Tin Quân Sự - Blog tin tức Quân sự Việt Nam: 06 tháng 5 2012

Paracel Islands & Spratly Islands Belong to Viet Nam !

Quần Đảo Hoàng Sa - Quần Đảo Trường Sa Thuộc Về Việt Nam !

Thứ Bảy, 12 tháng 5, 2012

>> Phương Tây sẽ "đứng ngoài" biển Đông

Học giả Pháp bàn luận về vai trò của sức mạnh hải quân ở Biển Đông.


Giáo sư lịch sử quan hệ quốc tế Đại học Paris I Robert Frank và Phó giáo sư Đại học tổng hợp Lille III Jean de Préneuf trả lời các câu hỏi của tờ Le Monde.

>> Binh pháp Hải quân Việt Nam (Kỳ 2)

Le Monde: Hiện tại, ở châu Á đang phát sinh các nguồn căng thẳng ngày càng mới giữa các cường quốc biển. Tình hình có thể căng thẳng lên không?

Jean de Préneuf: Quan hệ của Trung Quốc với các nước lân bang đang gây ra sự lo ngại nhất định: Bắc Kinh đang tiến hành hiện đại hóa quy mô lớn hạm đội của mình để củng có vị thế đứng đầu trong khu vực. Còn các nước láng giềng của họ thì không muốn khoanh tay đứng nhìn, dù điều đó có liên hệ đến hạm đội tàu ngầm hay hạm đội mặt nước. Tất cả những chuyện này giống như cuộc chạy đua vũ trang trên biển ở châu Âu trước năm 1914. Không được quên rằng, những nhục nhã trên biển mà Trung Quốc đã phải chịu đựng trong cuộc chiến tranh đầu tiên với Nhật Bản năm 1894-1895 đến nay họ vẫn chưa quên.

Trong cuộc chạy đua thế giới tranh giành tài nguyên thiên nhiên, miếng bánh đại dương hôm nay phải được giành cho cả các quốc gia đang phát triển chủ chốt. Brazil, Ấn Độ, Trung Quốc và Hàn Quốc – tất cả họ đều đang xây dựng cho mình hạm đội hiện đại và đông đúc. Sau khi kết thúc chiến tranh lạnh, người ta từng nghĩ rằng, các cuộc xung đột lớn trên biển đã đi vào quá khứ, tuy nhiên không thể khẳng định chắc chắn điều gì giống như vậy. 20 năm nay, hải quân Ấn Độ và Trung Quốc tranh giành quyền kiểm soát các tuyến đường đến Cận Đông.

Robert Frank: Ngày nay chúng ta đang thấy có sự gia tăng số lượng các đấu thủ, điều gợi nhớ đến cuộc chạy đua vũ trang giữa Đức và Anh vào cuối thế kỷ XIX. Hiện tại, giữa Ấn Độ và Trung Quốc đang tồn tại sự bất đối xứng nhất định. Ấn Độ vẫn chưa thể tự giải thoát khỏi những ký ức thất bại trước Trung Quốc vào năm 1962. Vấn đề Biển Đông hoàn toàn có thể là một trường hợp điển hình. Bắc Kinh chắc chắn toan tính tiến xa hết mức chừng nào có thể mà không gây ra chiến tranh. Mặc dù, dĩ nhiên là điều đó tiềm ẩn đầy những sự cố nguy hiểm. Trong trường hợp leo thang căng thẳng, phương Tây đơn giản là không thể khoanh tay đứng nhìn. Các nước lớn dễ dàng hơn trong việc thỏa thuận với nhau về một giải pháp.

Nguy hiểm xuất phát từ cuộc chạy đua vũ trang giữa các nước nhỏ, các nước trung bình, cũng như giữa các nước nhỏ, trung bình và lớn. Những tình huống khó tiên liệu - đó là sự tính toán sai mà Tổng thống Argentina Galtieri mắc phải đối với Thatcher năm 1982, Saddam Hussein đối với George Bush năm 1990 và Gruzia đối với nước Nga của Putin năm 2008. Ngoài ra, ngày nay đang nảy sinh những vấn đề mới liên quan đến sự xuất hiện trên biển của các đấu thủ phi nhà nước như các tổ chức phi chính phủ. Chúng ta nhìn thấy điều đó ở trường hợp đấu tranh chống ngành săn bắt cá voi và những sự cố mới đây giữa Thổ Nhĩ Kỳ và Israel.



Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Sức mạnh hải quân vẫn là lập luận tốt để răn đe chiến tranh và bảo vệ lợi ích quốc gia

- Các cuộc hải chiến truyền thống bây giờ ít có khả năng xảy ra?

Jean de Préneuf: Kể từ thời điểm kết thúc hai cuộc thế chiến, không còn xảy ra một trận chiến trên biển quy mô lớn nào nữa. Tuy nhiên, chiến tranh lạnh đã dẫn tới sự xuất hiện đối đầu toàn cầu trên biển, vốn là sự tiếp diễn của logic các trận chiến ở Đại Tây Dương và các chiến dịch đổ bộ lớn.

Vì thế, năm 1945 không hề đặt dấu chấm hết cho các cuộc chiến tranh có sử dụng hải quân. Danh sách có được khá dài: Triều Tiên từ năm 1950-1953, kênh đào Suez năm 1956, Việt Nam từ năm 1965-1973, Falklands (Malvinas) năm 1982, Kosovo năm 1999 và cho đến tận Libya năm 2011. Thậm chí trong các cuộc xung đột cơ bản khai diễn trên không và mặt đất thì luôn có chỗ cho hạm đội: điều đó đã xảy ra trong các cuộc xung đột Ấn Độ-Pakistan năm 1965 và 1971, trong cuộc chiến Vùng Vịnh năm 1990-1991, ở Afghanistan từ năm 2001, ở Li-băng năm 2006.

Điều đó cũng liên quan cả đến các tình huống khủng hoảng. Ví dụ, trong chiến dịch Praying Mantis ngày 14/4/1988 toàn bộ một hạm đội Iran đã bị tiêu diệt để đáp lại việc Tehran phong tỏa vịnh Persique. Nó đã cho thấy rằng, biển vấn là không gian xung đột với sự tham gia của các nước thứ ba kể cả khi nó họ không phải là các bên tham chiến trực tiếp. Ngoài ra, toàn bộ cuộc chiến tranh Iran-Iraq từ năm 1980-1988 nhắc nhở chúng ta rằng, các cường quốc hạng hai có thể gây ra những vấn đề nghiêm trọng cho các hạm đội lớn bằng các phương tiện phi đối xứng, trong số đó trước hết là thủy lôi.

Robert Frank: Ở Cận đông, vấn đề eo biển Hormuz liên quan không chỉ đến triển vọng một trận hải chiến lớn bởi để làm việc đó lực lượng của các hạm đội cần phải gần tương đương nhau. Tuy nhiên, quyền kiểm soát đối với huyết mạch sống còn này cũng đang được giải quyết cả trên biển bởi vì Iran đã rút ra các bài học của những năm 1980 và đã hiện đại hóa không chỉ hạm đội của họ mà cả vũ khí chống hạm triển khai trên bộ.

Ở Tây Phi, hạm đội đóng vai trò trung tâm trong đấu tranh chống cướp biển, tuy nhiên trong trường hợp này, chúng ta lại không thể nói đến các trận hải chiến quy mô lớn. Liên quan đến Thái Bình Dương và Đông Á, mặc dù Trung Quốc đã tăng cường sức mạnh quân sự, cần tính đến việc họ còn có những lá bài khác để khẳng định vị thế đứng đầu trong khu vực. Nếu như nói về triển vọng gia tăng căng thẳng, nguy cơ chủ yếu xuất phát từ quan hệ của Trung Quốc với các quốc gia láng giềng nhỏ. Trong vấn đề quần đảo Hoàng Sa hay Trường Sa, không thể loại trừ kịch bản đó.

Jean de Préneuf: Việc triển khai tàu chiến hiện nay xung quanh vịnh Persique khiến người ta nhớ lại các cuộc điều động binh lực của Mỹ năm 1988, tháng 1/1980 trong cuộc khủng hoảng con tin hay năm 1971 trong cuộc chiến Ấn Độ-Pakistan. Từ góc độ chính thị, có thể nói đến “ngoại giao 80.000 tấn” mà tàu sân bay Mỹ đại diện. Pháp cũng đã hành động tương tự trong chiến dịch Prométhée năm 1988 trong cuộc chiến Iran-Iraq. Việc phái một cụm tàu sân bay là yếu tố quyết định để bảo đảm an ninh cho vận chuyển dầu mỏ, lẫn để gây áp lực với Tehran trong đàm phán về các vấn đề người tị nạn và chương trình hạt nhân.

Robert Frank: Lịch sử đã biết đến những trường hợp, khi mà hạm đội của một nước đang phát triển đã chiến thắng một cường quốc hải quân: năm 1905, hạm đội Nhật Bản (gồm chủ yếu là các tàu chiến Anh) đã đánh tan lực lượng hải quân của đế quốc Nga trong trận hải chiến Đối Mã (Tsushima). Tình hình hiện nay khác với thế kỷ XIX ở chỗ các đấu thủ mới có vũ khí hạt nhân: trong cuộc đối kháng giữa họ, sự kiềm chế có thể có tác dụng. Ví dụ, trước năm 1914, cuộc chạy đua vũ trang giữa các cường quốc châu Âu mang tính kiềm chế và không hoàn toàn hướng đến chiến tranh. Tuy nhiên, các đế quốc ốm yếu Nga và Áo-Hung đã có thể chấp nhận rủi ro chiến tranh bởi vì họ định bằng cách đó giải quyết các vấn đề nội bộ. Các cường quốc mới trong kỷ nguyên không hạt nhân không thể cho phép mình sự xa xỉ đó.

Ngày nay, hạm đội có thể là công cụ kiềm chế hiệu quả và đồng thời không phải là nguyên nhân làm tình hình thêm căng thẳng. Ngoài ra, ngày nay, ở mức độ lớn hơn nhiều so với hôm qua, nó là công cụ kiến tạo hòa bình và phương tiện ngăn ngừa xung đột. Toàn cầu hóa dẫn đến sự gia tăng tầm quan trọng của hạm đội. Vai trò của nó là bảo đảm an ninh trên các tuyến giao thông và bằng sự hiện diện của mình ngăn chặn những điều khó chịu có thể xảy ra trong tương lai. Ngoài ra, đây còn là công cụ phô trương sức mạnh, có thể làm chức năng kiểm chế. Khi một tàu sân bay xuất hiện gần bờ biển, người ta buộc phải tính toán đến điều đó.

- Vấn đề chủ quền ngày nay đang đặt ra với sự gay gắt mới: tất cả những điều này liệu có dẫn tới một cuộc đấu tranh điên rồ để giành giật đại dương và phân chia các vùng biển không?

Jean de Préneuf: Vấn đề chủ quyền liên quan trước hết đến các tài nguyên biển. Cần nhớ rằng, năm 1904, vấn đề hóc búa nhất trong đàm phán giữa Pháp và Anh là Newfoundland và cụ thể là quyền đánh bắt cá. Ngày nay, sự gia tăng căng thẳng ở quần đào Falklands (Malvinas), nơi mới đây phát hiện ra tài nguyên dầu lửa, đang diễn ra đúng theo sơ đồ từng xảy ra giai đoạn từ 1976-1982.

Trước đó, mỗi bên đều đã tìm cách giành ưu thế trong phạm vi vùng đặc quyền kinh tế của mình đã được xác định theo Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển 1982. Ngày nay, tầm nhìn toàn cầu bắt đầu thắng thế. Việc phân chia lãnh thổ trên không gian biển ngày càng dịch chuyển theo hướng quy mô đại dương.

Tình hình ở Đông Nam Á và Biển Đông tất yếu liên quan đến việc phân chia tài nguyên biển. Ngoài ra, băng hà tan chảy ở Bắc Cực cũng đang dẫn đến sự gia tăng căng thẳng khu vực. Đó là chuyện làm sao giành lấy quyền kiểm soát tuyến đường biển mà trong tương lai có thể trở thành một trong những tuyến giao thương then chốt và khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên trong khu vực.

- Một số nước chắc chắn dựa vào máy bay và tên lửa chứ không phải hạm đội. Cần có các phương tiện nào để duy trì sức mạnh quân sự?
Jean de Préneuf: Cán cân giữa hải quân và không quân luôn luân phiên thay đổi tùy thuộc vào mốt và những khunh hướng ưa thích kỹ thuật nào đó, hơn nữa nhiều khi là hy sinh yếu tố hiệu quả. Những dao động này là sự phản ánh sự cạnh tranh giữa các quân chủng trong việc bảo đảm an ninh ở cự ly xa và với chi phí nhỏ nhất. Chẳng hạn, vào cuối thế kỷ XIX, ở Anh người ta tin rằng, hạm đội là câu trả lời cho mọi vấn đề.

Trong giai đoạn giữa hai cuộc thế chiến, Anh lại ưu tiên không quân, lực lượng mà người ta cho là sẽ ngăn ngừa sự tái xuất hiện mối đe dọa trên lục địa và bảo đảm trật tự trong đế quốc.

Ngày nay, người ta thường cho rằng, hạm đội hải quân toàn cầu là rất tốn kém. Tuy nhiên, điều chủ yếu là tìm ra điểm giữa tối ưu giữa hai thái cực. Vấn đề là ở chỗ, đóng vai trò lớn ở đây không chỉ là khả năng phô diễn sức mạnh của mình ở tầm xa, mà còn thực hiện chính sách hiện diện vốn giúp giải quyết mềm các cuộc xung đột.

Cần lưu ý rằng, ngày nay, khả năng quân sự của Bắc Kinh được cân đối rất tốt, trong khi trước đó hạm đội của họ về mặt cơ cấu là bộ phận yếu nhất quân đội, bởi vì nguồn gốc các mối đe dọa trước hết là ở trên bộ. Điều đó cũng đúng với cả Ấn Độ. Về khả năng chiến lược, cả hai nước đều chọn xây dựng quân đội đa dạng hóa mà trong cơ cấu của nó có cả các tàu ngầm.

Robert Frank: Ở châu Âu, hạm đội tương ứng với địa vị thứ bậc của các cường quốc. Chẳng hạn, nước Đức là cường quốc hạng trung, mặc dù trong EU, họ vẫn mạnh hơn Pháp và Anh. Trong khi đó, khác với Đức, cả hai quốc gia Pháp và Anh lại là cường quốc “thế giới” và các hạm đội của họ hậu thuẫn cho trậ tự đó. Tuy nhiên, các hạm đội ở châu Âu đang đi đến giới hạn của mình. Hiện tại, các xu hướng chính là thiết lập các hiệp định đối tác và chia xẻ chủ quyền.

Jean de Préneuf: Vấn đề tiền bạc cũng có liên quan đến tương lai. Một số chỉ muốn hạn chế ở mức sở hữu vũ khí hạt nhân. Số khác lại đề xuất dựa tất vào không quân dựa trên ưu thế công nghệ của mình. Những giải pháp như thế sẽ cho phép bảo vệ chủ quyền ở tầm xa và với chi phí ít hơn. Tuy nhiên, các nước đang phát triển mạnh nhất và các quốc gia phương Tây lớn nhất không ủng hộ tính toán đó. Họ đang cố cân bằng các kho quân bị của mình cùng lúc từ hai quan điểm: tìm ra sự cân bằng giữa các lực lượng vũ trụ, không quân, lục quân và hải quân, cũng như cố xây dựng hạm đội cân đối gồm tàu chiến mặt nước, tàu ngầm và máy bay.

- Vấn đề này được giải quyết ra sao ở Pháp?

Jean de Préneuf: Vào cái ngày Pháp từ bỏ các kế hoạch đại dương toàn cầu của mình, cũng là khi Pháp ký nhận là nước này đồng ý với vai trò cường quốc hạng hai, không có khả năng bảo vệ lợi ích của mình trên thế giới khi cần. Vì lý do đó, thậm chí sau những thất bại năm 1871 và 1945, Pháp cũng đã không cắt giảm quá 30% chi phí cho hạm đội. Hơn nữa, sự cắt giảm đó luôn chỉ là hiện tượng tạm thời, kéo dài không quá 5-6 năm.

Không nên quên rằng, sự phổ biến vũ khí trang bị hiện đại là một hiện tượng có từ lâu mà việc xem nhẹ nó đã nhiều lần buộc các nước phương Tây trả giá đắt, hơn nữa tất cả đã bắt đầu từ thế kỷ XIX. Năm 1885, trong chiến tranh Pháp-Thanh, các tàu Pháp được đóng trong hoàn cảnh tiết kiệm dành cho các chiến dịch xa xôi ở các thuộc địa đã thua kém về uy lực và tốc độ so với các tàu tuần dương của nhà Thanh do Đức đóng mà theo kế hoạch của bộ chỉ huy Pháp đó lại là mục tiêu mà các tàu Pháp phải truy kích!

Nguồn: L'Occident serait concerné en cas d'escalade militaire en mer de Chine du Sud / Nathalie Guibert // Le Monde, 26.4.12; Inosmi, MP, 30.04.12.

>> Siêu vũ khí của quân đội Mỹ

Vũ khí laser thể rắn trên tàu chiến có đủ khả năng đối phó với tên lửa hành trình chống hạm, máy bay không người lái và máy bay tấn công nhanh.


http://nghiadx.blogspot.com
Vũ khí laser của Hải quân Mỹ.


Ngày 2/5, tờ “Nhật báo phố Wall” Mỹ có bài viết cho rằng, đối mặt với vũ khí dẫn đường chính xác tầm xa của đối thủ, Mỹ đang tìm cách tiến hành phòng thủ bằng công nghệ cao.

Chuyên gia hải quân Mỹ cho rằng, trong 6 năm tới, Hải quân Mỹ có thể sử dụng thiết bị laser trạng thái rắn trên tàu chiến, công suất đủ để ứng phó với tên lửa hành trình chống hạm của các nước như Iran.

Cũng trong 6 năm tới, không quân và lục quân cũng có thể ứng dụng thiết bị laser hóa học cấp megawatt nền, bảo vệ các căn cứ quan trọng ở vịnh Péc-xích và Tây Thái Bình Dương.

Bài báo cho rằng, trong 20 năm qua, từ chiến tranh vùng Vịnh lần thứ nhất đến chiến dịch không kích Libya gần đây, quân Mỹ hầu như chưa từng đối mặt với khó khăn về lực lượng tiếp tế và triển khai.

Đối thủ cạnh tranh và kẻ thù tiềm tàng của Mỹ - từ Trung Quốc đến Hezbollah – đã chú ý đến tình tình này, đang nỗ lực tìm kiếm vũ khí dẫn đường chính xác tầm xa, thông qua xây dựng rất nhiều “khu tìm diệt” ở xung quanh sân bay, bến cảng và trạm tiếp tế, đe dọa quân Mỹ.

Mối đe dọa này khó ứng phó hơn nhiều so với bom cài ven đường ở Afghanistan và Iraq. Mặc dù Lầu Năm Góc hiểu rõ mối đe dọa này, nhưng phương pháp ứng phó lỗi thời và tốn kém.

http://nghiadx.blogspot.com
Vũ khí laser trên máy bay.

Khi đối mặt với cắt giảm ngân sách, Lầu Năm Góc vẫn đang tiếp tục nhấn mạnh dùng vũ khí đánh chặn có giá trị hàng triệu USD để đánh chặn tên lửa giá rẻ của đối phương, khiến cho quân Mỹ rơi vào vị thế bất lợi trong cạnh tranh chi phí, trong khi đối thủ lại lạc quan về tình hình và tiếp tục tiến lên.

Bài báo cho rằng, quân Mỹ có biện pháp có thể bảo vệ hiệu quả hơn bản thân mình và tránh bị tập kích, tăng gánh nặng chi phí tấn công cho kẻ thù.

Trong đó có một giải pháp là bất ngờ tấn công thiết bị phóng tên lửa của đối thủ (máy phóng) trên mặt đất, tiêu diệt chúng trước khi vũ khí phát huy hiệu lực. Nhưng, việc tấn công “áp chế” này cần tìm được và phá hủy thiết bị phóng tên lửa, lực lượng pháo và súng cối cơ động cao, đây là một thách thức rất lớn.

Một biện pháp bổ sung tốt hơn là sử dụng công nghệ cao, giảm mạnh chi phí tấn công – đó là thiết bị laser công suất cao. Nguyên mẫu vũ khí laser công suất cao trước đây hoặc là hiệu lực không đầy đủ, hoặc quá cồng kềnh, hoặc đều có hai khuyết điểm này.

Một loại thiết bị laser hóa học trang bị cho chiếc Boeing 747 (được cải tạo thành quân dụng) gần đây bị hủy bỏ, đây là một ví dụ mới nhất mà vũ khí laser không đạt được mục tiêu.

http://nghiadx.blogspot.com
Vũ khí laser chiến thuật.

Có lẽ giống như tàu ngầm và ngư lôi không phát huy được vai trò trong mấy chục năm cuối thế kỷ 19, nhưng nhanh chóng trở thành vũ khí mạnh mẽ trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, vũ khí laser cuối cùng cũng sẽ bước vào thời kỳ hoàng kim của nó.

Bài viết chỉ ra rằng, gần đây công nghệ vũ khí laser trạng thái rắn đạt được tiến bộ to lớn (nghĩa là vũ khí laser có thể bằng thể rắn hoặc sợi chứ không phải thể lỏng hoặc khí, sản xuất ra chùm tia chết người), có chi phí phóng đơn vị rất thấp, đã đạt mức công suất rất cao, đã tạo sự đối lập rất rõ rệt với vũ khí đánh chặn tên lửa truyền thống với đơn giá có thể hơn 10 triệu USD.

Chuyên gia hải quân Mỹ cho rằng, trong 6 năm tới sử dụng công nghệ đã được phát triển và đang thử nghiệm, họ có thể sử dụng thiết bị laser thể rắn trên tàu chiến, công suất đủ để ứng phó với tên lửa hành trình chống hạm, máy bay không người lái và tốp máy bay tấn công nhanh của các nước như Iran.

Những thiết bị laser này có thể giảm đạn dược phòng thủ đắt đỏ và cồng kềnh trên tàu chiến, dành ra không gian cho vũ khí khác. Giống với thiết bị laser thể rắn, thiết bị laser hóa học kiểu mới có thể có công suất lớn hơn mấy thế hệ trước, có thể ứng phó với rất nhiều mối đe dọa trên không và tên lửa, bao gồm tên lửa đạn đạo tầm xa.

http://nghiadx.blogspot.com
Vũ khí laser tấn công vệ tinh.

Cũng trong 6 năm tới, sử dụng công nghệ phát triển cho thiết bị laser trang bị trên máy bay, không quân và lục quân có thể ứng dụng thiết bị laser hóa học cấp megawatt nền, giúp bảo vệ các căn cứ quan trọng ở vịnh Péc-xích và Tây Thái Bình Dương.

Bài báo cho rằng, đương nhiên, vũ khí laser cũng có những hạn chế của nó. Thời tiết khắc nghiệt sẽ làm giảm hiệu quả của nó (rất nhiều vũ khí khác cũng như vậy), hơn nữa tìm diệt những mục tiêu khó khăn như đầu đạn tên lửa đạn đạo sẽ cần công suất thiết bị laser nhiều megawatt.

Tuy nhiên, kết hợp tấn công áp chế và phòng thủ truyền thống, thiết bị laser công suất cao có thể cải thiện đáng kể việc phòng thủ của quân đội, giảm giá thành, đồng thời cũng làm cho kế hoạch của kẻ thù trở nên phức tạp hơn.

Các nước khác, đặc biệt là Nga và Trung Quốc, đã nhìn thấy tiềm năng hoàn toàn mới của những vũ khí này, đồng thời đang tích cực đầu tư cho nó. Trong khi đó, Lầu Năm Góc có kế hoạch cắt giảm vốn nghiên cứu lĩnh vực này, mặc dù hiện nay đầu tư trong lĩnh vực này hàng năm nhiều hơn 500 triệu USD, nhưng đầu tư cho phòng thủ tên lửa và trên không truyền thống khác vượt xa 10 tỷ USD.

http://nghiadx.blogspot.com
Vũ khí laser.

Do muốn tăng chi phí cho đối thủ cạnh tranh, đồng thời giảm chi phí của bản thân Mỹ, sự mất cân bằng này sẽ làm cho quân Mỹ càng lo ngại hơn. Bộ Quốc phòng cho biết đang nỗ lực duy trì ưu thế công nghệ, chiến lược mới của họ chủ trương “duy trì xu thế sáng tạo quan trọng có thể đem lại lợi ích lâu dài quan trọng là nhiệm vụ cấp bách hàng đầu”.

Điều đáng tiếc là, động lực thúc đẩy của Bộ trưởng Quốc phòng Leon Panetta hoặc Quốc hội Mỹ không đủ, thiết bị laser công suất cao hầu như không có nhiều khả năng sớm từ phòng thực nghiệm đi vào sản xuất.

Nếu như vậy, quân Mỹ sẽ giống như Afghanistan và Iraq, chỉ có thể tiếp tục đáp trả mối đe dọa, chứ không thể hành động trước khi mối đe dọa xuất hiện.

>> Cảnh sát biển Việt Nam trang bị hiện đại

Trong những năm qua, để đảm bảo an ninh, trật tự, an toàn trên vùng biển và thềm lục địa, Cảnh sát biển đã được chú trọng đầu tư mua mới nhiều tàu tuần tra và máy bay.

Cảnh sát biển là lực lượng chuyên trách của Nhà nước, có chức năng quản lý về an ninh, trật tự, an toàn và bảo đảm việc chấp hành pháp luật của Việt Nam và các điều ước quốc tế có liên quan mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia trên các vùng biển và thềm lục địa của Việt Nam.

Đồng thời, Cảnh sát biển Việt Nam có nhiệm vụ kiểm tra, kiểm soát để bảo vệ chủ quyền, giữ gìn an ninh trật tự, an toàn; bảo vệ tài nguyên, phòng chống ô nhiễm môi trường; phát hiện ngăn chặn, đấu tranh các hành vi vi phạm pháp luật Việt Nam.

Cảnh sát biễn cũng tham gia hoạt động tợp tác quốc tế để giữ gìn an ninh, trật tự, hòa bình và ổn định trên các vùng biển. Thu thập, tiếp nhận thông tin, xử lý kịp thời và thông báo cho cơ quan chức năng có liên quan theo quy định của pháp luật; tham gia tìm kiếm cứu nạn, khắc phục sự cố trên biển và thực hiện các hoạt động bảo vệ môi trường.

Tham gia tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho nhân dân hoạt động trên biển, phối hợp với các lực lượng khác bảo vệ tài sản của Nhà nước, tính mạng, tài sản của người dân và phương tiện hoạt động hợp pháp trên các vùng biển và thềm lục địa Việt Nam.

Hiện nay, cảnh sát biển được trang bị các loại tàu hiện đại như: Tàu K206, tàu DN–2000, tàu TT-200, tàu kéo cứu nạn 3500 CV, tàu tuần tiễu cao tốc 120 và 400, máy bay CaSa 212-400, thiết bị tuần thám MS 600, radar các loại cùng các thiết bị trinh sát, phòng chống tội phạm ma túy và các trang, thiết bị nghiệp vụ khác.

Dưới đây là một số số hình ảnh về các loại tàu hiện đại mà Cảnh sát biển Việt Nam được trang bị:



http://nghiadx.blogspot.com
Tàu cảnh sát biển đa năng DN 2000 là dạng tàu có thiết kế tiên tiến, hiện đại đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn Quốc tế. Tàu có chức năng và nhiệm vụ là tuần tra bảo vệ chủ quyền biển, đảo, thực thi pháp luật trên các vùng biển và thềm lục địa Việt Nam. 

Tìm kiếm cứu nạn trên vùng biển Việt Nam và quốc tế khi có yêu cầu, cứu kéo các tàu bị nạn có lượng dãn nước đến 2200 tấn. Chuyển quân, chi viện hậu cần cho các lực lượng hoạt động trên biển, đảo, thực hiện các nhiệm vụ khác khi được giao.

Tàu hoạt động trong các vùng biển và thềm lục địa Việt Nam với tầm hoạt động không hạn chế, tàu hoạt động được trong điều kiện gió cấp 12, thời gian hoạt động liên tục trên biển là 40 ngày đêm, tầm hoạt động là 5000 hải lý.

Tàu tuần tiêu cao tốc TT-200 là dạng tàu cao tốc vỏ thép do Viện kỹ thuật Hải quân hiết kế. Tàu hoạt động được trong điều kiện sóng cấp 7 và 8, có thể chịu được cấp 9, tầm hoạt động là 1800 hải lý.

http://nghiadx.blogspot.com
Tàu kéo cứu nạn 3500 CV được trang bị một tổ hợp máy bơm cứu hộ được lắp đặt trong khoang máy chính.

Thông qua một cửa thông biển riêng, tổ hợp cung cấp nươc cứu hoả, bọt Foam chống cháy ra 2 súng phun đặt trên nóc ca bin Đường kính họng phun D= 90 mm, tầm phun xa nhất ở góc nghiêng 45 độ với lưu lượng 350 m3 /giờ súng phun có thể đạt tầm xa đến 75 m

http://nghiadx.blogspot.com
Tàu tuần tiễu cao tốc TT 120 có chức năng tuần tra bảo vệ chủ quyền và an ninh trật tự vùng biển Việt Nam, kiểm soát và ngăn chặn các loại tàu thuyền vi phạm các qui định của Nhà nước về Hải quan, đánh bắt hải sản, khai thác tài nguyên và bảo vệ môi trường trong hải phận Việt Nam.

http://nghiadx.blogspot.com
Tàu tuần tiễu cao tốc TT 400 là tàu cao tốc vỏ thép, đây là dạng tàu có tính năng kỹ thuật cao, trang thiết bị hiện đại. Khả năng tự động hoá, tích hợp các thiết bị trên tàu đồng bộ và chịu được sóng đến cấp 10.

http://nghiadx.blogspot.com
Casa 212-400 là máy bay cất hạ cánh ngắn hiện đại được thiết kế cho nhiệm vụ vận tải, tuần tra trinh sát biển. Máy bay trang bị 2 động cơ cánh quạt TPE331-12JR-701C 935 mã lực cho phép đạt tốc độ 370km/h, tầm bay gần 2.000kg. Casa 212 có khả năng mang 500kg vũ khí trên hai giá treo cánh

>> G.K.Zhukov : tư lệnh của các chiến dịch lớn

Nhân dịp kỷ niệm 67 năm chiến thắng CN Phát xít, Đất Việt xin giới thiệu bài viết về nguyên soái G.K.Zhukov, thiên tài quân sự có đóng góp quan trọng trong Thế chiến II.


Tuổi ấu thơ nghèo khó và chí tự học

Sinh ngày 1/2/1896 trong một gia đình nông dân nghèo ở làng Strenkovka, tỉnh Kluga. 12 tuổi làm thợ học việc ở một cửa hàng đồ da. 19 tuổi, năm 1915 nhập ngũ, phục vụ trong một đơn vị kỵ binh Sa hoàng, tham gia đại chiến I (1914-1918). Sau Cách mạng tháng Mười Nga 1917, gia nhập Hồng quân và trở thành một sĩ quan kỵ binh ưu tú. 27 tuổi giữ chức trung đoàn trưởng và năm 42 tuổi là Phó Tư lệnh Quân khu Belorusia.

Những dòng ngắn ngủi trên chỉ mong phác họa đôi chút về chân dung vị Nguyên soái lừng danh của Đại chiến II, Georgi Konstantinovich Zhukov. Thực ra trước thềm 1939, ông đã trải qua hơn 40 năm đầy gian khổ. Hồi ức "Nhớ lại và suy nghĩ" của ông phát hành năm 1969, 5 năm trước khi qua đời, cho ta biết rõ hơn quá trình hình thành một bản lĩnh, một nhân cách hiếm có.


http://nghiadx.blogspot.com
Chân dung Nguyên soái Zhukov.

“Bảy tuổi đã cùng người lớn đi cắt cỏ, cố quá sức nên làm tay phồng lên... xấu hổ không dám nói với ai cả, cố hết sức chịu đựng và đến mùa gặt lúa mì... hấp tấp đưa liềm vào ngón tay út bên trái... đã bao nhiêu năm qua, vết sẹo ở đấy vẫn còn nhắc tới...”.

Ông được đi học mấy năm ở trường làng, năm 12 tuổi lên Moscow làm ở cửa hàng đồ da, từ 7h sáng đến 7h tối, có một tiếng buổi trưa để nghỉ ăn cơm. Vất vả như vậy nhưng ông vẫn kiên trì học thêm buổi tối về tiếng Nga, toán, địa lý, đọc sách khoa học phổ thông....

Tháng 6/1915, nước Nga tổn thất nhiều trên các mặt trận, đến đợt tổng động viên, ông lên đường. Một sự kiện quan trọng diễn ra trong đời binh nghiệp: Ngày 27/2/1917, ông gia nhập hàng ngũ Cách mạng.

Tháng 8/1918, ông phục vụ trong đoàn kỵ binh 4, sư đoàn kỵ binh Moscow của Hồng quân. Mùa xuân năm 1923 ông nhận nhiệm vụ chỉ huy trong đoàn, đây là cương vị đã rèn luyện để ông có nhiều kinh nghiệm về huấn luyện, điều hành sau này.

Ông lần lượt đảm nhiệm các chức vụ sư đoàn trưởng, quân đoàn trưởng trong những năm sau và đến năm 1938 làm Phó Tư lệnh quân khu Belarusia.

Ngày 2/6/1939, ông bay sang Mông Cổ để cùng các đơn vị quân đội nước này đánh bại quân Nhật ở Khankhin Gôn, chiến dịch kéo dài đến 30/8/1939, ngay trước khi quân Đức đánh vào Ba Lan mở đầu Đại chiến II.

Đầu tháng 5/1940, ông nhận quân hàm Đại tướng, giữ chức Tư lệnh quân khu đặc biệt Kiev, khi được I.V.Stalin hỏi về kinh nghiệm ở Khankhin Gôn, ông nói: “... Cuộc chiến đấu ở Khankhin Gôn là một trường học kinh nghiệm chiến đấu lớn”.

Tư lệnh của các chiến dịch lớn

Đầu năm 1941, ông là Tổng tham mưu trưởng quân đội, ở cương vị này, ông thể hiện tầm nhìn chiến lược của một thiên tài quân sự.

Đêm 21, rạng 22/6/1941, Đức tấn công toàn tuyến biên giới Liên Xô, 13.000 giờ ngày 22/6 ông được cử tới Tây nam làm đại diện Tổng hành dinh, 40 phút sau ông ngồi trên máy bay và sực nhớ ra “chưa ăn gì từ hôm qua”. Từ đó là những ngày đêm liên tục chỉ huy các chiến dịch lớn và đều chiến thắng.

Sau này, khi được hỏi chiến dịch nào ghi nhớ nhất, ông trả lời không do dự: Chiến dịch Moscow (30/9/1941-20/4/1942) một chiến dịch Liên Xô ở vào thế rất bất lợi, đã kiên cường phòng ngự, mưu trí phản công.

Quân Đức lúc đầu có lợi thế rất lớn: chiếm toàn bộ các nước Cộng hòa của Liên Xô: Litva, Latvia, Extonia và phần lớn Belorusia, Ukraine.

Tháng 9/1941, Đức sử dụng cụm tập đoàn quân trung tâm gồm 3 tập đoàn quân dã chiến và 3 tập đoàn quân tăng với 1.800.000 quân, 1.700 xe tăng, 14.000 pháo và cối, 1.390 máy bay mở cuộc tấn công quy mô với mật danh “Giông tố”, theo hai hướng nam, Bắc hòng tiến vào thủ đô Moscow.

Giai đoạn phòng ngự (30/9/1941-5/12/1941), Quân đội Liên Xô đã đánh trả quyết liệt khiến quân Đức tổn thất nặng nề, nhưng chúng vẫn chọc thủng được tuyến phòng ngự để tiến về sông Moscow, còn ở phía Nam thì bị chặn lại.

Cuối tháng 11, đầu tháng 12 ý định đột phá vào thủ đô Moscow của Đức thất bại, Hồng quân đã nắm quyền chủ động, có thêm sự tăng quân, vũ khí. Nhiều trận đánh có phương diện quân liên tục diễn ra, đẩy quân Đức lùi về phía Tây 100-300 km. Toàn cục Đức thiệt hại 500.000 người, 1.300 xe tăng, 2.500 pháo, trên 15.000 xe và khí tài khác.

Người ta nhớ rằng, trong những lúc gian khó nhất của chiến dịch bảo vệ thủ đô này, ông luôn ở vị trí trung tâm điều hành các phương diện quân, bên cạnh I.V.Stalin. Ông đến tận đơn vị cơ sở, nắm chắc vấn đề, khi báo cáo có bản lĩnh, thẳng thắn, không ngại va chạm với Tổng tư lệnh.

Các dự báo chiến lược, chiến dịch của ông đều đúng. Ngày 1/11/1941, giữa trăm ngàn gia khó, khi về đại bản doanh, Stalin hỏi tình hình có thể bảo vệ cho Lễ duyệt binh 7/11/1941 được không, ông khẳng định: Được!

Lễ duyệt binh có một không hai đã diễn ra đúng ngày kỷ niệm Cách mạng tháng Mười và từ quảng trường Đỏ, nhiều đơn vị đã đi thẳng ra chiến trường sát Moscow.

Ông viết: “Nếu có ai hỏi tôi điều gì nhớ nhất trong cuộc chiến tranh vừa qua, tôi luôn luôn trả lời, đó là cuộc chiến đấu ở Moscow. Trong điều kiện khắc nghiệt, hết sức phức tạp và khó khăn, quân đội ta đã được tôi luyện, can trường và sau khi có được một số phương tiện vật chất tối thiểu, đã chuyển từ một lực lượng đang rút lui phòng ngự, thành một lực lượng tiến công rất mạnh”.

Ngày 26/8/1942, ông được cử làm Phó Tổng tư lệnh tối cao và đến chiến dịch Stalingrad chỉ đạo.

Ngày 18/1/1943, ông được phong Nguyên soái Liên Xô, là người đầu tiên được phong Nguyên soái trong chiến tranh.

Từ lúc tham gia phòng ngự ở Leningrad ngày 9/9/1941, qua nhiều chiến dịch lớn, ông lại có mặt ở trận nổi tiếng: vòng cung Kursk, rồi tiêu diệt địch giải phóng Ukraine, Belorusia.

Ngày 29/7/1944, ông nhận danh hiệu Anh hùng Liên Xô lần 2.

Tháng 10/1944, chỉ huy phương diện quân Belorusia 1, đơn vị nòng cốt tiến vào sào huyệt của Đức quốc xã ở Berlin.

Ngày 20/4/1945 trận công phá lịch sử Berlin bắt đầu. 15h ngày 30/4/1945, ông là người được ủy nhiệm của I.V.Stalin chủ trì Lễ duyệt binh mừng chiến thắng ở Moscow.

http://nghiadx.blogspot.com
Tượng đài Nguyên soái Zhukov ở Nga.

Bình tĩnh, sáng suốt lúc cuối đời

Năm 1957, trên cương vị Ủy viên Bộ chính trị Đảng Cộng sản Liên Xô, Bộ trưởng Quốc phòng, đang thăm nhiều nước, khi về nhà, bị cách chức, ông bình tĩnh nhận quyết định nghỉ hưu. Một thời gian dài, ông ngủ và khi tỉnh dậy, vào rừng, đi câu bên suối nhỏ.

Năm 1969, sau nhiều năm nghiền ngẫm, thai nghén, được sự giúp đỡ của cơ quan lưu trữ và nhiều đồng đội, ông hoàn thành tác phẩm “Nhớ lại và suy nghĩ”, được xuất bản rộng rãi trên thế giới, trong đó có Việt Nam.

Trong lời tựa cuốn sách, ông viết “Tôi đã miệt mài với cuốn “Nhớ lại và suy nghĩ” này không phải chỉ trong một năm. Từ những tài liệu của cuộc sống rộng lớn, từ rất nhiều các sự kiện và những cuộc tiếp xúc, tôi muốn lựa chọn ra cái gì là thực chất và quan trọng nhất có thể nói lên thật xứng đáng sự vĩ đại của những sự nghiệp và thành tựu của nhân dân ta”.

Ông mất năm 1974, hưởng thọ 79 tuổi.

Nguyên soái G.K.Zhukov (1896-1974) là danh tướng kiệt xuất, Phó Tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang Liên Xô trong đại chiến II (I.V.Xtalin là Tổng tư lệnh) 4 lần Anh hùng Liên Xô..., người trực tiếp chỉ huy nhiều mặt trận Leningrad (1941), Moscow (1941-1942), Stalingrad (1942-1943), Vòng cung Kursk (1943), Berlin (1945)..., qua bao thăng trầm vẫn sống mãi trong lòng nhân dân Nga và bạn bè trên thế giới.

Thứ Năm, 10 tháng 5, 2012

>> Tại sao Mỹ muốn máy bay ném bom mới? (kỳ 1)

Từ nhiều năm nay, Mỹ đã nỗ lực phát triển máy bay ném bom tầm xa mới. Với năng lực chống tiếp cận ngày càng cao của Trung Quốc, Mỹ thực sự cần phương tiện này.


Nhiều năm qua, Không quân Mỹ đã nỗ lực phát triển một loại máy bay ném bom tầm xa mới để trẻ hóa đội hình đang có sự phục vụ của B-52, B-1 và B-2 từ những năm 1960, 1980 và 1990.

Cùng với đó, sự trỗi dậy của sức mạnh quân sự Trung Quốc thúc bách lực lượng này đạt được khả năng tấn công các mục tiêu được phòng vệ nghiêm ngặt trong lãnh thổ Trung Quốc từ các căn cứ Mỹ ở Thái Bình Dương.


http://nghiadx.blogspot.com
Trung Tướng David Deptula

Tuy nhiên, thiết kế cơ bản của ý tưởng “Máy bay ném bom thế hệ mới” ngày càng trở nên phức tạp và đắt đỏ, với mức giá lên đến hàng tỷ USD cho mỗi thiết kế. Vì vậy, cựu Bộ trưởng Quốc phòng Robert Gates đã hủy dự án này vào năm 2009.

Tuy nhiên, Không quân Mỹ vẫn ấp ủ “hồi sinh” dự án này. “Máy bay ném bom tấn công tầm xa mới” có thể sẽ bớt phức tạp hơn, do đó, rẻ hơn so với “Máy bay ném bom thế hệ mới”, chỉ 550 triệu USD và bắt đầu sản xuất từ năm 2020.

Quốc hội Mỹ đã tán thành đầu tư 300 triệu USD ban đầu từ cuối năm 2011. Nhưng "án chém" vẫn lơ lửng với lời đe dọa từ Lầu Năm Góc, theo đó, dự án sẽ bị hủy nếu tổng chi phí vượt quá 55 tỷ USD.

Lockheed Martin, Boeing và Northrop Grumman sẽ cạnh tranh để giành bản hợp đồng này, và chi tiết vẫn nằm trong vòng bảo mật.

Liên quan đến vấn đề này, The Diplomat đã có cuộc phỏng vấn Trung tướng David Deptula người tán thành kế hoạch máy bay ném bom chiến lược mới.

Dưới đây là nội dung cuộc phỏng vấn:

- Tại sao lại là bây giờ? Tại sao, trong thời kỳ cắt giảm chi tiêu quốc phòng, Lầu Năm Góc lại cho phép phát triển, chế tạo một loại máy bay ném bom mới? Điều gì thay đổi khiến chương trình máy bay ném bom trở thành ưu tiên hàng đầu như vậy?

- Nói một cách đại thể, không có gì thay đổi. Nhu cầu có một loại máy bay ném bom mới không phải là mới. Bản báo cáo Quốc phòng bốn năm một lần (QDR) năm 2001 đã nhấn mạnh các thách thức đối với sức mạnh Mỹ, gồm: khả năng xảy ra một cuộc tấn công bất ngờ có thể ngăn chặn các lực lượng Mỹ không triển khai được tại các điểm chiến sự trong thời gian cho phép; sự khan hiếm các cơ sở của Mỹ trong phạm vi gần với các điểm chiến sự tại châu Á; sự nổi lên của các “thế lực” chống tiếp cận có thể chặn Mỹ không tiếp cận được với các trụ sở, các căn cứ không quân và hải quân ở nước ngoài. Thêm vào đó, một số đối thủ tiềm tàng ẩn chứa năng lực chiến lược lớn, có thể giấu các hệ thống chống tiếp cận di động.

Để đối phó với điều này, QDR 2001 cho rằng chúng ta nên phát triển và rèn luyện “các khả năng tiến hành giám sát liên tục, tấn công chính xác và triển khai quân ở mọi trình độ trong các khu vực hạn chế”, liệu điều này ám chỉ điều gì khác ngoài một loại máy bay ném bom tàng hình mới?

QDR 2006 nhắc lại những thách thức trên đối với dự án tăng cường sức mạnh và đặc biệt kêu gọi Mỹ “phát triển khả năng tấn công tầm xa sắc xảo, neo đậu trên đất liền đến năm 2018, đồng thời hiện đại hóa lực lượng máy bay ném bom hiện tại”.

QDR 2010 kêu gọi mở rộng năng lực tấn công tầm xa của Mỹ, gồm những lựa chọn cho “giám sát tầm xa và máy bay tấn công như một phần của kế hoạch hiện đại hóa lực lượng ném bom một cách toàn diện, theo từng giai đoạn”.

Bản Hướng dẫn Chiến lược Quốc phòng tháng 1/2012 rất phù hợp với logic của Bộ Quốc phòng Mỹ 12 năm trước, qua hai đời Tổng thống và ba Bộ trưởng Quốc phòng, đã thấy được sự cần thiết phải phát triển một loại máy bay ném bom mới.

Bản hướng dẫn một lần nữa nhấn mạnh các thách thức hiện tại, các mối đe dọa chống tiếp cận và khoảng cách bởi các thế lực chống Mỹ, chắc chắn, môi trường chiến lược không trở nên ôn hòa hơn kể từ năm 2001.

Bản hướng dẫn lặp lại lời kêu gọi về việc phát triển một loại máy bay ném bom tàng hình nhằm vượt qua các thách thức trên.

Tầm quan trọng về chính trị và kinh tế của khu vực châu Á-Thái Bình Dương tiếp tục gia tăng. Hiển nhiên, diện tích tại châu Á rất rộng lớn, các căn cứ được đảm bảo của Mỹ tại đây khá ít và kẻ địch tiềm tàng lại có trong tay các hệ thống chống tiếp cận hiện đại.

Vì vậy, để có một vị thế quân sự hiệu quả trong khu vực, chúng ta cần tái cân bằng danh mục vốn đầu tư quân sự như bản hướng dẫn đã chỉ ra, nhắm vào các hệ thống đáp trả cao, tầm xa như máy bay ném bom tàng hình.

Có người cho rằng, khủng hoảng tài chính hiện thời và việc cắt giảm chi tiêu quốc phòng khiến dự án này trở nên “quá sức”. Cách thức làm ăn cũ, chậm chạp xây dựng một số lượng “khủng” các lực lượng trên mặt đất, không còn hiệu quả trong môi trường ngân quỹ bị gò bó, vì họ không thể hỗ trợ các khái niệm hành động mới của Lầu Năm Góc như học thuyết không-hải chiến và khái niệm tiếp cận hoạt động chung.

Nếu chúng ta chỉ đơn giản giảm những gì chúng ta có trong khi vẫn duy trì sự cân bằng tương đối giữa các dịch vụ quốc phòng thì khả năng vạch ra kế hoạch cho một nguồn sức mạnh mới sẽ khó mà hình thành.

Chúng ta không thể duy trì được sức mạnh ở châu Á nếu sử dụng các phương thức cũ, vì vậy, chúng ta cần thực hiện bằng các cách thức mới, như một loại máy bay ném bom tàng hình chẳng hạn.

- Văn phòng Quản lý và Ngân sách Mỹ (OMB) mới đây khẳng định rằng các máy bay ném bom hiện tại vẫn đủ khả năng thực hiện các nhiệm vụ trong thời gian dài. Liệu điều này đã thay đổi? Hay có phải Bộ Quốc phòng đã phải thuyết phục OMB rằng máy bay hiện tại không còn phù hợp?

Phát ngôn của OMB thực sự là một cái gì đó dị thường: OMB không có năng lực quân sự và không nên nhận định về vấn đề này.

Văn phòng Bộ trưởng Quốc phòng và Lực lượng Không quân kiên định đề đạt từ năm 2006 đến 2009 rằng lực lượng này cần một loại máy bay ném bom mới, tiếp đến từ tháng 4/2009 đến nay, họ cũng đề đạt nguyện vọng này.

Bộ Quốc phòng (DoD) lấy lý do rằng B-1 và B-52 đã “già” và không có chức năng tàng hình, còn B-2 mặc dù có tàng hình lại mới chỉ có một số lượng nhỏ. Chỉ một tháng sau đề xuất ngân sách tháng 4/2009, Bộ trưởng Gates cho biết, ông đang cân nhắc tạo ra máy bay ném bom thế hệ tiếp theo không người lái và tất nhiên ông đã không đề cập đến một loại máy bay ném bom thế hệ mới nếu ông nghĩ rằng những chiếc máy bay ném bom hiện tại vẫn thích hợp để hoạt động trong một thời gian dài tới.

Năm 2010, cả “Thứ trưởng” Không quân Michael Donley và Tham mưu trưởng Không quân Norton Schwartz đều khẳng định rằng, một loại máy bay ném bom tàng hình mới là cần thiết, và Bộ trưởng Gates cho rằng Không quân cần “một loại máy bay ném bom hạt nhân tầm xa mới”, có thể có người lái hoặc không.

Ông cũng cho rằng chúng ta cần bắt đầu dự án này ngay hôm nay để “đảm bảo một loại máy bay ném bom mới có thể sẵn sàng trước khi các phi đội “già nua” đến thời kỳ ngừng hoạt động”.

Rõ ràng, ông Gates đã dừng chương trình từ tháng 4/2009 không phỉa vì không cần một loại máy bay ném bom mới mà vì ông tìn rằng cần xem xét lại về loại máy bay và Không quân Mỹ cần là gì.

Đây là căn nguyên của cái gọi là phương pháp “các hệ thống của gia đình” (FoS), theo đó máy bay ném bom sẽ là “đòn bảy” (thực hiện nhiệm vụ tình báo, giám sát và trinh sát) và hỗ trợ để tăng cường tính hiệu quả hoạt động trong khi giảm thiểu tối đa các yêu cầu chức năng ban đầu, do đó giảm chi phí và các nguy cơ kỹ thuật liên quan đến việc tiếp cận mục tiêu (Khả năng tác chiến ban đầu).

Phương pháp FoS cũng kết hợp chặt chẽ với các phương tiện tấn công tầm xa khác, như máy bay không người lái tấn công ISR tầm xa, có khả năng tự nạp nhiên liệu và vũ khí tầm xa của Lực lượng Không quân (LRSOW), cho phép Mỹ có khả năng tấn công sâu rộng trong bối cảnh “chiến tranh” do thám bền bì trên khắp toàn cầu đang nổi lên hiện nay.

>> Quân đội Mỹ đã đụng độ đặc nhiệm Liên Xô trên chiến trường Việt Nam ?

Với nhiều người Mỹ, vai trò của các cố vấn Liên Xô trong chiến tranh Việt Nam mãi là điều bí ẩn. Bởi họ không tin khả năng của người Việt Nam lẫn sự giúp đỡ tận tình của Liên Xô đối với Việt Nam.



Sự cần thiết của viện trợ và cố vấn Liên Xô

Không lâu sau khi phát-xít Đức đầu hàng ở châu Âu, Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa, đã được công bố thành lập. Sự thành lập quốc gia công nông đầu tiên ở châu Á, dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, về cơ bản đã thay đổi tình hình địa chính trị trong khu vực. Trong khi đó, người Pháp không có ý định rời bỏ khu vực cựu thuộc địa. Không lâu sau một cuộc chiến tranh mới và đẫm máu đã nổ ra.

Quân đội Anh do Tướng Gracie chỉ huy đã tạo điều kiện thuận lợi cho thực dân Pháp quay lại thuộc địa cũ, thay vì hứa sẽ trợ giúp giải giáp quân Nhật. Các nước đồng minh công khai vi phạm các quy định của Hiến chương Đại Tây Dương, trong đó nói rằng, tất cả các nước đã chiến đấu chống lại chủ nghĩa phát-xít sẽ nhận được sự tự do mà họ mong đợi.

Tuy nhiên, vào thời gian này Việt Nam đã cho thấy một sự gia tăng đáng kinh ngạc của tinh thần yêu nước, và thực dân Pháp đã gặp phải sự kháng cự mãnh liệt. Sau thất bại tại Điện Biên Phủ chính phủ Pháp đã buộc phải đồng ý ký Hiệp định Geneva.



http://nghiadx.blogspot.com
Hội nghị Geneva 1954. Ảnh: Internet

Theo sáng kiến của Liên Xô, cuối tháng 4/1954 tại Geneva đã diễn ra lễ ký văn kiện công nhận độc lập của Việt Nam, Lào và Campuchia, và khôi phục hòa bình tại khu vực. Kết quả, Việt Nam tạm ngăn cách bởi ranh giới vĩ tuyến 17.

Nếu như Hồ Chí Minh là nhà lãnh đạo có uy tín thực sự, có sự ủng hộ của đại đa số nhân dân Việt Nam, và được các nước XHCN hỗ trợ, thì Ngô Đình Diệm đơn giản chỉ là con rối tầm thường của phương Tây. Không lâu sau đó Diệm cũng bị mất đi sự ủng hộ vốn rất ít ỏi trong dân chúng và phải đối phó với cuộc chiến tranh du kích quy mô lớn trên toàn lãnh thổ miền Nam.

Những diễn biến nêu trên cho thấy kế hoạch bầu cử dân chủ như đã định tại Hội nghị Geneva sẽ bất lợi đối với phương Tây, bởi chiến thắng của Hồ Chí Minh là không thể đảo ngược. Ngay sau đó Mỹ can thiệp vào tình hình, tuy nhiên một cuộc chinh phục thần tốc đất nước này như ý đồ của Wasington đã không diễn ra.

Lãnh thổ miền Nam của Việt Nam gần như hoàn toàn được bao phủ bởi rừng rậm, tạo điều kiện cho lực lượng du kích dễ dàng ẩn náu. Những hành động quân sự quen thuộc và hiệu quả ở châu Âu, đã không áp dụng được ở đây, trong khi chính quyền miền Bắc cung cấp hỗ trợ đáng kể cho du kích địa phương.

Sau sự cố “Vịnh Bắc Bộ” Không quân Mỹ ném bom miền phá hoại Bắc Việt Nam. Những “Bóng ma màu đen” (Phantom) dội từng đợt bom xuống Hà Nội, phá hủy các mục tiêu quân sự và gây tác động tâm lý lớn đối với dân chúng. Lúc này hệ thống phòng không ở miền Bắc gần như không có, và người Mỹ nhanh chóng cảm thấy đắc ý khi không bị trừng phạt vì những tội ác.

Trong bối cảnh như vậy sự giúp đỡ từ phía Liên Xô cần phải tiến hành ngay không chậm trễ.

Người Mỹ đinh ninh giao chiến với Quân đội Liên Xô

Ngoài vũ khí, Liên Xô còn gửi đến Việt Nam cả những chuyên gia giỏi trong các lĩnh vực quân sự cũng nhưng dân sự. Điều này làm người Mỹ lo ngại thực sự.

Để minh họa cho sự lo ngại đó, các nhà làm phim Mỹ đã thực hiện bộ phim "Rambo". Trong đó, các đạo diễn Mỹ đã "đưa ra ánh sáng" những trận chiến khốc liệt giữa các "anh hùng" của họ và "những tên côn đồ khét tiếng" của lực lượng đặc biệt Nga. (*)

Trên thực tế, các chuyên gia và cán bộ Liên Xô có mặt ở miền Bắc Việt Nam chủ yếu tham gia đào tạo sĩ quan Việt Nam và dạy cách sử dụng vũ khí trang thiết bị quân sự của Liên Xô.

Trái ngược với mong đợi của người Mỹ, mà theo dự báo của họ, công việc đào tạo của chuyên gia Liên Xô đạt được kết quả phải mất ít nhất một năm. Người Việt Nam chỉ mất 2-3 tháng đã có thể làm chủ trang thiết bị quân sự do Liên Xô viện trợ và sử dụng các vũ khí mới đó chống lại người Mỹ.

Điều này dẫn đến sự nghi ngờ lớn trong quân đội Mỹ, họ cho rằng chuyên gia Liên Xô tham trực tiếp vào cuộc chiến, và rằng những phi công đối phương đang đối đầu với họ trên bầu trời không phải là những người Việt Nam mà là những phi công Xô-viết.

http://nghiadx.blogspot.com
Nhóm chuyên gia Liên Xô sang Việt Nam năm 1966. Ảnh: Internet

http://nghiadx.blogspot.com
Chuyên gia Liên Xô và các học viên Việt Nam. Ảnh: Internet

http://nghiadx.blogspot.com
Các chuyên gia Liên Xô xem xét mảnh vỡ máy bay B-52 bị bắn rơi ngày 23/12/1972 trên bầu trời Hà Nội. Ảnh: Internet

Không thể phủ nhận rằng người Mỹ có lý do để không tin tưởng vào sự đảm bảo của Liên Xô rằng, các chuyên gia quân sự chỉ làm nhiệm vụ cố vấn. Thực tế là phần lớn dân số của miền Bắc Việt Nam vừa mới được xóa mù chữ. Những khó khăn kinh tế thời hậu chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất hạ thấp thể lực của đa số dân chúng. Ngay cả sức lực tối thiểu của sự chịu đựng và sức mạnh ở nam giới bình thường cũng yếu. Theo đánh giá, thanh niên chỉ có thể cầm cự được trong vòng 10 phút chiến đấu với kẻ thù. Về kỹ năng trong việc thử nghiệm trên máy móc hiện đại là hoàn toàn không có.

Tuy nhiên, cần nhớ rằng, có hơn 10.000 người Việt Nam được gửi sang Liên Xô đào tạo quân sự và kỹ thuật-công nghệ quân sự hiện đại. Theo các đánh giá khác nhau, viện trợ hữu nghị cho Việt Nam tiêu tốn của ngân sách Liên Xô từ 0,5-2 triệu USD/ngày.

Đứng trước nhiều khó khăn này, trong năm đầu tiên của cuộc đối đầu bằng không quân miền Bắc Việt Nam (1964-1965) đã tiêu diệt một phần lớn số máy bay quân sự của Mỹ. Máy bay MiG đã giành được khả năng cơ động cao hơn trước những “bóng ma” huyền thoại của Không quân Mỹ, họ đã tấn công chớp nhoáng gây thiệt hại vào đội hình bay của quân đội Mỹ và trốn tránh thành công sau vụ tấn công.

Hệ thống phòng không là thách thức thật sự với Không quân Mỹ vì chúng được đặt dưới vỏ bọc của rừng rậm nhiệt đới, do đó, phần lớn máy bay ném bom Mỹ đã bị bắn rơi. Ngoài ra, công tác tình báo đã hoạt động thành công, thông báo kịp thời và trước thời hạn về những phi vụ xuất kích của máy bay đối phương.

Người Mỹ đánh giá, toàn bộ hệ thống phòng không của miền Bắc Việt Nam khi đó không cho phép bất kỳ máy bay tiêm kích nào qua mặt, đã được Liên Xô xây dựng, thông qua các cố vấn Liên Xô.

Đúng là đối với những cố vấn Liên Xô, những tháng đầu tiên ở Việt Nam là vô cùng căng thẳng. Điều kiện khí hậu khác nhau, xuất hiện các căn bệnh lạ, côn trùng gây phiền nhiễu không phải là vấn đề chính trong thực hiện nhiệm vụ của họ. Việc đào tạo các đồng chí Việt Nam không hiểu tiếng Nga diễn ra bằng cách “cầm tay chỉ việc”, bời vì không phải lúc nào cũng có sự giúp đỡ của thông dịch viên, một lực lượng thiếu hụt nghiêm trọng vào thời điểm đó.

Tuy nhiên, các chuyên gia Liên Xô không trực tiếp tham gia chiến đấu, vì họ có số lượng rất ít, và có "giá trị lớn" và không được phép đem ra đánh đổi trong bất kỳ trận chiến nào. Theo hồi ký của các cựu Liên Xô, họ thậm chí không có vũ khí cá nhân của mình.

Bên cạnh đó, Bộ Chỉ huy Mỹ nghiêm cấm việc bắn tàu và phương tiện vận tải của Liên Xô, bởi hành động như vậy có thể kích động một cuộc Chiến tranh thế giới thứ ba. Số vũ khí phòng không kể trên đến được với Hà Nội cũng là một kỳ tích, bởi trên suốt quá trình vận chuyển đã phải trải qua các vụ đánh bom ác liệt của Không quân Mỹ và cả sự dòm ngó của Trung Quốc.

Xua tan những nghi ngờ

Có ý kiến cho rằng, Liên Xô đã viện trợ cho Hà Nội những vũ khí đã lỗi thời. Điều này hoàn toàn là bịa đặt. Theo ý kiến của ông Nikolay Koliesnik, cựu trưởng đoàn chuyên gia Liên Xô tại Việt Nam, Chủ tịch Hiệp hội các cựu chiến binh Nga trong chiến tranh Việt Nam, những máy bay tiêm kích hiện đại nhất MiG-21 và cả hệ thống tên lửa đất đối không Dvina - những vũ khí, mà theo xác nhận của chính người Mỹ, ở thời điểm đó là đáng sợ nhất hành tinh.

Ông Kolesnik cũng đặc biệt nhấn mạnh trình độ chuyên môn cao của các chuyên gia Liên Xô được gửi sang Việt Nam, đồng thời cũng đánh giá cao tính kiên trì của người Việt trong việc học tập làm chủ vũ khí cũng như nắm vững khoa học quản lý nhanh nhất có thể.

Trong chiến tranh chống Mỹ Liên Xô đã viện trợ cho Việt Nam nhiều xe tăng các loại từ T-34 đến T-54. 2.000 xe tăng, 700 máy bay cơ động, 7.000 súng cối, cùng hơn 100 trực thăng và đã được Liên Xô chuyển giao cho Hà Nội, như là một nguồn viện trợ không hoàn lại và hữu nghị với Việt Nam.

http://nghiadx.blogspot.com
Xe bọc thép BTP-60PB được Liên Xô viện trợ.

http://nghiadx.blogspot.com
Pháo tự hành Su-100 quân đội Việt Nam nhận viện trợ từ Liên Xô

http://nghiadx.blogspot.com
Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử quân đội Việt Nam lần đầu tiên đã được Liên Xô viện trợ tổ hợp phòng không tự hành Su-23-4-Shilka mới nhất và hiện đại nhất thế giới vào thời điểm đó.

Chính quyền Mỹ biết rõ có sự giúp đỡ quân sự của Liên Xô cho miền Bắc Việt Nam, nhưng tất cả các chuyên gia, gồm cả chuyên gia quân sự, đều bắt buộc phải mặc trang phục dân sự, tất cả giấy tờ tùy thân của họ đều bị giữ lại ở Đại sứ quán Liên Xô tại Hà Nội, và cả đích đến cuối cùng của “chuyến công tác” của mình, họ cũng chỉ được biết vào phút chót. Yêu cầu về tính bí mật được người ta giữ kín cho đến khi chuyên gia Liên Xô rút khỏi Việt Nam, số liệu chính xác và tên tuổi của những người tham gia đã không được tiết lộ cho đến thời gian gần đây.

Ngày nay, Liên bang Nga như là người thừa kế trực tiếp của Liên Xô, đang tích cực xây dựng và củng cố mối quan hệ với Việt Nam. Bối cảnh chính trị đã thay đổi khác nhiều so với trước kia, tuy nhiên người dân Việt Nam vẫn giữ tình cảm biết ơn các cố vấn Liên Xô, còn những nhân vật của cuộc chiến bí mật đó luôn tự hào về sự tham gia của họ.

(*) Tất cả sự sợ hãi trước những người lính đặc nhiệm Liên Xô được tập trung thể hiện trong bộ phim "Rambo", như một cách để thuyết phục các chính trị gia Mỹ về cái gọi là "sự dính líu của Liên Xô ở Việt Nam". Thế nhưng, nếu tính ra, số quân nhân Liên Xô đến Hà Nội chỉ bằng khoảng 6/1.000 so với quân số Mỹ (chưa kể thêm 4.000 nhân viên gắn mác dân sự ở Nam Việt Nam). Rõ ràng sự sợ hãi được đề cập trong bộ phim "Rambo" chỉ là sự phóng đại.

Chưa có sự xác nhận chính thức nào của các bên về việc có hay không sự hoạt động của các toán lính biệt kích đặc nhiệm Liên Xô chống lại Quân đội Mỹ ở Nam Việt Nam. Trong khi trên một số mạng của Nga cũng có đề cập đến một số hoạt động của lực lượng biệt Liên Xô ở đây, tuy nhiên lượng thông tin rất ít ỏi. Đó là chiến dịch đánh cắp 1 trực thăng Mỹ Cobra tại Khe Sanh năm 1962 và một số hoạt động ở khu vực Tây Ninh.

Nếu tin vào những câu chuyện huyễn hoặc về những người Bolshevik với súng máy, ẩn nấp trong rừng rậm và tấn công lực lượng dân sự Mỹ ở miền Nam Việt Nam, ngày càng được phổ biến ở Hoa Kỳ, thì có thể kết luận rằng chỉ có 10.000 hay 11.000 binh sĩ Liên Xô chiến thắng trước đội quân nửa triệu người của Mỹ?

>> Xe bọc thép 'tàng hình đầu tiên' : 2T Stalker

Trong khi các nước tiên tiến Anh - Mỹ loay hoay nghiên cứu xe tàng hình, năm 2000 công ty Minotor Belarus đã trình làng xe bọc thép trinh sát tàng hình 2T Stalker.

Trong khi các loại máy bay, tàu chiến bước đầu đạt được bước đột phá trong công nghệ tàng hình, trên mặt đất xe tăng – thiết giáp đang chập chững tìm hướng đi phù hợp nhằm che mắt đối phương, nhất là trong bối cảnh, hệ thống phòng vệ xe tăng phát triển một, vũ khí chống tăng phát triển mười.

Một số quốc gia đã đưa ra một số giải pháp tàng hình xe như Anh (>> chi tiết), Mỹ (>> chi tiết) nhưng mới chỉ dừng ở mức độ nghiên cứu nhất định, nguyên mẫu thử nghiệm, chứng minh độ khả thi vẫn chưa được thực hiện.

Ở Đông Âu, từ năm 2000, Công ty Minotor Belarus phối hợp các cơ quan nghiên cứu vũ khí Nga đã giới thiệu mẫu thử nghiệm xe bọc thép trinh sát 2T Stalker.

Loại xe này chủ yếu dùng trong hoạt động thọc sâu vào hậu phương địch giám sát cả ngày và đêm, chuyển các dữ liệu tình báo kịp thời cho các cơ quan cấp trên, các đơn vị cấp dưới và đơn vị bạn.




http://nghiadx.blogspot.com
Xe bọc thép trinh sát tàng hình 2T Stalker.


Đặc biệt để lẩn trốn

2T Stalker thiết kế với phần giáp trước chống đạn pháo 30mm. Các bộ phận còn lại bọc giáp chống đạn 14,5mm. Lớp giáp này vẫn còn quá mỏng manh đối với vũ khí chống tăng, trong khi Stalker phải thực hiện nhiệm vụ đặc biệt nguy hiểm xâm nhập vào vùng địch. Vì vậy, chiếc xe được ứng dụng kỹ thuật tàng hình tiên tiến giúp nó giảm đáng kể tín hiệu quang học, radar, hồng ngoại và âm tần so với các loại xe thiết giáp khác cùng cấp.

Xe được phủ một lớp sơn đặc dụng hấp thụ bức xạ sóng điện từ làm giảm khả năng xe bị bị radar phát hiện. Trong quá trình thử nghiệm, 2T Stalker chứng minh sự ưu việt, cùng một hệ thống radar phát hiện xe tăng T-72 từ cự ly 6km thì phải đặt gần 1km 2T Stalker mới chịu lộ diện.

Ngoài ra, để giảm tiếng ồn, xe thiết kế với cơ cấu treo khí lỏng chủ động và các bộ phận giảm sóc do máy tính điều khiển.

So với T-72, tín hiệu tạp âm của Stalker chỉ bằng 1/6. Khi xe chạy với tốc độ 60-70km/h, ở cự ly 300-400m mới có thể nghe được tiếng chạy, đó là mức âm thanh ít nhất trong các loại xe bánh xích.

Về việc “ẩn giấu” tín hiệu nhiệt, hệ thống thải khí của xe được thiết kế hợp lý, chỉ có thể cảm nhận được khí nóng phả từ xe ra trong phạm vi hẹp.

http://nghiadx.blogspot.com
Xe bọc thép tàng hình 2T Stalker tiên tiến, hiện đại nhưng yểu mệnh.

Hỏa lực hiện đại

2T Stalker trang bị pháo 30mm, súng phóng lựu tự động AGS-17 cỡ 40mm (166 viên) và súng máy đồng trục cỡ 7,62mm.

Pháo tự động 2A42 30mm có khả năng tiêu diệt xe bọc thép hạng nhẹ, trực thăng đối phương.

Đặc biệt, trên tháp pháo còn được trang bị thêm các giá phóng hai tên lửa chống tăng có điều khiển AT-6 và 2 tên lửa đối không SA-18. Khi hành quân, giá phóng tên lửa gấp gọn vào trong tháp pháo.

Sức mạnh hỏa lực của 2T Stalker được coi là khá mạnh, nhưng điểm đặc biệt lại nằm ở hệ thống phát hiện mục tiêu tiên tiến. Chiếc xe được trang bị thiết bị quét và đối kháng vô tuyến điện, sensor âm thanh, thiêt bị trinh sát quang – điện tầm xa thụ động.


Pháo 30mm, tên lửa đối không SA-18 (trái) và tên lửa chống tăng AT-6 (phải).

Trong đó, thiết bị quét và đối kháng vô tuyến điện có thể giám sát, ghi lại các thông tin vô tuyến của địch phát ra và tiến hành gây nhiễu nguồn phát.

Còn các sensor âm thanh được bố trí để phát hiện âm thanh con người, tiếng ồn động cơ. Đối với vũ khí hạng nặng, kíp xe căn cứ vào âm thanh phát ra qua đó phán đoán phương vị và cự ly.


Hệ thống trinh sát quang – điện tầm xa thụ động lắp trên cần xe kiểu ống lồng, độ nâng hạ tối đa 6m, tiện cho xe ẩn nấp để quan sát.

2T Stalker còn được trang bị hệ thống định vị giúp cho kíp xe xác định chính xác vị trí của mình và mục tiêu, độ chính xác trong vòng 15m.

Với vai trò xe trinh sát, 2T Stalker còn có hệ thống tình báo điện tử có thể thu nhận và xử lý một số lượng lớn thông tin tình báo rồi chuyển những số liệu đó qua chuỗi số liệu dung lượng cao, bí mật truyền đến các bộ chỉ huy tác chiến.

Tuy hiện đại, nhưng số phận của 2T Stalker hẩm hiu khi nó không được bất kỳ một quốc gia nào quan tâm, thậm chí kể cả Quân đội Belarus không mặn mà đối với xe thiết giáp này.

Thông số kỹ thuật

Kíp lái: 5 người (lái xe, pháo thủ, trưởng xe và 2 lính trinh sát)
Nặng: 27,4 tấn
Kích thước (dài x rộng x cao): 7,77m x 3,38m x 2,5m
Vũ khí:
- Pháo tự động 2A42 30mm (500 viên)
- 2 tên lửa chống tăng AT-6 (6 quả dự trữ)
- 2 tên lửa đối không SA-18
- 1 súng máy đồng trục 7,62mm (2.000 viên)
- 1 súng phóng lựu 30mm (166 viên)
- Mìn chống tăng (12 quả)
Động cơ diesel 740 mã lực (tốc độ 95km/h, tầm hoạt động 1.000km).

>> Giương oai gần bờ

Các loại tàu chiến tốc độ cao, hoạt động ở vùng biển gần bờ có nhiệm vụ chống tàu ngầm, phát hiện ngư lôi, trinh thám, thu thập tin tức tình báo, phối hợp tác chiến…


Vừa qua, hãng Reuters dẫn lời Đô đốc Jonathan Greenert, chỉ huy tác chiến Hải quân Mỹ, cho biết nước này sẽ điều “những tàu tuần duyên (LCS) mới nhất” tới đồn trú ở Singapore và trong vài năm tới có thể là Philippines, sau quyết định luân chuyển 2.500 lính thủy đánh bộ tới Darwin (Australia).

Quân bài tẩy đang dần lộ diện khi Mỹ tăng cường sử dụng các tàu chiến cỡ nhỏ, khả năng cơ động cao để án ngữ những tuyến hàng hải chiến lược ở Đông Á.

Kỳ 1: Giương oai gần bờ

Triển khai kế hoạch đầy tham vọng trị giá 30 tỉ đô la, hiện Hải quân Mỹ đã đưa vào biên chế 2 tàu tuần duyên thế hệ mới là USS Freedom (LCS-1) và USS Independence (LCS-2). Tàu USS Fort Worth (LCS-3) đang được đóng, và dự kiến được đưa vào biên chế năm 2012.

Nhanh, ẩn, áp sát bờ

Để có thể hoạt động ở vùng nước nông, kể cả là trên sông, thiết kế của tàu tuần duyên có đôi chút khác biệt. So với tàu chiến thông thường, lườn tàu tuần duyên thấp hơn, không sử dụng chân vịt và bánh lái, mà dùng ống hơi nước điều khiển để lái tàu, giúp tàu dễ dàng vào sát bờ.

Với đặc thù nhiệm vụ, tốc độ của tàu tuần duyên là yếu tố được các nhà thiết kế rất quan tâm. Tàu Freedom do hãng Lockheed Martin đóng sử dụng 2 động cơ Fairbanks Morse Colt-Pielstick 16PA6B STC chạy bằng diesel. Tốc độ tối đa của tàu là hơn 74km/h.

Trong khi đó, hãng General Dynamics đã sử dụng thiết kế tàu chiến 3 thân cho Independence. Sử dụng 2 turbine khí, 2 động cơ dầu diesel MTU Friedrichshafen 8000 Series, 4 động cơ phản lực nước Azimuth thruster, 4 máy phát diesel, vận tốc trung bình của Independence là 40 knot (tương đương 74 km/h). Nhưng khi cần, Independence có thể vươn lên tốc tối đa khoảng 50 knot (90 km/h), với tầm hoạt động tối đa đạt 19.000 km.


http://nghiadx.blogspot.com
Tàu tuần duyên USS Freedom (LCS-1).

Cả 2 loại tàu này đều có khoang chứa máy bay lớn gấp 1,5 lần khoang chứa trên tàu chiến tiêu chuẩn. Independence có đủ chỗ cho 2 trực thăng MH-60 Seahawks, hoặc 1 chiếc trực thăng СН-53/МН-53 và 3 trực thăng không người lái UAV loại MQ-8 Fire Scout, tàu ngầm không người lái... Máy bay trên tàu có thể cất cánh trong điều kiện biển động cấp 5.

Ngoài ra, tàu còn có khả năng thu-phóng xuồng máy tốc độ cao chỉ trong vòng 15 phút ở điều kiện biển động cấp 4. Để thực hiện nhiệm vụ trinh thám, thiết kế phần thân tàu của Freedom và Independence dựa theo nguyên tắc tàng hình với bề mặt phẳng và góc nghiêng lớn.

Đa dạng về vũ khí

LCS được coi là đối thủ “đáng gờm” trên biển một phần cũng bởi hệ thống vũ khí được trang bị trên tàu. Freedom và Independence được trang bị vũ khí giống hệt nhau.

Tàu tuần duyên thường có gắn ụ pháo BAE Mk110 57mm, do hãng Bofors chế tạo dựa trên nguyên mẫu của khẩu Bofors 57 Mk3, với tốc độ bắn 220 vòng/phút, tầm xa là 17 km. Pháo Mk110 có thể sử dụng để tiêu diệt các mục tiêu ngầm, nổi và trên không. Đạn pháo Mk295 gồm kíp nổ đã được lập trình, 8000 mảnh đạn làm từ vonfram và 420 gr chất nổ dẻo. Ngay trước khi được bắn ra, kíp nổ đã được lập trình sẵn trong ụ pháo.

Ụ pháo được nối với hệ thống điều khiển khai hỏa, có khả năng lựa chọn mục tiêu. Với sơ đồ này, một quả đạn pháo Mk 295 có thể thay thế cho vài loại đạn khác nhau, dùng cả cho mục tiêu trên không, trên biển và trên đất liền.

http://nghiadx.blogspot.com
Hệ thống tên lửa đối không RIM-116.

Ngoài ra, tàu còn được trang bị súng máy 12,7mm, bệ phóng tên lửa hải đối không tầm ngắn Raytheon RIM-116 để bảo vệ tàu trước những cuộc tấn công của tên lửa hành trình đối hạm. tổ hợp pháo phòng thủ tầm gần MK 15 Phalanx lắp pháo 6 nòng cỡ 20mm (tốc độ bắn 4.500 phát/phút) dùng để tiêu diệt tên lửa chống hạm, máy bay cánh cố định.

LCS còn từng dự định trang bị hệ thống tên lửa "tương lai" XM501, tuy nhiên dự án này đã hủy bỏ đầu năm 2011. XM501 sử dụng 2 loại tên lửa: LAM và PAM Mk31.

Câu hỏi còn để ngỏ

Freedom dùng hệ thống điều khiển thông tin tác chiến COMBATSS-21, được kết nối với các thiết bị hiển thị và hệ thống vũ khí trên tàu. Các mục tiêu trên không và mặt nước được hiển thị trên màn hình nhờ trạm radar 3 phối hợp TRS-3D và trạm quang điện với kênh hồng ngoại.

Để hiển thị những mục tiêu ngầm, Freedom sử dụng trạm thủy âm học đa chức năng kết hợp cùng ăng-ten và hệ thống dò mìn tự động. Để làm nhiễu radar đối phương bằng những dải tần vô tuyến điện và hồng ngoại, Freedom sử dụng trạm phát sóng SKWS do hãng Terma A/S của Đan Mạch sản xuất.

Hãng General Dynamics chọn hệ thống điều khiển thông tin tác chiến ICMS với thiết kể mở của hãng Northrop Grumman để trang bị cho Independence.Trạm radar Hươu cao cổ biển (Sea Giraffe), trạm quang điện AN/KAX-2 và radar dẫn đường "Bridgemaster-E" được sử dụng để hiển thị mục tiêu nổi và truyền hiệu lệnh. Trạm tác chiến điện tử ES-3601, 3 trạm Super RBOC và 2 trạm "Nulka" sử dụng để tạo bẫy giả và làm nhiễu radar đối phương. Với những mục tiêu dưới nước, Independence dùng hệ thống dò và hiển thị ngư lôi SSTD.

Dù giá thành không hề “dễ thở” (khoảng 550-600 triệu USD), nhưng đây vẫn sẽ là mẫu tàu tuần dương tương lai của Hải quân Mỹ. Tuy nhiên, khả năng phòng không của các tàu tuần duyên kể trên khi không có sự yểm trợ từ tàu khu trục lớp DD(X) vẫn còn là một câu hỏi bị bỏ ngỏ.


Thứ Tư, 9 tháng 5, 2012

>> Quân cảng Cam Ranh, điều ít biết

Hơn 10 năm trước, ngày 4/5/2002, những người lính Nga cuối cùng đã bước chân lên tàu Xakhalin từ biệt căn cứ Cam Ranh, sau gần 25 năm có mặt tại nơi này.



>> Binh pháp Hải quân Việt Nam (Kỳ 1)


Cam Ranh đã được gửi lại cho Việt Nam, như một căn cứ nền tảng để trở nên hùng mạnh. Và dường như cho đến tận bây giờ, phần đông trong số chúng ta không thực sự biết gì nhiều về căn cứ ấy.

Ngày 23/4/2012, khi ba chiến hạm Mỹ cập cảng Tiên Sa, Đà Nẵng để bắt đầu hoạt động giao lưu, trao đổi hải quân “phi tác chiến” với Việt Nam, một hãng thông tấn nước ngoài đã bình luận, nếu các chuyến ghé cảng này được nói một cách công khai, có một khía cạnh hợp tác Mỹ – Việt khác ít được loan báo: Đó là chiến hạm Mỹ đã được gửi đến sửa chữa, bảo trì tại các cảng Việt Nam.

Tàu Hải quân Mỹ đã có lần được gửi đến sửa chữa tại các xưởng đóng tàu Việt Nam. Gần đây nhất, vào năm 2012, chiếc USNS Rappahannock (T-AO-204) đã có chuyến đến bảo trì tại Nhà máy Đóng tàu Cam Ranh.


http://nghiadx.blogspot.com
Cán bộ vùng 4 Hải quân chụp ảnh lưu niệm với sĩ quan thủy thủ tàu khu trục Hải quân Nga tại Cảng Cam Ranh (năm 1982).

Một thông tin thú vị trong không khí biến động thời cuộc không ngừng của Biển Đông, Cam Ranh đã âm thầm phát triển, trở thành một tổ hợp hải quân và không quân hùng mạnh, với các trang bị phương tiện kỹ thuật hiện đại có thể đánh trả mọi đe dọa chiến tranh với Việt Nam, như lời Trung tướng, Viện sĩ A.V Phêđôrôvích nhận xét.

Lời vị Trung tướng hoàn toàn có cơ sở, bởi ông là một trong số những người Xô Viết có mặt ở Việt Nam từ những năm 1980 và ông không xa lạ gì với căn cứ này.

Giới chuyên gia quân sự đã thừa nhận vị trí của Cam Ranh có tầm ảnh hưởng to lớn tới bản đồ địa – chiến lược toàn cầu, cho dù họ có đứng ở các chân trời quan điểm nào đi chăng nữa. Năm 1888, Hải hạm của Nga mang tên “Tráng sĩ” trong chuyến đi vòng quanh thế giới đã cập cảng Cam Ranh, sau đó, nơi đây đã trở thành quân cảng của các nước lớn thay nhau đồn trú trong vòng gần 100 năm trở lại đây. Trong cuộc chiến Nga – Nhật 1905, hơn 100 chiến thuyền thuộc Hạm đội Thái Bình Dương số 2 (Hạm đội Bantic khi làm nhiệm vụ ở Thái Bình Dương) của Hải quân Nga Hoàng đã từng tập trung tại Cam Ranh.

Năm 1935, thực dân Pháp bắt đầu cho xây dựng căn cứ hải quân tại Cam Ranh. Năm 1940, Cam Ranh rơi vào tay Nhật Bản, trở thành bàn đạp để Nhật Bản tiến đánh Malaysia và các quần đảo thuộc địa của Hà Lan (nay là Indonesia).

Ngày 18/10/1946, Cam Ranh là nơi diễn ra cuộc hội kiến giữa Hồ Chủ tịch Hồ Chí Minh và Cao ủy Pháp Dargenlieu. Cuộc gặp gỡ được tổ chức trên thiết giáp hạm Suffren, có các vị chỉ huy hải, lục, không quân Pháp và các nhà báo nước ngoài.

Trong bữa tiệc trên chiến hạm Suffren, khi DArgenlieu bóng gió nói: “Thưa ngài Chủ tịch, ngài thật đang bị đóng trong cái khung”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mỉm cười và trả lời: “Nhưng mà ngài Đô đốc biết đấy, chính bức tranh làm nên giá trị cái khung”. DArgenlieu lại nói: “Chủ tịch thật quen với biển cả, có lẽ xin tặng Người danh hiệu “Người thủy thủ nhỏ” như Quân đội Pháp đã quý mến tặng Napoleon cái tên “Người đội trưởng nhỏ!”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đáp lại: “Phải, người thủy thủ nhỏ của Hải quân Việt Nam”.

Từ năm 1965 đến 1972, Mỹ đã xây dựng Cam Ranh thành một căn cứ quân sự khổng lồ được coi là “bất khả xâm phạm” để làm cứ điểm tiếp liệu và khí tài quân sự cho chiến tranh, đồng thời khống chế hành lang phía tây Thái Bình Dương.

Vào năm 1969, Lyndon B. Jhonson đã đến thị sát căn cứ này, và đó là chuyến thăm đầu tiên của một Tổng thống Mỹ khi tới Việt Nam. Lúc đó, căn cứ không quân của Mỹ ở vịnh Cam Ranh rất lớn, gồm hai sân bay cho máy bay phản lực và một sân bay cho máy bay trực thăng, mỗi sân bay có sức chứa hơn 100 máy bay.

Người Mỹ còn tiến hành khoét núi Cam Ranh, xây dựng kho chứa máy bay trong lòng núi, nâng cấp đường băng lớn có thể cho máy bay ném bom chiến lược B-52 cất và hạ cánh. Vào lúc cao điểm, sân bay quân sự Cam Ranh có tần suất hạ cánh và cất cánh cao nhất thế giới.

Năm 1972, người Mỹ trao lại căn cứ này cho Quân đội Sài Gòn và 3 năm sau Quân đội Nhân dân Việt Nam đã giải phóng Cam Ranh. Khi tiếp quản, Cam Ranh đã bị phá hủy hoàn toàn các bến neo tàu, đường sá, sân bay, hệ thống đường dây tải điện cũng như các khu nhà ở.

Hải quân Liên Xô tại Cam Ranh 1982

Chuẩn đô đốc E.I Prokôpievich, người cuối cùng lên cầu tàu thủy Xakhalin-9 rời Việt Nam năm 2002 trong cương vị Chỉ huy trưởng Trạm cung ứng vật tư kỹ thuật 922 của Cam Ranh nhận định, căn cứ quân sự trước đây của Mỹ trên bán đảo Cam Ranh – Khánh Hòa đã thu hút sự chú ý Liên Xô bằng chính vị trí địa lý của nó, xét về mọi phương diện thì hoàn toàn ưu việt cho việc triển khai một căn cứ hải quân.

Nó cho phép khống chế các eo biển Malaysia và Philippines, có thể tiến hành trinh sát điện tử Biển Đông, biển Philippines, Đông Hải, thậm chí tới tận khu vực vịnh Ba Tư hay vùng bắc Ấn Độ Dương.

Bán đảo Cam Ranh bọc trong mình hai vịnh Bình Ba và Cam Ranh, nơi không chịu ảnh hưởng của các hiện tượng thời tiết, có độ lớn và sâu để có thể neo đậu mọi loại chiến hạm và tàu hộ tống, kể cả tàu sân bay.

Từ những năm 1960 của thế kỷ trước, Hải quân Liên Xô đã vươn ra biển lớn, bắt đầu tiến hành trực ban chiến đấu trên các đại dương. Tàu chiến, tàu ngầm, máy bay hải quân được triển khai trên các đại dương nhằm mục đích bình ổn cục diện chung. Việc mở rộng quy mô cũng như vùng hoạt động của tàu thuyền và không quân trên biển yêu cầu phải có mạng lưới hậu cần kỹ thuật hải quân rộng khắp.

Vì không có căn cứ quân sự ở nước ngoài nên Liên Xô đã xây dựng trạm cung ứng vật tư kỹ thuật trên lãnh thổ các nước có quan hệ thân thiện, đương nhiên Cam Ranh là một điểm sáng tô son. Cuối năm 1978, nhóm sĩ quan đại diện cho các tổng cục của Bộ Tư lệnh Hải quân và của Hạm đội Thái Bình Dương đáp máy bay sang Việt Nam để ngày 30/12 đã thỏa thuận xong và ký biên bản ghi nhớ làm cơ sở đàm phán xây dựng và cùng khai thác Trạm cung ứng vật tư kỹ thuật.

Ngày 2/5/1979, Chính phủ LB CHXHCN Xô Viết và Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam đã ký hiệp định về việc sử dụng Cam Ranh làm Trạm cung ứng vật tư kỹ thuật cho Hạm đội Thái Bình Dương của quân đội Liên Xô – trong 25 năm.

Ngay ngày hôm đó, thi hành lệnh của Bộ tổng tham mưu các lực lượng vũ trang Liên Xô và Chỉ thị số 13/1/0143 của Cục Tham mưu hạm đội Thái Bình Dương ngày 28/8/1980 đã thành lập Trạm cung ứng vật tư kỹ thuật trên bán đảo Cam Ranh mang phiên hiệu đơn vị 31350.

Theo quy định trong Hiệp định, tại quân cảng Cam Ranh cùng lúc có thể tập trung từ 8-10 tàu chiến Liên Xô, 4-8 tàu ngầm có khu neo nổi và tối đa 6 tàu hộ tống. Tại sân bay cùng lúc có thể tiếp nhận từ 14-16 máy bay mang tên lửa, 6-9 máy bay trinh sát do thám và 2-3 máy bay vận tải. Tùy theo tình hình chiến sự cụ thể, số lượng máy bay và tàu chiến có thể tăng lên theo thỏa thuận giữa hai Bộ Quốc phòng Liên Xô và Việt Nam.

Tháng 5/1979, các tàu chiến Liên Xô bắt đầu đi vào hải phận Cam Ranh. Mùa Hè năm đó, tàu ngầm nguyên tử phóng ngư lôi K-45 đã neo đậu tại Cam Ranh, sau đó ít lâu, các máy bay hải quân của hạm đội Thái Bình Dương bắt đầu hạ cánh.

Tháng 12/1979, Tổng tư lệnh Hải quân Liên Xô, Đô đốc X. Gorskốp tới Cam Ranh và ông đã dành hẳn một ngày để quan sát vịnh biển này, giống y như cách Tổng thống Mỹ Johnson đã tới để ngắm nhìn địa thế “sông núi nước Nam” 10 năm về trước.

Phân đội đầu tiên của Hạm đội Thái Bình Dương gồm 54 người đến đây tháng 4/1980 và tháng 8 năm đó quân số được bổ sung thêm 24 người thuộc bộ phận thông tin liên lạc.


http://nghiadx.blogspot.com
Hải quân Liên Xô tại Cam Ranh 1982

Bộ Tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang và Chính phủ Liên Xô đã giao cho Trạm cung ứng vật tư kỹ thuật 922 nhiệm vụ làm giảm nhẹ đáng kể áp lực cho Hạm đội Thái Bình Dương nói riêng và toàn bộ Hải quân Liên Xô nói chung trong việc cung cấp những dự trữ cần thiết cho các chiến hạm và tàu hộ tống đang làm nhiệm vụ tại Biển Đông trong tình hình chiến sự lúc đó của khu vực Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương. Và Cam Ranh trở thành căn cứ hải quân lớn nhất của Liên Xô ở nước ngoài, căn cứ duy nhất bên bờ Biển Đông, nơi cách cảng gần nhất của Nga 2.500 hải lý.

Từ mùa Thu năm 1983 đến tháng 8/1991, hải đoàn cơ động số 17 triển khai tại Cam Ranh, từ tháng 8/1991 đến tháng 12/1991 được thay thế bằng hải đoàn cơ động số 8 và sau đó là hải đội tàu hỗn hợp 119.

Thời điểm năm 1986, trên sân bay triển khai trung đoàn không quân hỗn hợp độc lập gồm 4 máy bay Tu-95, 4 chiếc Tu-142, phi đoàn máy bay Tu-16 khoảng 20 chiếc các loại, phi đoàn MiG-25 khoảng 15 chiếc, hai máy bay vận tải An-24 và 3 máy bay lên thẳng Mi-8. Ngoài ra trung đoàn còn quản lý và chỉ huy căn cứ chống tàu ngầm, tiểu đoàn tên lửa và tiểu đoàn kỹ thuật.

Tháng 2/1984, theo đề nghị của phía Việt Nam, Chính phủ Liên Xô quyết định khôi phục và xây dựng thêm một loạt công trình tại căn cứ Cam Ranh. Việc xây dựng Cam Ranh bước sang một giai đoạn mới, chuyển từ hình thức tự hạch toán kinh tế sang hình thức đấu thầu khoán gọn, bắt đầu giai đoạn xây dựng kiên cố thay cho các kết cấu lắp ghép tạm thời. N.M Zariphôvich – Phó tổng giám đốc Công ty Xây lắp Liên Xô tại Việt Nam giai đoạn 1987-1989 đã kể lại trong cuốn “Liên Xô – một từ không bao giờ quên” (Nguyễn Đình Long dịch) rằng, Cục kỹ thuật xây dựng nước ngoài thuộc Bộ Quốc phòng Liên Xô, đơn vị có nhiều kinh nghiệm xây dựng các công trình ở hơn 60 nước trên thế giới đảm nhiệm việc lựa chọn và đưa chuyên gia đến Cam Ranh. Họ là những chuyên gia tài năng của các đơn vị trong và ngoài quân đội được các tổ chức Đảng, Đoàn giới thiệu, được chở sang bằng đường hàng không qua Moscow hay Vladivostock theo hành trình Moscow – Tasken – Karachi (đôi khi là Bombay) – Kancútta – Hà Nội – Cam Ranh.


Dựng tượng lên bệ ngày 12/11/2009

Trên cơ sở Hiệp định ký giữa Liên Xô và Việt Nam ngày 20/4/1984, hai bên đã ký hợp đồng xây dựng cụm đài radar số ba, là công trình viện trợ không hoàn lại. Tính chung từ năm 1984 đến năm 1987, Tổng Công ty Xây lắp Liên Xô do E.X Bôprênhép làm Tổng giám đốc đã xây dựng tổng cộng 28 nhà ở và công trình chuyên dụng các loại. Lúc đó tổng số người Liên Xô sống trong khu quân sự là 6.000 người, kể cả công nhân xây dựng.

Theo thỏa thuận trong mục 71 của Hiệp định ký ngày 20/4/1984, các công trình xây dựng xong sẽ bàn giao cho phía Việt Nam sử dụng. Các hạng mục đầu tiên được xây dựng xong từ tháng 12/1987, sau đó các chuyên gia Liên Xô bắt đầu sử dụng theo hình thức thuê miễn phí.

Có thể thấy rằng, về cơ bản, các công trình được Liên Xô – Nga xây dựng ở Cam Ranh bao gồm: Khu nhà ở của Trạm cung ứng vật tư kỹ thuật, trong đó có chỉ huy sở đơn vị 31350 và doanh trại cho quân số biên chế của đơn vị, nhà ăn 250 chỗ, lò bánh mỳ, tổ hợp tắm hơi – giặt là, CLB, trường phổ thông số 183, 18 tòa nhà ở, kho tổng hợp lưu giữ và cấp phát vật tư, đội xe (gồm cả xe chuyên dụng); Vùng bến nhỏ; Bể chứa ngầm thể tích 14.000m3 dùng để chứa nhiên liệu; hai hầm lạnh dung tích 270 tấn dùng để chứa thực phẩm lưu trữ; 12 kho khung sắt dùng để chứa các loại vật tư khác nhau; Hai bể lọc giếng khoan, một dùng cho sinh hoạt, một dùng cho chiến hạm và các tàu hộ tống; Trạm phát điện trung tâm công suất 24.000kW cấp điện cho tất cả các công trình thuộc khu quân sự và của Việt Nam trên bán đảo…

Khi từ biệt Cam Ranh, người Nga đã chở đi 588 người, 819 tấn hàng trong đó có 50 chiếc ôtô và xe chuyên dụng, 190 tấn dầu diezel, 133 tấn dầu mỡ các loại, vũ khí đạn dược cũng như tài liệu lưu trữ và tài liệu mật, bằng cả đường hàng không và đường biển. Đồng thời, người Nga bàn giao cho phía Việt Nam 57 tòa nhà và công trình thuộc căn cứ, 85km đường dây tải điện lưới, 62km đường điện cáp, 25km công trình ngầm, 250m cầu cảng, sân bay và hệ thống quản lý kho.

Những người Nga đã sống và làm việc như thế tại Cam Ranh. U.X Ivanôvích, Đại tá quân dự bị, cựu binh Cam Ranh kể lại rằng, cho đến tận năm 1992, khi Liên Xô tan rã, thủ tục ra vào khu quân sự vẫn do phía Việt Nam quy định.

Theo thỏa thuận, mỗi tháng chỉ cho phép 4 chuyến xe đi ra ngoài theo kế hoạch định trước với số lượng người hạn chế, chủ yếu là dành cho thủy thủ Hạm đội Thái Bình Dương. Còn đối với số nhân viên kỹ thuật của Trạm cung ứng vật tư kỹ thuật thì do “nhiều yếu tố” nên ra “vùng tự do” là vi phạm luật. Những người lính Nga đã ra đi, nhưng những hình ảnh của họ còn đọng lại mãi trong lòng nhân dân Việt Nam.

Năm 2007, Hội đồng Xí nghiệp Liên doanh Vietsovpetro đã quyết định xây dựng tượng đài những người lính Nga ở Cam Ranh và đó là tượng đài của tình hữu nghị Việt – Nga.

>> Thông tin mới nhất về cán cân quân sự Iran - Israel

So sánh giữa sức mạnh các lực lượng của Iran và Israel có thể thấy sự khác biệt lớn cả về trang thiết bị, năng lực và số lượng binh sĩ.


>> Các kịch bản xung đột Iran-Israel (kỳ 1)
>> Tiềm lực quân sự của Iran

Iran có số dân nhiều gấp 10 lần Israel để tham gia vào các lực lượng vũ trang nhưng phần lớn trang thiết bị quân sự của nước này lại ở trong tình trạng mơ hồ, không rõ ràng, do lệnh cấm vận được áp dụng từ năm 1979.

Sự kiện quân sự gần đây nhất mà Iran tham gia là cuộc chiến kéo dài một thập kỷ với Iraq trong những năm 1980, sau đó Iran duy trì “học thuyết không tấn công trước tiên”.

David Roberts, Phó giám đốc Viện RUSI cho biết: “Nói chung, không có phân tích bí mật hay nổi trội nào cho thấy Quân đội Israel được trang bị và đào tạo tốt nhất trong khu vực. Tuy nhiên, một số lĩnh vực đã được kiểm chứng. Vì vậy, các lực lượng thông thường của Iran không phải là mối lo ngại đối với Mỹ và các đồng minh. Lực lượng Vệ binh Cách mạng của nước này được trả lương cao hơn và được tổ chức tốt hơn phần còn lại của Quân đội Iran. Lực lượng Quods và khả năng hải quân của họ chưa được biết đến nhiều”.

Ông cũng cho rằng bất kỳ cuộc đối đầu trực tiếp nào giữa Israel và Iran có thể sẽ liên quan đến loại máy bay tầm xa, các vũ khí phòng không, tàu hải quân loại nhỏ và tên lửa đạn đạo.



http://nghiadx.blogspot.com
Căng thẳng giữa Iran và Israel khó giải quyết?

Ông Kamran Bokhari, Phó Chủ tịch Hội hợp tác Đông Á và Trung Đông, cho rằng: “Cách để mô tả cái nhìn của Iran về quân đội Israel là chú ý tới phần địa lý.

Trên bản đồ, Israel có thể không quá xa với Iran nhưng trên thực tế, đây là hai quốc gia thù nghịch và mâu thuẫn nhưng cách xa nhau. Dù Israel có quân đội được đánh giá mạnh hơn nhưng cũng khó có thể triển khai một chiến dịch lâu dài chống lại Iran.

Người Iran biết điều đó và không mấy lo lắng việc Israel sẽ tấn công mình mà dành nhiều quan ngại cho Mỹ, đất nước triển khai lực lượng quân sự ất gần với biên giới Iran.

Số lượng binh sĩ

Quân đội Israel, từng chiến đấu với một số láng giềng, được cấu thành từ các lực lượng quốc phòng Israel (IDF hay Tzahal), Lực lượng Hải quân (IN) và Không quân Israel (IAF). Độ tuổi thực hiện nghĩa vụ quân sự bắt buộc đối với hầu hết công dân là 18 tuổi.

Israel có 176.500 quân nhân đang phục vụ, trong đó có 107.000 lính nghĩa vụ. Hải quân có 9.500 thủy thủ đang làm nhiệm vụ, 34.000 người phục vụ trong lực lượng không quân và tổng lực lượng quân dự phòng là 565.000 người.

Còn Iran được cho là có 523.000 người đang phục vụ trong quân đội, gồm 350.000 người trong bộ binh, trong đó có 220.000 lính nghĩa vụ. Vệ binh Cách mạng Hồi giáo, được cho là lực lượng trung thành nhất với hệ thống lãnh đạo, có thêm 125.000 binh lính.

Những người đàn ông Iran trẻ bắt buộc phải phục vụ 18 tháng trong quân đội khi họ 19 tuổi và những người tình nguyện có thể tham gia khi 18 tuổi. Lực lượng tình nguyện bán quân sự, còn gọi là Basij, tuyển thành viên từ 15 tuổi.

Có nhiệm vụ bảo vệ biên giới đất nước và duy trì trật tự trong nước, Quân đội Iran bao gồm các Lực lượng thường trực Cộng hòa Hồi giáo Iran (Artesh), với lục quân, hải quân, không quân và phòng không.

Vệ binh Cách mạng Hồi giáo gồm lục quân, hải quân, không quân và Quods (lực lượng hoạt động đặc biệt). Iran có tổng cộng 18.000 lính hải quân, 30.000 lính không quân, gồm 12.000 người thuộc đội phòng không.

Dữ liệu quân sự

                                                                                       Iran                                        Israel

Tổng dân số                                                          78,9 triệu                                 7,5 triệu

Nam từ 16-49 tuổi                                    23 triệu                                   1,8 triệu

Các lực lượng đang hoạt động            545,000                                  187,000

Lực lượng phòng bị                               650,000                                   565,000

Ngân sách quốc phòng                         9.2 tỷ USD                               13.5 tỷ USD


http://nghiadx.blogspot.com
Bảng so sánh giữa quân đội Iran và Israel.


Xe tăng, tàu chiến và máy bay

Quân đội Israel có hơn 3.000 xe tăng, gồm 441 Merkava MkI,455 Merkava MkII, 454 Merkava MkIII, 175 Merkava MkIV và 206 mẫu Centurion.

Theo Reuters, Quân đội Israel cũng có khoảng 10.484 xe chiến đấu bộ binh chở quân và 5.432 khẩu pháo, gồm 620 khẩu cơ giới hóa và 456 khẩu pháo kéo.

Theo báo cáo, Quân đội Iran có 1.613 xe tăng, gồm 100 xe Zulfiqar sản xuất trong nước, 100 chiếc mẫu Chieftain Mk3 và Mk5 do Anh sản xuất đã lâu, có từ trước cách mạng năm 1979, cùng 150 chiếc M-60A1s của Mỹ và 480 chiếc T-72, 540 T-54/T-55 của Liên Xô.

Tehran cũng có khoảng 640 xe chiến đấu bộ binh, 8.196 khẩu pháo, trong đó 800 khẩu cơ giới hóa và 2.010 khẩu pháo kéo.

Hải quân Israel có ba tàu ngầm Dolphin (theo phiên bản 212 của Đức) được cho là có trang bị vũ khí hạt nhân, giúp Israel có khả năng tấn công xa bờ, cùng với 57 tàu tuần tra và chiến đấu bờ biển và ba tàu hộ tống nhỏ.

Trong khi đó, Iran có một hạm đội tàu hải quân “hoành tráng” hơn rất nhiều, gồm 23 tàu ngầm, trong đó có 15 tàu tấn công tầm ngắn, 3 tàu ngầm tấn công điện-diesel loại 877 lớp Kilo do Nga sản xuất, 12 tàu ngầm nhỏ (Ghadir và Nahang) và 8 phương tiện huyên chở thủy thủ. Iran còn có hơn 100 tàu tuần tra và chiến đấu bờ biển, trong đó có 6 tàu hộ tống nhỏ, 13 tàu tuần tra, 4 thuyền tuần tra, 21 tàu bán lặn và 56 tàu tuần tra đủ loại.

Sức mạnh hải quân

                                                                             Iran                                    Israel

Tổng số tàu hải quân                                     261                                        64

Thương thuyền                                               74                                           10

Cảng chính                                                       3                                               4

Tàu sân bay                                                      0                                              0

Tàu khu trục                                                     3                                              3

Tàu ngầm                                                          19                                            3

Tàu khu trục nhỏ                                             5                                              0

Tàu tuần tra                                                     198                                          42

Tàu tấn công lưỡng cư                                26                                             0

Lực lượng Không quân Israel có được danh tiếng về độ chính xác trong cuộc chiến Trung Đông năm 1967 nhưng lại bị chỉ trích nặng nề trước cái chết của hàng nghìn dân thường tại Bờ Tây, Gaza và Lebanon trong các thập kỷ sau đó.

Israel sở hữu 460 máy bay chiến đấu với 27 chiếc Boeing F-15A Eagle, 7 chiếc F-15B và 90 chiếc F-16A Falcon. Phi đội cũng bao gồm 227 máy bay tấn công mặt đất và 65 chiến đấu cơ, cùng với 9 máy bay vận chuyển và 77 máy bay khác.

Israel có 81 trực thăng tấn công, gồm 30 chiếc Bell AH-1E/AH-1F Cobra và 30 chiếc Boeing AH-64A Apache cùng 200 trực thăng vận tải. Năng lực phòng không của Israel thể hiện qua 48 hệ thống phòng không, ít hơn so với 279 tên lửa SAM của Iran.

Lực lượng không quân Iran được cho là sở hữu 336 máy bay, gồm 189 máy bay chiến đấu như 20 chiếc F-5B của Mỹ, 60 chiếc F*5E Tiger II và 35 chiếc MiG-29A của Nga.

Iran còn có 108 máy bay tấn công mặt đất cả trong nước và do Nga sản xuất, nhiều chiếc trong số đó có nguồn gốc từ Iraq. 116 máy bay vận chuyển của nước này có xuất xứ từ Trung Quốc, Hà Lan và Mỹ. IRIAF cũng trang bị 30 trực thăng trinh sát hải quân Bell 214C.

Vũ khí lục quân

                                                                                        Iran                                      Israel

Xe tăng                                                                  1,613                                                3,501

Pháo kéo                                                              2,010                                                 456

Súng tự hành                                                       865                                                    620

Hệ thống tên lửa đa năng                                 200                                                    138

Súng cối                                                                5,000                                                 750

Vũ khí chống tăng                                              1,400                                                  900

Vũ khí chống máy bay                                       1,701                                                  200

Các phương tiện hậu cần                                12,000                                                7,684

Sức mạnh tên lửa

Khoảng 1.000 tên lửa chiến lược của Iran, có khả năng tấn công qua vùng Vịnh và xa hơn, đang thuộc quyền kiểm soát của Lực lượng Vệ binh Cách mạng, gồm 300 tên lửa đạn đạo tầm ngắn, trong đó có các tên lửa do Iran sản xuất, Shahab-1 (biến thể Scud-B), Shahab-2 (biến thể Scud-C), và Tondar-69 (biến thể CSS-8).

Tehran cũng tự sản xuất tên lửa đạn đạo chiến lược tầm trung Shahab-3 (IRBM), với tầm bắn lên tới 1.000 km, Ghadr-1 với tầm bắn 1.600 km và Shahab-3 với tầm bắn lên tới 2.400 km, theo báo cáo của Reuters.

Nếu thông tin trên là đúng, Israel và hầu hết khu vực Đông Âu đều nằm trong tầm ngắm của Tehran.

Tháng 1/2009, Iran đã thử nghiệm tên lửa không đối không mới. Sau đó, vào ngày 7/3/2010, Iran cho hay nước này đang sản xuất tên lửa tầm ngắn được miêu tả là chính xác cao và có thể phá hủy các mục tiêu lớn. Lực lượng Vệ binh Cách mạng có 24 hệ thống phóng, trong đó 12-18 hệ thống dành cho tên lửa tầm ngắn Shahab 1-2 và ít nhất 6 hệ thống dành cho Shahab-3, Ghadr-1 và Sajjil-2.

“Tất cả vũ khí trên đều được che dấu và không công khai. Chúng tôi không có nhiều thông tin về việc Iran có thể làm được những gì. Có khả năng tên lửa Iran có thể nhắm chính xác đến các quốc gia Arab nhưng Israel còn ở xa hơn”, ông Bokhari nhận định.

Ông cũng cho rằng sức mạnh của Iran nằm ở “khả năng phá vỡ nền kinh tế toàn cầu” và khiến cho bên kia không thể mở một cuộc tấn công quân sự thông qua việc “đẩy các chi phí lên cao”.

Đầu tháng 1/2012, Iran đã thử nghiệm tên lửa phòng không tầm trung ở vùng Vịnh được sản xuất và thiết kế trong nước. Vụ phóng được thực hiện giữa lúc áp lực quốc tế lên chương trình hạt nhân của nước này đang gia tăng.

Trong khi Iran bác bỏ việc sản xuất vũ khí hạt nhân, Israel lại được cho rằng có tiềm lực hạt nhân, bất chấp chính sách “nhập nhằng hạt nhân”. “Bộ sưu tập” của Israel gồm có tên lửa đạn đạo tầm trang Jericho-2 và tầm ngắn Jericho-1. Báo cáo cho rằng Israel có 200 đầu đạn hạt nhân, có thể đi kèm với tên lửa đạn đạo xuyên lục địa (ICBM).

Ngày 2/11/2011, Israel đã bắn thử một tên lửa ICBM được cho là biến thể nâng cấp Jericho-3 với trọng tải 1.000 kg và có thể “xuyên” tới Nam Mỹ. Ngày hôm sau, Israel tổ chức một cuộc tập trận quốc phòng dân sự quy mô lớn, giả tưởng xảy ra tấn công tên lửa ở trung tâm đất nước.

Mặc dù có một số thuận lợi, nhưng ông Roberts, chuyên gia an ninh tại RUSI, vẫn cho rằng Israel không có đủ máy bay và không đủ bom để “lội ngược dòng”.

“Tôi không nghĩ đây là một việc có thể suy đoán bằng cách thông thường. Không nên ảo tưởng rằng Israel có thể đơn phương chấm dứt chương trình hạt nhân của Iran”, ông nhận định.

Kho vũ khí tên lửa

                                                       Iran                                                            Israel

Tầm ngắn                    Shahab-2 (1.280 km)                              Jericho-1 (1.400 km)

Tầm trung                   Ghadr-1 (1.600 km)                                 Jericho-2 (2.800 km)

Tầm xa                        Sajjil-2 (2.400 km)                                    Jericho-3 (5.000 km)


Copyright 2012 Tin Tức Quân Sự - Blog tin tức Quân Sự Việt Nam
 
Lên đầu trang
Xuống cuối trang