm lực kinh tế-quân sự, các mục tiêu thuộc hạ tầng quân sự và dân sự.

- Hệ thống PK Nam Tư được xây dựng, giống như ở đa số các nước, dựa trên hệ thống radar chủ động để đối phó với máy bay có người lái của đối phương trên lãnh thổ của mình, đã tỏ ra bất lực trước các phương tiện tác chiến điện tử, trinh sát và chỉ huy hiện đại, trước thủ đoạn sử dụng ồ ạt tên lửa hành trình bay ở độ cao cực nhỏ trong điều kiện địa hình phức tạp về địa lý và sử dụng quy mô lớn vũ khí chính xác cao. Hầu như, bất kỳ nguồn phát bức xạ vô tuyến nào cũng thường bị tiêu diệt sau lần phóng vũ khí đầu tiên.

Nguồn: Anatoly Kulikov // VKO.-N.5 (42) 2008.

>> Điểm yếu chí tử của tàu ngầm hạt nhân Trung Quốc


Tàu ngầm hạt nhân 094 Trung Quốc được cho là “tàu ngầm trong vịnh Bột Hải”, hễ ra khỏi bờ biển là dễ bị phát hiện và tiêu diệt.




http://nghiadx.blogspot.com
Tàu ngầm hạt nhân tên lửa chiến lược 094 Trung Quốc được lưu truyền trên mạng.


Tạp chí “Kanwa Defense Review” kỳ mới nhất (tháng 4/2012) đã dành sự quan tâm đến tàu ngầm hạt nhân 094 của Trung Quốc, có nhan đề “Từ thiết kế của tàu ngầm hạt nhân chiến lược 094 để xem xét tên lửa hạt nhân JL-2”.

Bài báo cho biết, khi bàn về đặc điểm thiết kế và vấn đề tiếng ồn của tàu ngầm hạt nhân 094, các học giả, chuyên gia công nghệ Mỹ-Âu cho rằng, mặc dù chưa xem xét tiếng ồn lớn hơn của lò phản ứng, 094 vẫn là tàu ngầm hạt nhân trong vịnh Bột Hải, một khi rời khỏi bờ biển, rất dễ bị hệ thống phát hiện chống tàu ngầm hiện đại của Mỹ và châu Âu thám thính được.

Theo bài báo, khoang tên lửa dạng hình học phẳng cỡ lớn của tàu ngầm hạt nhân 094 có khiếm khuyết rõ ràng, lực cản sinh ra khi chạy trên biển đã gây ra tiếng ồn chuyển động, khả năng tàng hình khi chạy dưới/trên mặt nước cũng kém so với yêu cầu của tàu ngầm hạt nhân chiến lược thế hệ mới của Mỹ, Nga.

Khi hoạt động ở vùng nước nông, trên mặt biển, đặc điểm từ tính sẽ lớn hơn tàu ngầm hạt nhân chiến lược kiểu mới của Mỹ, Nga (tàu ngầm Mỹ, Nga được dung hòa ở thân tàu), dễ bị thiết bị dò từ tính của máy bay chống tàu ngầm P-3C phát hiện được.

http://nghiadx.blogspot.com
Máy bay tuần tra chống tàu ngầm P-3C của Mỹ.

Đến nay, khoảng cách và độ chính xác do thám của radar máy bay trực thăng chống tàu ngầm, máy bay chống tàu ngầm của NATO đã được cải thiện rất lớn, tàu ngầm của Âu-Mỹ phần nhiều được thiết kế tàng hình, được quét sơn tàng hình.

Tạp chí Kanwa cho biết, thiết kế của 094 rất giống với thiết kế của 092, tuy thời gian thiết kế của hai loại này cách nhau gần 20 năm, đặc biệt là khoang phóng tên lửa cao vút, rất nhiều lỗ thoát nước.

Kanwa suy đoán, điều này có thể có liên quan đến hình dạng của tên lửa JL, đồng thời cho rằng tên lửa đạn đạo phiên bản hải quân của Trung Quốc vẫn lạc hậu so với Mỹ, Nga trên các phương diện kiểm soát điện tử, thể tích động cơ, kết cấu nhiên liệu.

Căn cứ vào số liệu của Wikipedia, JL-2 có chiều dài gần 13 m, chiều dài của tên lửa phóng ngầm Bulava (tầm phóng gần 10.000 km) là 11,5 m, chiều dài ống phóng tên lửa là 12,1 m.

Kanwa suy đoán, JL-2 được nghiên cứu phát triển trên nền tảng DF-31 (tầm phóng 8.000 km), trong khi đó so với tên lửa chiến lược phiên bản hải quân cùng loại, tên lửa chiến lược phiên bản hải quân có tầm phóng tối đa thấp hơn 15-20%, vì vậy tầm phóng của JL-2 có thể là khoảng 6.400-6.800 km.

http://nghiadx.blogspot.com
Tên lửa JL-2 phóng từ tàu ngầm của Trung Quốc.

Đương nhiên, không loại trừ trong quá trình nghiên cứu phát triển áp dụng công nghệ động cơ của DF-31A, nếu tầm phóng của DF-31A tăng đến 10.000 km, thì tầm phóng của JL-2 cũng có thể tăng tới 8.000-8.500 km, khi đó càng nhiều thành phố của Mỹ sẽ bị đe dọa.

Vì vậy, mặc dù 094/JL-2 được trang bị, lực lượng tấn công hạt nhân chiến lược của Hải quân Trung Quốc cũng không thể bao phủ toàn bộ lãnh thổ Mỹ. Tàu ngầm 094 và tên lửa JL-2 trong vịnh Bột Hải chỉ có thể tấn công các mục tiêu ở Alaska, Hawaii.

Kanwa cho rằng, “tàu ngầm hạt nhân chiến lược trong vịnh Bột Hải” có nghĩa là khả năng sống sót của 094 khá thấp, lực lượng tấn công hạt nhân của Quân đội Mỹ chỉ cần lấy đánh đòn phủ đầu, trực tiếp phát động tấn công hạt nhân đối với vịnh Bột Hải, thì sẽ có thể đánh chìm tàu ngầm 094.

Còn bề ngoài của tàu ngầm hạt nhân chiến lược 096 thế hệ tiếp theo, có thể giảm tiếng ồn do tiếng nước và tàu sinh ra ở dưới nước, trong nước hay không, không chỉ phụ thuộc vào các nhà thiết kế tàu ngầm, mà càng phụ thuộc vào trình độ cải tiến tên lửa chiến lược JL-2 hoặc JL-3.


http://nghiadx.blogspot.com
Tàu ngầm 095 Trung Quốc được lưu truyền trên mạng.


http://nghiadx.blogspot.com
Ý tưởng tàu ngầm hạt nhân chiến lược 096 do dân mạng lưu truyền.


>> Hải quân Trung Quốc đã vượt qua tầm kiểm soát của Mỹ


Trung Quốc đang từng bước thách thức vị thế lãnh đạo toàn cầu của Mỹ, trong đó tàu chiến Trung Quốc đã vươn ra vùng biển tuần tra của Washington.


http://nghiadx.blogspot.com
Tàu hộ tống 054A của Hải quân Trung Quốc.


Tờ “The Christian Science Monitor” Mỹ vừa có bài viết cho rằng, Tổng thống khóa tới của Mỹ sẽ đối mặt với một loạt thách thức ngoại giao.

Bài viết cho rằng, Tổng thống Mỹ Barack Obama đương nhiệm và người dẫn đầu vòng bầu cử sơ bộ Đảng Cộng hòa Romney, bất kể là ai thắng cử, đều sẽ đối mặt với 6 thách thức lớn trong các vấn đề ngoại giao.

Nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của Tổng thống nhiệm kỳ tới chính là khôi phục nền kinh tế Mỹ, còn tính không xác định về ngoại giao sẽ định hình lại cấu trúc chính trị và quyền lực toàn cầu.

Sáu thách thức lớn này lần lượt đến từ Trung Quốc, Nga, thế giới Ả-rập, Iran, CHDCND Triều Tiên và Pakistan.

1. Trung Quốc

Tốc độ phát triển đáng kinh ngạc của nền kinh tế Trung Quốc đã từng bước thách thức vị thế lãnh đạo toàn cầu của Mỹ, sức mạnh tiềm tàng này của Trung Quốc rất có thể làm cho trung tâm phát triển kinh tế thế giới trong tương lai từ thế giới phương Tây chuyển sang thế giới phương Đông.

Đồng thời, “sức mạnh quân sự ngày càng lớn mạnh của Trung Quốc cũng làm cho các nước Đông Nam Á láng giềng cảm thấy lo ngại”.

Hải quân Trung Quốc cũng trỗi dậy, vùng biển tuần tra của tàu chiến Hải quân mở rộng, “kéo dài tới vùng biển tuần tra của Mỹ ở châu Á”.

Là một chủ nợ của Chính phủ Mỹ, Bắc Kinh hy vọng được Washington tôn trọng ở mức độ nào đó. Nhưng, quan hệ Trung-Mỹ lại rất nhạy cảm, đặc biệt biểu hiện trong các vấn đề như nhân quyền và quyền sở hữu trí tuệ.


http://nghiadx.blogspot.com
Tàu khu trục tên lửa Thanh Đảo - Hải quân Trung Quốc.


2. Nga

Thủ tướng Nga Vladimir Putin đã đắc cử Tổng thống Nga nhiệm kỳ tiếp theo. Putin luôn có lập trường cứng rắn trong việc xử lý quan hệ với Mỹ. Khi Reagan làm Tổng thống Mỹ, bóng đen Chiến tranh Lạnh đã bao phủ dày lên quan hệ Mỹ-Nga, nhưng Reagan vẫn dốc sức phát triển quan hệ song phương với Nga.

Vì vậy, trong 4 năm tiếp theo, Nhà Trắng vẫn phải làm việc như vậy, nỗ lực tìm kiếm đồng thuận với Nga trong vấn đề Syria và hạt nhân Iran.

3. Thế giới Ả-rập

Những thay đổi mạnh mẽ, đột biến của thế giới Ả-rập có lẽ không thể làm cho Mỹ hiểu được. “Chính quyền Syria Assad hết sức vi phạm tự do nhân quyền”, “đàn áp người dân Syria”, Tổng thống Mỹ nhiệm kỳ tiếp theo phải kêu gọi tự do ở thế giới Ả-rập: tự do ngôn luận, tự do bầu cử và độc lập về trật tự tư pháp.

4. Iran

Trước thềm bầu cử, Obama lo ngại xảy ra bất cứ cuộc xung đột nào với Iran, phải hết sức ngăn chặn bất cứ hành động quân sự nào nhằm vào Iran. 4 năm tới, cho dù ai lên làm Tổng thống,

Iran có thể đóng một vai trò “bom hẹn giờ” trong quan hệ Mỹ-Iran, “họ có khả năng tiếp tục nghiên cứu chế tạo bom hạt nhân”, “hoặc khiêu khích Mỹ trong vấn đề khác”.

Vì vậy, Tổng thống nhiệm kỳ mới của Mỹ phải tăng cường sức ép phi quân sự đối với Iran, răn đe động cơ nghiên cứu chế tạo bom hạt nhân của Iran.


http://nghiadx.blogspot.com
Tàu đổ bộ Côn Lôn Sơn - Hạm đội Nam Hải.


5. CHDCND Triều Tiên

Tổng thống Mỹ nhiệm kỳ tiếp theo phải phán đoán được, nhà lãnh đạo CHDCND Triều Tiên Kim Jong-ul thực sự muốn giảm tâm lý hiếu chiến, đổi lấy viện trợ lương thực của Mỹ.

“Chính phủ CHDCND Triều Tiên nhiều lần nuốt lời, phá hoại thỏa thuận Mỹ-Triều”.

Nếu nhà lãnh đạo mới Kim Jong-ul có được sự tôn trọng của cộng đồng quốc tế, thì phải có hành động thực tế để thuyết phục Mỹ.

6. Pakistan

Đây là thời kỳ nổi lên của Pakistan, để Pakistan và người dân nước này tự hào, cần thúc đẩy sự phát triển của Pakistan, thúc đẩy nước này trỗi dậy. Pakistan cần viện trợ kinh tế của cộng đồng quốc tế, Chính phủ Mỹ sẵn sàng tiếp tục viện trợ lớn cho Pakistan bất cứ lúc nào.

Nhưng, Chính phủ Pakistan phải có sự thay đổi trên một số phương diện.

Chẳng hạn: “Trước đây, cơ quan tình báo Pakistan có liên hệ với Taliban và các tổ chức khủng bố khác”, sự liên hệ này cần phải cắt đứt. Pakistan cần phát huy vai trò mang tính xây dựng ở khu vực Trung Đông.


http://nghiadx.blogspot.com
Tàu ngầm hạt nhân 093 của Hải quân Trung Quốc.


Copyright 2012 Tin Tức Quân Sự - Blog tin tức Quân Sự Việt Nam
 
Lên đầu trang
Xuống cuối trang