Tin Quân Sự - Blog tin tức Quân sự Việt Nam: 17 tháng 7 2011

Paracel Islands & Spratly Islands Belong to Viet Nam !

Quần Đảo Hoàng Sa - Quần Đảo Trường Sa Thuộc Về Việt Nam !

Thứ Sáu, 22 tháng 7, 2011

>> Các hệ thống pháo cối tự hành trên thế giới (kỳ 3)




Được thiết kế để có thể lắp trên nhiều loại thân xe, đường đạn được tính toán bằng máy tính hiện đại để đạt hiệu quả bắn chính xác là nét chính trong các loại pháo cối tự hành thế hệ mới.

Wiesel (Đức)

Sau những thử nghiệm thành công khi lắp đặt pháo cối 120 mm trên thân xe thiết giáp đổ bộ đường không Wiesel-1, Bộ Quốc phòng Đức đã quyết định phát triển các mẫu pháo cối tự hành trên thân xe Wiesel-2. Hai mẫu thử nghiệm của hệ thống này đã được thử nghiệm thành công năm 2004.

Tiếp nối thành công này, năm 2009, quân đội Đức đã quyết định mua 8 hệ thống cối tự hành này với giá 9 triệu USD/xe kết hợp hai xe trinh sát chiến trường điều khiển bắn trị giá 5 triệu USD/xe.

Những chiếc xe này sẽ được bàn giao trong nửa cuối năm 2011 để tiến hành những thử nghiệm thực địa cuối cùng. Sau những thử nghiệm này, quỹ dành cho chương trình phát triển có thể đủ cho việc sản xuất 38 pháo cối tự hành Wiesel-2 cùng 44 xe hỗ trợ khác như xe tiếp đạn, xe trinh sát và điều khiển bắn.

Pháo cối 120 mm của Wiesel-2 có thể thực hiện các thao tác ngắm, nạp đạn và bắn trong cabin được bảo vệ toàn bộ. Hệ thống điều khiển bắn vi tính hóa cho phép khẩu cối này có thể chuyển từ trạng thái hành quân sang trạng thái sẵn sàng bắn trong thời gian nhỏ hơn 60 giây.

Khung xe Wiesel-2 là loại có thể sử dụng khá tiện lợi trên chiến trường. Mặc dù bốn cuộc thử nghiệm thả dù từ máy bay đối với loại thiết giáp này đều thất bại nhưng nó vẫn có thể dễ dàng vận chuyển bằng trực thăng khi một chiếc trực thăng CH-53 Sea Stallion có thể chở theo hai chiếc Wiesel-2 một lần.





Video clip giới thiệu pháo cối tự hành Wiesel-2.


Wiesel-2 có thể chuyển từ trạng thái hành quân sang trạng thái chiến đấu trong thời gian nhỏ hơn 60 giây.




Khung xe Wiesel-2 được thiết kế chuyên biệt để vận chuyển bằng máy bay. Một trực thăng CH-53 có thể mang theo tới hai xe thiết giáp loại này.

SRAMS (Singapore)

Hệ thống Pháo cối tiên tiến bắn nhanh (SRAMS - Super Rapid Advance Mortar System) đã được trang bị cho quân đội Singapore trong thời gian gần đây cùng với các xe thiết giáp bánh xích Bronco.

Hệ thống SRAMS có rất nhiều ưu điểm như hệ thống nạp đạn bán tự động cho phép tốc độ bắn tối đa có thể đạt 18 phát/phút;



Pháo cối SRAMS lắp đặt trên thân xe thiết giáp Bronco.



Pháo cối 120 mm SRAMS được tích hợp hệ thống chống giật và làm mát nòng súng hiện đại khiến tốc độ bắn có thể đạt đến 18 phát/phút.


Hệ thống làm mát nòng pháo cùng bộ phận chống giật thủy lực giúp tăng độ chính xác cùng việc điều chỉnh hướng và góc của nòng pháo cối hoàn toàn tự động hóa dưới sự điều khiển của hệ thống kiểm soát bắn vi tính hóa.
Hệ thống SRAMS cũng có thể sử dụng rất nhiều loại đạn, kể cả các loại đạn cối có hỗ trợ động cơ tên lửa tăng tầm với tầm bắn lên tới 13 km.

Bên cạnh khung xe thiết giáp bánh xích Bronco, SRAMS cũng có thể lắp đặt lên rất nhiều các khung xe khác như xe trinh sát hạng nhẹ Spyder của Singapore, Humvee của Mỹ hay xe RG-31 Mk5 4x4 trong bản SRAMS Singapore bán cho Các tiểu vương quốc Arập thống nhất.

Cho đến thời điểm này, Các tiểu vương quốc Arập thống nhất là khách hàng nước ngoài duy nhất của SRAMS với bốn hệ thống đã được chuyển giao.



SRAMS lắp đặt trên xe trinh sát hạng nhẹ Spyder của Singapore.


2S9 Nona và 2S31 Vena (Nga)

Bên cạnh pháo cối tự hành 82 mm 2B9 Vesilek và 2S24 trên khung xe MT-LB, Nga cũng có truyền thống khá lâu trong việc phát triển các hệ thống pháo cối tự hành 120 mm có tháp pháo riêng biệt như 2S9 Nona, 2S23 Nona-SVK và mới nhất là 2S31 Vena.

Hệ thống 2S9 Nona được là hệ thống pháo cối 120 mm có tháp pháo được lắp đặt trên thân xe đổ bộ đường không BTR-D. Được tẩng bị pháo cối đa dụng 2A51 120 mm có khả năng bắn cả đạn pháo và đạn cối, 2S9 Nona có cả khả năng bắn đạn cầu vồng hay bắn thẳng.

Tầm bắn của Nona có thể đạt 8,9 km với đạn nổ thông thường và 13 km với đạn có tăng tầm tên lửa. Tuy nhiên, tốc độ bắn của khẩu pháo cối này là một hạn chế, chỉ đạt từ 6 - 8 phát/phút.



Hệ thống 2S9 Nona đang khai hỏa.


Phiên bản 2S23 Nona SVK là một phiên bản cải tiến của 2S9 Nona dựa trên thân xe thiết giáp chở quân BTR-80. Mặc dù sử dụng nòng pháo cối mới 2A60, 2S23 Nona SVK vẫn sử dụng các loại đạn giống như 2S9 Nona.

Một ưu điểm nữa của 2S23 Nona SVK là thân xe có khả năng vận động tốt hơn và ít yêu cầu bảo dưỡng hơn phiên bản trước.

Tổng cộng đã có 1.000 pháo cối tư hành 2S9 Nona và 100 hệ thống 2S23 Nona SVK đã được sản xuất. Trong đó, hệ thống 2S23 Nona SVK được tin rằng đã bị copy bởi Trung Quốc để sản xuất ra pháo cối tự hành PLL-05 của họ.



Pháo cối tự hành 2S23 Nona SVK đã bị Trung Quốc copy để chế tạo phiên bản cối tự hành PLL-05 của họ.


Hệ thóng pháo cối tự hành mới nhất của Nga hiện nay là 2S31 Vena được phát triển từ 15 năm trước dựa trên thân xe chiến đấu bộ binh BMP-3.

Hệ thống này được trang bị pháo cối 2A80 120 mm nòng trơn dài hơn hẳn các hệ thống trước đó. Pháo cối 2A80 cũng có khả năng bắn toàn bộ các loại đạn cối 120 mm cũng như các loại đạn pháo và đạn cối tự dẫn lade Kitolov-2M.

Thậm chí, 2A80 có khả năng bắn các các loại đạn chỉ dành riêng cho pháo nòng xoắn.

Một xe 2S31 Vena có thể mang theo 70 viên đạn với 22 viên nằm sẵn trong hệ thống nạp dạn tự động cho phép bắn nhanh. Pháo có tầm bắn tối đa từ 7,2 km với đạn thường và 13 km đối với đạn tăng tầm hỗ trợ động cơ tên lửa.



2S31 Vena là hệ thống pháo cối tự hành hiện đại nhất của Nga hiện nay.


Hiện tại, hệ thống 2S31 Vena đang nằm trong danh mục có thể xuất khẩu của Nga, tuy nhiên vẫn chưa có bất kỳ một đơn đặt hàng nào khác ngoài quân đội Nga đối với hệ thống này.

>> Các hệ thống pháo cối tự hành trên thế giới (kỳ 1)
>> Các hệ thống pháo cối tự hành trên thế giới (kỳ 2)

[BDV news]


>> Tại sao 'siêu phẩm' F-22 'mất điểm'?



Xin phân tích một số nhược điểm của F-22 để thấy bất cứ loại vũ khí hiện đại nào cũng có nhược điểm và đối phương luôn có thể tìm ra cách đối phó thích hợp.

Điều đáng ngạc nhiên trong chiến dịch quân sự của liên minh phương Tây tiến hành ở Libya là việc Mỹ không đưa tiêm kích F-22 “Chim ăn thịt” tham chiến. Như vậy, suốt 6 năm được đưa vào trang bị, loại máy bay này chưa một lần “đánh đấm” thực sự.

"Giá mà có khả năng"

Chiến dịch quân sự của liên minh phương Tây ở Libya bắt đầu từ 19/3/2011 với các màn phô diễn của F-15 Eagle, F-16 Fighting Falcon, Dassault Rafale, Tornado GR4.

Trước chiến dịch mang tên “Bình minh Odyssey”, giới quân sự chờ đợi sự tham gia của “Chim ăn thịt” F-22 - máy bay chiến đấu thế hệ 5 duy nhất ở trạng thái sẵn sàng chiến đấu.

Tuy nhiên, sự mong đợi của các chuyên gia đã không trở thành hiện thực khi mà F-22 không chịu “ló mặt” trên bầu trời Libya. Không quân Mỹ còn tuyên bố, loại máy bay này sẽ không tham chiến trong tương lai.

Theo nhà phân tích Loren Thompson làm việc tại Viện Lexington, lý do đơn giản là chiếc máy bay chiến đấu tiên tiến nhất này của Mỹ không được chế tạo để thực hiện các nhiệm vụ chiến đấu giống như những gì đang phải làm ở Libya.

“Mục đích chủ yếu của giai đoạn một là thiết lập vùng cấm bay trên không phận quốc gia châu Phi này, muốn vậy phải tiêu diệt hoàn toàn các hệ thống phòng không của ông Gaddafi”. F-22 không được thiết kế để đánh các mục tiêu trên mặt đất. Máy bay có thể mang 2 bom có điều khiển JDAM khối lượng 450 Kg có khả năng tiêu diệt các mục tiêu cố định, nhưng vũ khí này không được dùng để đánh các mục tiêu di động.

Ngoài ra, radar của F-22 không quét được địa hình như các radar sử dụng anten tổng hợp, nghĩa là không thể tự chọn mục tiêu trên mặt đất. Điều này có nghĩa là nếu sử dụng F-22 để đánh mục tiêu mặt đất, các thông số của mục tiêu phải được nạp vào máy tính của máy bay từ trước khi cất cánh.

Đây vẫn chưa phải là đoạn cuối liệt kê khiếm khuyết của chiếc máy bay thế hệ 5 của Mỹ. Bởi F-22 còn bị hạn chế trong khả năng liên lạc, chỉ có thể chia sẻ thông tin với các máy bay F-22 khác trong biên đội.

Cụ thể, F-22 được trang bị hệ thống liên lạc tiêu chuẩn Link 16, hệ thống được giới quân sự Mỹ và NATO sử dụng rộng rãi, nhưng “bị cắt bớt”. Theo đó, hệ thống này chỉ có thể thu các tin tức tác chiến từ các máy bay hoặc máy bay lên thẳng khác và không thể dùng để chuyển dữ liệu.

Khi thiết kế chế tạo F-22, các kỹ sư đã chủ tâm hạn chế khả năng liên lạc của chiếc tiêm kích nhằm đảm bảo khả năng tàng hình cao hơn – người ta định nếu đưa máy bay vào tác chiến sẽ luôn duy trì chế độ không có liên lạc vô tuyến.



Chim ăn thịt" F-22 tự cô lập mình trên không do không thể liên kết chiến đấu với máy bay "bạn".


Vào cuối tháng 3/2011, chính Tư lệnh Không quân Mỹ Norton Schwartz quyết định đề cập đến việc F-22 không tham gia vào chiến dịch Libya. Theo ông, máy bay tiêm kích này của Mỹ không tham gia chiến dịch vì nó ở căn cứ cách xa chiến trường.

“Giá như F-22 được bố trí ở một trong những căn cứ ở châu Âu, chắc chắn chúng đã tham chiến trong chiến dịch Libya”, ông Schwartz tuyên bố. Ông nói thêm “do chiến dịch ở Libya đã bắt đầu khá nhanh, nên đã quyết định huy động những lực lượng đang ở gần”.

Theo các nguồn tin Mỹ, hiện F-22 đang có ở các căn cứ ở Virginia, New Mexico, California, Florida, Alaska và Hawaii. Cuối bài phát biểu ông Schwartz tuyên bố “việc F-22 không tham gia chiến dịch này không phải là minh chứng cho sự vô dụng của nó”.

Cũng ngày hôm đó, phát biểu tại cuộc điều trần của tiểu ban ngân sách Hạ viện Mỹ, ông Schwartz định giải thích vì sao không quân đã quyết định năm 2010 không cải tiến hệ thống liên lạc của máy bay tiêm kích F-22 dự kiến sẽ thực hiện trong khuôn khổ chương trình “Increment 3.2”.

Theo ông Schwartz, dự định lắp cho F-22 hệ thống liên lạc tiêu chuẩn MADL là hệ thống hiện đang được nghiên cứu chế tạo cho các máy bay tiêm kích tương lai F-35 Lightning II. Hệ thống MADL mới chưa được kiểm tra để sử dụng cho tác chiến, do đó việc dùng hệ thống này cho F-22 sẽ làm chi phí tăng lên và ẩn chứa sự mạo hiểm nhất định, điều mà không quân không thể chấp nhận. Đồng thời các thông số còn lại của chương trình Increment 3.2 sẽ được thực hiện.

Tính năng của F-22

Kíp lái: 1 người
Dài: 18,9 mét; Sải cánh: 13,56 mét
Khối lượng máy bay không tải: 19,7 tấn;
Khối lượng cất cánh tối đa: 38 tấn;
Động cơ: 2 động cơ Pratt&Whitney F-119-PW-100 lực đẩy 140kN;
Tốc độ tối đa: Mach 2,25;
Tốc độ vượt âm hành trình: Mach 1,5;
Bán kính tác chiến: 759km;
Trần bay: 19.800m;
Vũ khí: pháo 20m. 6 tên lửa không đối không hoặc 2 bom JDAM, 4 điểm treo trên 2 cánh mang vũ khí có khối lượng đến 2,3 tấn.

Cựu chỉ huy tình báo Không quân Mỹ David Deptula có mặt tại phiên điều trần ở Hạ viện đã phê phán mạnh việc từ chối lắp MADL lên F-22. Theo ông này, thật là vô nghĩa khi định chế tạo “máy bay tiêm kích hiện đại nhất thế giới” mà lại không thể trao đổi dữ liệu với các máy bay khác.

Ông Deptula đã coi quyết định của Không quân Mỹ từ chối lắp hệ thống MADL lên máy bay tiêm kích F-22 là “sự thông minh tính bằng xu, còn sự ngu ngốc có giá gấp hàng trăm lần).

Dù sao, rất thú vị là để F-22 có thể trao đổi thông tin với các máy bay, máy bay lên thẳng khác và các đơn vị mặt đất, Không quân Mỹ đã thiết lập một cụm thông tin hàng không đặc biệt. Cụm này bao gồm 6 loại máy bay không người lái RQ-4 Global Hawk Block 20 có thể trao đổi dữ liệu với máy bay tiêm kích.

Đồng thời các máy bay không người lái có thể chuyển dữ liệu từ F-22 sang các máy bay và máy bay lên thẳng khác có trang bị hệ thống Link 16. Một hệ thống như vậy được thiết lập cho trường hợp tiến hành các hoạt động tác chiến quy mô lớn và hiện chưa được ứng dụng trong thực tiễn.

Có nghĩa là, thực chất Không quân Mỹ xác nhận là dẫu sao các phi công F-22 vẫn cần trao đổi dữ liệu. Nhưng chưa hiểu được vì sao phải thiết lập cho “Raptor” cụm thông tin độc lập riêng và từ chối cải tiến các hệ thống thông tin hiện có của máy bay tiêm kích. Chắc là, vẫn có sự chú trọng đến khả năng khó phát hiện như trước – khi nhận thông tin từ cụm liên lạc, F-22 có được nguồn dữ liệu tác chiến phong phú hơn mà không tự làm lộ mình.

Đáng lưu ý là F-22 được đưa vào trang bị năm 2005. Từ ngày đó nó chưa hề tham chiến vào bất kỳ hoạt động quân sự nào của Mỹ tiến hành ngoài lãnh thổ Mỹ. Một mặt, chiếc chiếc máy bay tiêm kích Mỹ này này quá đắt để có thể tham chiến ở Pakistan, Iraq, Afghanistan hoặc Somalia. Nhưng mặt khác, làm thế nào để kiểm tra mọi tính năng của nó khi máy bay chưa hề chứng tỏ trên thực tế “sự hùng mạnh” của mình.

Những điều khó chịu về kỹ thuật

Một đòn tiếp theo hạ uy tín của máy bay tiêm kích Mỹ thế hệ 5 này đã giáng xuống cuối tháng 3/2011, khi biết được là Không quân Mỹ hạn chế trần bay của F-22.

Theo chỉ thị của Bộ chỉ huy tác chiến không quân (ACC) của Không quân Mỹ, trần bay của F-22 không được vượt quá 7.600m – trong khi theo các thông số kỹ thuật đã được công bố, “trần” của “Raptor” là gần 20.000m.

Nguyên nhân của việc này là việc điều tra nhằm kiểm tra các hệ thống tái sinh oxy (OBOGS) đã được lắp đặt trên nhiều máy bay tiêm kích của Mỹ.

Theo số liệu của ACC, hệ thống OBOGS được giới quân sự Mỹ sử dụng có thể có lỗi. Cụ thể, người ta cho rằng nguyên nhân rơi F-22 ngày 17/11/2010 ở Alaska có thể là những trục trặc của OBOGS.

Hệ thống này tái sinh ôxy và đưa hỗn hợp khí thở vào mũ bay của phi công khi máy bay ở độ cao lớn. Vì trục trặc của OBOGS nên phi công Jeffrey Haney của chiếc máy bay bị rơi có thể đã bị đói oxy và bị ngất.

Trong kií cấm các chuyến bay thường, Không quân Mỹ xác nhận là lệnh cấm này không có hiệu lực đối với các chuyến cất cánh chiến đấu của tiêm kích Mỹ, những chuyến bay chiến đấu này vẫn không bị hạn chế trần bay.

ACC giải thích rằng ở độ cao từ 15.000m trở lên phi công chỉ có vỏn vẹn 10 giây trước khi ngất nếu ôxy không được cấp vào mũ bay. Thời gian này không đủ để hạ độ cao xuống mức có thể thở mà không cần mũ bay có cấp ôxy.

Độ cao 7.600m được bộ chỉ huy cho là an toàn vì nếu mất cấp ôxy, phi công có thể hạ độ cao xuống 5.400m là độ cao có thể thở không cần mũ bay có cấp ôxy.


Chiến đấu cơ "lắm tiền nhiều của" F-22 có thể giết chiết chính phi công điều khiển vì lỗi hệ thống tái sinh Oxy.


Tuy nhiên, uy tín của F-22 bị suy giảm trước đó nhiều. Cụ thể, tháng 2/2010 Không quân Mỹ đã đình chỉ bay tất cả các máy bay “Raptor” một thời gian – đã xác định được thân máy bay không chịu được tác động của hơi ẩm và dễ bị ăn mòn.

Trước đó cũng đã phát hiện ra hiện tượng ăn mòn trên máy bay tiêm kích này, nhưng trong trường hợp này hoá ra hệ thống dẫn hơi ẩm thừa thoát ra khỏi đèn pha của máy bay có kết cấu tồi và không đảm đương được nhiệm vụ. Kết qủa là đã xuất hiện các vết ăn mòn trên một số chi tiết của đèn pha máy bay và cả trong buồng lái, hơn nữa vết này có thể là nguyên nhân hư hỏng trong hệ thống nhảy dù.

Năm 2009, Không quân Mỹ đã phái 12 máy bay tiêm kích F-22 từ Alaska đến căn cứ Andersen ở Guam trong khuôn khổ một thí nghiệm. Thời tiết mưa nhiều trên đảo hoá ra là đã không thích hợp cho các máy bay chiến đấu, và không lâu sau đã phát hiện ra là trong điều kiện độ ẩm cao các hệ thống điện tử của máy bay hoạt động không ổn định, còn hệ thống làm mát các bộ phận máy tính đơn giản là đã không hoạt động được trong không khí ẩm. Không biết khiếm khuyết này đã được khắc phục hay chưa. Chỉ biết là từ đó F-22 không được sử dụng trong vùng có khí hậu ẩm nữa.

Cải tiến

Bắt đầu từ năm 2012, Không quân Mỹ sẽ chi hàng năm 500 triệu USD để cải tiến máy bay tiêm kích F-22. Cụ thể, sẽ triển khai chương trình cải tiến Increment 3.1 dự định lắp đặt thiết bị trên khoang mới, thiết bị hàng không và đảm bảo phần mềm.

Nhờ chương trình này máy bay tiêm kích này sẽ biết quét được địa hình, chọn mục tiêu trên mặt đất và sử dụng bom mới SDB.

Việc thực hiện chương trình cải tiến Increment 3.2 sẽ bắt đầu từ năm 2014. Theo những nguồn tin chưa được kiểm chứng, kết quả của chương trình này là F-22 sẽ nhận được phần mềm mới, một số yếu tố kết cấu mới và hệ thống máy tính điện tử mới.

Cũng năm đó kỹ sư cũ của Lockheed Martin là Derrol Olsen đã kết tội hãng này chế tạo máy bay F-22 chất lượng thấp. Theo dữ liệu của Olsen, máy bay F-22 đã được sơn thừa mấy lớp để có thể vượt qua tất cả các thử nghiệm chống radar.

Chất lượng thấp chính là ở chỗ các lớp phủ hấp thụ sóng vô tuyến của F-22 dễ dàng bị nước, dầu hoặc nhiên liệu tẩy khỏi thân máy bay. Hãng Lockheed Martin đã bác bỏ những lời buộc tội của Olsen, tuyên bố rằng đã sử dụng sơn bền chắc hấp thụ sóng vô tuyến.

Hai năm trước đã phát hiện ra một sự cố nực cười trong máy tính lắp trên máy bay F-22. Tháng 2/2007 Không quân Mỹ quyết định lần đầu tiên đưa F-22 ra nước ngoài. Một số máy bay tiêm kích được điều đến căn cứ không quân Kadena ở Okinawa.

Phi đội 6 máy bay F-22 cất cánh từ Hawaii, sau khi vượt qua kinh tuyến 180 độ – đường thay đổi ngày quốc tế – đã bị mất hoàn toàn dẫn đường và một phần liên lạc. Các máy bay tiêm kích đã phải nhìn theo các máy bay tiếp dầu để quay trở về Hawaii. Nguyên nhân sự cố là lỗi trong chương trình, từ đó máy tính đã bị ngừng khi thời gian thay đổi.

Và đây chỉ là những trục trặc mà Không quân hoặc Bộ Quốc phòng Mỹ tuyên bố công khai. Đồng thời không thể loại trừ là còn những trục trặc của máy bay được dấu kín. Ví dụ, về trục trặc của các máy bay ném bom B-2 gây nứt tấm kim loại giữa các động cơ ở phần đuôi của máy bay chỉ được biết đến sau khi các kỹ sư của hãng Northrop Grumman tìm được cách khắc phục.



Người Mỹ còn rất nhiều việc phải làm với chiến đấu cơ "con cưng" của họ.


Những trục trặc của kỹ thuật không quân phức tạp nói chung không phải là điều không bình thường, bởi vì không thể dự báo hết những đặc điểm khai thác. Những căn bệnh “ấu trĩ” này sẽ được khắc phụ trong quá trình khai thác và sẽ được rút kinh nghiệm trong những mẫu mới.

Nhưng trong câu chuyện về F-22 thì còn nhiều điều không thể giải thích nổi. Vì vậy, không thể hiểu vì sao Mỹ bỗng nhiên lại “không khảo mà xưng” khi máy bay tiêm kich này đã không có mặt trong đội hình tác chiến của liên minh trong chiến dịch Libya , dù ở Iraq hoặc Afganistan đã không có lần thử nào như vậy.

Lịch sử chỉ ra rằng vũ khí hiện đại và đắt tiền nhất được sử dụng sau cùng trong các cuộc xung đột, thậm chí các cuộc xung đột rất lớn. Ví dụ rõ ràng nhất có thể thấy là các tàu chủ lực lớp “Drenout” của Anh và “Nassau” của Đức. Các tàu này thực tế đã thả neo ở các cảng hầu như suốt Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất và chỉ được đưa vào tác chiến trong những năm cuối cùng.

Ngày 31/3/2011, Tổng cục giám sát Hoa Kỳ tuyên bố giá mua một F-22 cho Không quân Mỹ là 411,7 triệu USD. Tổng cộng giới quân nhân Mỹ định mua 187 máy bay F-22, trong đó 170 chiếc đã được đưa vào biên chế.

[BDV news]


>> Vụ tai nạn đầu tiên của tàu ngầm nguyên tử



Trong hơn 50 năm trở lại đây có rất nhiều vụ tại nạn tàu ngầm và tai nạn tàu ngầm Thresher Shark là vụ tai nạn đầu tiên trong lịch sử tàu ngầm hạt nhân thế giới.

Tàu ngầm hạt nhân Thresher Shark PH57 của Mỹ được khởi đóng vào ngày 28/5/1958, tàu được hạ thủy ngày 9/7/1960 , đến ngày 3/8/1961 Tàu ngầm hạt nhân Thresher Shark chính thức được đưa vào phục vụ.

Thresher Shark có chiều dài 84,89m, chiều rộng 9,65m, độ giãn nước khi chạy trên mặt nước là 3.526 tấn, khi lặn dưới nước là 4.310 tấn.

Vào thời điểm đó, các tàu ngầm hạt nhân và tàu ngầm thông thường của Mỹ chỉ hoạt động ở độ sâu khoảng 210m, tuy nhiên đối với tàu ngầm Thresher Shark có thể lặn ở độ sâu 396 m.

Điều này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc nâng cao khả năng tác chiến cũng như tránh sự phát hiện và tấn công của các thiết bị chống ngầm.

Tháng 7/1962, Thresher Shark được đưa đến xưởng đóng tàu Potsmao để tiến hành bảo dưỡng sau một thời gian phục vụ. Sau khi bảo dưỡng nó được tiến hành chạy thử với đoàn thủy thủ 129 người. Trong lần chạy thử này, bên cạnh Thresher Shark còn có tàu cứu hộ tàu ngầm The Lark do thiếu tá hải quân Hecker chỉ huy.

Trên tàu The Lark có các thiết bị cứu hộ chuyên dụng, trong đó có cả thiết bị lặn cứu sinh cỡ lớn dùng để cứu tàu ngầm ở độ sâu 259m. Ngày 10/4/1963, Thresher Shark được tiến hành chạy thử tại vùng biển cách Cape Cod 200 hải lý về phía Đông bang Massachusetts, Mỹ.


Một loạt tàu ngầm nguyên tử như USS Flasher SS-249, USS Gato…của Hải quân Mỹ được kiểm tra và nâng cấp ngay sau sự cố tàu ngầm Thresher Shark. (Ảnh: Tàu ngầm USS Flasher SS-249).


Tốc độ gió khi đó là 3,5 m/giây, mặt biển tương đôi bình lặng. Lúc 6h30, sau khi kết nối thông tin liên lạc bằng hệ thống AN/UQC với tàu cứu hộ The Lark, tàu ngầm Thresher Shark bắt đầu thử nghiệm lặn sâu.

Khi cách độ sâu thử nghiệm 91m, tình trạng liên lạc qua hệ thống AN/UQC giữa 2 tàu vẫn rất tốt. Tuy nhiên khi đang tiếp cận gần độ sâu định thử nghiệm, Thresher Shark bắt đầu xảy ra sự cố nhỏ và các tín hiệu thông tin liên lạc lúc này cũng không còn rõ.

Đến 9h17 cùng ngày, một tín hiệu lạ được truyền lên tàu ngầm cứu hộ, nhưng do âm thanh bị biến dạng nên tàu The Lark không thể phân biệt được. Tuy nhiên, sau khi kiểm tra lại những âm thanh cuối cùng, Thuyền trưởng tàu cứu hộ Hecker đã phát hiện ra một tiếng nổ, ông cho rằng đó là âm thanh của tàu tàu ngầm Thresher Shark .

Vị Thuyền trưởng dày kinh nghiệm trong cuộc chiến chống tàu ngầm ở Đại Tây Dương trong Chiến tranh thế giới thứ 2 khẳng định, âm thanh ông nhận thấy giống tiếng nổ dưới nước của vỏ tầu do chịu áp lực lớn.

Sau tiếng nổ, liên lạc bị gián đoạn, tàu The Lark bắt đầu tìm kiếm. Đến 10h58, sau khi sử dụng mọi biện pháp tìm kiếm mà không có kết quả, Thuyền trưởng tàu cứu hộ Hecker mới báo cáo về Bộ tư lệnh hạm đội tàu ngầm hạt nhân ở bang Connecticut, Mỹ.

Nhận được thông tin, Bộ tư lệnh ngay lập tức hạ lệnh cho lực lượng tàu tìm kiếm cứu hộ tàu ngầm vào cuộc. Ngày 27/6/1963, khi đang tìm kiếm ở độ sâu 2.560m, các tàu cứu hộ đã thu thập được một số lượng lớn những mảnh vụn. Trong những thứ thu thập được có một đôi giày màu vàng được xem là giày sử dụng trong khoang lò phản ứng của tàu ngầm, trên đôi giày có in mã số SSN5.

Điều này chứng tỏ tất cả những mảnh vụn này chính là những gì còn lại của tàu ngầm Thresher Shark. Như vậy,tàu ngầm nguyên tử Thresher Shark phục vụ chưa đầy 2 năm đã vĩnh viễn nằm dưới biển ở độ sâu 2.560m cùng với 129 thủy thủ. Đây được xem là vụ tàu ngầm hạt nhân đầu tiên trong lịch sử.

Bị hủy hoại vì chính khả năng lặn sâu?

Sau quá trình điểu tra về nguyên nhân của vụ tai nạn tàu ngầm Thresher Shark. Tháng 6/1963, người đứng đầu Hải quân Mỹ đã công bố kết luận điều tra về sự kiện tàu ngầm Thresher Shark, kết luận cho biết, phòng máy đột nhiên bị một lượng nước lớn chảy vào và đây được xem là nguyên nhân chính dẫn đến vụ đắm tàu ngầm Thresher Shark.

Hải quân Mỹ tin rằng, nguyên nhân có thể là do bộ phận nào đó trong hệ thống dẫn nước của Thresher Shark bị vỡ, hơn nữa lại xảy ra ở khoang máy. Nước biển chảy vào khoang máy dẫn đến mạng thông tin bị tê liệt, đồng thời khiến tàu mất khả năng hoạt động và chìm hẳn.

Sau sự cố trên, Quân đội Mỹ bắt đấu tiến hành một loạt các biện pháp kiểm tra kỹ toàn bộ những tàu ngầm đang phục vụ. Tất cả các bộ phận chịu áp được thiết kế theo mẫu cũ đều được tăng hệ số an toàn, giảm độ sâu và áp lực thử nghiệm, đồng thời hạn chế độ sâu hoạt động của các tàu ngầm.

Điều đó đã hạn chế rõ rệt tính năng của loại tàu ngầm này. Để cố gắng duy trì kỷ lục lặn xuống độ sâu 396m, Quân đội Mỹ quyết định thực hiện chương trình đặc biệt nhằm nâng cấp các tàu ngầm như USS Flasher SS-249, USS Gato.

Tháng 3/1964, Mỹ đã xây dựng một trung tâm kế hoạch an ninh tàu ngầm tại căn cứ tàu ngầm với nhiệm vụ là đội chiếu và kiểm nghiệm toàn bộ các thiết bị và cường độ kết cầu từ sơ đồ thiết kế cho đến hoàn chỉnh của tất cả các tàu ngầm đang phục vụ, đang đóng hay còn trong thiết kế của Mỹ; tiến hành nghiên cứu và sửa đổi biên chế và bố trí thủy thủ trên tàu.

Đặc biệt quan tâm đến vấn đề an toàn các bộ phận chính của tàu ngầm như vũ khí hạt nhân, thiết bị động lực hạt nhân… khi phát hiện vấn đề có thể trình ý kiến kên chỉ huy tác chiến Hải quân hay Bộ tư lệnh hạm đội tàu ngầm Quân đội Mỹ.

Vụ tai nạn tàu ngầm hạt nhân Thresher Shark là vụ tai nạn đầu tiên trong lịch sử tàu ngầm thế giới. Trong nửa thế kỷ trở lại đây, có rất nhiều vụ tai nạn tàu ngầm hạt nhân khác đã xảy ra như:

- Năm 1968, tàu ngầm hạt nhân Scorpio của Mỹ đã gặp nạn ở Đại Tây Dương khi đang trên đường đến quẩn đảo Canari, làm 99 thủy thủ và nhân viên thiệt mạng.

- Tháng 4/1989, tàu ngầm hạt nhân Komsomolets cấp M của Nga phát nổ và chìm tại vùng biển Baren ở độ sâu 170m, toàn bộ 42 thủy thủ trên tàu thiệt mạng. Tàu Komsomolets có chiều dài 107m, rộng gần 8m, có trọng tải 4.000 tấn, được trang bị ngư lôi. Tàu thuộc thế hệ tàu ngầm nguyên tử đầu tiên của Nga, được chế tạo từ năm 1962. Theo kế hoạch đã được Bộ Quốc phòng Nga phê duyệt, tàu được kéo đến một nhà máy sửa chữa tàu biển để tiến hành tháo gỡ lò phản ứng hạt nhân. Tàu được kéo đi sửa chữa trong điều kiện bão biển dữ dội, khiến con tàu bị đắm. Ngay sau khi tàu gặp nạn, lực lượng cứu trợ Hạm đội biển Bắc với các tàu ngầm và máy bay đã nhanh chóng triển khai các hoạt động cứu trợ tìm kiếm.

- Tháng 3/1994, tàu ngầm hạt nhân Emerald của Pháp đã bị nổ phòng máy phát điện khi đang tuần hành tại Địa Trung Hải, khiến 10 người thiệt mạng.

- Tháng 8/2000, tàu ngầm hạt nhân Kursk của Nga đã bị chìm khi đang tham gia diễn tập cùng Hạn đội Phương Bắc tại vùng biển Ba-ren, làm 118 thủy thủ thiệt mạng.

- Tháng 3/2001, tàu ngầm hạt nhân Greenville của Mỹ đã va chạm vào một tàu thực tập của học viện thủy sản Nhật Bản khi đang nổi lên mặt nước, làm 9 người trên tàu thực thập sinh của Nhật Bản thiệt mạng.

- Tháng 11/2008, tàu ngầm hạt nhân K-152 của Nga khi đang chạy thử nghiệm tại vùng biển Thái Bình Dương, do thao tác sai đã dẫn đến hệ thống chữa cháy bị rò rỉ, khiến 20 người thiệt mạng và 20 người khác bị thương.

- Ngày 16/2/2011 vừa qua, tàu ngầm hạt nhân HMS Vanguard của Anh và tàu ngầm hạt nhân Le Triomphant của Pháp đã va chạm vào nhau khi dang tuần tra tại Đại Tây Dương. Cả hai tàu đều bị hư hỏng nhưng may mắn không gây thiệt hại về người.

Theo Thiếu tướng Hải quân Stephen Saunders cho biết, có 3 nguyên nhân có thể do lỗi thủ tục khi không theo “thoả ước vùng nước của NATO”, 2 tàu không phát hiện nhau do thiết bị chống dò tìm quá hiện đại, hoặc đơn giản là rủi ro vì dù 2 tàu thấy nhau trong cùng vùng nước vẫn có nguy cơ đâm nhau khi ở cùng độ sâu.


[BDV news]


>> Tàu chiến Nga sẽ lắp hệ thống phòng không mới



Tổ hợp tên lửa phòng không Pantsyr-M sẽ được trang bị cho các tàu chiến thế hệ mới của Nga. Tổ hợp này được phát triển dựa trên một hệ thống phòng trên đất liền.

Hải quân Nga sẽ nhận được tổ hợp phòng không Pantsyr-M mới để trang bị trên các tàu chiến. Hệ thống này được phát triển dựa trên hệ thống tên lửa đặt trên đất liền Pantsyr-S1.

“Pantsyr-M sẽ thay thế cho hệ thống phòng không Kortik và sẽ được lắp đặt trên tất cả các lớp tàu chiến mới của Nga”, ông Alexander Zhukov – quan chức cao cấp của phòng nghiên cứu KBP phát biểu.



Nga liên tiếp cho xuất xưởng những hệ thống tên lửa "khủng".


Theo ông Zhukov, Chính phủ Nga đang cân nhắc khả năng xuất khẩu hệ thống Pantsyr-M ra nước ngoài.

Theo dự kiến, phiên bản xuất khẩu Pantsyr-ME mất từ 3-5 giây để theo dõi và phá hủy 4 mục tiêu cùng lúc.

Tầm xa của tên lửa là 20km và có thể phá hủy mục tiêu ở độ cao từ 2m tới 15km. Súng phòng không có tầm bắn là 4km và có khả năng phá hủy mục tiêu ở độ cao tối đa là 3km.

[BDV news]


>> 10 vũ khí sinh học đáng sợ nhất (kỳ 2)



Sau đậu mùa, bệnh than đến lượt sốt xuất huyết Ebola, dịch hạch và bệnh sốt thỏ là những vũ khí sinh học nguy hiểm, được dùng như vũ khí nhóm A tiêu diệt kẻ thù.

3. Sốt xuất huyết Ebola

Sốt Ebola là một trong số hơn một chục dạng sốt xuất huyết do virus, gây ra những triệu chứng đáng sợ, đôi khi dẫn đến xuất huyết không kiểm soát được.

Thế giới bắt đầu ghi nhận dịch sốt Ebola khi dịch xảy ra vào những năm 1970, giết chết hàng trăm người tại Zaire (Congo hiện nay) và Sudan. Đến thập niên 1980, dịch bệnh tiếp tục xảy ra khắp châu Phi, thể hiện sức lan truyền đáng sợ của nó thậm chí ngay cả trong điều kiện kiểm soát ngặt nghèo. Cho đến nay, thống kê đã ghi nhận không dưới 7 đợt bùng phát đã diễn ra tại châu Phi, Châu Âu và Hoa Kỳ.

Ebola vốn là tên một vùng đất tại Congo nơi virus này được phát hiện lần đầu tiên. Các nhà khoa học cho rằng virus này bình thường tồn tại trong một ký chủ là sinh vật bản địa vùng châu Phi, tuy nhiên nguồn gốc xuất xứ và môi trường tồn của nó vẫn chưa được biết chính xác. Chính vì vậy, con người chỉ có khả năng phát hiện virus này khi nó xâm nhập vào cơ thể người hoặc linh trưởng.

Một khi đã xuất hiện trong vật chủ, virus Ebola sẽ xâm nhiễm các cá thể khác qua tiếp xúc trực tiếp với máu hoặc dịch tiết cơ thể. Tại châu Phi, virus này đã chứng minh khả năng lây nhiễm đáng nể tại các bệnh viện và trạm y tế. Cá thể nhiễm virus sẽ bắt đầu nhận thấy các triệu chứng sau từ 2 cho đến 21 ngày. Dấu hiệu điển hình bao gồm đau đầu, đau cơ, đau họng và cơ thể mệt mỏi yếu ớt, tiếp sau đó là tiêu chảy và nôn mửa. Một số bệnh nhân còn bị xuất huyết ngoài hoặc xuất huyết trong. Khoảng từ 60 đến 90% người nhiễm virus sẽ tử vong sau 7 đến 16 ngày.

Các bác sỹ vẫn chưa biết cách chữa căn bệnh Ebola và họ cũng chưa rõ tại sao một số bệnh nhân có khả năng hồi phục nhanh hơn những người khác. Tệ hơn đậu mùa và bệnh than, Ebola chưa có vaccine phòng ngừa. Thực tế thì trong các bệnh thuộc nhóm sốt xuất huyết, chỉ có duy nhất bệnh sốt vàng là có vaccine.

Khi cả thế giới đang tìm cách điều trị và phòng chống dịch Ebola thì có một nhóm người Liên Xô lại tìm cách biến con virus này thành vũ khí. Đầu tiên họ gặp khó khăn trong việc nuôi cấy virus Ebola trong phòng thí nghiệm.

Đến đầu những năm 1990 họ đã gặt hái được một số thành công với virus này. Trong điều kiện phòng thí nghiệm các nhà nghiên cứu còn nhận thấy con virus này lan truyền qua đường không khí chứ không chỉ giới hạn ở tiếp xúc dịch tiết cơ thể. Rõ ràng khả năng được chuyển hóa thành dạng vũ khí lây lan qua đường không khí càng củng cố vị trí của Ebola trong danh sách các loại vũ khí nhóm A.

4. Dịch hạch



Để hiểu được dịch hạch có thể gây hoảng loạn như thế nào, chỉ cần nhìn vào bức tranh nổi tiếng của Pieter Brueghel the Elder vẽ năm 1562: Khúc Khải hoàn của Thần chết.


Dịch hạch, hay “cái chết đen”, đã giết hại một nửa dân số châu Âu trong thế kỷ 14, gieo rắc nỗi kinh hoàng cho đến tận bây giờ. Bệnh dịch này được đặt cho cái tên “cái chết dữ dội” mà nay dân tộc nào vô phúc bị dịch này quay trở lại hoành hành hoàn toàn có thể đứng trước bờ vực tiêu vong.

Trong tiếng Anh, thực tế dịch hạch và bệnh dịch đều được gọi bằng một từ (plague) dù theo các nhà hoa học thì sốt xuất huyết mới là bệnh dịch đầu tiên trong lịch sử nhân loại. Và cho đến hiện nay từ tiếng Anh plague tiếp tục mang nghĩa của một loại vũ khi sinh học nhóm A đã được loài người nghi ngờ từ lâu: vi khuẩn Yersinia Petis.

Vi khuẩn dịch hạch tồn tại dưới hai chủng chính là dạng hạch và dạng gây viêm phổi. Bệnh dịch hạch điển hình lây lan qua các vết cắn từ bọ chét mang mầm bệnh nhưng cũng có thể được truyền từ người sang người qua tiếp xúc trực tiếp với dịch cơ thể.

Hạch là những tuyến sưng- tức là hạch bạch huyết, quanh vùng háng, nách và cổ. Kèm theo các hạch này sẽ là sốt, ớn lạnh, đau đầu và suy kiệt. Các triệu chứng xuất hiện trong vong hai đến ba ngày và tồn tại điển hình từ một đến sáu ngày. 70% bệnh nhân sẽ tử vong trừ khi có điều trị trong vùng 24 giờ sau khi nhiễm.

Dịch hạch dạng gây viêm phổi ít phổ biến hơn và được truyền qua đường không khi qua động tác ho, hắt hơi và giao tiếp với người bệnh. Các triệu chứng của nó bao gồm sốt, ho, khạc ra máu trong đờm và khó thở.

Ai đang tích trữ mầm dịch hạch?

Các quốc gia bị nghi ngờ sở hữu mầm bệnh dịch hạch làm vũ khí bao gồm Canada, Ai Cập, Đức, Nhật, Triều Tiên, Nga và Hoa Kỳ.

Bản thân các nạn nhân của bệnh dịch hạch, kể cả sau khi họ đã thành xác chết, cũng trở thành một phương tiện phát tán hoàn hảo cho loại vũ khí sinh học này.

Năm 1940, người Nhật đã gây ra một đợt dịch hạch tại Trung Quốc bằng cách thả các túi chứa bọ chét mang mầm bệnh từ trên máy bay xuống.

Ngày nay các chuyên gia dự đoán rằng bệnh dịch hạch dạng viêm phổi có khả năng bị biến thành vũ khí bằng cách tận dụng khả năng lây nhiễm qua không khí của nó. Ngoài ra, các dạng tấn công đơn giản dùng sinh vật trung gian và các biện pháp đơn giản vẫn chưa thể loại trừ.

Một số quốc gia đã tìm hiểu việc sử dụng dịch hạch làm vũ khí, nhất là khi các chủng vi khuẩn có thể được phân lập dễ dàng từ các dịch đang diễn ra tự nhiên khắp thế giới. Với cách điều trị phù hợp, may mắn là tỷ lệ tử vong có thể được đưa xuống dưới 5%. Tuy vậy, loài người vẫn chưa tìm ra vaccine phòng bệnh này.

5. Bệnh sốt thỏ (tularemia)

Bệnh sốt thỏ là minh chứng cho thấy không nhất thiết phải gây ra tỷ lệ tử vong cao mới là vũ khí sinh học ghê gớm.

Bệnh sốt thỏ chỉ gây tử vong ở 5% số bệnh nhân, tuy nhiên loại vi khuẩn gây bệnh này lại là một trong những sinh vật lây lan khủng khiếp nhất trên thế giới.

Năm 1941, Liên Xô thông báo có 10.000 ca mắc bệnh này và sau đó, khi người Đức chiếm Stalingrad vào năm 1942, con số mắc bệnh vọt lên đến 100.000. Phần lớn trong số các ca mắc thuộc về phe người Đức.

Ken Alibek, người nghiên cứu vũ khí sinh học của Liên Xô trước đây, cho rằng lượng lây nhiễm tăng vọt đó không phải là ngẫu nhiên mà là hậu quả của chiến tranh sinh học. Alibek sau đó tiếp tục nghiên cứu phát triển một chủng vi khuẩn sốt thỏ có khả năng kháng với vaccine, trước khi đào thoát sang Hoa Kỳ vào năm 1992.

Vi khuẩn gây bệnh là Francisella tularensis cư trú tự nhiên trong không quá 50 loài sinh vật, trong đó đặc biệt phổ biến ở các loài gặm nhấm, thỏ nhà và thỏ rừng. Con người bị nhiễm bệnh khi tiếp xúc với sinh vật mang mầm bệnh, bị cắn bởi sinh vật mang mầm bệnh, ăn thức ăn nhiễm vi khuẩn hoặc hít phải vi khuẩn lẫn trong không khí.

Triệu chứng điển hình xuất hiện trong vòng 3-5 ngày tùy thuộc vào con đường lây nhiễm. Bệnh nhân có thể bị sốt, ớn lạnh, đau đầu, tiêu chảy, đau cơ, đau khớp, ho khan và ngày càng yếu đi.

Các triệu chứng giống viêm phổi cũng có thể xuất hiện. Nếu không được chữa trị, bệnh nhân sẽ tiếp tục bị rối loạn hô hấp, sốc và tử vong. Bệnh tật thường không xảy ra quá 2 tuần tuy nhiên trong thời gian mắc bệnh, về cơ bản bệnh nhân phải nằm liệt giường.

Bệnh sốt thỏ không lây từ người qua người, có thể dễ dàng chữa bằng kháng sinh và phòng bệnh bằng vaccine. Tuy nhiên, bệnh có thể lây cực kỳ nhanh từ vật chủ là động vật qua người hoặc khi tồn tại trong không khí. Chính khả năng lây lan kinh khủng chứ không phải là tỷ lệ tử vong mới là yếu tố chủ chốt khiến cho F. tularensis được xếp vào nhóm vũ khí sinh học loại A.

Vi khuẩn này lại đặc biệt mạnh trong dạng không khí, do đó mà Hoa Kỳ, Anh, Canada và Liên Xô đều đã tìm cách dùng F. tularensis làm vũ khí sinh học từ sau khi chiến tranh thế giới thứ 2 kết thúc.

[BDV news]


>> Số phận hẩm hiu của vũ khí chiến lược T-4



T-4 đã chạm một tay vào danh hiệu "kẻ hủy diệt tàu sân bay" nhưng dự án máy bay ném bom chiến lược này đã bị hủy bỏ mà không có một lời giải thích.
Trong suốt thời kỳ chiến tranh lạnh Liên Xô luôn cố gắng để tạo ra một kẻ hủy diệt tàu sân bay của Mỹ, song tất cả đều chỉ là những giấc mơ.

Hóa giải sức mạnh của đội tàu sân bay hùng hậu của Mỹ luôn là một bài toán đau đầu đối với lãnh đạo Liên Xô trong suốt thời kỳ chiến tranh lạnh. Mỹ luôn chiếm thế thượng phong trên mặt trận hải quân và không quân.

Đến cuối những năm 1950, có thể nói Liên Xô đã không thể tạo ra được một sự cân bằng nếu có một cuộc chạm trán trên không và trên biển.



T-4 có cấu hình khí động học khá ấn tượng. Theo thống kê, có hơn 600 bằng sáng chế được cấp liên quan đến sự phát triển của T-4.


Liên Xô cũng có được sự hậu thuẫn từ lực lượng tên lửa đạn đạo liên lục địa. Song tại thời điểm đó, Mỹ cũng phát triển thành công tên lửa đạn đạo triển khai trên tàu ngầm, có khả năng đánh trúng mục tiêu ở cự ly đến 2.200km. Kết hợp với nhóm tác chiến của tàu sân bay, đây thực sự là một sự đe dọa lớn đối với Liên Xô. Cách duy nhất để hóa giải mối hiểm họa này là sử dụng các tên lửa cực nhanh với một đầu đạn đặc biệt, thậm chí là đầu đạn hạt nhân.

Với một mục tiêu liên tục di chuyển trên biển, cách tiếp cận hiệu quả nhất là một đột kích từ trên không. Với một tên lửa siêu âm, có tốc độ gấp 4-5 lần tốc độ âm thanh, một máy bay có khả năng đột kích mạng lưới phòng không của tàu sân bay. Đó là cơ sơ để Ủy ban hàng không nhà nước yêu cầu sự ra đời của “kẻ hủy diệt tàu sân bay".

Trong thời kỳ chiến tranh lạnh, phạm vi hủy diệt tối đa của các tên lửa đối không là 160km, tầm cao tối đa 30km. Các tên lửa đối không có khả năng tiêu diệt các mục tiêu bay với tốc độ 2.650km/h ở tầm cao 25km.

Vì vậy, yêu cầu của Ủy ban hàng không nhà nước khá cao, máy bay phải đạt được các tiêu chí sau. Tốc độ tối đa 3.000km/h, trần bay 24km, tên lửa hành trình siêu âm có tầm bắn từ 400-600 dặm, vượt ngoài tầm với của hệ thống phòng không đối phương.



Nếu được hoàn thành T-4 xứng đáng với danh hiệu "kẻ hủy diệt tàu sân bay"

Bản thiết kế vượt thời gian

Năm 1964 Pavel Sukhoi cha đẻ của phòng thiết kế máy bay Sukhoi và Tập đoàn Sukhoi hiện nay đã trình bày bản vẻ mẫu thiết kế máy bay ném bom chiến lược mới T-4.

Với thiết kế khí động học cực kỳ ấn tượng, máy bay có kết cấu cánh tam giác, rìa cánh được kéo dài đến tận gần buồng lái, 2 cánh mũi ở phía trước nhằm tăng độ ổn định và khả năng cơ động.

Phần mũi của máy bay được thiết kế rất độc đáo, phần mũi chúi về phía trước, điều này thể hiện quan điểm thiết kế của T-4 là một mẫu máy bay chuyên thực hiện nhiệm vụ tấn công mặt đất và mặt nước. Bởi phần mũi chúi xuống, radar sẽ quan sát địa hình tốt hơn, cung cấp khả năng lập bản đồ địa hình, tầm nhìn xuống của phi công cũng không bị hạn chế.

T-4 được trang bị 4 động cơ RD36-41 cung cấp lực đẩy có đốt sau 157kN mỗi chiếc, tốc độ tối đa dự kiến là 3.200km/h. Để máy bay có thể đạt tốc độ như vậy, đòi hỏi vật liệu chế tạo phải có khả năng chịu ma sát đặc biệt. Do đó, T-4 được chế tạo từ vật liệu hợp kim titan và thép không gỉ, đây có thể xem là bước đột phá trong vật liệu chế tạo máy bay.

T-4 được dự định trang bị hệ thống điều khiển Fly-by-wire tiên tiến, ngoài ra còn có một hệ thống điều khiển cơ khí dự phòng. Hệ thống radar công suất lớn nhằm phát hiện và tấn công mục tiêu từ xa.

Song song với sự phát triển của T-4 là chương trình phát triển tên lửa siêu âm X-33(Kh-45), do phòng thiết kế OKB-155 (nay là Raduga) đảm nhiệm. Theo yêu cầu tên lửa phải có tốc độ tối đa Mach 6,5-7 lần tốc và có khả năng phóng từ độ cao 30km, tầm bắn từ 550-600km.

Ngày 22/8/1972, mẫu thử nghiệm đầu tiên của T-4 101 chính thức cất cánh.

Phi công thử nghiệm Vladimir Ilyushin, con trai của nhà thiết kế máy bay nỗi tiếng Sergei Ilyushin, được giao nhiệm vụ thực hiện các chuyến bay thử nghiệm của T-4.

Tính đến ngày 19/1/1974, mẫu thử nghiệm T-4 101 đã thực hiện 10 chuyến bay với thời gian 10 giờ 20 phút, mẫu thử nghiệm đã đạt tốc độ Mach-1,3 và đạt độ cao 12km.

Sự kết thúc trong im lặng

Mọi chuyện đối với T-4 đang diễn biến theo chiều hướng khá thuận lợi, mẫu thử nghiệm T-4 102 cũng đã được sản xuất, các mẫu thử nghiệm 103-104 cũng đã được lên kế hoạch.

Đây là thời điểm quan trọng để các nhà thiết kế có thể đạt mục tiêu là đưa máy bay đạt tốc độ tối đa 3.200km/h như yêu cầu. Các chuyến bay thử nghiệm tiếp theo là điều hết sức cần thiết để hoàn thành dự án tiến tới sản xuất loạt.

Với thiết kế khí động học ưu việt, sở hữu tốc độ cao, tầm bay xa, vũ khí uy lực, T-4 chuẩn bị trở thành kẻ hủy diệt tàu sân bay như dự định. Cùng với tên lửa Kh-45 tầm bắn 600km, T-4 hoàn toàn có thể thực hiện các cuộc đột kích tiêu diệt tàu sân bay trước khi đối phương kịp phản ứng.

Thế nhưng, đầu năm 1974, Ủy ban hàng không nhà nước Liên Xô ra quyết đinh tạm đình chỉ công việc đối với dự án T-4. Đến ngày 19/12/1975 các công việc liên quan đến T-4 chính thức bị hủy bỏ mà không có bất kỳ một lời lý giải nào.

Nhiều ý kiến cho rằng, nếu Liên Xô tiếp tục theo đuổi chương trình T-4, có thể họ sẽ tạo ra một ưu thế lớn đối với không quân Mỹ, đe dọa nghiêm trọng các nhóm tác chiến tàu sân bay của Mỹ.

Song cũng có một số ý kiến cho rằng, chi phí phát triển của T-4 là quá đắt đỏ, vai trò của T-4 là không thực sự cần thiết khi Mỹ đã quyết đinh hủy bỏ dự án XB-70 Valkyrie 's.

Điều đáng buồn hơn cả là dành cho nhà thiết kế vĩ đại Pavel Sukhoi, cho đến khi ông qua đời vào ngày 15/9/1975, ông vẫn không nhận được bất kỳ câu trả lời nào cho sự hủy bỏ dự án đầy tâm huyết của ông và nhóm thiết kế.

[BDV news]


>> So sánh các chiến hạm tiêu biểu ở Đông Nam Á



Bài báo sẽ điểm qua 4 "gương mặt" nổi trội nhất trong số các chiến hạm chủ lực thuộc Hải quân các quốc gia Đông Nam Á, là Gepard 3.9, Formidable, Lekiu và Sigma.

Tiếp nối dòng bài về Hải quân các nước ASEAN,xin đi sâu vào phân tích ưu thế của các chiến hạm tiêu biểu trong khu vực, dựa trên các tiêu chí về khả năng tấn công, phòng vệ, cơ động và mức độ hiện đại...

Dưới đây là các phân tích cụ thể:

Khả năng tấn công

Nhìn chung, các chiến hạm tiêu biểu kể trên có vũ khí chủ lực là tên lửa chống hạm. Nếu Gepard 3.9 trang bị tên lửa Kh-35 và Formidable (của Singapore) trang bị tên lửa Harpoon, 2 chiến hạm còn lại sử dụng tên lửa Exocet. Bên cạnh đó, cũng cần xét tới uy lực của các pháo hạm.

Chiến hạm lớp Lekiu của Malaysia được trang bị 8 tên lửa Exocet Block 2, tầm bắn 70km đầu đạn nặng 165kg, một pháo 57mm tầm bắn 17km với tốc độ 220 viên/phút.

Còn Sigma của Indonesia có 4 tên lửa Exocet Block 2, một pháo Oto Melara 76mm với các tính năng như trên Formidable.

Formidable có 8 tên lửa Harpoon tầm bắn 130km đầu đạn 227kg, bên cạnh đó là 1 khẩu pháo Oto Melara 76mm tầm bắn 16km, bắn đạn pháo 6kg với tốc độ lên tới 120 viên/phút.

Gepard có 8 tên lửa Kh-35 Uran-E tầm bắn 130km, một pháo AK-176M 76mm tầm bắn 10km với tốc độ 120 viên/phút.



Tên lửa đối hạm Harpoon.


Về cơ bản các tên lửa cận âm như Exocet, Harpoon hay Uran-E khá giống nhau ở chỗ được radar tàu chiến hay máy bay dẫn đường ở pha đầu và tự sử dụng radar của tên lửa ở pha cuối. Tuy nhiên, do tầm hoạt động thấp, các tàu trang bị loại tên lửa Exocet phải tiếp cận đối phương gần hơn so với Gepard 3.9 và Formidable

Với các thông số (số lượng trong trạng thái sẵn sàng chiến đấu, tầm bắn) của tên lửa như đã nói, kết hợp với pháo hạm trang bị, có thể tạm xếp sức mạnh các tàu chiến theo thứ tự: Formidable, Gepard 3.9, tiếp đó là Lekiu và Sigma.



Gepard 3.9 của Việt Nam.




Formidable của Singapore.


Khả năng phòng vệ

Hệ thống phòng vệ của các tàu chiến trên đều có loại tầm gần và cực gần, cùng hệ thống chống ngầm.

Trong đó, chiến hạm lớp Lekiu có 2 pháo phòng không CWIS MSI 30mm tốc độ bắn 650 viên/phút, 16 tên lửa phòng không Sea-wolf tầm bắn 6km. Khả năng bảo vệ ở mức trung bình.

Sigma có 8 tên lửa phòng không Mistral với tầm bắn 5,3km tốc độ 800m/giây, về căn bản đây là loại tên lửa phòng không vác vai cải tiến nên không thể bằng các loại chuyên nghiệp như Aster hay Seawolf. Hơn nữa, các tên lửa này có cơ chế điều khiển đơn giản (bằng hồng ngoại) và số lượng tên lửa ít.

Gepard có 2 pháo phòng không AK-630 30mm, tổ hợp phòng không gồm 2 pháo AO-18KD 30mm và 8 tên lửa nạp sẵn Sosna-R tầm bắn 8km với tốc độ 1.200m/giây. Hệ thống bảo vệ 4 nòng 30mm kết hợp với 8 tên lửa (có thể hơn) giúp Gepard có khả năng bảo vệ tương đối tốt.

Còn Formidable có tên lửa phòng không Aster-15 với 32 quả tên lửa, loại tên lửa 2 tầng này có thể đánh chặn các loại tên lửa chống hạm cận âm bay thấp khác (ở cự ly 15km), các UAV (ở cự ly 30km).

Nhìn chung, dựa vào số lượng, cự ly đánh chặn và số lượng trang bị, có thể xếp theo thứ tự: Formidable, Gepard 3.9, Lekiu và cuối cùng là Sigma.



Mô phỏng các vị trí trên Formidable



Bắn tên lửa Seawolf trên chiến hạm lớp Lekiu.


Về nhiệm vụ chống ngầm, 3 tàu chiến lớp Formidable, Lekiu, Sigma lại đều dùng ngư lôi hạng nhẹ 324mm của cùng 1 nhà sản xuất còn khả năng của Gepard 3.9 hiện là ẩn số nên trường hợp này chưa thể đưa ra "xếp hạng".

Khả năng cơ động và dự trữ hành trình

Lekiu có lượng giãn nước 2.270 tấn, tốc độ tối đa 28 hải lý/giờ, thủy thủ đoàn 164 người.

Sigma có lượng giãn nước 1.700 tấn, tốc độ tối đa 28 hải lý/giờ, thủy thủ đoàn chừng 80 người

Formidable có tốc độ 27 hải lý/giờ, gần bằng 2 chiến hạm trên nhưng có lượng giãn nước lên tới 3.200 tấn, với thủy thủ đoàn 85 người.

Gepard 3.9 cũng không thua kém gì các tàu bạn khi có vận tốc tối đa là 28 hải lý/giờ, với lượng giãn nước 2.100 tấn, thủy thủ đoàn 103 người

Qua so sánh ta thấy về tốc độ tối đa thì các tàu tương đương nhau, tầm hoạt động cũng đều chừng 5000 dặm nhưng Formidable của Singapore có tải trọng gấp rưỡi các tàu còn lại với số lượng thủy thủ ít, do đó khả năng dự trữ thực phẩm sẽ vượt trội hơn các tàu khác, qua đó cũng góp phần nâng cao khả năng đi biển dài ngày.

Trong hạng mục này, Formidable vẫn đầu bảng, các tàu xếp sau khó phân "hơn thua".




Sigma của Indonesia





Lekiu của Malaysia


Tính năng tàng hình và tự động hóa trên tàu

Xét về tàng hình phụ thuộc vào các yếu tố như thiết kế, chất liệu, các thiết bị phụ trợ, vậy chúng ta tạm thời sẽ đánh giá khả năng tàng hình qua thiết kế hình dáng bên ngoài con tàu.

Chiến hạm Lekiu có thiết kế nhiều thiết bị đặt lộ thiên, điều này sẽ tăng phản xạ radar lên rất nhiều, qua đó khiến nó “nổi bật: trên màn hình theo dõi hơn các tàu khác.

Sigma có thiết kế tương đối ổn, giống như Gepard 3.9 nếu so Formidable có thiết kế "dấu biệt" vũ khí, phương tiện, khí tài vào bên trong. Bất cứ chuyên gia kỹ thuật quân sự nào nhìn vào sẽ cho điểm Formidable cao nhất trong các tàu kể trên.

Về khả năng thông tin liên lạc cũng như thiết bị trên tàu, sẽ khá là khó để kiểm chứng vì các thông số của nhà sản xuất chỉ ở mức tham khảo, nhưng cũng sẽ không khó nhận ra con tàu có tải trọng lớn nhất lại có số người điều khiển gần ít nhất là khả năng tự động hóa sẽ rất cao, đó là Formidable.

Vì vậy, trong hạng mục này, thứ tự lần lượt sẽ là: Formidable, Gepard 3.9 và Sigma, Lekiu.




Theo dõi bắn tên lửa Aster trên Formidable





Sigma của Indonesia có thiết kế khá "mượt"


Kết luận tạm thời

Như vậy, không khó để nhận ra Formidable là chiến hạm hiện đại nhất Đông Nam Á, Gepard 3.9 cũng sử dụng những công nghệ khá hiện đại, nó có một số vượt trội so với các tàu của Malaysia hay Indonesia.

Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, những phép thử so sánh trên đây đơn giản chỉ dựa vào thông số kĩ thuật. Trong tác chiến, thành bại còn phụ thuộc vào kĩ năng của người sử dụng cũng như nghệ thuật quân sự. Hiện đại là quan trọng, con người là quyết định.


[BDV news]


Thứ Năm, 21 tháng 7, 2011

>> 10 vũ khí sinh học đáng sợ nhất (kỳ 1)



Chiến tranh là nơi con người sử dụng mọi công cụ có thể tìm ra trên trái đất để triệt hạ kẻ thù. Để chiến thắng, tôn giáo, triết học, khoa học và nghệ thuật tất cả đều có thể bị bóp méo hoặc bị lợi dụng bằng mọi phương án có thể.


Trong số đó, vũ khí sinh học chính là một trong những “sáng tạo” khủng khiếp nhất, bao gồm các loại virus, vi khuẩn, nấm, côn trùng được dùng để giết hại đối thủ, làm đối phương tê liệt hoặc hủy diệt tài nguyên của kẻ thù.

Ngay từ những năm 1.500 trước Công Nguyên, người Hittie ở Tiểu Á đã nhận ra sức mạnh của bệnh truyền nhiễm và tìm cách làm lây truyền bệnh dịch hạch tại vùng đất của kẻ thù. Các đội quân tìm cách bắn các xác chết mang dịch bệnh vào các pháo đài kiên cố hoặc đầu độc các giếng nước của đối phương.

Đáng chú ý hơn, nhiều nhà sử học còn cho rằng 10 loại bệnh dịch mà theo kinh thánh là của nhà tiên tri Moses làm phép chống lại người Ai Cập thực chất là vũ khí sinh học có thật chứ không phải thần thánh gì.

Đấy là câu chuyện về thời cổ. Từ đó đến nay kiến thức của loại người về các tác nhân gây bệnh và về hệ miễn dịch đã tăng lên chóng mặt cùng với sự tiến bộ của y học. Oái oăm thay, tri thức y học cũng đồng thời được ấp ủ để làm mầm mống vũ khí.

Nửa đầu thế kỷ 20 đã chứng kiến người Đức và người Nhật sử dụng bệnh Than trong chiến trận, sau đó Mỹ, Anh và Nga cũng nối gót phát triển loại vũ khí này.

Năm 1972, vì hậu quả thảm khốc của nó mà cộng đồng quốc tế đã nhất trí thực thi hiệp ước về việc hủy diệt vũ khí sinh hóa và cấm phát triển, sản xuất cũng như tàng trữ vũ khí sinh học và hóa học. Tuy nhiên đến giờ, không có ai đảm bảo rằng không có quốc gia nào đang lén lút phát triển vũ khí sinh học, cũng như không có ai chắc chắn trong thực tế những kiến thức sinh hóa đang có sẽ không bị lợi dụng bởi các nhóm khủng bố dẫn đến những hậu quả khôn lường.

Trong kịch bản kinh hoàng nhất mà các nhà khoa học đang lo ngại, bộ gien của đối phương có thể được sử dụng làm chỉ thị đặc hiệu để các sinh vật tấn công. Nói cách khác, vũ khí sinh học có thể khiến một dân tộc cụ thể biến mất một cách có chọn lọc.



Các chuyên gia chống độc có mặt tại toà nhà Hart Building của Thượng nghị viện Hoa Kỳ sau khi một bức thư chứa vi khuẩn than được gửi tới văn phòng của Thượng nghị sỹ Tom Daschle (AFP).


Trong loạt bài này xin tổng hợp 10 loại tác nhân đáng sợ nhất đã, đang hoặc sẽ có thể được sử dụng trong chiến tranh sinh học của loài người:

Vũ khí sinh học loại A:

Trung tâm phòng chống bệnh tật Hoa Kỳ (CDC) phân loại các vũ khí sinh học loại A với các tiêu chí:

Có thể lây lan dễ dàng với số nạn nhân lớn, có thể gây ra rối loạn đối với dân chúng, và cần được chuẩn bị phòng chống ở chế độ đặc biệt.

Hiện tại mới có 6 tác nhân sinh học được xếp vào nhóm A và tất cả đều đáng được xếp và danh sách mười vũ khí sinh học đáng sợ nhất. (nguồn: CDC).


1. Đậu mùa

Thuật ngữ “vũ khí sinh học” thường gợi ra hình ảnh về các phòng thí nghiệm sạch bong với những nhân viên mặc áo bảo hộ và các ống nghiệm chứa đầy các chất lỏng hủy diệt. Thực tế, trong lịch sử vũ khí sinh học có bộ mặt đời thường hơn nhiều: một kẻ đi đày lang thang trên vùng đất mới, vài cái túi đã được bổ sung bọ chét mang dịch hạch.

Thậm chí trong cuộc chiến giành thuộc địa giữa Anh và Pháp năm 1763, vũ khí sinh học đơn giả chỉ là một cái chăn. Theo lệnh của viên tướng nổi tiếng Jeffrey Amherst, Quân đội Anh đưa những chiếc chăn tẩm virus đậu mùa để triệt hạ các bộ lạc thổ dân Bắc Mỹ tại Ottawa lúc đó là đồng minh của Pháp.

Những người dân bản xứ này hoàn toàn không có khả miễn dịch với virus đậu mùa bởi họ chưa hề gặp bệnh dịch này như đối thủ của họ. Kết quả của chiến thuật này là dịch bệnh đã quét qua những bộ lạc khốn khổ đó không khác gì độ hủy diệt của một trận cháy rừng.

Bệnh đậu mùa có thủ phạm là virus variola trong đó chủng phổ biến nhất gây chết ở 30% số người mắc phải. Dấu hiệu nhận thấy bệnh bao gồm sốt, đau toàn thân và phát ban do các vết sưng chứa nước hoặc vảy, cuối cùng sẽ biến thành sẹo lõm suốt đời nếu như bệnh nhân còn sống.

Đậu mùa thường được lây lan qua tiếp xúc trực tiếp với người nhiễm virus hoặc dịch cơ thể của họ nhưng cũng có thể được truyền qua không khí qua các môi trường kín và chật hẹp.

Năm 1967 tổ chức Y tế thế giới mở một chiến dịch để loại bỏ hoàn toàn bệnh đậu mùa bằng tiêm chủng hàng loạt. Chiến dịch đã thành công rực rỡ khi bệnh đậu mùa không còn lây lan tự nhiên sau ca bệnh cuối cùng ghi nhận năm 1977.

Tuy bệnh đã không còn trong tự nhiên nhưng các chủng virus vẫn được duy trì trong các phòng thí nghiệm ở Nga và Mỹ dưới sự đồng ý của WHO. Mặt khác do virus đậu mùa đã từng được quan tâm rất lớn trong các chương trình vũ khí của một số quốc gia, không ai dám chắc có nơi nào vẫn đang cất giấu loại virus chết người này.

CDC xếp đậu mùa vào nhóm vũ khí sinh học loại A do tỷ lệ tử vong cao và khả năng lan truyền qua không khí của nó. Hiện đã có vaccine phòng đậu mùa nhưng nhìn chung chỉ có các nhân viên y tế và quân sự là được tiêm phòng, đồng nghĩa với việc đa số dân chúng còn lại hứng chịu rủi ro cực lớn nếu xảy ra tấn công bằng virus đậu mùa. Virus có thể được phát tán dưới dạng hơi giống như phun thuốc sâu hoặc thậm chí bằng cách cổ điển nhất là đưa một người mang bệnh vào khu vực cần tấn công.

2. Bệnh Than

Mùa thu 2001, những bức thư chứa một loại bột trắng bí ẩn đã được gửi đến các văn phòng Thượng nghị sỹ và báo giới Mỹ. Khi những người có trách nhiệm thông báo chất bột đó là bào tử của loại vi khuẩn chết người Bacillus anthracis, cảm giáchoảng loạn bao trùm xã hội Mỹ.

Vụ tấn công này đã làm 22 người nhiễm virus và 5 người trong số đó tử vong. Bảy năm sau đó FBI mới lần đến được thủ phạm là nhà nghiên cứu Bruce Ivans, ông này được chính phủ trả lương để nghiên cứu bệnh than nhưng đã tự tử trước khi việc điều tra hoàn tất.

Với tỷ lệ tự vong cao và khả năng tồn tại lâu trong môi trường, hiển nhiên vi khuẩn than được xếp vào nhóm vũ khí sinh học loại A. Loại vi khuẩn này sống trong đất và do đó tiếp xúc và truyền bào tử sang các động vật ăn cỏ. Con người có thể nhiễm qua tiếp xúc, hít thở hoặc nuốt phải B. anthracis.



Con đường tấn công của Bacillus anthracis.


Phần lớn các ca nhiễm bệnh than là qua tiếp xúc ngoài da với vi khuẩn nhưng hình thức nguy hiểm nhất là hít vào qua đường hô hấp, trong đó bào tử xuất hiện tại phổi và được các tế bào miễn dịch mang đến các hạch bạch huyết. Tại đây các bào tử sẽ nhân lên và giải phóng độc tố dẫn đến các triệu chứng sốt, rối loạn hô hấp, đau mỏi cơ, sưng hạch bạch huyết, nôn, tả và xuất hiện các nhọt màu đen.

Nếu không được điều trị, chắc chắn bệnh nhân sẽ tử vong, thậm chí cả khi có trợ giúp y tế cũng chỉ có một phần tư số bệnh nhân sống sót. Tất cả 5 ca tử vong năm 2001 đều là do lây nhiễm qua hình thức nguy hiểm này.

Bệnh than không dễ mắc phải trong các điều kiện bình thường và nó cũng không thể lây từ người sang người. Giống như đậu mùa, cũng lại chỉ có các nhân viên y tế, bác sỹ thú y và nhân viên quân đội là được chủng ngừa căn bệnh này. Phần còn lại luôn nằm trong nguy cơ khi có bất kỳ một cuộc tấn công tương tự xảy ra.

Cùng với việc không được tiêm chủng đầy đủ (điều kiện chung thấy ở hầu hết các tác nhân trong danh sách của chúng ta), khả năng sống dai cũng là một đặc điểm quan trọng của vi khuẩn bệnh than. Một số vi khuẩn Bacillus anthracis có thể được giữ 40 năm hoặc hơn mà vẫn không mất đi khả năng giết người, trong khi nhiều tác nhân sinh học khác chỉ có thể tồn tại một thời gian ngắn dưới điều kiện đặc biệt. Đặc tính này khiến cho vi khuẩn than chiếm ưu thế trong các chương trình vũ khí sinh học trên khắp thế giới.

Năm 1930 các nhà khoa học Nhật Bản đã thực hiện các thí nghiệm trên người với vi khuẩn than trong môi trường phun khí tại Đơn vị nghiên cứu vũ khí sinh học 731, một trạm nghiên cứu tai tiếng đặt tại vùng chiếm đóng Manchuria (Mãn Châu Lý, Trung Quốc) của người Nhật.

Quân đội Anh cũng làm thí nghiệm với bom vi khuẩn than vào năm 1942 khiến cho cả đảo Gruinard bị nhiễm khuẩn đến mức 44 năm sau người ta phải dùng đến 280 tấn formaldehyde để khử trùng khu vực này. Quân đội Liên Xô cũng vô tình để rò rỉ vi khuẩn than theo đường không khí khiến 66 người thiệt mạng.

Ngày nay, Bacillus anthracis vẫn là một trong những loại vũ khí sinh học đáng sợ và nổi tiếng nhất. Vô số chương trình vũ khí đã hợp sức sản xuất tác nhân chết người này, trong khi tiêm chủng hàng loạt chỉ có thể tiến hành khi đã xảy ra nhiễm khuẩn hàng loạt

[BDV news]


>> Động cơ cực khỏe cho Xe tăng Trung Quốc?



Trang mạng Xinjunshi của Trung Quốc cho biết xe tăng Type-99KM được trang bị động cơ lên đến 2.100 mã lực, một chuẩn mực mới của xe tăng hiện đại.


Trang mạng trên giới thiệu: Type-99KM là một sự vượt trội về hệ thống điện tử, giáp bảo vệ thế hệ mới, động cơ cực khỏe, hệ thống vũ khí đầy uy lực. Và rằng, Type-99KM là một chuẩn mực mới của xe tăng, hoàn toàn vượt trội so với xe tăng M1A2 của Mỹ về hiệu suất tổng thể. Đây là loại tăng hiện đại nhất và uy lực nhất trong kho vũ khí của quân đội Trung Quốc.

Đồng thời, xe tăng chiến đấu chủ lực Type-99KM sẽ là nòng cốt của lực lượng tăng thiết giáp Trung Quốc trong tương lai, thay thế cho loại tăng Type-99 hiện nay. "Type-99KM không còn là một sự tuyên truyền như mọi người vẫn nghĩ", bài viết của Xinjunshi có đoạn.



Thông số cơ bản dài 11 mét, rộng 3,4 mét, cao 2,2 mét, khối lượng của Type-99KM lên đến 60 tấn. Type-99KM được Trung Quốc cho là chuẩn mực mới của xe tăng hiện đại.


Theo một số nguồn tin, Type-99KM được trang bị áo giáp composite dạng modun thế hệ mới, dể dàng tháo lắp và thay đổi tùy theo nhiệm vụ. Thiết bị điện tử bên trong được cải tiến, hiện đại hơn, hệ thống dữ liệu quản lý chiến đấu mới cho phép xe tăng Type-99KM nhanh chóng định vị và tiêu diệt mục tiêu.

Hệ thống phòng vệ chủ động laser APS JD-4 tối ưu với các cảm biến tinh vi hơn cho phép đối phó hiệu quả với mối đe dọa đến từ tên lửa chống tăng. Hệ thống quan sát ưu việt cho phép kiểm soát tốt môi trường xung quanh xe tăng và các khu vực khác.

Pháo chính của Type-99KM được cho là có thể lên đến cỡ 155mm, tích hợp khả năng phóng tên lửa chống tăng qua nòng pháo. Hệ thống nạp đạn tự động mới, hệ thống kiểm soát bắn mới, máy tính đường đạn thế hệ mới, hệ thống ổn định nòng pháo khi hành tiến, cho phép bắn chính xác hơn, ngay cả trong khi xe đang di chuyển.

Pháo chính của Type-99KM có khả năng xuyên thủng vỏ giáp dày 850mm, kể cả trang bị giáp cảm ứng nỗ, thậm chí lên đến 950mm với loại đạn chống tăng mới, khoảng cách để pháo chính của Type-99KM có thể đạt được khả năng xuyên giáp như vậy không được công bố, trong khi đó khả năng này ở pháo chính 120mm của M1A2 chỉ xuyên có 810mm.

Ngoài ra, Type-99KM còn được trang bị súng phòng không cỡ 12,7mm được điều khiển bắn từ bên trong xe, giúp xe tăng đối phó với các mục tiêu trên không.

Công suất động cơ gây sốc

Đặc biệt hơn cả, Type-99KM được trang bị động cơ diesel làm mát bằng chất lỏng công suất lên đến 2.100 mã lực, được giới thiệu là động cơ trang bị cho xe tăng mạnh nhất thế giới hiện nay.

Tỷ lệ lực đẩy trên trọng lượng lên đến 28 mã lực/tấn. Tốc độ tối đa của Type-99KM có thể lên đến 80km/h. "Thông số này hoàn toàn có thể cạnh tranh danh hiệu “xe tăng bay” với Leopard-2A6 của Đức và T-80 của Nga", trang mạng Xinjunshi bình luận.

Xe tăng Type-99KM được bọc giáp dày từ 500-600 mm xung quanh tháp pháo, phía trước mũi xe được bọc giáp dày đến 1.000-1.200mm, kết hợp với giáp cảm ứng nỗ ERA.

Tuy nhiên, các nhà phân tích quân sự thế giới đang băn khoăn, với một động cơ có công suất lớn như vậy tầm hoạt động của xe tăng này sẽ là bao nhiêu? Thân xe buộc phải kéo dài hơn để tăng độ tiện nghi và dung tích chứa nhiên liệu làm cho khối lương xe tăng đáng kể, 60 tấn so với 54 tấn của Type-99.

Cho dù Trung Quốc đã cố gắng để tạo ra một mẫu xe tăng hoàn toàn mới, song người ta không khó để nhận ra bóng dáng của T-72 phía sau những tấm giáp hộp bọc phía trước tháp pháo. Chi phí sản xuất của loại tăng này cũng rất đắt đỏ, 2,5 triệu USD/mỗi chiếc, số lượng sản xuất của Type-99KM bị hạn chế do thiếu kinh phí.

[BDV news]


>> Sự thật về công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng



Gần đây Trung Quốc luôn rêu rao cái gọi là họ có chủ quyền không thể tranh cãi đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.


Việc Trung Quốc diễn giải nội dung Công hàm ngày 14/9/1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng như là một chứng cứ cho thấy Việt Nam đã công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là hết sức phiến diện và xuyên tạc nội dung, ý nghĩa của bản Công hàm đó, hoàn toàn xa lạ với nền tảng pháp lý của Việt Nam cũng như luật pháp quốc tế, bất chấp thực tế khách quan của bối cảnh lịch sử đương thời.

Có thể nói, giải thích xuyên tạc Công hàm 1958 là một trong chuỗi những hành động có tính toán nhằm tạo cớ, từng bước hợp thức hóa yêu sách chủ quyền phi lý của họ đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.


Công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Ảnh: internet


Theo lý giải của Trung Quốc, ngày 4/9/1958, Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai đã công khai tuyên bố với quốc tế quyết định của Chính phủ Trung Quốc về hải phận 12 hải lý kể từ đất liền của Trung Quốc và các đảo ngoài khơi, bao gồm cả quần đảo Tây Sa và Nam Sa (tức quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam).

Sau đó, ngày 14/9/1958, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) Phạm Văn Đồng gửi Công hàm cho Thủ tướng Chu Ân Lai, nguyên văn như sau:

"Thưa Đồng chí Tổng lý,

Chúng tôi xin trân trọng báo tin để Đồng chí Tổng lý rõ: Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa quyết định về hải phận của Trung Quốc.

Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa trên mặt biển. Chúng tôi xin kính gửi Đồng chí Tổng lý lời chào rất trân trọng”.


Cần phải thấy rằng, các tuyên bố nói trên của Trung Quốc cũng như của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời trong bối cảnh có nhiều chuyển biến phức tạp và cấp bách đối với Trung Quốc về tình hình lãnh thổ trên biển theo luật pháp quốc tế cũng như diễn biến căng thẳng của vấn đề quân sự xung quanh eo biển Đài Loan.

Năm 1956, Liên Hợp Quốc bắt đầu tiến hành các hội nghị quốc tế bàn về Luật Biển, sau đó một số hiệp định được ký kết vào năm 1958, tuy nhiên vẫn chưa làm thỏa mãn yêu sách về lãnh hải của một số quốc gia.

Bối cảnh xuất hiện công hàm

Từ đầu thế kỷ 20, nhiều quốc gia đã bắt đầu chú ý tới nguồn lợi to lớn từ khoáng sản và tài nguyên biển, bộc lộ ý đồ mở rộng chủ quyền trên biển. Trung Quốc, dù trong lịch sử ít quan tâm đến biển, cũng bắt đầu chú ý đến việc mở mang, kiếm tìm những đặc quyền trên biển. Mặc dù lúc đó chưa phải là thành viên của Liên Hợp Quốc, nhưng Trung Quốc cũng bắt đầu chú ý đến việc lên tiếng với cộng đồng quốc tế nhằm giải quyết các vấn đề trên biển theo hướng có lợi cho Trung Quốc.

Trong chiến lược cho tương lai, thì việc cạnh tranh trên biển, cũng như tìm kiếm những nguồn tài nguyên trên biển là một vấn đề được Trung Quốc đặt ra. Trên thực tế, cũng từ đầu thế kỷ 20, Trung Quốc đã hình thành ý định nhòm ngó các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.

Rõ ràng, việc nhòm ngó các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam từ thế kỷ 20 đã nằm trong chiến lược "lấn sân” của Trung Quốc về tham vọng mở rộng biên giới quốc gia trên biển.

Ngày 26/5/1950, chiến tranh Triều Tiên bùng nổ, Tổng thống Hoa Kỳ Harry S. Truman đã ra lệnh cho Hạm đội 7 tiến vào eo biển Đài Loan, ngăn chặn cuộc tấn công của Trung Quốc nhắm vào các đảo trên eo biển Đài Loan. Với hành động này, Mỹ đã thực sự bảo hộ Đài Loan, mặc cho Trung Quốc kịch liệt lên án.

Để tỏ rõ quyết tâm giải phóng Đài Loan, ngày 3/9/1954, Trung Quốc đã tấn công trừng phạt đối với các hòn đảo ven biển như Kim Môn, Mã Tổ. Các nhà chép sử gọi đây là cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan lần thứ nhất.

Ngày 11/8/1954, Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai tuyên bố sẽ "giải phóng” Đài Loan, và tăng cường pháo kích vào hai đảo Kim Môn và Mã Tổ.

Ngày 12/9/1954, Chủ tịch Hội đồng Liên quân Hoa Kỳ đưa ra dự tính tấn công Trung Quốc bằng vũ khí nguyên tử nhưng Tổng thống Eisenhower đã do dự sử dụng vũ khí nguyên tử cũng như sự liên can của quân đội Hoa Kỳ vào cuộc chiến này.

Năm 1958, tiếp tục xảy ra cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan lần thứ hai. Ngày 23/8/1958 Trung Quốc đột ngột tăng cường nã pháo vào đảo Kim Môn. Theo Hiệp định Phòng thủ tương hỗ giữa Đài Loan-Hoa Kỳ, Tổng thống Eisenhower đã ra lệnh cho tàu chiến Hoa Kỳ đến bảo vệ đường tiếp tế hậu cần từ đảo Đài Loan đến 2 đảo tiền tiêu Kim Môn và Mã Tổ.

Ngoài bối cảnh "phức tạp và cấp bách” đối với Trung Quốc như đã nêu trên, theo Thạc sĩ Hoàng Việt (Quỹ Nghiên cứu Biển Đông), Công hàm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng ra đời trong bối cảnh quan hệ đặc thù Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – Trung Quốc lúc đó "vừa là đồng chí vừa là anh em”.

Năm 1949, bộ đội Việt Nam còn tấn công và chiếm vùng Trúc Sơn thuộc lãnh thổ Trung Quốc từ tay các lực lượng khác rồi trao trả lại cho Quân giải phóng Trung Quốc. Năm 1957, Trung Quốc chiếm giữ đảo Bạch Long Vĩ của Việt Nam từ tay một số lực lượng khác, rồi sau đó cũng trao trả cho Việt Nam.

Điều này cho thấy quan hệ đặc thù của hai nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – Trung Quốc lúc bấy giờ. Do vậy, trong tình hình lãnh thổ Trung Quốc đang bị đe dọa chia cắt, cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan lần thứ hai khiến Hải quân Hoa Kỳ đưa tàu chiến vào can thiệp, việc Trung Quốc ra tuyên bố về lãnh hải bao gồm đảo Đài Loan trước hết nhằm khẳng định chủ quyền trên biển của Trung Quốc trong tình thế bị đe dọa tại eo biển Đài Loan.

Tuy nhiên, Trung Quốc vẫn không quên mục đích "sâu xa” của họ trên Biển Đông nên đã "lồng ghép” thêm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam vào bản tuyên bố. Công hàm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng xuất phát từ mối quan hệ rất đặc thù với Trung Quốc trong thời điểm Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đang rất cần tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ của các quốc gia trong khối xã hội chủ nghĩa bấy giờ và là một cử chỉ ngoại giao tốt đẹp thể hiện quan điểm ủng hộ của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong việc tôn trọng lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc trước các diễn biến quân sự phức tạp trên eo biển Đài Loan.

Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã phát biểu những lời ủng hộ Trung Quốc trong hoàn cảnh hết sức khẩn trương, chiến tranh chuẩn bị leo thang, Hạm đội 7 của Mỹ đang tiến vào eo biển Đài Loan và đe dọa Trung Quốc.

Nội dung Công hàm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng được thể hiện rất thận trọng, đặc biệt là không hề có việc tuyên bố từ bỏ chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Bởi, hơn ai hết, chính Thủ tướng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thấu hiểu quyền tuyên bố về lãnh thổ quốc gia thuộc thẩm quyền cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất là Quốc hội, và việc bảo vệ tòan vẹn lãnh thổ quốc gia luôn luôn là mục tiêu hàng đầu đối với Nhà nước và nhân dân Việt Nam, nhất là trong hoàn cảnh ra đời của Công hàm như đã nêu trên.

Công hàm 1958 có hai nội dung rất rõ ràng: Một là, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành việc Trung Quốc mở rộng lãnh hải ra 12 hải lý; Hai là, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chỉ thị cho các cơ quan nhà nước tôn trọng giới hạn lãnh hải 12 hải lý mà Trung Quốc tuyên bố.

Trong Công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng không có từ nào, câu nào đề cập đến vấn đề lãnh thổ và chủ quyền, càng không nêu tên bất kỳ quần đảo nào như Trung Quốc đã nêu.

Do vậy, chỉ xét về câu chữ trong một văn bản có tính chất ngoại giao cũng dễ dàng nhận thấy mọi suy diễn cho rằng Công hàm 1958 đã tuyên bố từ bỏ chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và coi đó là bằng chứng khẳng định Việt Nam đã thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo này là xuyên tạc lịch sử và hoàn toàn không có cơ sở pháp lý.

Việt Nam có chủ quyền không thể chối cãi với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa

Tại Hội nghị San Francisco 1951, các quốc gia tham dự đã bác bỏ yêu sách về chủ quyền của Trung Quốc trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Cũng tại hội nghị này, Việt Nam đã long trọng tuyên bố chủ quyền lâu đời và liên tục của mình trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong phiên họp toàn thể mà không có bất kỳ sự phản đối hay ý kiến gì khác của tất cả các quốc gia tham dự. Điều đó có nghĩa là kể từ năm 1951, cộng động quốc tế đã thừa nhận chủ quyền lịch sử và pháp lý của Việt Nam tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Những tuyên bố đơn phương về chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo này theo luật pháp quốc tế là vô hiệu. Hiệp định Genève 1954, mà Trung Quốc là một nước tham gia chính thức, cũng thừa nhận chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc về người Việt Nam. Các điều khoản trong Hiệp định cũng yêu cầu các quốc gia tham dự Hội nghị cam kết tôn trọng chủ quyền độc lập, nền thống nhất quốc gia và sự toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.

Do vậy, phần tuyên bố về chủ quyền của Trung Quốc liên quan tới hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam trong bản tuyên bố ngày 4/9/1958 về cơ sở pháp lý quốc tế đương nhiên được xem là không có hiệu lực.

Trong Công hàm 1958, Thủ tướng Phạm Văn Đồng không hề đề cập đến hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Vì điều đó là không cần thiết, bởi theo Hiệp định Genève 1954, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nằm phía Nam vĩ tuyến 17 tạm thời thuộc quyền quản lý của Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa (VNCH).

Trong thời điểm đó, dưới góc độ tài phán quốc tế, thì Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không có nghĩa vụ và quyền hạn hành xử chủ quyền tại hai quần đảo này theo luật pháp quốc tế. Công hàm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng đương nhiên chỉ tán thành những tuyên bố của Trung Quốc có nội dung hợp pháp được cộng đồng quốc tế thừa nhận trên cơ sở luật pháp quốc tế cho đến giai đoạn đó.

Một phần nội dung của bản tuyên bố ngày 4/9/1958 của Trung Quốc đã vi phạm nghiêm trọng chủ quyền quốc gia về lãnh thổ của Việt Nam, đồng thời cũng vi phạm nghiêm trọng các cơ sở pháp lý về chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà cộng đồng quốc tế đã thừa nhận cũng như đã nhiều lần tái thừa nhận một cách minh thị là thuộc chủ quyền của Việt Nam.

Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong bối cảnh quan hệ hữu nghị rất đặc thù với Trung Quốc đã khẳng định lập trường ghi nhận, tán thành tuyên bố giới hạn 12 hải lý về lãnh hải của Trung Quốc, còn những nội dung cụ thể diễn giải vượt quá phạm vi chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc theo các hiệp ước quốc tế đã không được đề cập tới như là một sự mặc nhiên thừa nhận sự vô hiệu của nó dưới ánh sáng của pháp luật quốc tế.

Trong khi đó, Chính quyền Việt Nam Cộng hòa, theo Hiệp định Genève 1954, đã liên tục thực thi chủ quyền lâu đời của người Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa bằng các văn bản hành chính nhà nước cũng như bằng việc triển khai thực thi chủ quyền thực tế trên hai quần đảo này.

Đỉnh cao của sự khẳng định chủ quyền Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong giai đoạn này là trận hải chiến quyết liệt của Hải quân Việt Nam Cộng hòa chống lại sự xâm lược của tàu chiến và máy bay Trung Quốc tại quần đảo Hoàng Sa năm 1974

Trong bối cảnh lịch sử đặc biệt nêu trên càng thấy rõ một sự thật hiển nhiên là Công hàm ngày 14/9/1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng đơn giản chỉ ghi nhận lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc, không hề nhắc lại các nội dung mập mờ liên quan đến các quần đảo thuộc chủ quyền của Việt Nam.

Về thực chất, Công hàm 1958 thể hiện một thái độ chính trị, một cử chỉ hữu nghị với tuyên bố giới hạn lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc. Thực là phi lý, nếu cố tình suy diễn và xuyên tạc (như lập luận phía Trung Quốc), cho rằng Thủ tướng Phạm Văn Đồng, người con ưu tú của dân tộc, lại ký văn bản từ bỏ lãnh thổ và chủ quyền của đất nước trong khi chính ông và cả dân tộc Việt Nam đã chiến đấu hết mình để giành độc lập, tự do.

Có lẽ cần phải nhấn mạnh rằng tất cả những hành động ngoại giao của Thủ tướng Phạm Văn Đồng trong Công hàm 1958 có thể hiểu không phải là ông không nhìn thấy mọi ý đồ của Trung Quốc đối với cách mạng Việt Nam vì ông đã có kinh nghiệm trong bàn đàm phán Genève năm 1954, khi mà Trung Quốc đã có không ít động thái rất bất lợi cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Nội dung Công hàm ngày 14/9/1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng phù hợp với hoàn cảnh và mối quan hệ đặc thù giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Trung Quốc bấy giờ, đồng thời cũng hàm chứa thái độ không bao giờ từ bỏ chủ quyền của người Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đó cũng là quan điểm nhất quán của Việt Nam, bởi từ năm 1945 đến nay, Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Quốc hội Việt Nam Cộng hòa, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và sau đó là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và hiện nay là Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam chưa bao giờ lên tiếng hoặc ra nghị quyết từ bỏ chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Về thuyết "estoppel”

Một cơ sở nữa trên phương diện pháp lý, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lúc đó không trực tiếp quản lý đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Trước năm 1975, các quốc gia và lãnh thổ tranh chấp gồm: Trung Quốc, Đài Loan, Việt Nam Cộng hòa và Philippines. Như vậy, những lời tuyên bố của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa xem như lời tuyên bố của một quốc gia thứ ba không có ảnh hưởng đến vụ tranh chấp.

Tuy nhiên, có tác giả đã cố tình nêu thuyết "estoppel” để suy diễn những lời tuyên bố đó có hiệu lực bó buộc đối với Việt Nam.

Theo luật quốc tế, không có một văn bản pháp lý nào có thể gắn cho những lời tuyên bố đơn phương một tính chất bó buộc, ngoại trừ thuyết "estoppel”. Mục đích chính của nó ngăn chặn trường hợp một quốc gia có thể hưởng lợi vì những thái độ bất nhất của mình, và do đó, gây thiệt hại cho quốc gia khác.

Vì vậy, estoppel phải hội đủ các điều kiện chính:

(1) Lời tuyên bố hoặc hành động phải do một người hoặc cơ quan đại diện cho quốc gia phát biểu và phải được phát biểu một cách minh bạch;
(2) Quốc gia nại "estoppel” phải chứng minh rằng mình đã dựa trên những lời tuyên bố hoặc hoạt động của quốc gia kia, mà có những hoạt động nào đó, hoặc không hoạt động;
(3) Quốc gia nại "estoppel” cũng phải chứng minh rằng, vì dựa vào lời tuyên bố của quốc gia kia, mình đã bị thiệt hại, hoặc quốc gia kia đã hưởng lợi khi phát biểu lời tuyên bố đó;
(4) Nhiều bản án còn đòi hỏi lời tuyên bố hoặc hoạt động phải được phát biểu một cách liên tục và lâu dài. Thí dụ: bản án "Phân định biển trong vùng Vịnh Maine”, bản án "Những hoạt động quân sự và bán quân sự tại Nicaragua”, bản án "Ngôi đền Preah Vihear”..

Áp dụng những nguyên tắc trên của estoppel vào những lời tuyên bố của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, chúng ta thấy thiếu điều kiện 2 và 3 đã nêu ở trên. Năm 1956, năm 1958 và năm 1965, Trung Quốc đã không có thái độ nào, hoặc thay đổi thái độ vì dựa vào lời tuyên bố của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trung Quốc cũng không thể chứng minh được rằng mình bị thiệt hại gì do dựa vào những lời tuyên bố đó. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng không được hưởng lợi gì khi có những lời tuyên bố đó.

Trong suốt quá trình thực hiện mưu đồ bá chủ trên Biển Đông, Trung Quốc đã không ít lần đưa ra các tài liệu xuyên tạc lịch sử, biến có thành không, biến không thành có, tung hỏa mù để cố tình làm sai lệch nhận thức của chính nhân dân Trung Quốc cũng như của cộng đồng quốc tế về vấn đề này theo hướng có lợi cho mưu đồ của Trung Quốc.

Tuy nhiên, trước những bằng chứng hiển nhiên của sự thật lịch sử và dưới ánh sáng của luật pháp quốc tế những hành vi xuyên tạc, tung hỏa mù, cố tình làm cho cộng đồng quốc tế ngộ nhận càng khiến cho Trung Quốc lộ rõ âm mưu cũng như thủ đoạn của họ trong suốt quá trình áp đặt ý đồ "nuốt trọn” Biển Đông, theo kiểu "miệng nói hòa bình không xưng bá, tay làm phức tạp hoá tình hình”.

[BDV news]


Copyright 2012 Tin Tức Quân Sự - Blog tin tức Quân Sự Việt Nam
 
Lên đầu trang
Xuống cuối trang