Tin Quân Sự - Blog tin tức Quân sự Việt Nam: Nghệ thuật quân sự Hải quân

Paracel Islands & Spratly Islands Belong to Viet Nam !

Quần Đảo Hoàng Sa - Quần Đảo Trường Sa Thuộc Về Việt Nam !

Hiển thị các bài đăng có nhãn Nghệ thuật quân sự Hải quân. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Nghệ thuật quân sự Hải quân. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Bảy, 19 tháng 5, 2012

>> Chiến thuật thống trị bầu trời của Mỹ từng bị đập tan ở Việt Nam

Phương thức chiến thuật "Thống trị bầu trời” kết hợp với vũ khí trang bị hiện đại, công nghệ cao đang trở thành mối nguy hiểm của các nước ven biển đang phát triển và có nền công nghiệp quốc phòng hạn chế.




http://nghiadx.blogspot.com
Tên lửa SAM - Việt Nam

Cùng với sự phát triển của không quân, hệ thống phòng không cũng ngày càng phát triển với nhiều chủng loại: các hệ thống phòng không tầm xa, tầm trung, hệ thống phản ứng nhanh tầm gần... với khả năng tiêu diệt mục tiêu đường không cực lớn.

Chính vì thế, kẻ thù của chúng ta, muốn “thống trị bầu trời” phải chế áp các tổ hợp phòng không của ta, tạo ra một “bầu trời sạch” cho lực lượng không quân của chúng tác chiến.

Đây là một trong những nhiệm vụ cực kỳ quan trọng của địch, quyết định thành bại của chiến trường.

Vì vậy, tổ chức đập tan ý đồ của địch, biến vùng trời Việt Nam thành lưới lửa cho quân xâm lược cũng là một nhiệm vụ sống còn.

Kinh nghiệm và bài học cho nhau trong cuộc chiến tranh Việt –Mỹ

Áp chế phòng không thực chất là “làm mù” hệ thống phòng không của đối phương bằng cách tiêu diệt toàn bộ hệ thống radar, thông tin chỉ huy… của tên lửa đối không.

Các chiến thuật áp chế phòng không manh nha hình thành từ Thế chiến thứ hai khi các loại máy bay chiến đấu được sử dụng phổ biến.

Thời kỳ đó, hệ thống phòng không trong giai đoạn sơ khai, chủ yếu bằng các loại pháo, súng máy phòng không ngắm bắn bằng mắt thường nên chiến thuật áp chế phòng không chưa hình thành rõ rệt, chủ yếu phụ thuộc vào kỹ năng tấn công của lực lượng không quân chiến trường.

Chiến thuật áp chế phòng không chính thức bắt đầu trên quy mô lớn tại cuộc đối đầu giữa không quân Mỹ và lực lượng phòng không của Việt Nam (1965-1972).

Ở cuộc chiến này, đế quốc Mỹ đã áp dụng hầu hết những tinh hoa về khoa học kỹ thuật trên thế giới lúc bấy giờ vào trong tác chiến áp chế phòng không đầu tiên trên chiến trường Việt Nam, hòng biến “Việt Nam trở về thời kỳ đồ đá”.

Việt Nam, đương nhiên là quốc gia đầu tiên trên thế giới nếm đòn lợi hại từ chiến thuật này.

Lực lượng phòng không Việt Nam, đặc biệt là bộ đội tên lửa, ngoài việc đối phó khốc liệt, cân não với một lực lượng có nền công nghệ điện tử vượt trội trong gây nhiễu (áp chế mềm), họ phải đối đầu (áp chế cứng) với một loại tên lửa khét tiếng: Tên lửa AGM-45 Shrike.

AGM-45 Shrike là loại tên lửa diệt radar bị động. Khi phát hiện ra sóng ra đa phòng không đối phương, phi công sẽ "khóa" mục tiêu và phóng tên lửa. Khoảng cách từ tầm phóng xa nhất (25km) đến mục tiêu (radar phòng không) là 50 giây, trong suốt khoảng thời gian đó, để đảm bảo tên lửa trúng đích, radar phải liên tục phát sóng.

Thời kỳ đầu AGM-45 Shrike gây ra vô vàn khó khăn, nhiều hệ thống radar bị tiêu diệt. Nhưng trí tuệ thông minh của bộ đội tên lửa Việt Nam đã tìm được phương án tối ưu để chống lại loại tên lửa nguy hiểm này.

http://nghiadx.blogspot.com
Hệ thống S-300 PMU1 - Việt Nam

Đó là chế độ bật, tắt radar phát sóng phối hợp với khả năng tự đeo bám mục tiêu sau khi bắt được mục tiêu của tên lửa.

Chiến thuật áp chế phòng không “mềm” (gây nhiễu) hay cứng (chủ động tiêu diệt radar) đều kém hiệu quả khi gặp phải chiến thuật “tắt” của trắc thủ radar đối phương.

>> Hệ thống tên lửa S-500

Những radar dẫn bắn chỉ được bật lên trong một thời gian ngắn khi nhận được thông tin về mục tiêu và được tắt đi ngay sau khi tên lửa phòng không nhận dạng mục tiêu.

Mỹ đã gặp một đối thủ dày dạn kinh nghiệm vạch nhiễu tìm thù, và rất thành công trong phương pháp bật – tắt Radar chống AGM-45 Shrike hiệu quả và đương nhiên Mỹ đã trả giá đắt. Hơn 4 ngàn máy bay Mỹ bị tan xác trên bầu trời Việt Nam và đặc biệt trong chiến dịch Linebacker năm 1972 lịch sử khi B52-“pháo đài bay bất khả xâm phạm”, rơi rụng như sung.


Trước sự áp chế khốc liệt của Mỹ, tên lửa SA-2, những con Rồng lửa Việt Nam, vẫn giáng cho không quân Mỹ những đòn khủng khiếp

Tuy nhiên, “tiền nào của ấy”, Mỹ , từ giá đắt này đã có những kinh nghiệm quý báu.

Nếu như với phương pháp “bật-tắt” là có thể hạn chế được tên lửa AGM Shrike thì Mỹ đã phát triển một loại tên lửa khác, đó là AGM-88 HARM.

Tên lửa AGM-88 HARM, khi radar của đối phương phát tín hiệu mà nó bắt được thì “nhớ kỹ”. Dù có bật-tắt thế nào thì AGM-88 HARM cũng tự tìm đến mục tiêu bằng định vị GPS.

Điều rút ra cho Việt Nam qua 3 cuộc chiến tranh trên thế giới gần đây

Từ năm 1991 đến nay, Mỹ tiến hành nhiều cuộc chiến tranh, Mỹ đều làm được điều mà không làm được ở Việt Nam, đó là: Làm tê liệt hoàn toàn hệ thống phòng không của đối phương, trong khi lực lượng phòng không-không quân của các quốc gia đó không phải là không hiện đại.

Biến vùng trời đối phương thành “vùng trời sạch”, còn ngạo mạn tuyên bố “vùng cấm bay”… Không quân của họ, trên “vùng cấm bay” đó thì “nhởn nhơ” tác chiến giống như cưỡi máy bay đi săn nai trên đồng cỏ châu Phi.

Điều này chứng tỏ, áp chế phòng không là một chiến thuật hữu hiệu của các nước có nền khoa học quân sự hiện đại khi tấn công một nước có nền khoa học quân sự thấp. Dĩ nhiên, đây là mối nguy hiểm lớn nhất của các nước đang bị nguy cơ xâm lược phải chuẩn bị đối đầu với quốc gia hùng mạnh.

>> Chiến thuật giữ Biển Đông của Việt Nam

Điều rút ra cho Việt Nam trong cuộc đối đầu với Mỹ và trong 3 cuộc chiến gần đây do Mỹ và NATO tiến hành là:

Khi các hệ thống phòng không được xây dựng dưới dạng mạng lưới, qua đó, thông tin thu thập được qua radar hay trinh sát quang học thông thường đều có thể chia sẻ cho khẩu đội phòng không với tốc độ cao qua mạng lưới datalink. Khi tên lửa phòng không có thể được dẫn bắn từ một hay nhiều radar đặt cách xa nó.

Khi những hệ thống phòng không được kết nối với nhau sử dụng tín hiệu số kép cùng những dàn tên lửa phòng không tầm xa cơ động như S-300 MPU1 bắn và di chuyển… thì việc tiêu diệt một vài hệ thống radar là có thể.

Uy lực hệ thống rồng lửa tối tân S-300PMU1 của Việt Nam
Nhưng để đánh quỵ khả năng phòng không ngay từ loạt đạn đầu là không thể. Và lúc đó, lực lượng phòng không tiếp tục sẽ là cơn ác mộng cho phi công đối phương.

Một điều dễ nhận thấy, tên lửa chống bức xạ loại hiện đại như AGM-88 HARM là loại tiêu diệt radar siêu đẳng nhất nhưng đắt tiền nhất và phi công vẫn phải mạo hiểm tính mạng khi bay vào vùng xảy ra tác chiến. Cho nên sử dụng vũ khí tầm trung, tầm xa trong chiến tranh hiện đại đóng vai trò quan trọng.

Đây là phương thức tác chiến chủ yếu mà các nước lớn thường áp dụng làm giảm thiểu tối đa sự hy sinh không cần thiết của con người, phi công bớt mạo hiểm hơn khi bay vào vùng tác chiến làm nhiệm vụ tiếp theo.

Trong 3 cuộc chiến mà Mỹ và NATO tiến hành ở I-rắc, Nam Tư và Li bi thì mở đầu, một loại vũ khí luôn luôn được lựa chọn khai hỏa và đồng thời là nhân tố quan trọng trong các chiến dịch chế áp điện tử là tên lửa hành trình tầm xa BGM-109 Tomahawk.

Tên lửa hành trình kiểu Tomahawk của Mỹ; dòng tên lửa SS-N của Nga, tên lửa hải quân và không quân Club hay gần đây là thế hệ tên lửa Đông Phong của Trung Quốc đều sử dụng hệ thống định vị toàn cầu để dẫn đường cho tên lửa tấn công mục tiêu từ xa một cách chính xác hơn, với tầm tác chiến từ vài trăm đến hàng chục nghìn km.

Có thể tấn công những mục tiêu quan trọng của đối phương mà không cần đưa các phương tiện hỏa lực tiếp cận vùng tác chiến. Với kích thước nhỏ gọn, độ phản xạ radar rất thấp nhờ ứng dụng các loại sơn có khả năng hấp thu sóng điện từ nên việc phát hiện ra nó rất khó khăn.

Có thể nói đây là những loại tên lửa cực kỳ nguy hiểm cho hệ thống phòng không, thông tin chỉ huy của bất kỳ quốc gia nào phải đối phó, đồng thời đây cũng là phương án tác chiến khả thi nhất mà nước lớn thực hiện.

Đập tan ý đồ áp chế phòng không của đối phương, việc đầu tiên là phải tổ chức, bố trí các trận địa để tiêu diệt tên lửa hành trình có cánh tầm trung, tầm xa cận âm như Tomahawk hay Đông Phong Trung Quốc càng nhiều càng tốt khiến đối phương “không thể chịu đựng nổi”.

Đó là bài học cho Việt Nam từ chiến dịch “Điện Biên Phủ trên không” lịch sử. Giàu có như Mỹ, nhưng B52 rụng như sung cũng phải xuống thang chiến tranh.

Thứ Ba, 8 tháng 5, 2012

>> Binh pháp Hải quân Việt Nam (Kỳ 2)

Triệt để lợi dụng thế địa lý để phát triển phương thức chiến tranh du kích hiện đại trên biển, đó là chiến thuật thứ nhất của Hải quân Việt Nam. Tiếp đó, thứ hai là nghệ thuật bố trí và sử dụng lực lượng.


>> Binh pháp Hải quân Việt Nam (Kỳ 1)


Kỳ 2 : Bố trí những quả đấm thép

Trong cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc, có rất nhiều sư đoàn thiện chiến của ta luôn nằm trong sự theo dõi gắt gao của CIA, bộ tham mưu Việt Nam Cộng Hòa. Bởi lẽ những sư đoàn như sư 325, sư 10 mà ở đâu thì hướng chính của chiến dịch là ở đấy.

Khu trục hạm tên lửa Gepard 3.9 của Hải quân Việt Nam là lực lượng hiện đại nhất của Hải quân tầm châu lục. Với tính năng kỹ chiến thật mà nó có thì thực sự là một đối thủ nguy hiểm nhất cho bất cứ tàu ngầm, tàu mặt nước nào khi phải đối đầu.

Vì vậy, biết được tàu Gepard 3.9 ở đâu, hoạt động như thế nào trước và khi tác chiến xảy ra, là một yêu cầu bức thiết, sống còn của Bộ Tham mưu địch.

Có lẽ rất nhiều người cho rằng trong thời đại công nghệ cao, vệ tinh quân sự dày đặc trên bầu trời thì việc phát hiện một chiếc xe máy còn dễ dàng, cỡ như Gepard 3.9 có gì là khó khăn.

Đương nhiên đó chỉ là lý thuyết. Một sư đoàn với hàng ngàn con người, phương tiện, được rất nhiều lực lượng như trinh sát, tình báo, điện tử…hiện đại của Mỹ mà vẫn không theo dõi được để đến nỗi có cú điểm huyệt Buôn Ma Thuột thì chưa thể khẳng định được điều gì với Gepard 3.9 nó ở đâu, làm gì…

Vệ tinh quân sự chỉ xác định được những cái giống Gepard 3.9 trong khi đó hàng giả để che mắt đánh lừa vệ tinh còn thật hơn cả hàng thật.

Nga đã từng cho ra đời hàng loạt xe tăng khủng, tên lửa khủng, tàu chiến khủng nhưng giả còn thật hơn cả thật. Nghĩa là người Nga đã sản xuất 1 kho vũ khí đủ lớn các loại mô hình vũ khí có tính năng nhiệt và điện tử tương đương với các vũ khí thật.

Điều này cho phép người Nga có thể ẩn giấu, trộn lẫn trang thiết bị giả tạo và trang thiết bị chiến đấu lừa địch mà vệ tinh quân sự dù kỹ thuật chụp ảnh tân tiến đến mấy cũng không phân biệt được thật giả.

Trong chiến tranh, biết được địch ở đâu chính xác, che giấu được ta là một trong những yếu tố quyết định thắng lợi. Đặc biệt trong chiến tranh hiện đại với vũ khí công nghệ cao thì đây là yếu tố sống còn.

Phòng thủ Tổ quốc từ hướng biển, yếu tố bí mật che giấu lực lượng này ta có nhiều lợi thế hơn địch. Thời tiết, núi cao, cảng sâu…là những khó khăn ngăn trở, làm cho độ chính xác của vệ tinh địch không cao khi xác định tọa độ, phân biệt mục tiêu (dù chưa có sự ngụy tranh của ta).

Do vậy hiệu suất của vũ khí công nghệ cao như tên lửa, pháo sẽ rất thấp. Ta ở trong vùng tối, địch ở ngoài vùng sáng.


http://nghiadx.blogspot.com
Thủy thủ kiểm tra tàu chuẩn bị đi biển

Kinh nghiệm xương máu trong chiến tranh với Mỹ; thế địa lý Việt Nam và với sự sáng tạo, độc đáo của con người Việt thì chắc chắn những “quả đấm thép” của Hải quân Việt Nam sẽ ở những nơi mà địch biết được khi đã bị trúng huyệt kiểu như Buôn Ma Thuột hay pháo binh ở Điện Biên Phủ.

Bởi vậy, câu trả lời Gepard 3.9 ở đâu, làm gì trước và khi xảy ra tác chiến thì chỉ có Bộ Tham mưu Hải quân Việt Nam mới biết.

Nhưng chắc chắn nó sẽ ở nơi đắc địa thuận lợi mà “một địch muôn người”. Nghĩa là nơi đó ít đánh thắng được nhiều, dễ tấn công và phòng thủ.

Không những Gepard 3.9 mà bất kỳ tàu chiến nào của Hải Quân Việt Nam dù độc lập tác chiến hay hợp đồng tác chiến thì lực lượng này phải nằm trong tầm bảo vệ của lực lượng kia, chúng có trách nhiệm sở trường, sở đoản bổ sung cho nhau và nằm trong thế trận phòng thủ nhiều tầng nhiều lớp có chiều sâu của cả nước.

Nếu như KILO phục kích thì ít nhất cũng không có lực lượng săn ngầm nào của địch có thể gây nguy hiểm cho nó bởi chúng sẽ bị tiêu diệt bởi các lực lượng khác bảo vệ KILO…

Trong nghệ thuật tác chiến chúng ta vẫn và sẽ thực hiện phương châm: “Những gì mà công nghệ không thể làm được thì chiến thuật có thể”.

Vì Việt Nam còn nghèo, khoa học công nghệ chưa phát triển, tuy nhiên, trong tình hình hiện nay khi công nghệ (vũ khí trang bị) của ta đảm bảo cho một số nhiệm vụ tác chiến như có thể tấn công trực tiếp vào căn cứ địch thì việc bố trí, sử dụng lực lượng này sẵn sàng xuất phát tấn công làm cho địch phải co về đối phó, hoang mang, không phải là điều gì quá khó khăn.

Trong chiến tranh, những nước đem quân đi tấn công xâm lược nước khác thì khu vực tác chiến, không gian chiến tranh chỉ tồn tại ngay tại nước bị xâm lược. “Chính quốc” thì hòa bình, êm ắng, dân họ không biết gì mùi khói bom thuốc đạn. Nếu như mở một cuộc chiến mà chính họ cũng sẽ bị những đòn giáng trả liệu họ có dám không?

Mỹ chưa dám tấn công Iran là vì lý do đó. Mỹ chỉ quen đem bom đạn dội vào quốc gia khác nhưng cứ thử xem khi dân Mỹ cũng phải hứng chịu bom đạn khi bị giáng trả thì sẽ như thế nào?

Vì vậy, đòn đánh vào căn cứ địch, nơi chúng xuất phát là một đòn đánh cực hiểm trên cả 3 lĩnh vực chính trị, quân sự và kinh tế, trong đó đòn chính trị là hiểm nhất, hậu quả khủng khiếp nhất, nó có thể đánh sập ý chí xâm lược.

Đương nhiên, Hải quân Việt Nam ngoài việc tăng cường sức mạnh chúng ta phải triệt để lợi dụng thế núi, thế biển để bố trí lực lượng, sẵn sàng cho đòn đánh này.

Chuẩn bị nhiều phương án tác chiến sử dụng lực lượng hiện đại, công nghệ cao đồng thời cả những phương án tác chiến trong điều kiện mà công nghệ không thể để giáng trả quân xâm lược.

Tăng cường sức mạnh cho Hải quân Việt Nam mà không tăng cường để phục vụ cho đòn đánh này là quá ngây thơ, nhút nhát, sợ địch. Nhưng điều này, “nhút nhát, sợ địch” lại không nằm trong từ điển quân sự Việt Nam (Tướng Giáp).

Việt Nam đã qua lâu rồi thời kỳ quân xâm lược có quyền đem bom đạn dội vào, gây ra bao đau thương tang tóc mà không bị giáng trả tại đất nước họ. Bài học cho Hải quân Mỹ ở cảng Sài Gòn, Cửa Việt; bài học cho Không quân Mỹ ở Utapao (Thailand) còn đó.

Ngày nay, sự giáng trả còn khủng khiếp hơn nhiều. Chỉ biết nhao lên tấn công chọc thủng lưới đối phương mà không nghĩ là có lúc mình phải vào lưới nhà nhặt bóng thì chưa phải là trận đấu hiện đại đỉnh cao.

Thứ Bảy, 5 tháng 5, 2012

>> Binh pháp Hải quân Việt Nam (Kỳ 1)

Quan trọng không phải là kiếm to hay dài, mà là kiếm pháp. Quân cốt tinh không cốt đông. Người nghĩa mới dùng ít thắng nhiều.


Kỳ 1 : Sai lầm của Tôn Tử


Tôn Tử và Napoleon

Đó chính là những quan điểm, tư tưởng mà luôn luôn sống mãi và sáng rực với thời gian trong di sản quân sự chống giặc độc đáo mà Tổ tiên, ông cha để lại cho con cháu

Trong lịch sử dân tộc, tính ra chúng ta đã tiến hành không dưới 8 cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc (không tính những cuộc chiến tranh giải phóng). Trong số cuộc chiến tranh này, chúng ta luôn đối đầu với đội quân xâm lược đông đúc, nhiều gấp 2 đến 3 lần ta.

Điều đặc biệt trong những lần đụng độ này là ta tuy ít nhưng độ tinh nhuệ thì không kém địch, tức là nói về chất lượng của lực lượng bao gồm con người và vũ khí trang bị thì ta và địch cơ bản ngang nhau.

Như vậy, có thể nói nếu so sánh lực lượng giữa ta và địch thì ta chỉ thua kém địch một tiêu chí duy nhất là: Ta ít mà địch thì nhiều. Xung quanh vấn đề lực lượng ít và nhiều này mỗi quốc gia hình thành nên cách sử dụng lực lượng hay nghệ thuật quân sự riêng biệt.

Tôn Tử (Trung Quốc) cho rằng: không thể lấy ít địch nhiều ở quy mô chiến lược được, “Một quân đội nhỏ yếu mà liều lĩnh cố đánh sẽ bị kẻ địch lớn mạnh bắt làm tù binh”.

“Phương pháp dùng binh, có binh lực gấp 10 lần địch thì bao vây, gấp 5 lần địch thì tiến công, gấp hai lần địch thì chia cắt, binh lực ngang nhau thì phải biết đánh, binh lực ít hơn thì phải biết lánh, binh lực yếu hơn thì phải biết tránh cho xa”.

Napoleon (Pháp): cái tinh túy nhất của chiến lược nằm ở chỗ: Về chiến lược vẫn dám lấy ít đánh nhiều, nhưng về chiến thuật bao giờ cũng phải tập trung ưu thế áp đảo trong một thời điểm nhất định để giành thắng lợi quyết định.

Suy cho cùng đây là nghệ thuật quân sự cho tấn công xâm lược, tấn công trước. Chẳng hạn như ông Tôn Tử khuyên con cháu Trung Hoa, nếu “binh lực yếu hơn thì phải biết tránh cho xa”. Nhưng giặc đến nhà tránh đi đâu, để đất nước rơi vào tay quân xâm lược à?
Tư tưởng Nguyễn Trãi trong thời đại Hồ Chí Minh

Các tướng lĩnh và các nhà tư tưởng quân sự của dân tộc ta thì hoàn toàn khác. Khác ở chỗ Việt Nam luôn bị xâm lược nên phải chống trả thì bất kể dù ít hay nhiều miễn sao giữ được nước thì thôi. Và từ cái khó ló ra cái khôn, chúng ta cho rằng có thể lấy ít thắng nhiều ở cả quy mô chiến lược và chiến thuật (và thực tế diễn ra không sai).

Lịch sử quân sự thế giới có biết bao ví dụ về lấy nhiều thắng ít hoặc lấy nhiều thắng nhiều nhưng chưa có nhiều ví dụ về lấy ít thắng nhiều ở quy mô chiến lược và cả chiến thuật như Việt Nam.

Nguyễn Trãi thế kỉ XV đã tổng kết: "Lấy ít địch nhiều, thường dùng mai phục”. Ông còn giải thích: “Người nghĩa lấy ít địch nhiều”. Như vậy, Nguyễn Trãi một phần nào đã nói lên lý do, cơ sở nào mà có tư tưởng quân sự đó.

Trước hết là ta có chính nghĩa (chúng ta không đi xâm lược ai) nên huy động và phát động được toàn đân tham gia chống giặc giữ nước. Tiếp theo là chúng ta có một đất nước có địa thế vô cùng hiểm yếu với kẻ thù nhưng lại thuận lợi cho ta phòng thủ bảo vệ Tổ quốc (thiên thời địa lợi nhân hòa).

Rõ ràng đây chính là cơ sở lý luận và thực tế để con cháu phát triển lên một mức cao hơn, đó là Chiến tranh nhân dân và Nghệ thuật quân sự độc đáo trong thời đại Hồ Chí Minh.

Trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ngày nay, Hải quân Việt Nam với lực lượng trang bị hiện đại, vũ khí công nghệ cao cũng không kém địch là bao nhiêu nhưng rõ ràng thực lực vẫn ít hơn địch. Nhưng dù có ít hơn bao nhiêu lần thì chúng ta cũng quyết đánh để bảo vệ bờ cõi.

Vậy, thực hiện tư tưởng quân sự lấy ít đánh nhiều thì Hải quân Việt Nam đánh như thế nào?

Khác với chiến tranh giải phóng, hải chiến được phân định trận tuyến rõ ràng.

Địch từ xa tới, ngoài đại dương xuất kích tấn công vào biển, đảo và đất liền của ta. Ta phòng thủ, tấn công địch từ đất liền, từ các đảo tiền tiêu hoặc ven bờ. Nếu dàn trận đối đầu, dù có hiệu suất chiến đấu đạt tỷ lệ ta 1, địch 3 thì trong 2 đến 3 cuộc chạm trán là ta hết vốn.

Cỡ như tàu Gepard 3.9, ta 2 chiếc, giỏi có thể đổi 8 chiếc của địch loại tương đương. Nhưng sau đó ta hết, địch còn nhiều thì chỉ có nai lưng ra chịu đòn như thời đánh Mỹ…Vì vậy, đó không phải là tư tưởng nghệ thuật quân sự lấy ít đánh nhiều của Việt Nam.

Nếu như Nguyễn Trãi đã tổng kết: “Lấy ít đánh nhiều thường dùng mai phục” thì ngày nay qua 2 cuộc chiến tranh chống Pháp và Mỹ các tướng lĩnh Việt Nam đã vận dụng sáng tạo, độc đáo hơn nhiều.

Thứ nhất, vẫn triệt để lợi dụng thế địa lý để phát triển phương thức chiến tranh du kích hiện đại trên biển.

Chiến tranh du kích (CTDK) là đặc sản quý báu của nghệ thuật quân sự bảo vệ Tổ quốc (hình thức tác chiến phi đối xứng chỉ là một thành tố của nội hàm này).

CTDK là một thành tố trong nội hàm của chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc. Đó là sự kết hợp nhuần nhuyễn của vũ khí hiện đại công nghệ cao vào lối đánh du kích trong một trận hoặc trong một chiến dịch hợp đồng các lực lượng.

Ngoài tổ chức tấn công địch từ cấp chiến dịch thì tổ chức tấn công địch cấp nhỏ lẻ theo kiểu chiến tranh du kích vẫn được coi trọng và vận dụng ở một tầm cao hơn.

Đó là tấn công mọi nơi, tấn công mọi lúc với trang bị vũ khí nhỏ gọn, nhưng hiện đại và uy lực mạnh làm cho quân dịch thiệt hại nặng, mất sức chiến đấu, hoang mang suy sụp ý chí, hỗ trợ và tạo điều kiện cho những trận tấn công tiêu diệt lớn kết thúc chiến tranh. CTDK với 2 hình thức tác chiến chủ yếu là phục kích và tập kích.





http://nghiadx.blogspot.com
Đội Đặc công người nhái 4, Đoàn M26 (Quân chủng hải quân) thực hành huấn luyện.

Phục kích theo lối truyền thống thì ngồi chờ giặc đến; phương tiện chỉ có thể là con người, con tàu, tàu ngầm… là chủ thể. Nhưng theo lối hiện đại thì phát triển rộng hơn nhiều. Máy bay, tên lửa và thậm chí pháo binh vẫn được sử dụng là chủ thể của trận phục kích.

Chắc chắn trên đất liền, nơi nào cần phòng thủ thì đều đã nằm trong phần tử bắn của pháo binh, của tên lửa và của Không quân Việt Nam. Chỉ cần trinh sát báo về địch đã đến là lập tức khai hỏa.

Nhưng trên biển, muốn được vậy thì yếu tố quyết định là phải quản lý tốt vùng biển, phát hiện chính xác, kịp thời địch xuất hiện ở tọa độ mà ta đã chuẩn bị sẵn bằng các phương tiện quan sát trên các đảo tiền tiêu, trên bờ hiện đại đến thô sơ.

Tuy nhiên, tàu địch đến tọa độ A, Z nào đó mà ta đã chuẩn bị ngoài yếu tố chủ quan của địch thì ta cần phải làm sao điều địch đến đúng tọa độ phục kích sẵn.

Nghi binh, lừa địch, điều địch theo ý định của ta…đó thuộc mưu kế của chỉ huy.

(PTD)

Thứ Hai, 9 tháng 4, 2012

>> Chiến thuật phòng thủ bờ biển và hải đảo của Liên Bang Nga


Lực lượng phòng thủ bờ biển và hải đảo được hình thành trong biên chế cơ cấu tổ chức lực lượng của Hải quân Liên bang Nga, có nhiệm vụ chủ yếu là bảo vệ vùng biển, lãnh hải, hải đảo và những khu vực, vùng nước thuộc chủ quyền quốc gia của Liên bang, lực lượng phòng thủ bờ biển, trên thực tế là những người lính gác và những người bảo vệ vững chắc cho vùng nước, vùng trời và chiến lược hải dương của Liên bang Nga ngày nay.

Tính chất chiến thuật và những nguyên tác chiến thuật cơ bản của lực lượng phòng thủ bờ biển Liên bang Nga


Cơ cấu biên chế tổ chức của lực lượng phòng thủ bờ biển và hải đảo của Hải quân liên bang bao gồm:

Lực lượng pháo binh – tên lửa phòng thủ bờ biển (БРАВ),
Lực lượng lính thủy đánh bộ (МП)
Các đơn vị phòng thủ bờ biển và hải đảo(БО)
Những tính chất chiến thuật chủ yếu của lực lượng phòng thủ bờ biển:

Năng động và linh hoạt cao độ trong tác chiến, có khả năng sẵn sàng chiến đấu cao độ trong cà thời bình và thời chiến, có khả năng tiến hành các hoạt động tác chiến độc lập hoặc hiệp đồng tác chiến với các lực lượng khác quân chủng khi chiến đấu từ hướng biển.
Tính chiến đấu kiên định, vững chắc bền vững, hỏa lực mạnh
Tính cơ động linh hoạt cao độ;
Không quá lệ thuộc vào hệ thống chỉ huy điều hành tác chiến của Hải quân, hạm đội và hệ thống phòng thủ quốc gia.
Điểm yếu của lực lượng phòng thủ bờ biển là: Cần có hệ thống đảm bảo C4I2 được tự động hóa cao độ và hệ thống hậu cần kỹ thuật ổn định, khoa học để có khả năng tác chiến dài ngày, ổn định và tăng cường sức mạnh, đặc biệt quan trọng là hệ thống thông tin trinh sát, tình báo, chỉ thị mục tiêu.

Lực lượng pháo tên lửa phòng thủ bờ biển – hải đảo

Yêu cầu nhiệm vụ của lực lượng pháo binh –tên lửa phòng thủ bờ biển, hải đảo:

Tiêu diệt các chiến hạm, các đoàn tầu vận tải, congvoa quân sự, các đơn vị lực lượng đổ bộ đường biển của đối phương;

Hỏa lực yểm trợ, bảo vệ các khu vực bờ biển và hải đảo, các căn cứ quân sự các hải cảng ven biển của hải quân và hạm đội, bảo vệ các tuyến đường vận tải ven bờ và các tập đoàn quân binh chủng hợp thành tác chiến trên đảo hoặc ven biển, phòng thủ từ hướng biển, chiến đấu với các chiến hạm nổi của đối phương;

Tấn công phá hủy, tiêu diệt các căn cứ hải quân, các hải cảng của đối phương;

Tiêu diệt và đè bẹp chế áp binh lực và các phương tiện hỏa lực của đối phương trên bờ biển lục địa và hải đảo.

Lực lượng lính thủy đánh bộ: Là lực lượng bộ binh có thể thực hiện các chiến dịch đổ bộ, đánh chiếm các khu vực bờ biển hoặc đảo, quần đảo. Lực lượng lính thủy đánh bộ có thể tác chiến độc lập hoặc nằm trong đội hình tác chiến tập đoàn quân binh chủng hợp thành của lục quân hoặc lực lượng đổ bộ đường không.

Mục tiêu chiến đấu của lính thủy đánh bộ trong tác chiến đổ bộ đường biển.

Đánh chiếm khu vực bàn đạp đầu cầu, là lực lượng chủ lực đột phá thế đội 1 đánh chiếm lại các căn cứ hải quân, đảo, quần đảo;

Hiệp đồng tác chiến cùng với lực lượng lục quân, tấn công trên hành lang công kích từ hướng biển.

Sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu tốt bảo vệ các lực lượng hải quân hạm đội khi neo đậu..

Nhiệm vụ của lực lượng lính thủy đánh bộ:

Đánh chiếm các khu vực đổ bộ, triển khai và giữ vững các bãi đổ bộ đầu cầu, bảo vệ chắc chắn khu vực đổ bộ. Đánh chiếm các tuyến chiến đấu và các hỏa điểm, mục tiêu quan trọng trên bờ biển và hải đảo, bảo vệ chắc chắn và đợi lực lượng chủ yếu của hải quân và lục quân tiếp chiến, đánh chiếm cầu tầu, bến cảng, khu căn cứ hải quân của đối phương, tiêu diệt các mục tiêu quan trọng trên bờ biển, hải đảo như (đài radar trinh sát, đài điều khiển, hệ thống sở chỉ huy đối phương dọc ven biển, các trận địa vũ khí công nghệ hiện đại, vũ khí chính xác, vũ khí có tầm bắn xa, sức hủy diệt lớn, các trận địa tên lửa phòng không, tên lửa đánh chặn tên lửa, các sân bay ven biển của đối phương.

Phối hợp với các lực lượng vũ trang khác (biên phòng, cảnh sát biển, lực lượng lục quân) tiến hành các chiến dịch chống đổ bộ đường biển trên mọi hướng, tiến hành các hoạt động đổ bộ từ phía biển tấn công vào đội hình đổ bộ của đối phương trên đảo hoặc ven biển;

Các đơn vị binh chủng hợp thành của lính thủy đánh bộ: Lữ đoàn, sư đoàn. Các phân đội lính thủy đánh bộ: trung đoàn, tiểu đoàn.

Lực lượng pháo binh - tên lửa phòng thủ bờ biển - hải đảo

Các phân đội cơ bản của lực lượng pháo binh – tên lửa bảo vệ bờ biển là các trung đoàn tên lửa bờ biển, có năng lực thực hiện các nhiệm vụ độc lập tác chiến đến 300 km theo chiều rộng tuyến phòng thủ và chiều sâu..

Trung đoàn tên lửa bờ biển có cơ cấu biên chế: phân đội chỉ huy tham mưu tác chiến, các đơn vị tên lửa, đơn vị bảo đảm hậu cần kỹ thuật. Phụ thuộc vào vũ khí trang bị, biên chế tổ chức, trung đoàn tên lửa bờ biển có thể là trung đoàn chiến đấu cơ động hoặc cố định tại chỗ, tầm xa, tầm trung hoặc tầm gần.



http://nghiadx.blogspot.com
Sơ đồ hệ thống tên lửa phòng thủ bờ biển


Đơn vị tác chiến cơ bản của lực lượng pháo binh phòng thủ bờ biển là các Tiểu đoàn pháo binh: bao gồm các phân đội chỉ huy, điều khiển hỏa lực, từ 2 đến 4 khẩu đội pháo binh, phân đội đảm bảo hậu cần và phân đội đảm bảo kỹ thuật pháo binh.

http://nghiadx.blogspot.com
Một đơn vị tên lửa phòng thủ bờ biển


Các hoạt động tác chiến của lực lượng pháo binh, tên lửa phòng thủ bờ biển là tổ hợp các hoạt động theo khả năng cơ động của các phân đội, sơ đồ bố trí hỏa lực của các phân đội trên các trận địa hỏa lực và các khu vực hỏa lực của lực lượng. Mục tiêu và nhiệm vụ hoạt động tác chiến của lực lượng được thể hiện trong nhiệm vụ chiến đấu được giao kể cả thời bình và thời chiến. Trên cơ sở nhiệm vụ chiến đấu được giao, người chỉ huy lên quyết tâm chiến đấu, chỉ huy các phân đội chuẩn bị sẵn sàng chiến đấy, triển khai các hoạt động điều hành tác chiến trong trận đánh, tổ chức đảm bảo hậu cần kỹ thuật cho các hoạt động tác chiến.

Khi nhận được nhiệm vụ triển khai khu vực hỏa lực, người chỉ huy tiến hành các hoạt động chiến thuật: triển khai đội hình chiến đấu (cơ động vào khu vực trận địa, triển khai đội hình trận địa hỏa lực và chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu (cấp độ sẵn sàng chiến đấu), ( thường xuyên; tăng cường; cảnh giới sẵn sàng chiến đấu cao nhất; toàn bộ sẵn sàng chiến đấu). tiến hành các hoạt động trinh sát, rà quét và tiếp nhận thông tin trinh sát từ các cấp nhằm phát hiện mục tiêu, xác định và xử lý thông tin phần tử bắn, khai hỏa phóng tên lửa – nổ súng tấn công vào thời gian - (H); (H);+(H) theo mệnh lệnh cấp trên hoặc thời gian dự kiến theo những kịch bản có sẵn được xây dựng và nguồn thông tin trinh sát nắm bắt được (trong trường hợp độc lập tác chiến trên đảo, quần đảo hoặc bờ biển mà không nhận được mệnh lệnh trực tiếp – (do đối phương phá hoại, chế áp điện tử - thông tin).

http://nghiadx.blogspot.com
Sơ đồ pháo tự hành SY - 130 phòng thủ bờ biển


Sau khi đòn tấn công thứ nhất được thực hiện, người chỉ huy ra mệnh lệnh đưa lực lượng (pháo binh – tên lửa) ra khỏi khu vực trận địa trước đòn phản công của đối phương và đưa các đơn vị thuộc quyền về trạng thái sẵn sàng phóng đạn – nổ súng đợt 2.
Đội hình chiến đấu của trung đoàn là sự bố trí trong mối quan hệ liên kết chặt chẽ các phân đội trên địa bàn tác chiến, xác định hướng phóng đạn và hướng tiến của đối phương. Định hướng trong quan hệ liên kết phối hợp giữa các phân đội trên cơ sở hướng phóng đạn và dự kiến tọa độ mục tiêu, khả năng đảm bảo tốt nhất khi phóng đạn, khả năng ngụy trang, khả năng che chắn phòng thủ. Đồng thời phải tính toán kỹ càng vị trí của sở chỉ huy và đơn vị hậu cần kỹ thuật cũng như các tuyến đường cơ động. Đội hình chiến đấu bao gồm có sở chỉ huy đơn vị, đội hình chiến đấu của các phân đội hỏa lực và các phân đội hậu cần kỹ thuật.

Theo điều lệnh: Trung đoàn bố trí trong khu vực hỏa lực được phân công, các tiểu đoàn tên lửa – trên các trận địa phóng đạn, phía sau là tiểu đoàn hậu cần kỹ thuật. Với tiểu đoàn pháo binh: cũng tương tự như trên, bao gồm trận địa pháo của tiểu đoàn, sở chỉ huy tác chiến, các khẩu đội pháo – trên các vị trí hỏa lực.

Trong tác chiến hiện đại, một phân đội tên lửa có thể quản lý nhiều mục tiêu khác nhau được giao, đồng thời, nhiều trận địa tên lửa có thể quản lý theo dõi một mục tiêu.

Pháo binh bảo vệ bờ biển: CY-130 thông thường bảo vệ một hướng phòng thủ chủ yếu và các hướng tăng cường. Hỏa lực một đơn vị pháo binh trên một trận địa phảo quản lý một nhóm mục tiêu cụ thể. Khi có mệnh lênh cấp trên sẽ chuyển hướng hỏa lực vào sâu theo hành lang tân công của đối phương, hoặc chuyển hướng bắn chi viện, che phủ hoặc tiêu diệt tầu, xuồng đổ bộ.

Các phân đội tên lửa thông thường có nhiều trận địa thay thế: sau loạt đạn đầu tiên, các phân đội tên lửa cơ động di chuyển nhằm thoát khỏi hỏa lực phản kích của đối phương, các khẩu đội pháo trong giai đoạn ngày nay, được thiết kế có khả năng tự hành, sẽ di chuyển theo mệnh lệnh người chỉ huy cấp trực tiệp trong trường hợp có nguy cơ bị phản kích từ hòa lực đối phương, lệnh cơ động di chuyển thường được cập nhật sau khi hoàn thành các loạt bắn tập trung (dồn dập 1; dồn dập 2…).

Lực lượng lính thủy đánh bộ:

Sư đoàn lính thủy đánh bộ bao gồm: Các đơn vị chiến đấu, các đơn vị bảo đảm chiến đấu, các phân đội hậu cần, kỹ thuật, các phân đội tham mưu tác chiến, điều hành tác chiến, trinh sát đa năng.

http://nghiadx.blogspot.com
Đổ bộ đường biển của xe thiết giáp

Các đơn vị chiến đầu:

Là các trung đoàn lính thủy đánh bộ, được tăng cường các trung đoàn xe tăng, xe thiết giáp, trung đoàn pháo binh, trong các trường hợp đặc biệt có thể tăng cường trung đoàn tên lửa phòng không. 

Những phân đội chiến đấu trong trung đoàn lính thủy đánh bộ gồm:

- Tiểu đoàn lính thủy đánh bộ cơ giới trên các xe BTR và BMP với một khẩu đội pháo tự hành;

- Tiểu đoàn lính thủy đánh bộ công kích;

- Tiểu đoàn xe tăng;

- Khẩu đội pháo phản lực;

- Khẩu đội tên lửa chống tăng có điều khiển, khẩu đội tên lửa phòng không.

Đơn vị lính thủy đánh bộ binh chủng hợp thành có nhiệm vụ tiến hành các các hoạt động tác chiến đổ bộ ở cấp chiến dịch đổ bộ, đơn vị có khả năng tác chiến độc lập hoặc hiệp đồng tác chiến với các đơn vị lục quân trong các hoạt động tác chiến phòng thủ bờ biển hoặc hải đảo.


http://nghiadx.blogspot.com
Sơ đồ đổ bộ đánh chiếm khu vực đầu cầu và mở rộng bàn đạp tiêu diệt địch

Tiểu đoàn lính thủy đánh bộ trong một trận đánh đổ bộ độc lập có nhiệm vụ tiêu diệt binh lực, sinh lực địch, xe tăng thiết giáp, pháo binh và các cụm hỏa lực chống tăng của đối phương, tiêu diệt các phương tiện vũ khí hủy diệt lớn, tấn công sân bay, phá hủy máy bay chiến đấu của đối phương, chiếm giữ căn cứ, bàn đạp đổ bộ hoặc tuyến phòng ngự cho đến khi lực lượng chủ lực tiếp cận giải quyết chiến trường.
Đổ bộ cấp chiến thuật được sử dụng trong phòng thủ biển đảo:

- Chọc thủng tuyến phòng thủ của đối phương trên bờ biển, kết hợp với các lực lượng khác (lục quân) tấn công trên hướng biển với mục đích bao vây chia cắt, tiêu diệt lực lượng địch trên bờ biển.;

- Đánh chiếm lại và phòng thủ mục tiêu quan trọng (hải cảng, sân bay, các hòn đảo vừa và nhỏ, các khu vực quan trọng trên bờ biển cho đến khi lực lượng chính tiếp cận mục tiêu; phá hủy hệ thống điều hành tác chiến của đối phương và những hoạt động hậu cần kỹ thuật của đối phương.

Sau khi nhận nhiệm vụ đổ bộ tác chiến, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn lính thủy đánh bộ cần nắm chắc:

- Nhiệm vụ đổ bộ đường biển của đơn vị và của tiểu đoàn, quy trình đảm bảo công tác đổ bộ.

- Đánh giá tình hình phòng thủ chống tấn công đổ bộ đường biển của đối phương và tính chất, điều kiện địa hình trong khu vực đổ bộ và chiến đấu, hệ thống hàng rào vật cản, bãi mìn, thủy lôi dưới nước và trên bờ.

- Xác định chính xác, trình tự tiến hành các hoạt động đổ bộ, các phương án chiến đấu đánh chiếm vị trí đổ bộ và tính toán, sắp xếp các đợt đổ bộ.

- Điều kiện địa hình thời tiết, thủy văn môi trường khi cơ động vượt biển và trong khu vực đổ bộ.

Trong quá trình chuẩn bị đổ bộ, tiểu đoàn trưởng cần bổ xung các quyết định sau::

- Nhiệm vụ của từng phân đội (đại đội) tiêu diệt các mục tiêu cụ thể tại khu vực đổ bộ và khu vực được chỉ lệnh tấn công đánh chiếm trên bờ biển;

- Phân phối các đơn vị theo các phương tiện đổ bộ (tầu đổ bộ) và các phương tiện đổ bộ cao tốc (xuồng đổ bộ) cũng như các phương tiện tăng cường.;

- Thứ tự lên tầu đổ bộ và thứ tự đổ bộ xuống tầu.

Khi tổ chức liên kết phối hợp tiểu đoàn trưởng sẽ thống nhất với các chỉ huy trưởng:

- Hoạt động tác chiến của các phân đội khi chiếm lĩnh của mở, bàn đạp tấn công khi đổ bộ, phương pháp vượt vật cản chướng ngại vật chống đổ bộ.

- Liên kết phối hợp với hỏa lực của pháo hạm, hỏa lực của không quân và hoạt động tấn công của đổ bộ đường không (nếu sử dụng đổ bộ thẳng đứng).

Trong các phân đội lính thủy đánh bộ, cơ số vật chất được tăng cường. Trạm y tế của tiểu đoàn cũng được tăng cường các cơ số y tế thuốc và bông băng cứu thương, đồng thời cũng tăng cường quân số.

Trình tự tiến hành các hoạt động đổ bộ đánh chiếm mục tiêu:

Trước khi xuống tầu đổ bộ, các phân đội của tiểu đoàn lính thủy đánh bộ tập kết tại khu vực đợi tầu và kết thúc các công tác chuẩn bị cho đổ bộ. Để đưa phân đội lên tầu đổ bộ, tiểu đoàn được chỉ định khu vực tập kết. Cơ động di chuyển đến khu vực cầu cảng xuống tầu theo thứ tự quy định của nhiệm vụ chiến đấu theo từng tầu đổ bộ và mệnh lệnh người chỉ huy. Khi các phân đội xuống tầu, trước hết đưa xuống tầu cơ sở vật chất phương tiện chiến đấu, vũ khí trang bị, đạn và vật chất chiến đấu, xăng dầu và các vật chất trang thiết bị khác với tính toán thời gian tiến độ và mức độ sử dụng cũng như tiêu hao phương tiện, cơ sở vật chất, đồng thời tính toán khả năng đổ bộ nhanh nhất lên bờ biển. Thứ tự đưa phương tiện chiến đấu xuống tầu ngược lại với thứ tự đổ bộ phương tiện chiến tranh và cơ sở vật chất, vũ khí trang bị lên bờ. Binhlực của phân đội xuống tầu sau khi trang bị, phương tiện chiến đấu đã hoàn tất.

Từ thời điểm nhận được nhiệm vụ của xuống tầu đổ bộ cho đến khi kết thúc việc đưa binh lực xuống tầu, tiểu đoàn lính thủy đánh bộ nằm dưới quyền chỉ huy của chỉ huy trưởng đội tầu đổ bộ, trên các tầu đó tiểu đoàn cơ động vượt biển.

Trong quá trình hành tiến chuẩn bị đổ bộ, hạm đội hình thành cụm lực lượng tấn công chủ lực, bao gồm có các chiến hạm nổi, tầu ngầm, tầu phóng tên lửa và máy bay cường kích hải quân. Cụm tầu tấn công chủ lực có nhiệm vụ tấn công, yểm trợ hỏa lực chuẩn bị bãi đổ bộ, dọn sạch vật cản, chướng ngại vật và các bãi mìn chống đổ bộ trên bờ biển.

Đồng thời, hạm đội cũng hình thành lực lượng chống ngầm, bao gồm các tầu hộ tống, tầu chống ngầm và phương tiện chống ngầm trên không, có nhiệm vụ đảm bảo đánh chặn, tấn công và tiêu diệt tất cả các tầu ngầm đối phương trong phạm vi hành lang đổ bộ của lực lượng đổ bộ đường biển.

Trước giờ tấn công đổ bộ (H) - Toàn bộ lực lượng pháo binh - tên lửa phòng thủ bờ biển, pháo hạm, tên lửa tầm trung và tầm xa, máy bay cường kích tập trung hỏa lực tấn công dọn bãi đổ bộ.

Khi các tầu đổ bộ đến địa điểm tập kết dưới sự yểm trợ của hỏa lực quân binh chủng, dưới sự yểm trợ của các cụm tầu tấn công chủ lực, triển khai đội hình đổ bộ tấn công.

http://nghiadx.blogspot.com
Đánh chiếm khu vực đầu cầu bàn đạp


Các xe tăng lội nước, xe bộ binh cơ giới BMP, xe thiết giáp chở quân BTR đổ bộ xuống biển trước khi tầu đổ bộ tiến đến điểm đổ quân và đổ bộ vào bờ. Sau khi các xe tăng bơi, xe bộ binh cơ giới cập bờ là các tầu đổ bộ, với tốc độ cao cập bờ và đổ bộ trực tiếp lực lượng lính thủy đánh bộ lên bờ. Các phân đội công kích của tiểu đoàn lính thủy đánh bộ, dưới sự yểm hộ của hỏa lực pháo binh chiến hạm và máy bay chiến đấu, hỏa lực của các phân đội và các đòn tấn công trực tiếp trên các xe bộ binh cơ giới, thiết giáp và các phương tiện đổ bộ tốc độ cao đánh chiếm bàn đạp tấn công. Tiều đoàn lính thủy đánh bộ đổ bộ tiếp theo và triển khai đội hình chiến đấu, vừa triển khai đội hình các phân đội của tiểu đoàn vừa tiêu diệt địch vừa công kích đánh chiếm khu vực đầu cầu, đánh chiếm bàn đạp và mở rộng khu vực bàn đạp tấn công theo chiều rộng và chiều sâu, đảm bảo cho đợt đổ bộ tiếp theo của lực lượng chính. Khi các lực lượng của thê đội I đổ bộ lên bờ, tiểu đoàn lính thủy đánh bộ liên kết phối hợp theo nhiệm vụ tác chiến, củng cố vị trí đánh chiếm được và trong điều kiện thuận lợi, mở rộng phạm vi hoạt động theo hướng hoàn thành nhiệm vụ tiếp theo trên bờ biển.

Các phân đội đổ bổ theo hướng có lực lượng đổ bộ đường không (từ máy bay trực thăng hoặc nhảy dù) nhanh chóng đột phá tuyến phòng ngự của đối phương, hợp quân với lực lượng đổ bộ đường không nhằm bao vây chia cắt địch, không cho đối phương co cụm hoặc phòng thủ chờ sự chi viện của hỏa lực tầm xa của địch, đồng thời vây hãm tiêu diệt địch trong tác chiến hỏa lực tầm gần.

Trong những trường hợp gặp khó khăn do lực lượng địch mạnh, điều kiện địa hình phức tạp hoặc hỏa lực tầm xa, hỏa lực không quân yểm trở của địch mạnh, các lực lượng đổ bộ cần kiến quyết bám sát địch, tạo thế đánh cận chiến kéo dài thời gian, buộc đối phương tiêu hao lực lượng và chờ lực lượng chủ yếu tiếp cận tiêu diệt địch.

Lực lượng phòng thủ bờ biển:

Thông thường, lực lượng phòng thủ biển đảo được giao cho các đơn vị thuộc lực lượng lục quân, nằm trong các quân khu trên địa bàn phòng thủ. Các đơn vị lục quân tuyến duyên hải và hải đảo tổ chức xây dựng khu vực phòng thủ, đồng thời xây dựng trận địa phòng thủ bờ biển và hải đảo. Bố trí các tuyến phòng thủ vững chắc tại những địa điểm quan trọng, xung yếu hoặc thuận tiện cho đối phương có thể đổ bộ đường không và đường biển, đồng thời tổ chức bảo vệ các mục tiêu quan trọng, khu vực sân bay, bến cảng, tuyến hành lang giao thông.

Các đơn vị lục quân phòng thủ bờ biển tuyến duyên hải phối kết hợp chặt chẽ với các lực lượng Bộ đội biên phòng, Cảnh sát biển, dân quân tự vệ và các lực lượng kiểm soát các hoạt động trên vùng biển được giao, đồng thời giữ hiệp đồng chặt chẽ với Bộ tư lệnh Hải quân, tiếp nhận thường xuyên các thông tin (hàng ngày, hàng giờ) về tình hình các hoạt động trên biển, theo dõi chặt chẽ khu vực được giao, phối kết hợp với các đơn vị kỹ chiến thuật của hải quân xây dựng các tuyến phòng thủ chống đổ bộ trong khu vực.

Với các đảo nhỏ, khu vực đặc quyền kinh tế, khu vực đang khai thác kinh tế nằm trong nền kinh tế hải dương và chủ quyền liên bang, nhiệm vụ bảo vệ được giao cho lực lượng Hải quân, thông thường là Lính thủy đánh bộ và các hạm đội trực chiến.

Khi xảy ra tình huống: Địch tiến hành đổ bộ quy mô lớn, hoặc tập kích, đánh chiểm đảo hoặc quần đảo….các đơn vị phòng thủ dựa trên tuyến phòng ngự xây dựng vững chắc có nhiệm vụ kiên quyết đánh chặn địch, kìm chân và tiêu hao tiêu diệt binh lực sinh lực địch. Đồng thời, tiến hành trinh sát địch tình trên các tuyến phòng thủ bờ biển, hải đảo, nắm bắt chặt chẽ lực lượng địch, dẫn bắn, chỉ thị mục tiêu cho hỏa lực phòng thủ bờ biển, đồng thời tạo điều kiện tốt nhất khi tấn công phối hợp với lực lượng lính thủy đánh bộ đổ bộ đường biển hoặc đường không nhằm bao vây chia cắt, tiêu diệt lực lượng đổ bộ của địch. Kiên quyết không cho đối phương rút lui hoặc kéo dài thời gian xung đột.

Hệ thống chỉ huy, điều hành tác chiến bảo vệ bờ biển và hải đảo

Trong giai đoạn hiện nay, khả năng xảy ra xung đột, chiến tranh có giới hạn nhằm thôn tính chiếm đoạt một số các khu vực biển có tiềm năng kinh tế, chính trị rất lớn. Do tính chất phức tạp của các mối quan hệ quốc tế đồng thời với sự trỗi dậy của những cường quốc biển, các xung đột có thể xảy ra bất ngờ, với lực lượng tham chiến không lớn và quy mô nhỏ, nhưng tạo ra những khu vực tranh chấp và những vùng tranh chấp hoặc có thể là một cuộc xung đột quy mô lớn, trên các phạm vi trên không, trên biển và trên đất liền (Biên giới – Bờ biển – Hải đảo). Nhiệm vụ của lực lượng phỏng thủ bờ biển – hải đảo là: Dập tắt và tiêu diệt ngay tức khắc mọi âm mưu tranh chấp chủ quyền, xung đột trên biển, hải đảo. Nhanh chóng tiêu diệt trong thời gian ngắn nhất (giới hạn thời gian được tính bằng giờ và ngày) nhằm bảo vệ vững chắc và không thể tranh cãi chủ quyền biển – đảo trong bảo vệ chủ quyền và lợi ích Liên bang.

http://nghiadx.blogspot.com
Bản đồ dự kiến đổ bộ của lực lượng thù địch trong cuộc diễn tập Lá chắn đồng minh - 2011 của Nga và Khazastan năm 2011


Để thực hiện được điều đó, Bộ quốc phòng và lực lượng Hải quân nói chung, lực lượng phòng thủ biển đảo nói riêng, xét trên góc độ phức tạp về mặt địa hình, vùng biển - bờ biển và không gian tác chiến, tính đa dạng trong sử dụng lực lượng bảo vệ, cần có một hệ thống chỉ huy, điều hành tác chiến liên quân của 4 lực lượng: Lục quân, hải quân, không quân và phòng thủ vũ trụ - phòng không. 

Hệ thống lãnh đạo, chỉ huy, điều hành tác chiến hoạt động theo phương châm: 
Tự động hóa – công nghệ thông tin hóa, Quản lý tập trung, tổ chức phân tán. Sử dụng triệt để những thành quả công nghệ truyền thông và công nghệ thông tin nhằm cập nhật nhanh chóng, kịp thời mọi tình huống trên biển, bờ biển và hải đảo trong thời gian ngắn nhất, cho phép các lực lượng phản ứng tập trung, linh hoạt và nhanh chóng khi tình huống xảy ra. Với ứng dụng của hệ thống quản lý tự động hóa với những kịch bản tương đương được lập trình xây dựng sẵn sàng, trong thời gian ngắn, mọi kế hoạch tác chiến sẽ tiếp cận đến những phân đội tác chiến trực tiếp, đồng thời theo phương thức lan truyền, cập nhật đến mọi lực lượng có quan hệ tác chiến liên kết phối hợp, đến các ban tham mưu và chỉ huy trưởng các đơn vị binh chủng hợp thành, tư lệnh trưởng lực lượng liên quân, các đơn vị theo kịch bản nhiệm vụ chủ động, linh hoạt thực hiện theo kế hoạch tác chiến dự kiến đồng thời kết nối liên lạc phản hồi nhằm đồng bộ hóa đa chiều công tác chỉ huy điều hành tác chiến trên không gian chiến trường dự kiến.

Trong phương thức "Quản lý tập trung, tổ chức phân tán trên nền tảng công nghệ thông tin và tự động hóa”. Yêu cầu quan trọng nằm trong tính độc lập, linh hoạt và sáng tạo của chỉ huy các cấp trước tình huống đặt ra, phản ứng nhanh chóng và khả năng sẵn sàng chiến đấu cao của các đơn vị thuộc quyền. Đồng thời, cũng trong thời gian ngắn nhất, không phụ thuộc vào khoảng cách địa lý hoặc sự mở rộng của không gian chiến trường. Mọi phương tiện hỏa lực phải được tập trung ở mức độ cao nhất. Mỗi điểm tác chiến có thể được quản lý bởi nhiều phương tiện hỏa lực, đồng thời, mỗi phương tiện hỏa lực trên khả năng của vũ khí tranh bị, phải quản lý nhiều mục tiêu tác chiến.


http://nghiadx.blogspot.com
Bản đồ chiến dịch trong diễn tập Lá chắn đồng minh - 2011

Với phương thức quản lý trên, mọi tình huống bất ngờ (đối phương bất ngờ tập kích cường độ thấp nhằm tạo ra tranh chấp, hoặc tập kích với quy mô lớn trên không, trên biển và trên đất liền theo nhiều hướng, chiến trang không tuyên bố hoặc xung đột khu vực) sẽ có giải pháp tức thời nhằm ngăn chặn, đẩy lùi, hoặc tiêu diệt triệt để mọi hành vi xâm phạm đến chủ quyền và lợi ích Liên bang.

Thứ Ba, 12 tháng 7, 2011

>> Nghệ thuật quân sự hải quân (kỳ 6)



"Trận hải chiến vĩ đại" bị thay thế bằng những cuộc săn tìm trên biển với hiệu quả sóng còn cao hơn, là nét nổi bật của tư duy tác chiến hải quân mới.

Tư duy "trận hải chiến vĩ đại" lui dần vào lịch sử

Trước thế kỷ 20 các hoạt động trên biển hầu như chỉ là nhưng hoạt động tác chiến cấp chiến thuật, các nước phương Tây, những nước thực dân với đường lối chính trị "ngoại giao pháo hạm" và nguyên tắc tác chiến "trận hải chiến vĩ đại" đã sử dụng những hạm tàu viễn dương đánh chiếm các nước nghèo, lạc hậu thuộc chế độ phong kiến với mục đích mở rộng thuộc địa. Hầu hết các cuộc chiến đấu diễn ra không cân sức và lực lượng hải quân mang tính yểm trợ, vận tải và đổ bộ.

Vào những năm 1904 – 1905 trong cuộc chiến tranh Nga Nhật các trận hải chiến giữa Hạm đội Thái bình dương và Hạm đội hải quân của Nhật đã xuất hiện những yếu tố của hải chiến hiện đại.

Hải quân Nhật phát triển vượt bậc với các thiết giáp hạm, các tàu tuần dương trọng tải lớn và pháo hạm hiện đại hơn, các khu trục hạm bọc giáp hạng nhẹ với khả năng tấn công nhanh đã làm chủ chiến trường trên mặt biển.

Các chiến dịch trong chiến tranh Nga - Nhật dù thời gian kéo dài hơn, nhưng vẫn có những nét tương đồng của các trận hải chiến lớn thời kỳ tàu buồm, với sự thất bại của hải quân Nga, do đánh giá sai lầm sức mạnh hỏa lực pháo binh Nhật bản và khả năng tấn công trực diện với tốc độ cao của các tàu khu trục hạng nhẹ, là bước phát triển cao nhất của các Thiết giáp hạm, pháo hạm và các tàu khu trục ham.

Lý thuyết hải chiến được xây dựng trên cơ sở: Để tiêu diệt một hạm đội cần có một hạm đội khác mạnh hơn, có nhiều pháo hạng nặng hơn và nhiều tàu thiết giáp tốc độ cao hơn.



Sơ đồ hải chiến Nga - Nhật.

Các giai đoạn của cuộc chiến thế giới 1 cũng cho thấy những thương vong của các thiết giáp hạm bởi các vũ khí năng động và tiết kiệm hơn và cũng là sự phát triển mạnh mẽ của tàu ngầm.

Trong tháng 9/1914, mối đe dọa thực sự từ chiến dịch săn tàu của đội tàu ngầm U-boat Đức đến các tàu chiến chủ lực đã được chứng minh bởi các cuộc tấn công thành công vào các tuần dương hạm của Anh, chiếc tàu ngầm U-9 Đức trong 1 trận đánh chìm 3 tàu tuần dương bọc thép của Anh chỉ trong vòng chưa đầy 1 giờ.

Thủy lôi tiếp tục chứng minh là một mối đe dọa thường trực khi chỉ 1 tháng sau đó, "siêu thiết giáp hạm" lớp Dreadnought Audacious của Anh đã đâm vào một quả thủy lôi và chìm.

Đến cuối những năm 1918 - 1920, chiến lược và chiến thuật của Anh ở Biển Bắc phải thay đổi để làm giảm sự khả năng tiêu diệt của tàu U-boat.



Sơ đồ trận hải chiến Jutland.


Tại Jutland là cuộc đụng độ lớn duy nhất của các hạm đội thiết giáp hạm trong lịch sử, kế hoạch của Đức trong trận chiến là dựa vào đội tàu U-boat để tung ra các cuộc tấn công vào hạm đội Anh, và việc hạm đội thiết giáp hạm Đức thoát khỏi hỏa lực mạnh mẽ hơn của tàu Anh là bởi các tàu tuần dương và tàu khu trục của Đức có thể áp vào gần các thiết giáp hạm của Anh, làm chúng (các thiết giáp hạm của Anh) phải di chuyển để tránh sự đe dọa của các cuộc tấn công bằng ngư lôi.

Hơn nữa những thiếu sót để cho các tàu ngầm tấn công các tuần dương hạm làm cho các tàu tuần dương bị thương vong lớn đã dẫn đến những hoang tưởng ngày càng tăng trong Hải quân Hoàng gia Anh về chỗ yếu của thiết giáp hạm.

Trận hải chiến Jutland vào cuối tháng 3/1916 giữa hạm đội của Anh và của Đức đã kết thúc tư duy chiến lược "trận đánh vĩ đại trên biển".

Trong trận hải chiến này, người Anh đã mất 14 tàu với trọng tải là 11.3570 tấn, 6.097 thủy thủ hy sinh, 510 bị thương. Người Đức mất 11 chiến hạm với trọng tải là 60.250 tấn, 2.551 thủy thủ hy sinh, 507 người bị thương.

Nhưng trận chiến lớn nhất này không kết thúc bằng sự hủy diệt của Hải quân Anh, và người Đức cũng không chiếm được vị trí thống trị trên biển. Tư duy nghệ thuật chiến dịch kết thúc bằng một trận hải chiến vĩ đại đã mất hoàn toàn giá trị hiện thực của nó.

Các cuộc săn tìm trên biển

Sau đại chiến thế giới lần thứ 1, nghệ thuật quân sự phát triển mạnh với sự phát triển của xe tăng, xe thiết giáp, pháo nòng dài, tư duy chiến dịch có chiều sâu vào các chiến dịch mà lực lượng chủ lực giải quyết chiến trường là lực lượng bộ binh, lực lượng hải quân đóng vai trò yểm trợ.

Các chiến dịch hải chiến chủ yếu có mục đích bảo vệ đường vận tải biển, tấn công tàu ngầm và chống ngầm, đồng thời phát triển mạnh binh chủng không quân hải quân.

Nghệ thuật chiến dịch tập trung giải quyết các nhiệm vụ chủ yếu, bảo vệ các căn cứ kinh tế, quân sự ven biển, tấn công các tuyến đường vận tải bằng tàu ngầm bảo vệ đường vận tải và chống ngầm, tác chiến không-hải bằng lực lượng không quân và không quân hải quân với sự tham gia của các tàu sân bay.

Khi chiến tranh thế giới thứ 2 nổ ra, trên các vùng nước của các cường quốc tham gia chiến tranh, cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt với các chiến dịch săn tìm các đoàn tàu vận tải của đối phương, tấn công bằng tàu ngầm, các hạm đội hải chiến chủ yếu bằng tàu sân bay và không quân hải quân tấn công căn cứ hải quân của đối phương bằng lực lượng đổ bộ hải quân với sự yểm trợ hỏa lực mạnh mẽ của hải quân.



Sơ đồ trận hải chiến Matapan.


Một trong những trận đánh làm thay đổi tư duy chiến dịch của hải chiến, bắt đầu thời kỳ của khoa học công nghệ hiện đại là trận đánh ở mũi Matapan ngày 27 – 29/5/1941 giữa Hải quân Hoàng gia Anh và hải quân Italy.

Sau một thời gian dài tiến hành chiến dịch săn tìm, cuối cùng hạm đội Anh đã phát hiện một hải đoàn của hải quân Italy với kỳ hạm Vittorio Veneto, 6 tàu thiết giáp hạm hạng nặng, 2 tàu tuần dương hạng nhẹ và 13 tàu khu trục.

Không quân hải quân tàu sân bay Formideybl của Anh đã đánh thiệt hại nặng kỳ hạm và thiết giáp hạm của Italy. Cuộc chiến đấu tiếp tục diễn ra vào ban đêm, chiến hạm của Anh sử dụng radar đã nhanh chóng phát hiện ra tàu chiến của Italy và nhấn chìm 3 tàu tuần dương hạng nặng, 2 tàu khu trục.

Đặc biệt đáng kể: Hải đoàn của người Anh không có tổn thất đáng kể.



Tàu ngầm U Boat của Đức.

Là nước có nền công nghiệp phát triển mạnh, Đức đã phát triển một tư duy chiến dịch mới, đi kèm với sự phát triển của công nghệ đóng tàu ngầm U-Boat tải trọng 200 tấn, "chiến thuật bầy sói", người Đức đã tung hoành trên Đại Tây dương, tấn công các tuyến đường vận tải, các hạm tàu của các nước Đồng minh, vũ khí tấn công chủ yếu là ngư lôi, thứ yếu là pháo hạm hạng nhẹ.

Chiến thuật bầy sói đã gây rất nhiều tổn thất cho các đoàn quân sự và đoàn tàu thương mại trên biển. Sự phát triển mạnh mẽ của tàu ngầm, ngư lôi, thủy lôi và máy bay ném bom chìm, phóng ngư lôi đã xuất hiện một thế hệ các tàu chiến mới, thay thế cho các tuần dương hạm hạng nặng và thiết giáp hạm, đó là những tàu yểm trợ và đánh chặn bảo vệ tiền duyên của các đoàn tàu thương mại và vận tải, tàu khu trục phóng lôi và săn ngầm.



Hoạt động của lực lượng hải quân trên vùng biển Đại Tây Dương năm 1942.


Hàng trăm chiếc tàu khu trục của Anh, Mỹ với các thiết bị hiện đại được triển khai trên Đại tây dương và Địa trung hải với mục tiêu săn ngầm, đánh tiêu diệt các tàu ngầm Đức, với chiến dịch truy quét tàu ngầm, tập trung lực lượng từ nhiều hướng bao vây và tiêu diệt, quân đội Đồng Minh đã đánh chim kỳ hạm Bismarck và bắt đầu sự thảm bại của hải quân Đức.

Sự phát triển mạnh mẽ của các thiết bị radar, sonar, ngư lôi và không quân hải quân đã tạo ưu thế trên mặt nước Địa Trung hải, Hải quân Đức đã tổn thất nặng nề trong chiến dịch sử dụng tàu ngầm thống trị mặt biển, người Đức cố gắng kéo lại ưu thế bằng giải pháp thiết kế tàu ngầm mới loại Elektroboat với khả năng lặn lâu hơn, tấn công ngư lôi từ dưới mặt nước, nhưng thời gian không cho phép, khi quân Đồng minh đổ bộ lên Normandy từ 6 đến tháng 8/1944 đó cũng là trận hải chiến cuối cùng của tàu ngầm Đức.



Vị trí các tàu ngầm U boat bị đánh chìm.


Nhìn toàn cuộc, 1.155 tàu ngầm Đức được tung vào cuộc chiến, trong đó có 725 chiếc bị đánh chìm.

Trong 6 năm, hơn 35.000 thủy thủ Đức lao vào cuộc chiến sống còn trên biển và 28.744 người không bao giờ trở về - tỷ lệ thiệt mạng 82% được xem là cao nhất trong lịch sử chiến tranh hiện đại.



Hoạt động tác chiến của lực lượng hải quân trên vùng biển Đại Tây Dương các nước năm 1944-1945.


Đặc điểm của các chiến dịch do các lực lượng hải quân tiến hành được thể hiện rõ nét nhất trên Chiến trường Đông Nam Á, và nổi bật là cuộc chiến tranh trên biển Philippines 1941-1945 giữa lực lượng Hải quân Nhật bản và lực lượng Đồng Minh.

Hải quân Nhật dưới quyền chỉ huy của đô đốc hải quân Isoroku Yamamoto nhận định, thời kỳ của những chiếc thiết giáp hạm và pháo hạm đã kết thúc, phương án để đánh bại một hạm đội thiết giáp hạm cần một hạm đội thiết giáp hạm lớn hơn, có vỏ thép dầy hơn và pháo nặng hơn đã không còn thực tế nữa.

Đô đốc Yamamoto chọn phương án sử dụng máy bay chiến đấu với các loại ngư lôi tấn công dưới ngấn nước, không quân hải quân và tàu sân bay là lực lượng tác chiến chủ lực của hải quân Nhật bản, do đó, lực lượng không quân hải quân và tàu sân bay của Nhật được phát triển mạnh mẽ, khả năng hải hành viễn dương rất cao và có thể hiệp đồng tác chiến quân binh chủng chặt chẽ.

Lực lượng viễn chinh chủ yếu của nhật bản dưa trên sức mạnh của những hạm đội trong đó, lực lượng tàu sân bay cảm tử kamikaze đóng vai trò chủ lực. Tuy nhiên, người Nhật luôn đánh giá cao lý luận thống trị trên đại dương bằng một trận hải chiến vĩ đại, tiêu diệt phần lớn lực lượng hải quân đối phương bằng những đòn tấn công liên tiếp, quyết liệt của không quân, sau đó mở rộng không gian tác chiến bằng những đòn đánh của lực lượng thiết giáp hạm, tuần dương hạm và tàu ngầm với vũ khí chủ đạo là ngư lôi – pháo hạm với sự yểm trợ của máy bay ném bom, kết thúc chiến dịch bằng các cuộc đổ bộ từ biển đánh sâu vào đất liền, chiếm đóng và tiêu diệt.

Để khẳng định cho lý luận quân sự này, Nhật Bản đã đưa lực lượng hải quân viễn dương hùng mạnh vào đại chiến thế giới lần thứ 2. Mở màn bằng trận tấn công Chân Trâu cảng, Hải quân Nhật đã đánh tiêu diệt hại nặng Hạm đội Thái bình dương của Mỹ do đô đốc Husband Kimmel, tư lệnh hạm đội (từ tháng 2-1941).


Cuộc xâm lược của Đế quốc Nhật Bản.


Sau cuộc tấn công Chân Trâu cảng, các chiến dịch hải chiến trong khu vực Đông Nam Á đã mở rộng, Hải quân Nhật bản với biên chế đầy đủ tàu sân bay, thiết giáp hạm, tuần dương hạm, các tàu khu trục, tàu ngầm và không quân hải quân đã vượt qua Thái Bình Dương và tiến sâu vào Ấn Độ dương, tiêu diệt 2 hạm tàu mạnh nhất của nước Anh Prince of Wales và Repulse đuổi hạm đội của Hoàng gia Anh tháo lui khỏi biển Ấn độ. Quân đội Nhật đã đánh chiếm toàn bộ Đông Nam Á. Nhưng cũng từ đó, lực lượng hải quân Nhật bản đã bộc lộ những điểm yếu dẫn đến sự thảm bại sau này.

Điểm thứ nhất: Quân đội Nhật đã quá tin tưởng vào sức mạnh hải quân, do đó, sự gắn kết chiến dịch với các lực lượng lục quân Nhật Bản không chặt chẽ. Đặc biệt là với lực lượng lục quân.

Điểm thứ hai. Quân đội Nhật được trang bị vũ khí hiện đại, nhưng hệ thống thông tin trinh sát và quản lý chiến trường rất yếu. Đó là khả năng thông tin liên lạc của các hải đoàn rất kém, người Nhật không được trang bị radar, một thiết bị quân sự hiện đại, song hành cùng với điều đó, nền công nghiệp Nhật bản, đặc biệt là cụm công nghiệp tàu biển và máy bay chiến đấu, đã không đáp ứng được yêu cầu trên chiến trường.

Những hạn chế trên đã trở thành nguyên nhân chính gây ra thất bại của Hải quân Nhật bản. Sau chiến dịch tấn công Midway thất bại, lực lượng Hải quân Nhật đã rơi vào tính thế chiến đấu mà không có sự hộ trợ mạnh mẽ của nền công nghiệp quốc phòng, những tổn thất nặng nề trong chiến tranh đã không được bù đắp, và loạt chiến dịch liên tiếp trên chiến trường Philippines thất bại.

Hải quân Nhật bị tổn thất nặng nề bởi các đòn tấn công của máy bay cường kích, tàu ngầm, trận chiến vịnh Leyte đã chấm dứt mọi hoạt động của hạm đội Nhật bản với tư cách là lực lượng hải quân hùng mạnh trên biển Thái Bình dương. Nhật bản bị đánh tiêu diệt trên mặt trận Mãn Châu, bị hủy diệt bởi 2 quả bom nguyên tử, và chiến dịch Okinawa đã buộc quân đội Nhật phải đầu hàng.



Sơ đồ trận chiến Midway.




Trận chiến vịnh Leyte đánh quỵ tiềm năng cuối cùng của Hải quân Nhật Bản


Sau những thất bại đầu chiến tranh, lực lượng Đồng Minh đã học tập kinh nghiệm tác chiến chiến dịch của Nhật bản với phương pháp sử dụng không quân kải quân và tàu ngầm tác chiến độc lập.

Mỹ tập trung phát triển máy bay tác chiến trên tàu sân bay, Anh tăng cường sức chịu đựng của thiết giáp hạm trước sức tấn công của không quân hải quân, trong các chiến dịch hải chiến, với sức mạnh vượt gấp nhiều lần của nền công nghiệp quốc phòng, với khả năng có thể trang bị cho Hải quân những vũ khí và thiết bị quân sự tối tân nhất.

Lực lượng Đồng minh đã có ưu thế cả trên không và trên biển. Sự kết hợp chặt chẽ giữa các lực lượng tham gia tác chiến, lấy không quân hải quân, với các pháo đài bay B-17 làm chủ đạo, các máy bay cường kích mang ngư lôi và bom đã phối hợp chặt chẽ với các lực lượng tàu ngầm, lực lượng bộ binh cơ giới.

Vượt trội hơn Nhật bản về công nghệ sản xuất máy bay chiến đấu, máy bay trinh sát và hệ thống radar, Mỹ đã tăng cường sức mạnh tối đa của không quân hải quân. Quân đội Đồng minh đã tiến hành các chiến dịch tuy quét lực lượng hải quân Nhật bản, tập trung máy bay tấn công với số lượng lớn nhằm tiêu diệt các tàu sân bay của lực lượng hải quân Nhật bản.

Đầu năm 1945, hầu hết các hạm đội của Nhật bản đều nằm sâu dưới đáy biến, Mỹ đồng thời dùng lực lượng bộ binh, không quân đánh quỵ tiềm năng chiến tranh của Nhật. Từ đó triển khai những chiến dịch tấn công đổ bộ lên đảo Okinawa, Nhật hoàng đọc tuyên bố đầu hàng Đồng minh vô điều kiện.

[BDV news]


Thứ Sáu, 8 tháng 7, 2011

>> Nghệ thuật quân sự hải quân (kỳ 5)



Sự phát triển của khoa học kỹ thuật đã làm thay đổi sâu sắc nghệ thuật tác chiến trên biển, với sự tham gia không chỉ của hải quân mà còn có các quân, binh chủng khác.


Sự phát triển của khoa học công nghệ quân sự đã đưa nghệ thuật chiến dịch phát triển lên một nấc thang mới, không gian của chiến trường mở rộng hơn, tham gia vào các hoạt động tác chiến cấp chiến dịch trên khu vực biển, đại dương và các vùng nước ven bờ, khu vực bờ biển không chỉ là lực lượng hải quân, mà cả lực lượng không quân, lực lượng lục quân, lực lượng tên lửa chiến lược và lực lượng bộ đội không gian...

Thông thường, các hoạt động tác chiến chiến dịch của Liên bang Xô viết trước đây và nước Nga ngày nay có thể do một chiến hạm hoặc một cụm chiến hạm thực hiện, với sự yểm trợ tầm xa của các lực lượng không quân hải quân, không quân và tên lửa chiến lược.

Các cường quốc biển phương Tây thường triển khai các chiến dịch trên biển với một cụm tầu hoặc một hạm đội đến nhiều hạm đội với đầy đủ biên chế, bao gồm cả tầu sân bay. Lực lượng hạm đội của Mỹ hoàn toàn có khả năng đáp ứng một cuộc chiến tranh cục bộ hoặc một cuộc xung đột khu vực.



Tàu đổ bộ có boong phóng máy bay cỡ lớn của Hải quân Hoa Kỳ trong chiến tranh Iraq.


Từ góc nhìn về sử dụng lực lượng, có thể xác định được phương án chiển khai một chiến dịch tác chiến biển đại dương.

Phương án tác chiến biển – đại dương cũng nằm trong những nguyên tắc tác chiến cơ bản, nhưng với không gian tác chiến rộng lớn hơn, trên vũ trụ, trên không, trên biển – đại dương và dưới biển, đại dương.

Các hoạt động tác chiến có thể đơn lẻ như săn ngầm hoặc đồng bộ với mục tiêu chiếm quyền chủ động, nhằm vào các mục tiêu quan trọng về kinh tế, quân sự, chính trị của đối phương, từ các căn cứ hải quân đối phương đến các mục tiêu trên không, trên biển – đại dương.



Khả năng tấn công của tàu ngầm nguyên tử Mỹ trên biển Baren.


Đối với các lực lượng Hải quân mạnh, có trong biên chế đầy đủ các phương tiện, từ tầu sân bay đến các loại tầu xuồng chiến đấu, phương thức triển khai các chiến dịch với các mục tiêu khác nhau, từ xung đột vũ trang đến chiến tranh cục bộ trong giai đoạn ngày này thông thường có tính tương đương, (ngoại trừ những hoạt động chống hải tặc).

Đó là thời gian chuẩn bị rất kỹ càng, có thể kéo dài nhiều năm đến nhiều tháng cho những hoạt động nghiên cứu vùng nước, địa hình đáy biển, hoạt động tầu thuyền, các sơ đồ bố trí lực lượng của đối phương, chi tiết đến từng mục tiêu, các mục tiêu này sẽ được lập trình trên tất cả các phương tiện trinh sát (vệ tinh, máy bay trinh sát, tầu xuồng trinh sát….. và các phương tiện mang, từ các chiến hạm mạng tên lửa, pháo hạm đến các các máy bay của lực lượng không quân hải quân, các mục tiêu nay sẽ được theo dõi chặt chẽ, đảm bảo chắc chắn không có sự bất ngờ xảy ra khi chiến dịch tiến công được triển khai.

Thời điểm triển khai chiến dịch thường được giữ bí mật tối đa, khi giờ công kích đã đến các lực lượng hải quân của các cường quốc biển sẽ đồng loạt tấn công hỏa lực từ tất cả các đơn vị tác chiến như không quân hải quân, chiến hạm, tầu ngầm, lực lượng đặc nhiệm hải quân trên toàn tuyến, trên không, trên biển, các căn cứ bờ biển và trong các trường hợp chiến tranh cục bộ, sẽ đánh sâu vào đất liên, các mục tiêu được tiến công bằng nhiều phương tiện hỏa lực, từ nhiều hướng khác nhau, với yêu cầu trong thời gian ngắn của đợt công kích, các mục tiêu quan trọng phải được chế áp hoặc tiêu diệt.

Trong quá trình triển khai chiến dịch, các đơn vị hợp thành của lực lượng hải quân có thể tiếp tục truy quét, tìm diệt các mục tiêu đã được lựa chọn ( tầu ngầm, tầu chiến) hoặc chế áp các đơn vị phòng không, tên lửa, sân bay, bến cảng…với mức độ hỏa lực ngày càng tăng, các đợt tấn công dồn dập …cho đến khi mục tiêu chiên dịch đạt được.

Do tính đặc thù của các chiến dịch hải chiến, để phòng thủ không – biển đạt hiệu quả cao, yêu cầu quan trọng đầu tiên trong cả thời chiến lẫn thời bình, đó là khả năng sẵn sàng tác chiến cao độ, bí mật, bất ngờ, tính cơ động cao, khả năng sẵn sàng tham gia chiến đấu cao của các phương tiện, vũ khí trang bị lực lượng hải quân.

Việc nghiên cứu kỹ và sâu sắc, hiểu biết thực tế vùng nước, vùng biển, ven biển, tính đặc thù của bờ biển, khả năng ngụy trang che dấu lực lượng, khả năng cơ động, khả năng bố trí các lực lượng phòng thủ hiệu quả là yếu tố vô cùng quan trong trong sự sống còn của lực lượng phòng thủ.



Tổ hợp tên lửa chống tàu Club-K phóng từ tàu chở hàng.


Để chống lại các lực lượng hải quân của các cường quốc biển, với công nghệ quân sự hiện đại ngày nay, các lực lượng hải quân liên bang Nga cần quản lý chặt chẽ các vùng nước có khả năng hình thành bàn đạp tiến công, các căn cứ hải quân mà đối phương có thể sử dụng, các phương án đột kích, phản công đánh trả ngay khi đối phương bắt đầu triển khai tấn công, các phương án phòng không, phòng hải hiệu quả nhất, đồng thời phải bố trí sẵn sàng hệ thống phòng thủ bờ biển, vùng nước nông và các hướng phản công hỏa lực từ những căn cứ đã được chuẩn bị sẵn, với những khu vực mục tiêu.

Thông thường, mỗi khu vực mục tiêu phải được sự quản lý của nhiều phương tiện hỏa lực hoặc nhiều đơn vị binh chủng như tên lửa, không quân, tầu tên lửa hoặc tầu phóng ngư lôi, các đơn vị đặc nhiệm hải quân, phòng thủ bờ biển.

Các hoạt động huấn luyện tác chiến nhằm duy trì và nâng cao sức chiến đấu của các đơn vị phải diễn ra với sự đối kháng thực tế, những hoạt động huấn luyện tác chiến phải được tiến hành trong mội trường khách quan, với góc nhìn từ phía bên kia của lực lượng đối phương có tiềm lực hải quân mạnh và hiện đại, các hoạt động triển khai chiến đấu phải năng động, sáng tạo, nhịp độ triển khai phải nhanh chóng, bất ngờ với yêu cầu cơ động chiến đấu ngày càng cao, áp lực tác chiến càng ngày càng tăng, nhằm phát huy tính chủ động, sáng tạo của các sỹ quan chỉ huy, đặc biệt là các hạm trưởng và các sỹ quan chỉ huy lực lượng phòng không, phòng hải.



Hệ thống radar cảnh báo sớm chiến lược chống tên lửa của Liên bang Nga.


Điểm đặc biệt quan trọng trong nghệ thuật chiến dịch không-hải hiện đại là khả năng đảm bảo thông tin và khả năng trinh sát, theo dõi, bám mục tiêu và quản lý chiến trường bằng các phương tiện truyền thông hiện đại.

Theo đó, mạng lưới thông tin và truyền thông cần được xây dựng đa tầng, đa điểm, đa dạng, có khả năng chống nhiễu hiệu quả, ngay cả trong trường hợp bị tấn công (bị tấn công vệ tinh trinh sát, hệ thống định vị vệ tinh, hệ thống vệ tinh truyền thông, các trạm thông tin liên lạc, các trạm radar cảnh báo).

Để thực hiện được nhiệm vụ này, hệ thống trinh sát, truyền thông phải được tính toán, xây dựng và thử nghiệm trong điều kiện tác chiến hiện đại, với khả năng bị tấn công cao nhất, hệ thống trinh sát, truyền thông và quản lý chiến trường phải biến đổi linh hoạt, chuyển hóa liên tục trong không gian chiến trường phức tạp và và hỏa lực tấn công dầy đặc với độ chính xác cao.



Phân bố lực lượng hải quân viễn dương Trung Quốc.


Do tính đặc thù của nghệ thuật chiến dịch trên hải dương, các hoạt động huấn luyện tác chiến thường có thể nhanh chóng chuyển thành các hoạt động tác chiến trên biển, do đó, khái niệm ranh giới về huấn luyện thời bình và chiến đấu thời chiến trong nghệ thuật quân sự hải dương rất mờ nhạt.

Các đòn tấn công có thể xuất phát từ bất cứ điểm nào, bất cứ thời gian nào trên toàn bộ các đại dương hoặc vùng biển.

Đánh chặn kịp thời và phản công hiệu quả là phương án tốt nhất dành thế chủ động trên chiến trường hải dương. Đó là điểm đặc biệt quan trọng trong sự phát triển của nghệ thuật chiến dịch hải quân và đó cũng là mối quan hệ tương quan chặt chẽ của chiến lược và chiến dịch hải dương.

Lý luận về nghệ thuật chiến dịch

Nghệ thuật chiến dịch- Một thành phần quan trọng của nghệ thuật quân sự, giải quyết những vấn đề liên quân đế lý thuyết và thực hành huấn luyện tác chiến và tiến hành các hoạt động tác chiến hợp đồng quân binh chủng, tác chiến độc lập cấp chiến dịch, các hoạt động tác chiến của các quân chủng trên những chiến trường khác nhau. Nhưng lý luận và thực tiễn của nghệ thuật chiến dịch được hình thành cơ bản trong Điều lệnh tác chiến hải quân.

Những nhiệm vụ quan trọng của nghệ thuật chiến dịch là: nghiên cứu tính chất và nội dung của những hoạt động tác chiến. Đề xuất các phương pháp huấn luyện tác chiến và tác chiến trên bộ, trên không và trên không gian vũ trụ, xác định các giải pháp tác chiến chiến dịch với khả năng sử dụng các phương tiện chiến đấu và các lực lượng chiến đấu, đồng thời sử dụng các binh chủng sao cho có thể đạt được hiệu quả cao nhất trong chiến dịch.

Nghiên cứu và đề xuất những giải pháp, những phương pháp điểu hành các lực lượng tham gia tác chiến, khả năng đảm bảo hậu cần kỹ thuật, yểm trợ hỏa lực, thực tể điều khiển các hoạt động tác chiến của các lực lượng, các quân binh chủng trong các hoạt động tác chiến cấp chiến dịch.



Sơ đồ tác chiến khối quân sự NATO trên mặt trận Châu Âu.


Nghệ thuật chiến dịch nghiên cứu tất cả các hoạt động tác chiến cấp chiến dịch như tấn công, phòng ngự, tổ chức và thực hiện những hoạt động bố trí, di chuyển, tập trung binh lực trong các chiến dịch và mối tương quan trong quan hệ thay đổi bố trí binh lực trên chiến trường.

Nghệ thuật chiến dịch giữ vị trí kết nối giữa nghệ thuật chiến lược quân sự và nghệ thuật tác chiến (chiến thuật). Theo mối quan hệ với chiến thuật, nghệ thuật chiến dịch giữ vai trò vô cùng quan trọng, nó xác định cho chiến thuật nhiệm vụ và hướng phát triển tiếp theo.

Giữa nghệ thuật chiến dịch và chiến thuật có sự ràng buộc liên kết nhân quả và sự ràng buộc phụ thuộc phả hệ (cha-con).

Ví dụ, khi xác định mục tiêu chiến lược của chiến tranh và những phương pháp tiến hành chiến tranh ở các khu vực chiến trường (địa bàn tác chiến) cần phải tính đến khả năng thực tế của các lực lượng vũ trang, các đơn vị quân chủng và các đơn vị thành viên binh chủng của quân chủng trong điều kiện cụ thể của chiến trường.

Tương tự như vậy, khi lên kế hoạch triển khai các chiến dịch, cần tính đến khả năng tác chiến của các đơn vị binh chủng hợp thành, mức độ phát triển của lý luận và thực tiến của nghệ thuật tác chiến chiến dịch.

Như vậy trong điều kiện thực tế của chiến trường, kết quả thành công của các hoạt động tác chiến quyết định những thành quả của các hoạt động của chiến dịch, và chiến thắng của các hoạt động chiến dịch ảnh hưởng trực tiếp đến những thành quả đạt được của các mục tiêu trong từng giai đoạn phát triển chiến tranh và mục tiêu cuối cùng của chiến lược tiến hành chiến tranh.

Sự phát triển mạnh mẽ của vũ khí trang bị và phương tiện kỹ thuật, khoa học công nghệ đã hoàn thiện cơ cấu tổ chức của các lực lượng vũ trang, thay đổi các phương thức điều hành tác chiến, sự liên kết ràng buộc và và mối quan hệ liên kết phụ thuộc giữa nghệ thuật chiến lược quân sư, nghệ thuật chiến dịch và nghệ thuật tác chiến trở nên đa dạng hóa, đa chiều, và năng động hơn.

Do nghệ thuật chiến dịch giải quyết những vẫn đề của lý luận và thực tiến huấn luyện tác chiến và tiến hành triển khai các hoạt động tác chiến các chiến dịch hiệp đồng quân binh chủng hoặc các chiến dịch phát triển độc lập của không quân, hải quân và lục quân.

Do đó, trong nghệ thuật quân sự nói chung, có thể chia ra được 3 lĩnh vực có liên quan mật thiết là nghệ thuật chiến dịch và chiến thuật của từng quân chủng.



Hệ thống phòng thủ trên tàu chiến hiện đại.


Nghệ thuật quân sự của mỗi lực lượng quân chủng xuất phát từ những cơ sở căn bản của mô hình tác chiến lực lượng, yêu cầu của lý luận và thực tiễn chiến đấu, tính đặc thù của cơ cấu tổ chức quân chủng, của môi trường tác chiến, vũ khí trang bị, phương tiện chiến đấu, khả năng và năng lực chiến đấu của các đơn vị binh chủng hợp thành của quân chủng.

Những quan điểm về nghệ thuật chiến dịch được rút ra từ những nguyên tắc cơ bản của nghệ thuật quân sự nói chung.

Những điểm mấu chốt là đảm bảo khả năng sẵn sàng chiến đấu cao của lực lượng và vũ khí trang bị; mạnh dạn, kiên quyết triển khai các hoạt động tác chiến với mục tiêu chiếm và nắm giữ quyền chủ động, sẵn sàng triển khai các hoạt động tác chiến khi địch sử dụng các loại vũ khí thông thường, vũ khí hiện đại và vũ khí có sức hủy diệt lớn; hoàn thành nhiệm vụ và mục tiêu đặt ra bằng sức mạnh tổng hợp của của các đơn vị binh chủng hợp thành, các đơn vị liên kết phối hợp của các quân chủng, trên cơ sở mối quan hệ tác chiến chặt chẽ của hiệp đồng quân binh chủng; tập trung được lực lượng đột phá chủ lực trên hướng tiến cống chính trong thời điểm quyết định.

Áp dụng những nguyên tắc chung trong nghệ thuật chiến dịch phụ thuộc vào điều kiện cụ thể của chiến trương, nơi diễn ra các hoạt động tác chiến của các đơn vị.

Lý luận quân sự của các nước phương Tây không sử dụng thuật ngữ Nghệ thuật chiến dich, các nhà quân sự phương Tây sử dụng khái niệm Nghê thuật tác chiến lớn, hoặc khái niệm nghệ thuật chiến lược nhỏ.

Sự phát triển của khoa học công nghệ quân sự đã đưa nghệ thuật chiến dịch phát triển lên một nấc thang mới, không gian của chiến trường mở rộng hơn, tham gia vào các hoạt động tác chiến cấp chiến dịch trên khu vực biển, đại dương và các vùng nước ven bờ, khu vực bờ biển không chỉ là lực lượng hải quân, mà cả lực lượng không quân, lực lượng lục quân, lực lượng tên lửa chiến lược và lực lượng bộ đội không gian, các chiến dịch có sử dụng hải quân diễn ra liên tục thời bình như bảo vệ thềm lục địa, lãnh hải, vùng lợi ích, các tuyến vận tải chiến lược đường biển, các hoạt động chống xâm nhập, chống cướp biển đến thời chiến, khi các hoạt động tác chiến diễn ra trên không trên biển, trên đại dương và dưới đại dương, các đòn tấn công từ biển có thể đánh sâu vào đất liền khí sử dụng các tên lửa đạn đạo, tên lửa hành trình, không quân hải quân, đồng thời từ đất liền, các lực lượng như phòng thủ bờ biển, tên lửa chiến lược và chiến dịch, tên lửa phòng không S-500 hoàn toàn có khả năng tấn công các mục tiêu trên biển và trên các đại dương.

Hỏa lực của một tầu chiến lớp khu trục có khả năng gây tổn thất nặng nề cho các đơn vị phòng thủ biển đảo mà không cần đòn tấn công của một liên đội tầu, hỏa lực của một tầu ngầm nguyên tử có khả năng tấn công hầu hết các mục tiêu chiến lược trên đất liền của cả một đất nước.

Do đó, các nguyên tắc hải chiển sẽ có những thay đổi rất nhiều, vấn đề đảm bảo khả năng sẵn sàng chiến đấu của lực lượng hài quân được đặt lên một tầm cao mới, đó là khả năng huấn luyện, diễn tập thực binh và thực hiện những hoạt động đa nhiệm như tuần biển, trinh sát địa hình đáy biển, dòng chảy, thực hành những hoạt động cứu hộ biển và kiểm soát chặt chẽ các hoạt động của các loại tầu trên biển và đại dương, dưới biển (huấn luyện chống ngầm và chống ngầm).

Để đảm bảo khả năng sẵn sàng chiến đấu, các đơn vị hải quân thực hiện nhiệm vụ huấn luyện, tuần tiễu hoặc cùng với lực lượng cảnh sát biển, biên phòng duyên hải được tổ chức triển khai tương đương như những hoạt động tác chiến cấp chiến dịch, với biên chế đầy đủ vũ khí trang bị và mức độ sẵn sàng chiến đấu cao nhất.

[BDV news]


Copyright 2012 Tin Tức Quân Sự - Blog tin tức Quân Sự Việt Nam
 
Lên đầu trang
Xuống cuối trang