Tin Quân Sự - Blog tin tức Quân sự Việt Nam: 22 tháng 1 2012

Paracel Islands & Spratly Islands Belong to Viet Nam !

Quần Đảo Hoàng Sa - Quần Đảo Trường Sa Thuộc Về Việt Nam !

Thứ Bảy, 28 tháng 1, 2012

>> Tìm hiểu pháo tự động A-220M của Nga


Pháo tự động A-220M là biến thể nâng cấp của A-220, là loại pháo hiện đại được sử chủ yếu trên các tàu chiến có tải trọng trên 250 tấn


A-220M (hay AU A-220M) là một biến thể nâng cấp của AU A-220. Trong những năm 1967, pháo A-220 1x57mm bắt đầu được thiết kế.



http://nghiadx.blogspot.com


Đến năm 1968, Viện nghiên cứu trung tâm CRI “Burevestnik” đã hoàn thành xong bản vẽ thiết kế của nguyên mẫu A-220 đầu tiên. Năm 1975 - 1977, nguyên mẫu AU A-220M đã được đem thử nghiệm trên mặt đất.

Các thử nghiệm được xác nhận là không đạt yêu cầu, và nguyên mẫu được tiến hành sửa đổi. Năm 1977 - 1978, AU A-220 được đem thử nghiệm cùng với hệ thống kiểm soát bắn Vimpel-220.

Để thử nghiệm, người ta đã lắp đặt hệ thống pháo này trên tàu lớp 206PE . Lần thử nghiệm này AU A-220 đã thành công, tuy nhiên hệ thống kiểm soát bắn không hoạt động.

Trong những năm 2000 - 2001, CRI “Burevestnik” tiếp tục phát triển và hiện đại hóa AU-220. Các nhà máy đã tiến hành nâng cấp AU-220. Biến thể mới này được gọi là AU A-220M hay A-220M. Mục đích chủ yếu của biến thể A-220M là để lắp đặt trên các tàu có tải trọng trên 250 tấn.

Pháo đa năng AU-220

Pháo đa năng AU-220 được trang bị cho các tàu có tải trọng 250 tấn. AU sử dụng kết hợp với hệ thống kiểm soát bắn Vimpel-220 và radar MR-123. Chúng hỗ trợ việc dẫn hướng và theo dõi các mục tiêu mặt đất và mặt nước ở phạm vi lên đến 5 km.

Cơ số đạn: 400 viên

Chiều cao: 3,2 m

Trọng lượng: 6 tấn

Ngắm đứng: -5 độ đến 80 độ

Ngắm ngang: -180 độ đến 180 độ

Chiều dài nòng pháo: 75 ca líp

Giật: 300 mm

Trọng lượng đạn: 6.5 kg

Vận tốc ban đầu của đầu đạn: 1km/s

Tầm bắn (đối với các mục tiêu mặt nước, mặt đất): lên đến 9 km

Tầm bắn (đối với các mục tiêu trên không): 6 km

Tốc độ bắn trung bình: 300 phát/phút

Một băng đạn: 50 viên

Thời gian chuẩn bị cho loạt bắn tiếp theo: 20-30 giây

AU-220 được lắp đặt trên tàu № 110 lớp 206PE hiện vẫn đang phục vụ trong Hải quân Nga.

Biến thể nâng cấp AU A-220M

Lắp đạt trên các tàu có tải tọng trên 250 tấn. Theo yêu cầu của CRI “Burevestnik ", AU A-220M phải có khả năng lắp đặt trên bất kỳ con tàu hiện đại nào. AU A-220M có thể tiêu diệt các mục tiêu trên biển, mặt đất và trên không. Nó hoạt động tốt ở điều kiện nhiệt độ từ -40 đến 50 độ C.

Cấu tạo và tính năng kỹ chiến thuật của AU A-220M:

Tự động

Có giá để lắp đặt các phụ kiện

Hòm chứa đạn

Lớp bảo vệ bằng hợp kim nhôm

Có hệ thống kiểm soát bắn

Sử dụng đạn pháo CFC- 53-UOR-281U

Cơ số đạn: 400 viên

Nguồn: 380 V, 50 Hz

Công suất: 14 kw/h

Hệ thống làm mát bằng nước

Tốc độ bắn trung bình: 300 phát/phút

Tầm bắn (đối với các mục tiêu mặt nước, mặt đất): lên đến 12 km

Tầm bắn (đối với các mục tiêu trên không): 8 km

Ngắm đứng: -5 độ đến 80 độ

Ngắm ngang: -180 độ đến 180 độ

Trọng lượng: 6 tấn

http://nghiadx.blogspot.com


Cải tiến AU-220 với nòng pháo BM-57 57mm

Mục đích chủ yếu là để lắp đặt trên các thiết bị quân sự và các phương tiện chiến đấu hiện đại. AU-220M được phát triển dựa trên khẩu súng chống máy bay tầm trung S-60.

Nó cũng đã từng được đề xuất để lắp đặt trên xe tăng lội nước hạng nhẹ PT-76. Mặc dù không còn phục vụ trong quân đội Nga, tuy nhiên PT-76 vẫn được nước này hiện điện đại hóa để phục vụ nhu cầu của các khách hàng nước ngoài.

http://nghiadx.blogspot.com
PT-76, viết tắt của (Плавающий Танк/Plavajuschij Tank trong tiếng Nga) là kí hiệu loại xe tăng lội nước hạng nhẹ của quân đội Xô Viết nặng khoảng 14 tấn.

Xe tăng PT-76 được giới thiệu lần đầu tiên vào đầu thập niên 1950, và sớm trở thành mẫu xe tăng trinh sát tiêu chuẩn của quân đội Xô Viết và những lực lượng quân sự thuộc khối Hiệp ước Warszawa.

PT-76 cũng được xuất khẩu rộng rãi đến các nước khác như Việt Nam, Iraq, Bắc Triều Tiên và Cuba Có hơn 25 nước sử dụng PT-76.

Trong Chiến tranh Việt Nam, Quân đội Nhân dân Việt Nam đã đưa PT-76 vào chiến đấu trong các trận Làng Vây, Bến Hét và tham gia chiến đấu hợp đồng binh chủng.

http://nghiadx.blogspot.com
Đặc điểm chính của AU-220M sử dụng pháo BM-57

Cơ số đạn: 92 viên

Tầm bắn (đối với các mục tiêu mặt nước, mặt đất): lên đến 8 km

Tầm bắn (đối với các mục tiêu trên không): 5 km

Có hệ thống kiểm soát bắn

Thứ Sáu, 27 tháng 1, 2012

>> Trực thăng quân đội Mỹ trong tương lai


Quân đội Mỹ đang lập bản thiết kế cho máy bay trực thăng trong tương lai với mục tiêu đạt tốc độ nhanh hơn, kết cấu vững chắc hơn


Quân đội Mỹ đang lập bản thiết kế cho máy bay trực thăng trong tương lai với mục tiêu đạt tốc độ nhanh hơn, kết cấu vững chắc hơn và có thể vận hành bán tự động.


http://nghiadx.blogspot.com
Trực thăng Boeing AH-64 Apache của Hoa Kỳ.


Lầu Năm góc đặt mục tiêu triển khai các máy bay lên thẳng thế hệ mới này vào năm 2030.

Dự án này hiện đang nhận được sự đóng góp của nhiều cơ quan khác nhau của Mỹ từ Văn phòng Bộ trưởng quốc phòng cho đến Lực lượng giám sát bờ biển, Lực lượng biệt động và thậm chí cả NASA. Các quan chức tham gia chương trình mong muốn đạt được “những cải tiến trên nhiều bình diện” như hệ thống điều khiển điện tử,phạm vi hoạt động, tốc độ, lực đẩy của động cơ, khả năng sống sót, độ cao hoạt động và khả năng chuyên chở.

“Chúng tôi đang cố gắng tạo ra một tầm nhìn xa”, Ned Chase lãnh đạo về khoa học và công nghệ cho chương trình này cho biết.

Mục tiêu chi tiết cho các thiết kế trực thăng mới này của Mỹ:

Chiếc trực thăng có thể duy trì vận tốc trên 170 hải lý/giờ (314 km/giờ), phạm vi hoạt động rộng hơm 800km (bán kính chiến đấu là 424 km) có thể bay khi chở đầy hàng ở độ cao 6.000 feet (1800m) và ở nhiệt độ 350C.

Ngoài ra dự án muốn tạo một chiếc trực thăng “đa dụng” có thể thực hiện nhiều chức năng với các kiểu dáng tương ứng từ tấn công cho đến chở hàng hóa, cứu thương, tìm kiếm, cứu nạn, chống tàu ngầm và các chức năng khác.

Ngoài ra quân đội Mỹ cũng mong thế hệ trực thăng mới có thể sẽ “cần hoặc không cần người lái” , tức là ở một mức độ nào đó có thể bay tự động được.

Vấn đề then chốt để đạt được mục tiêu này là các dữ liệu cảm biến bay không người lái có thể tích hợp được vào buồng lái mà không để vượt quá tầm kiểm soát của phi công và phi hành đoàn. Nếu mọi chuyện diễn ra suôn sẻ, những chiếc máy bay mô hình đầu tiên sẽ được thiết kế từ năm 2013 và chuyến bay đầu tiên sẽ được thực hiện vào năm 2017.

Quân đội Mỹ có thể sẽ dùng công nghệ Hệ thống phòng vệ hồng ngoại (CIRCM), một hệ thống gây nhiễu lazer có thể làm chệch hướng các tên lửa vác vai và các loại tên lửa khác nhắm bắn vào máy bay.

Công nghệ CIRCM dự kiến được triển khai vào năm 2018.

Đồng thời, các quan chức sẽ sử dụng các công nghệ cảm biến chuẩn đoán để theo dõi sát sao tình hình sử dụng và bảo trì của trực thăng, giúp giảm chi phí và nâng tuổi thọ của chiếc máy bay này.

Dưới đây là một số mẫu thiết kế máy bay trực thăng thế hệ mới của quân đội Hoa Kỳ.

http://nghiadx.blogspot.com
Thiết kế trực thăng với ý tưởng về quạt và cánh.


http://nghiadx.blogspot.com
Thiết kế trực thăng với ý tưởng về quạt ngang và đuôi xẻ.


http://nghiadx.blogspot.com
Thiết kế trực thăng giống trực thăng hiện tại nhất.


http://nghiadx.blogspot.com
Thiết kế trực thăng vận tải AVX.


Thứ Tư, 25 tháng 1, 2012

>> Các cường quốc quân sự tăng cường phát triển vũ khí laser


Hiện nay, các cường quốc quân sự trên thế giới đang có xu thế nghiên cứu phát triển vũ khí trang bị laser cho máy bay, tàu chiến và chiến xa rất mạnh.


Vũ khí laser trang bị cho máy bay

Chiếc máy bay trang bị vũ khí laser đầu tiên của Không quân Mỹ là “Boeing 747-400F”, thuộc căn cứ không quân Edwards của Không quân Mỹ.

Chiếc máy bay này đã được trang bị vũ khí laser hóa học COLL có công suất mạnh, dùng để tiêu diệt các mục tiêu trên không.


http://nghiadx.blogspot.com
Máy bay trang bị vũ khí laser đầu tiên của Quân đội Mỹ


Hiện nay, nhiệm vụ tác chiến tưởng định của quân đội Mỹ bao gồm: đánh chặn tên lửa đất đối không, tên lửa không đối không và máy bay cánh cố định, máy bay trực thăng;

bắn rơi các mục tiêu như tên lửa hành trình bay ở tầm cao và tầm thấp, máy bay không người lái, khinh khí cầu; theo dõi vệ tinh của đối phương hoạt động trên quỹ đạo, dùng chiếu xạ laser để nó tạm thời mất đi chức năng.

Chương trình laser cho máy bay của Không quân Mỹ đã trải qua hơn 10 năm phát triển, đã giành được một loạt thành tựu to lớn.

Đặc biệt là thử nghiệm đánh chặn sát thương trên không thành công ngày 10/1/2010, làm cho cuộc thử nghiệm phát hiện,

đeo bám và giao chiến của vũ khí laser trang bị cho máy bay có một bước tiến quan trọng, trong tương lai có thể đảm đương nhiệm vụ phòng thủ cuối cùng của tên lửa đạn đạo chiến thuật của quân Mỹ.

Vũ khí laser trang bị cho tàu chiến

Hệ thống “vũ khí laser phòng ngự khu vực trang bị cho tàu chiến” là một hệ thống laser chiến thuật giá rẻ có khả năng phòng thủ cự ly gần, đang được Công ty Raytheon Mỹ nghiên cứu chế tạo.

Hệ thống LADS được cải tiến trên cơ sở hệ thống phòng thủ gần Phalanx hiện có,

chủ yếu đã tận dụng nền tảng của hệ thống cũ và radar kiểm soát hỏa lực, pháo pháo rãnh xoay phóng nhanh 6 nòng 20 mm được thay thế bởi thiết bị laser trạng thái rắn.

http://nghiadx.blogspot.com
Pháo laser trang bị cho tàu chiến của Quân đội Mỹ


Hệ thống LADS chủ yếu dùng cho tác chiến phòng thủ cuối cùng của tàu chiến nổi cỡ lớn và trung bình như tàu khu trục tên lửa Aegis, có thể đối phó với nhiều loại mục tiêu trên biển, trên không, bao gồm tên lửa không đối hạm, tên lửa hạm đối hạm, tên lửa ngầm đối hạm, đạn lửa (đạn hỏa tiễn), đạn pháo, máy bay không người lái, máy bay trực thăng, thủy lôi di động và tàu cỡ nhỏ.

Ngay từ năm 2007, Công ty Raytheon đã tuyên bố, trong thử nghiệm, hệ thống LADS sử dụng một thiết bị laser sợi IP 20 kW, đã bắn rơi thành công một máy bay không người lái giả ở cự ly 1050 m.

Vì vậy, hệ thống vũ khí laser trang bị cho tàu chiến đã thể hiện được tính năng và ưu thế tốt, việc đưa vào sử dụng thực tế sẽ không còn quá lâu.

Vũ khí laser trang bị cho chiến xa

Vũ khí laser chiến thuật Low-Sentinel của Lục quân Mỹ, do Công ty Lockheed Martin nghiên cứu phát triển, có thể dùng container vận chuyển, được kéo bởi xe tải quân sự chiến thuật, thực hiện cơ động nhanh trên chiến trường, đánh chặn có hiệu quả các mục tiêu trên mặt đất và trên không ở tầm thấp, có tính cơ động chiến thuật mạnh.

http://nghiadx.blogspot.com
Vũ khí laser trang bị cho chiến xa

Hệ thống này đã sử dụng thiết bị laser hóa học DF, có công suất cao hơn, đường kính chùm tia sáng lớn hơn,

mật độ năng lượng phân bố đều, ô nhiễm ít, tính năng tổng thể khá tốt, không những có thể phòng thủ tên lửa đạn đạo chiến thuật tầm gần,

đạn pháo tầm gần, tầm trung và tầm xa, đạn hỏa tiễn, hơn nữa có thể đánh chặn sự tấn công của máy bay trực thăng,

máy bay không người lái, khinh khí cầu và tên lửa hành trình, bảo vệ cho các cơ sở quân sự, khu dân cư hoặc khu công nghiệp, khu vực bảo vệ có thể lên tới 8.000 m2. Công ty Công nghiệp Máy bay Israel cũng đã nghiên cứu phát triển một hệ thống vũ khí laser chiến thuật trạng thái rắn tương tự hệ thống Low-Sentinel.

Được biết, tính năng của thiết bị laser chiến thuật dùng cho chiến xa này ưu việt toàn diện so với Low-Sentinel,

có thể phá hỏng hệ thống kiểm soát hỏa lực quang điện của tên lửa chống tăng, đồng thời có thể bám theo, ngắm chuẩn và tiêu diệt đầu đạn của tên lửa sau khi được phóng đi.

Thứ Hai, 23 tháng 1, 2012

>> Ấn Độ: Không ai ngớ ngẩn dùng vũ khí hạt nhân để tác chiến


“Tôi và quân đội của chúng tôi không lo ngại ai sở hữu vũ khí hạt nhân” - Tham mưu trưởng Lục quân Ấn Độ V.K. Singh nói.


Ngày 16/1, tờ “Thời báo Ấn Độ” cho biết, phía Ấn Độ vừa bác bỏ mới lo ngại cho rằng Pakistan tiếp tục dùng vũ khí hạt nhân chiến thuật đe dọa Quân đội Ấn Độ trên chiến trường, cho biết không có ai “ngớ ngẩn” đến mức dùng vũ khí hạt nhân cho tác chiến.

Thông tin này được tờ “Thời báo Ấn Độ” dẫn lời từ Tham mưu trưởng Lục quân Ấn Độ V.K. Singh trong buổi lễ thành lập Lục quân Ấn Độ ngày 15/1/2012.

Singh cho biết: “Cho chúng tôi nói rõ vấn đề này… Vũ khí hạt nhân hoàn toàn không dùng cho tác chiến. Chúng có ý nghĩa chiến lược, đây cũng là ý nghĩa tồn tại của chúng”.


http://nghiadx.blogspot.com
Tên lửa đạn đạo Shaheen-II của Pakistan/

Khi được hỏi về vấn đề có tin cho rằng Trung Quốc và Pakistan đang tăng cường nhanh chóng sức mạnh của kho vũ khí hạt nhân, Singh nói rằng: “Tôi và quân đội của chúng tôi không lo ngại ai sở hữu vũ khí hạt nhân”.

Singh cho biết: “Chúng tôi có nhiệm vụ của mình – làm cho Lục quân Ấn Độ với 1,3 triệu quân trở thành một lực lượng linh hoạt, có sức chiến đấu chí tử và hệ thống hóa”, có thể nhanh chóng tiến hành tập kết ở khu vực biên giới và thực hiện tác chiến thiết giáp.

Singh còn nhấn mạnh: “Từ sau chiến dịch “Operation Parakram” (Năm 2001, Ấn Độ tập kết lực lượng hùng hậu ở biên giới Ấn Độ-Pakistan), tình hình đã có sự thay đổi rất lớn.

Khi đó, chúng tôi cần 15 ngày mới có thể tiến hành được tập kết lực lượng, hiện nay 7 ngày là có thể hoàn thành. Sau 2 năm nữa, chúng tôi có thể hoàn thành trong vòng 3 ngày”.

http://nghiadx.blogspot.com
Lực lượng xe tăng Ấn Độ tập trận


Ngoài ra, Singh thừa nhận Lục quân Ấn Độ đang có sửa đổi nhỏ “chiến lược đánh đòn phủ đầu” của họ. Chiến lược này nhằm phát động cuộc tấn công chớp nhoáng, hơn nữa còn từng được tiến hành thử trong 2 cuộc tập trận năm 2011.

Tờ “Thời báo Ấn Độ” cho biết, chiến lược này của Ấn Độ làm cho Pakistan vô cùng sợ hãi. Đáp trả, Pakistan đã mở rộng kho vũ khí hạt nhân của mình đến 90-100 đầu đạn hạt nhân (Ấn Độ có 80-100 đầu đạn), đồng thời Pakistan còn triển khai tên lửa Nasr mang theo đầu đạn hạt nhân, có tầm phóng tới 60 km, và đề phòng Ấn Độ phát động cuộc tấn công chớp nhoáng.

Chủ Nhật, 22 tháng 1, 2012

>> Vũ khí nào là "sát thủ" tàu sân bay?


Nói chung có 2 cách để tiêu diệt một tàu sân bay, hay bất kì tàu chiến nào. Cách thứ nhất là dùng nước, nghĩa là sử dụng ngư lôi


Nói chung có 2 cách để tiêu diệt một tàu sân bay, hay bất kì tàu chiến nào. Cách thứ nhất là dùng nước, nghĩa là sử dụng ngư lôi.

Và cách thứ hai là dùng lửa, bằng cách dùng bom hoặc tên lửa, vì phần nhiều thiệt hại gây ra bởi những vũ khí này không phải từ bản thân vụ nổ ban đầu mà do đám cháy sau đó.

Nếu không thể kiểm soát được đám cháy này, ngọn lửa sẽ nhanh chóng nhấn chìm cả con tàu.

Một ví dụ là vụ chìm tàu khu trục Sheffield của Anh trong cuộc chiến Falkland khi bị trúng tên lửa diệt hạm Exocet.

Trên thực tế đầu đạn của tên lửa không kích nổ, nhưng số nhiên liệu còn sót lại trong tên lửa đã gây ra đám cháy, nó lan dần ra trước khi thuỷ thủ đoàn phải bỏ tàu.

Trong Thế chiến thứ 2, hải quân Mỹ đánh chìm tổng cộng 17 tàu sân bay của Nhật, trong đó 9 do trúng bom từ máy bay, và 8 do ngư lôi. Điều này cho thấy 2 phương pháp trên có mức độ hiệu quả gần bằng nhau.

Cũng phải nói rằng tàu sân bay là một mục tiêu rất khó bị hạ, kể cả khi đã bị trúng đạn, vì chỉ riêng kích thước lớn của tàu cũng giúp nó có thể chịu đựng được những mức độ thiệt hại mà có thể làm chìm các tàu chiến thông thường khác.

Ví dụ như chiếc USS Yorktown, trong trận chiến Midway (ngày 4-7/6/1942) bị trúng liên tiếp 3 quả bom của máy bay Nhật, nhưng thuỷ thủ đoàn vẫn có thể duy trì hoạt động của con tàu, các máy bay vẫn có thể cất và hạ cánh.

Yorktown sau đó trúng 2 quả ngư lôi được thả từ máy bay, và thuyền trưởng phải ra lệnh bỏ tàu. Tuy nhiên nó vẫn nổi trong suốt 24 tiếng sau đó.

Việc bơm nước ra và chống nghiêng cho tàu diễn ra rất tốt, cho đến khi nọ bị trúng thêm 2 ngư lôi nữa từ 1 tàu ngầm Nhật.

Song lần này nó vẫn không bị chìm ngay mà vẫn nổi trên mặt biển thêm hơn 15 giờ đồng hồ nữa.


http://nghiadx.blogspot.com
Tàu sân bay Yorktown bốc cháy sau khi các nồi hơi bị trúng bom trong trận Midway


Chiếc USS Yorktown chỉ có lượng choán nước khoảng 25,000 tấn, so với gần 100,000 tấn của các tàu sân bay cỡ lớn hiện nay, và là một trong những kiểu tàu sân bay cổ nhất (được đóng năm 1934).

Song đối phương vẫn cần đến 3 quả bom, 4 ngư lôi để có thể đánh đắm nó. Điều này cho thấy để tiêu diệt được một tàu sân bay hiện đại không phải là chuyện dễ dàng.

1. Ngư lôi

So với các loại vũ khí khác, cùng với 1 lượng chất nổ, ngư lôi là loại vũ khí có khả năng gây nhiều thiệt hại nhất cho một con tàu. Ngư lôi kiểu cũ dùng cơ chế chạm nổ để xuyên thủng thân tàu và cho nước tràn vào qua lỗ thủng đó.

Trong khi đó ngư lôi hiện đại phát nổ bên dưới đáy tàu, cách con tàu vài mét, và bẻ gãy con tàu làm đôi. Nó có thể tạo ra sức tàn phá lớn như vậy là nhờ vào sự kết hợp của 3 tác động khác nhau.

Khi ngư lôi phát nổ, nó tạo ra một ‘bong bóng’ khổng lồ bên dưới con tàu. Bong bóng này giãn nở với tốc độ rất nhanh và đẩy lớp nước giữa nó và con tàu lên.

Phần thân tàu vì vậy cũng bị đẩy lên trên. Do hệ thống dẫn đường của ngư lôi sẽ nhắm vào điểm giữa của mục tiêu, nên phần giữa con tàu sẽ bị đẩy lên cao hơn so với 2 đầu, làm sống tàu bị bẻ cong.

Tác động thứ 2 xảy ra khi bong bóng đã giãn nở tối đa, nó sẽ vỡ và giải phóng toàn bộ năng lượng của vụ nổ ban đầu, mà cho đến lúc này vẫn bị nhốt bên trong bong bóng.

Năng lượng được giải phóng này sẽ ép lớp nước bên trên và bắn xuyên qua các vết nứt ở đáy tàu tạo ra do tác động thứ 1, giống như 1 lưỡi dao bằng nước. Hiệu ứng này gần giống như luồng xuyên kim loại tạo ra bởi các đầu đạn chống tăng.

Và tác động cuối cùng xảy ra khi bong bóng đã vỡ hoàn toàn và bắn tung một khối lượng nước lớn lên không trung, trong một tích tắc nó tạo thành 1 ‘lỗ hổng’ bên dưới con tàu, khi nước chưa kịp lấp vào.

Phần giữa của con tàu sẽ rơi lại vào trong lỗ hổng đó, làm cho sống tàu lại bị bẻ cong 1 lần nữa, ngược hướng với tác động lần thứ 1.

Sự kết hợp của cả 3 tác động này thường là con tàu bị gãy lìa làm đôi và chìm trong nháy mắt. Ví dụ sinh động nhất là vụ tàu Cheonan của Hàn Quốc bị trúng 1 ngư lôi của Bắc Triều Tiên ngày 26/03/2010.

http://nghiadx.blogspot.com
Một tàu chiến bị trúng ngư lôi và gãy làm đôi


Tất nhiên với 1 mục tiêu lớn như tàu sân bay sẽ cần nhiều hơn 1 ngư lôi để đánh chìm nó.

Hải quân Mỹ từng thực hiện nhiều mô phỏng để xem cần bao nhiêu ngư lôi để đánh chìm 1 tàu sân bay cỡ lớn, như lớp Nimitz của Mỹ.

Họ ước tính sẽ cần khoảng 6 ngư lôi hạng nặng, ví dụ như loại Mk-48 với đầu đạn nặng 300kg, để đánh chìm một tàu sân bay hạng nặng.

Như vậy để đánh chìm một tàu sân bay hạng trung, như chiếc mà TQ đang thử nghiệm, có thể sẽ cần khoảng từ 3 đến 4 ngư lôi hạng nặng.

Còn trên thực tế, chiếc tàu sân bay lớn nhất từng bị đánh đắm bởi ngư lôi là chiếc Shinano của hải quân Nhật. Con tàu 60,000 tấn này bị tàu ngầm USS Archerfish đánh chìm bằng 4 ngư lôi, vào ngày 29/11/1944.

Điểm bất lợi của ngư lôi là nó có tầm hoạt động ngắn và tốc độ thấp hơn nhiều so với tên lửa. Do đó các tàu ngầm sẽ phải tìm cách áp sát mục tiêu mà không bị phát hiện.

Tàu ngầm tấn công thường được chia thành 2 loại chính: tàu ngầm chạy bằng năng lượng hạt nhân, và tàu chạy bằng động cơ diesel-điện. Các tàu ngầm diesel-điện có tốc độ rất chậm so với tàu sân bay, tầm hoạt động ngắn, và phải thường xuyên nổi lên để chạy động cơ diesel và nạp lại pin.

Do đó chúng không thích hợp với những chiến trường lớn như khu vực Thái Bình Dương. Tuy nhiên ở những vùng biển nhỏ hẹp, như vùng biển Vịnh Ba Tư, các tàu ngầm diesel-điện có thể trở thành những sát thủ thực sự của tàu sân bay khi áp dụng chiến thuật phục kích, ẩn nấp.

2. Bom và tên lửa

Trong Thế chiến thứ 2 chưa có sự xuất hiện của các tên lửa diệt hạm được phóng đi từ tàu chiến và máy bay. Tuy nhiên về bản chất chúng không khác mấy so với việc dùng bom, nghĩa là dùng lửa để tiêu diệt tàu sân bay mục tiêu.

Hiện nay tên lửa này đã hiện nay đã trở thành loại vũ khí chính cho tác chiến trên biển. Chúng có lợi thế là tầm hoạt động xa, có thể lên đến hàng trăm km, thời gian di chuyển đến mục tiêu ngắn nhờ vào tốc độ cao, những loại tên lửa diệt hạm mới có thể đạt vận tốc siêu thanh và nhanh hơn cả vận tốc của một viên đạn.

Ví dụ như tên lửa Brahmos do Nga và Ấn Độ hợp tác phát triển, có thể đạt vận tốc tối đa trên 3000km/h. Vận tốc cao còn khiến đối phương ít có thời gian phát hiện và đối phó, và cũng khiến việc bắn chặn trở nên khó khăn hơn.

Ngoài ra vận tốc cao giúp tăng thêm sức tàn phá của tên lửa khi va chạm vào mục tiêu. Đa số các tên lửa diệt hạm sử dụng cơ chế xuyên phá và nổ chậm để tối đa hoá mức độ thiệt hại, nghĩa là nó dùng động năng của mình để xuyên thủng lớp vỏ ngoài của tàu, và phát nổ khi tên lửa đã ở bên trong con tàu.

Trong thực tế chiến tranh cho đến nay, tàu sân bay chưa từng bị tấn công bởi các tên lửa diệt hạm. Cuộc chiến hiện đại trên biển gần đây nhất là cuộc chiến Falkland 1982, song như đã phân tích ở trên, hải quân Anh đã thành công trong việc bảo vệ các tàu sân bay của mình trước các tên lửa Exocet của Argentina.

Tuy vậy trong giai đoạn cuối của Thế chiến thứ 2, khi phát xít Nhật sử dụng các phi đội kamikaze, các phi công cảm tử lao máy bay vào tàu chiến Mỹ, thì đó cũng có thể xem như 1 loại ‘tên lửa’ diệt hạm, chỉ khác là chúng được con người điều khiển.

Trong nhiều trường hợp, máy bay cảm tử cũng xuyên qua lớp vỏ ngoài của tàu và phát nổ bên trong thân tàu giống các tên lửa. Vì vậy phân tích thiệt hại của các máy bay kamikaze gây ra cho tàu sân bay cũng giúp ta hình dung được phần nào tác dụng của tên lửa diệt hạm lên tàu sân bay.

http://nghiadx.blogspot.com
Máy bay kamikaze xuyên thủng boong tàu sân bay USS Intrepid, vào khoang chứa máy bay bên dưới. Đám cháy bị khống chế 1 giờ sau đó.


Tổng cộng có 22 tàu sân bay Mỹ bị các phi đội kamikaze tấn công. Chỉ 3 trong số đó bị chìm, và cả 3 đều là các tàu sân bay hạng nhẹ.

16 trong số 22 tàu là các tàu sân bay hạng nặng, một số bị thiệt hại khá nghiêm trọng, nhưng không chiếc nào bị chìm. Cũng cần lưu ý rằng các tàu sân bay “hạng nặng” của thế chiến thứ 2 chỉ bằng một nửa các tàu sân bay hiện nay của Mỹ, và nhỏ hơn tàu sân bay hiện nay của Trung Quốc.

Hơn nữa, các tàu sân bay Mỹ trong thời kì đó có thiết kế khá kém an toàn. Mặt boong tàu chính, là nơi máy bay cất và hạ cánh, chỉ được làm từ gỗ và khung thép nhẹ.

Thiết kế này giúp việc sửa chữa thiệt hại trên boong nhanh hơn, nhưng khả năng chống xuyên rất kém, bom và máy bay cảm tử có thể dễ dàng xuyên thủng mặt boong và phát nổ bên trong khoang chứa máy bay, kích nổ số nhiên liệu và bom đạn bên trong và gây ra thiệt hại vô cùng lớn.

Ví dụ như ngày 19/3/1945, tàu sân bay USS Franklin bị trúng 2 quả bom, chúng xuyên qua mặt boong chính, qua 2 tầng bên dưới trước khi phát nổ.

724 sĩ quan và thuỷ thủ thiệt mạng, 265 người bị thương. Các tàu sân bay sau này đều dùng thiết kế với mặt boong chính bọc thép.

http://nghiadx.blogspot.com
Ngày 11/3/1945, một máy bay kamikaze mang 750kg bom tấn công tàu sân bay USS Randolph. Trên hình có thể thấy 1 lỗ thủng lớn ở đuôi tàu.


Tuy nhiên, ngay cả với kích thước nhỏ hơn so với tàu sân bay hiện đại và với lớp vỏ bảo vệ khá yếu các tàu sân bay này vẫn không bị đánh chìm bởi những phi đội kamikaze, như đã nói ở trên. Những tàu sân bay hiện đại được bọc thép gần như toàn bộ.

Các khu vực quan trọng được gia cường bằng các lớp Kevlar. Ngoài ra, cấu trúc bên trong tàu được chia thành nhiều khoang với các vách ngăn bọc thép dày, nhằm cô lập sức công phá trong trường hợp tên lửa xuyên được vào trong tàu.

Do đó có thể thấy tên lửa và bom không có sức hủy diệt lớn như ngư lôi. Bên cạnh đó, do phần lớn thiệt hại của bom và tên lửa là từ các đám cháy lan sau đó,

hiệu quả thực tế của chúng còn phụ thuộc vào 1 yếu tố quan trọng khác, đó là khả năng của thuỷ thủ đoàn khi xử lý thiệt hại và ngăn chặn đám cháy.

Hải quân Mỹ tuy đã có vô số kinh nghiệm xử lý thiệt hại trong thế chiến thứ 2, vẫn có thể mắc những sai lầm chết người. Như trong vụ tại nạn trên tàu USS Forrestal trong chiến tranh Việt Nam.

Các thuỷ thủ đã dùng nước biển, thay vì bọt, để dập một đám cháy nhiên liệu trên boong. Do nhiên liệu nhẹ hơn nước nên đám cháy cùng bùng lên dữ dội, kích nổ nhiều bom và tên lửa trên các máy bay, gây ra thiệt hại lớn và vật chất và nhân mạng.

Sau vụ việc này, hải quân Mỹ phải tiến hành nhiều thay đổi lớn, trong đó bao gồm thiết kế các hệ thống phun bọt tự động trên các tàu sân bay mới, cải tiến quy trình huấn luyện việc dập lửa cho thuỷ thủ.

Nhờ vậy nên sau này trên tàu sân bay thế hệ mới USS Nimitz xảy ra 2 vụ tai nạn tương tự, nhưng đã được nhanh chóng khống chế và đảm bảo hoạt động thông suốt trở lại sau vài giờ.

Như vậy có thể thấy năng lực của thuỷ thủ đoàn cũng là 1 ‘lớp giáp bảo vệ’ vô hình nhưng cực kỳ quan trọng của tàu sân bay.

Trong trường hợp này, những nước chưa từng có truyền thống sử dụng tàu sân bay như Trung Quốc chắc chắn sẽ gặp bất lợi vì những năng lực này không thể xây dựng trong thời gian ngắn mà phải thông qua sự tích luỹ kinh nghiệm thực tế, và những kinh nghiệm này thường phải trả bằng rất nhiều xương máu.

3. Vũ khí hạt nhân

Việc sử dụng vũ khí trong hải chiến từng được Mỹ và Liên Xô xem xét nghiêm túc trong chiến tranh lạnh.

Lí luận của họ là khi sử dụng trên biển, vũ khí hạt nhân chỉ gây thương vong cho các đơn vị quân sự mà không ảnh hưởng đến dân thường và các cơ sở kinh tế, dân sự, do vậy sẽ không leo thang lên thành chiến tranh hạt nhân toàn diện.

Trong cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba (1962), khi hải quân Mỹ phong toả Cuba để ngăn không cho Liên Xô triển khai các tên lửa hạt nhân tại đảo quốc này, một thuyền trưởng tàu ngầm Liên Xô do bị tàu chiến Mỹ truy lùng quá gắt đã dự tính sử dụng ngư lôi có đầu đạn hạt nhân.

May mắn là 2 sĩ quan cao cấp khác trên tàu không đồng ý, trong khi theo quy định phải có sự đồng thuận của cả 3 trước khi vũ khí hạt nhân được sử dụng.

Ảnh hưởng của vũ khí hạt nhân lên tàu chiến nói chung và tàu sân bay nói riêng có thể rất khác nhau tuỳ theo hoàn cảnh cụ thể. Vũ khí hạt nhân có sức huỷ diệt lớn nhất khi được kích nổ dưới mặt nước và khi hạm đội đang tập trung, điều này được chứng minh qua cuộc thử nghiệm ngày 25/7/1946 của Mỹ tại đảo san hô Bikini.

Một quả bom hạt nhân có sức công phá tương đương quả bom thả xuống Nagasaki được kích nổ ở độ sâu 30m. 9 tàu chiến trong vòng bán kính 1km quanh tâm vụ nổ bị chìm. Trong số đó có 1 tàu sân bay 50,000 tấn, chiếc Saratoga.

Sóng chấn động của vụ nổ gây ra nhiều vết nứt khiến cho nước tràn vào, và nó chìm 8 giờ sau đó. Một tàu sân bay khác, chiếc Independence, đậu ở ngoài vùng bán kính huỷ diệt nên không bị chìm, nhưng cũng bị hư hại nghiêm trọng, và bị nhiễm xạ nặng.

http://nghiadx.blogspot.com
Cột nước khổng lồ trong thử nghiệm vũ khí hạt nhân trên biển. Lưu ý những con tàu là những chấm nhỏ màu đen trên mặt biển


Các tàu chiến hiện đại đều được thiết kế để chống chọi lại với sự nhiễm xạ từ các vụ nổ hạt nhân. Chúng có thể duy trì áp suất không khí bên trong cao hơn môi trường bên ngoài để ngăn các vật liệu phóng xạ không lọt vào trong được.

Một số còn được trang bị một hệ thống các vòi phun xung quanh tàu để tự động rửa trôi mọi vật liệu phóng xạ bám vào thành tàu.

http://nghiadx.blogspot.com
Tàu sân bay HMS Hermes của hải quân Anh đang diễn tập với các vòi phun tia cao áp năm 1961


4. Vô hiệu hoá tàu sân bay

Trên thực tế, trong chiến tranh không nhất thiết phải đánh chìm tàu sân bay của đối phương, vô hiệu hoá nó cũng là một lựa chọn. Vô hiệu hoá nghĩa là làm tàu sân bay không thể thực hiện nhiệm vụ của mình: phóng và thu hồi các máy bay.

Khi đó tàu sân bay chỉ còn là một khối sắt thép nổi vô dụng. Ngoài ra, đối phương cũng sẽ cần nhiều thời gian để sửa chữa. Về ngắn hạn, việc vô hiệu hoá tàu sân bay cũng có tác dụng như đánh chìm nó.

Trên tàu sân bay, điểm yếu nhất là các thang nâng dùng để đưa máy bay từ khoang chứa máy bay lên boong. Trong giai đoạn cuối của Thế chiến thứ 2, các phi đội cảm tử Kamikaze của Nhật khi tấn công tàu sân bay Mỹ luôn ưu tiên nhắm vào các thang nâng này.

Lí do là vì chúng là thiết bị cơ khí chuyển động lộ thiên duy nhất trên tàu sân bay, nên rất dễ bị đánh hỏng. Và một khi chúng đã bị vô hiệu hoá thì toàn bộ hoạt động của tàu sân bay cũng tê liệt.

http://nghiadx.blogspot.com
Một thang nâng trên tàu sân bay. Ở hậu cảnh là đài chỉ huy


Đài chỉ huy trên boong cũng là 1 điểm yếu, tuy nhiên việc tiêu diệt nó không thể làm gián đoạn hoàn toàn hoạt động của tàu sân bay, vì trung tâm chỉ huy chính nằm sâu bên trong tàu.

Ngoài ra, đối với các tàu sân bay thông thường, không chạy bằng năng lượng hạt nhân, ống khói cũng là một trong những điểm yếu của tàu.

Để có thể chọn đánh vào những điểm yếu này, tên lửa diệt hạm phải là loại được trang bị cảm biến hình ảnh, như tên lửa Kongsberg NSM ở trên.

Hệ thống tên lửa đạn đạo diệt hạm tầm xa mà Trung Quốc đang phát triển để đối trọng với các tàu sân bay của Mỹ được cho là có thể được trang bị loại đầu đạn đặc biệt,

có thể phóng ra hàng trăm đầu đạn xuyên, dùng để phá huỷ đường băng trên boong tàu sân bay.

Tuy nhiên, đường băng nói chung, cả trên bộ và trên tàu, tương đối dễ sửa chữa khi bị hư hỏng, và thường không gây nhiều gián đoạn cho hoạt động của các sân bay quân sự cũng như tàu sân bay.

Có thể kết luận rằng nếu muốn đương đầu với các lực lượng hải quân mạnh có trang bị tàu sân bay, cần đầu tư vào các máy bay trinh sát biển,

kết hợp hoả lực chính xác từ nhiều loại phương tiện khác nhau, đặc biệt là tàu ngầm và chiến đấu cơ trang bị tên lửa diệt hạm hiện đại.

Copyright 2012 Tin Tức Quân Sự - Blog tin tức Quân Sự Việt Nam
 
Lên đầu trang
Xuống cuối trang