Tin Quân Sự - Blog tin tức Quân sự Việt Nam: 15 tháng 5 2011

Paracel Islands & Spratly Islands Belong to Viet Nam !

Quần Đảo Hoàng Sa - Quần Đảo Trường Sa Thuộc Về Việt Nam !

Thứ Bảy, 21 tháng 5, 2011

>> Triển vọng thị trường tiêm kích thế hệ 5



Từ năm 2025 trở đi, PAK FA và F-35 sẽ là các sản phẩm không thể thay thế trên thị trường tiêm kích đa năng thế giới, đánh giá của Trung tâm Phân tích mua bán vũ khí thế giới TsAMTO (Nga).


Đến lúc đó, tuyệt đại đa số các nước trên thế giới, những nước chú ý thích đáng đến việc phát triển không quân chiến đấu, sẽ thỏa mãn hoàn toàn nhu cầu mua sắm các tiêm kích thế hệ 4, 4+ và 4++, và đặt ra trước họ sẽ là vấn đề mua sắm máy bay thế hệ 5 để thay thế cá máy bay lạc hậu thế hệ 4 những đời đầu, được chuyển giao trong thập niên 1990.

F-22 Raptor hiện đại, đắt tiền, song không được phép xuất khẩu

F-22 Raptor là máy bay tiêm kích thế hệ 5 đầu tiên được nhận vào trang bị sau gần 20 năm phát triển. Chiếc F-22A đầu tiên được Không quân Mỹ (USAF) đưa vào trang bị vào năm 2004. Ban đầu, USAF định mua 381 chiếc F-22. Tháng 12.2004, theo quyết định của Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ, số lượng này giảm xuống còn 180 chiếc. Năm 2005, USAF đã xin tăng được lên 183 chiếc. Bất chấp những nỗ lực của lãnh đạo USAF nhằm tiếp tục mua sắm F-22, Bộ Quốc phòng Mỹ tháng 4.2009 đã quyết định dừng chương trình mua sắm F-22. Cuối năm 2009, sau cuộc thảo luận kéo dài ở Quốc hội Mỹ, chương trình mua sắm tiếp F-22 đã bị hủy bỏ do giá cao. Theo các hợp đồng đã ký trước đó, việc sản xuất F-22 sẽ kéo dài đến đầu năm 2012, sau đó, dây chuyền lắp ráp F-22 tại các nhà máy của Lockheed Martin sẽ bị đóng cửa.

Tuy nhiên, vẫn có cơ hội nhỏ để được phép xuất khẩu F-22 và giữ lại dây chuyền lắp ráp máy bay. Lúc đó, các khách hàng mua F-22 trước hết có thể là Israel, Nhật Bản, Hàn Quốc, Saudi Arabia. Tuy nhiên, phương án này xem ra cực kỳ khó xảy ra.



F-35 Lightning II sẽ là một trong hai loại tiêm kích thế hệ 5 thống trị thị trường thế giới sau năm 2025


F-35 Lightning II thay cho F-22 Raptor

Vì thế, sự cạnh tranh chủ yếu sau 2025 sẽ diễn ra giữa PAK FA của Nga và F-35 Lightning II của Mỹ.

Ưu thế của F-35 là xuất hiện trên thị trường sớm hơn máy bay Nga từ 5-7 năm. Mặt khác, ưu thế này lại mất giá trị khi mà nhiều nước hiện có lực lượng không quân tiêm kích đông đảo trong giai đoạn đến năm 2025 vẫn tiếp tục mua tiêm kích thế hệ 4+ và 4++, mà việc cung cấp F-35 trong giai đoạn đến năm 2025 vẫn chỉ bó hẹp cho những nước là thành viên tham gia chương trình F-35. Hơn nữa, không phải tất cả những quốc gia này sau đó sẽ mua F-35 hay sẽ mua F-35 ở số lượng được công bố ban đầu. Đó là vì chương trình bị đội giá lên, cũng như bị chậm nhiều so với tiến độ.

Tổng thầu chương trình F-35 là Lockheed Martin, ngoài ra còn hai nhà thầu phụ là Northrop Grumman và BAe Systems. Các đối tác của Mỹ trong chương trình F-35 ở giai đoạn phát triển và trình diễn hệ thống là 8 nước Anh, Hà Lan, Italia, Thổ Nhĩ Kỳ, Canada, Đan Mạch, Nauy và Australia. Singapore và Israel tham gia chương trình với tư cách thành viên không chia sẻ rủi ro.

Điểm yếu rõ ràng của chương trình F-35 là tất cả các nước muốn mua F-35 sẽ chỉ có thể mua máy bay thông qua cơ chế bán vũ khí cho nước ngoài theo chương trình FMS (Foreign Military Sales), vốn không có quy định về các hợp đồng đền bù hay huy động nền công nghiệp sở tại, điều này là cực kỳ bất lợi cho những nước đặt trọng tâm phát triển công nghiệp hàng không nội địa.

Người ta đưa ra tính toán ban đầu dựa trên việc các nước đối tác có thể mua 722 máy bay: Australia - đến 100 chiếc, Canada - 60, Đan Mạch - 48, Italia - 131, Hà Lan - 85, Nauy - 48, Thổ Nhĩ Kỳ - 100 và Anh - 150 (90 cho không quân và 60 cho hải quân). Nhu cầu của hai nước đối tác không chia sẻ rủi ro Singapore và Israel tương ứng là 100 và 75 chiếc. Tổng cộng là 897 chiếc, cộng với đơn đặt hàng của UsaF, Hải quân và Thủy quân lục chiến Mỹ là 3.340 chiếc.

Cộng với số lượng F-35 có thể bán cho các khách hàng khác, đến năm 2045-2050, tổng số F-35 sản xuất ra dự đoán là 4.500 chiếc. Tuy nhiên, ngay bây giờ, do giá cả tăng lên, lượng F-35 mua sắm đã bị điều chỉnh mạnh theo hướng giảm đi, trước hết là từ phía Mỹ.

Trong số các khách hàng tiềm năng không phải là thành viên chương trình F-35, cần lưu ý đến Tây Ban Nha, nước này đã bày tỏ ý định mua F-35B. Đài Loan cũng tỏ ra muốn mua F-35B trong tương lai.
Máy bay tiêm kích F-35 được xem như ứng viên tiềm năng giành thắng lợi trong các cuộc thầu của Không quân Nhật (đến 100 chiếc) và Hàn Quốc (60 chiếc).

Hiện tại, đó là toàn bộ danh sách các khách hàng có khả năng “dễ thấy nhất” mua F-35, mặc dù Lockheed Martin cũng đang đàm phán với nhiều nước khác, kể cả ở châu Á và Cận Đông.

F-15SE Silent Eagle và Su-35 - giải pháp thay thế tạm thời

Xét tới những vấn đề khó khăn có thể nảy sinh ở nhiều khách hàng tiềm năng của F-35, hãng Boeing đã phát triển mẫu chế thử tiêm kích F-15SE Silent Eagle có sử dụng các công nghệ của máy bay thế hệ 5, trong đó có lớp phủ làm giảm độ bộc lộ radar, bố trí thích ứng các hệ thống vũ khí, thiết bị avionics số, những như cánh đứng đuôi hình chữ V.

Boeing dự kiến thị trường tiềm năng của F-15SE là 190 chiếc. Máy bay đầu tiên có thể bàn giao cho khách hàng nước ngoài vào năm 2012.

F-15SE trước hết là dành cho thị trường xuất khẩu. Boeing dự định chào bán F-15SE cho không quân Nhật, Hàn Quốc, Singapore, Israel và Saudi Arabia, vốn là những nước hiện đang sử dụng F-15. Boeing cũng hy vọng rằng, không quân các nước đã dự định mua F-35 Lightning II, cũng sẽ quan tâm đến việc mua F-15SE do giá cả F-35 tăng quá cao nên không thể mua tiêm kích thế hệ 5 này.

Tuy nhiên, triển vọng của F-15SE bị hạn chế về mặt thời gian. Nó có thể cạnh tranh với các nhà sản xuất khác chỉ trong giai đoạn quá độ, tức là đến năm 2025, khi mà đa số các nước đã thỏa mãn hoàn toàn nhu cầu về tiêm kích thế hệ 4.

Ở giai đoạn quá độ này, công ty Sukhoi của Nga, theo chiến lược dài hạn đã hoạch định, chủ yếu trông cậy vào việc xúc tiến tiêm kích Su-35.

Su-35 là máy bay tiêm kích đa năng, siêu cơ động, hiện đại hóa sâu thế hệ 4++, có sử dụng các công nghệ của thế hệ 5, bảo đảm có ưu thế đối với các tiêm kích cùng loại.

Trong khi vẫn giữ diện mạo khí động đặc trưng cho họ máy bay Su-27/30, tiêm kích Su-35 là một máy bay mới về chất. Cụ thể, nó có độ bộc lộ radar thấp, hệ thống avionics mới dựa trên hệ thống thông tin-điều khiển, radar trên khoang mới với anten mạng pha có thể bám và bắn đồng thời nhiều mục tiêu hơn và phát hiện mục tiêu ở cự ly xa hơn.

Su-35 lắp động cơ 117S có điều khiển vector lực đẩy. Động cơ này được chế tạo trên cơ sở hiện đại hóa sâu động cơ AL-31F và có lực đẩy 14,5 tấn, lớn hơn 2 tấn so với động cơ cơ sở. Động cơ 117S là mẫu chế thử của động cơ máy bay thế hệ 5.

Su-35 là sự trông cậy của Sukhoi trong tương lai gần trên thị trường tiêm kích thế giới. Máy bay này sẽ chiếm lĩnh vị trí giữa tiêm kích đa năng Su-30МК và PAK FA thế hệ 5.

Su-35 sẽ cho phép Sukhoi duy trì khả năng cạnh tranh cho đến khi tiêm kích thế hệ 5 PAK FA ra thị trường. Lượng Su-35 xuất khẩu chủ yếu sẽ thực hiện trong giai đoạn 2012-2022.

Từ góc độ xúc tiến ra thị trường thì một yếu không kém phần quan trọng là khả năng cải tạo thích ứng Su-35 để sử dụng vũ khí phương Tây.

Su-35 dự kiến được xuất khẩu sang các nước Đông Nam Á, châu Phi, Cận Đông và Nam Mỹ. Trong số các khách hàng tiềm năng của Su-35 có Venezuela, Brazil, Sirya, Ai Cập và có thể cả Trung Quốc. Ngoài ra, bất chấp lệnh cấm vận vũ khí của Liên Hiệp Quốc đối với Libya, chiến dịch quân sự của NATO chống Tripoli, sự thay đổi lãnh đạo Libya sau đó đi kèm với việc thay đổi ưu tiên đối ngoại, hay thậm chí khả năng chia cắt nước này thành hai nhà nước thì Libya trong tương lai trung hạn vẫn nằm trong số các khách hàng tiềm năng mua máy bay Nga.

Không quân Nga dự định thành lập 2-3 trung đoàn Su-35. Chương trình Su-35 dự kiến có tổng sản lượng 200 chiếc, trong đó gần 140 chiếc là để xuất khẩu.

Đồng thời với việc dừng cung cấp Su-35 thì PAK FA bắt đầu xuất hiện trên thị trường (dự kiến từ năm 2020).



PAK FA T-50 sẽ quyết định vị thế cường quốc chế tạo máy bay chiến đấu của Nga


PAK FA T-50 đối thủ chủ yếu của F-35 Lightning II

Các tính năng kỹ thuật công bố của PAK FA tương đương với tiêm kích tối tân nhất hiện nay là F-22 có nhiệm vụ giành ưu thế trên không của Mỹ.

Biên dạng máy bay sẽ bảo đảm khả năng tàng hình của nó. Ngoài ra, việc sử dụng các lớp phủ đặc biệt và vật liệu hấp thụ chứ không phản xạ tín hiệu radar sẽ làm cho máy bay hầu như vô hình trước radar đối phương.

Các máy bay F-16C/E, F-15C/E và F/A-18A-F sẽ không thể đối kháng PAK FA. Còn F-35 thì ngay hiện thời đã gặp khó khăn trong đối kháng với Su-35 với bề mặt tán xạ hiệu dụng thấp của nó. Khi tính tàng hình tiếp tục tăng lên ở PAK FA thì F-35 sẽ còn gặp khó khăn nhiều hơn nữa.

Theo dự báo, trong khuôn khổ chương trình sản xuất tính toán cho toàn bộ chu trình sản xuất, tức là đến khoảng năm 2055, sẽ sản xuất không dưới 1.000 chiếc PAK FA. Lượng đặt hàng dự kiến của Không quân Nga sẽ là 200-250 máy bay.

Hiện tại, các quốc gia tham gia chương trình PAK FA là Nga và Ấn Độ. Đơn đặt hàng Ấn Độ ở giai đoạn đầu ước tính là 250 chiếc. Sau đó, chắc chắn đơn đặt hàng sẽ tăng lên ít nhất 1,5 lần. Chương trình mua sắm dự kiến sẽ kéo dài từ năm 2018-2045.

Số lượng PAK FA các nước khác dự kiến mua sắm như sau:




Lôi kéo Pháp tham gia chương trình PAK FA

Phạm vi địa lý xuất khẩu PAK FA có thể rộng hơn nhiều so với dự kiến ở trên nhờ sự tham gia của các nước SNG. Cũng không loại trừ khả năng, nhiều nước Tây Âu, trước hết là Pháp trong tương lai cũng sẽ mua PAK FA được cải tạo thích ứng theo yêu cầu của các nước phương Tây.

Xét tới yếu tố Pháp là nhà thầu phụ lớn nhất của công ty Sukhoi và RSK MiG trong việc trang bị các loại trang thiết bị cho các tiêm kích Su-30МК và MiG-29 xuất khẩu, trình độ hợp tác của hai nước trong lĩnh vực máy bay quân sự là rất cao. Điều đó cho phép xem Pháp như một ứng viên chính ở Tây Âu mua PAK FA.

Sự tham gia của Pháp vào chương trình phát triển tiêm kích thế hệ 5 của Nga là có thể xảy ra. Hơn nữa, hiện tại, phương án này tại thời điểm hiện tại là khả năng duy nhất để Pháp giữ được vị thế của mình trên thị trường máy bay quân sự thế giới sau năm 2020.

Pháp có thể tham gia chương trình giống như Ấn Độ với tư cách đối tác chia sẻ rủi ro trong việc phát triển biến thể PAK FA theo yêu cầu của Không quân Pháp dựa trên mẫu PAK FA cơ sở.

Pháp luôn có quan điểm “đặc biệt” khi hoàn toàn định hướng vào khả năng của công nghiệp hàng không của mình. Pháp không phải là khách hàng mua Eurofighter Typhoon của châu Âu lẫn F-35 của Mỹ. Hiện tại, Pháp chủ yếu dựa vào tiêm kích Rafale. Nhưng công try Dassault Aviation không có khả năng tự lực phát triển tiêm kích thế hệ 5.

Cần lưu ý là trong những điều kiện nhất định, không loại trừ cả phương án Đức có thể mua PAK FA. Khả năng Tây Ban Nha tham gia chương trình PAK FA là thấp vì Madrid nghiêng về hướng mua F-35.

Hiện tại, có thể thấy, các nước Tây Âu trong tương lai sẽ đứng trước sự lựa chọn giữa PAK FA và F-35, bởi vì thời gian để phát triển tiêm kích thế hệ 5 của châu Âu đã không còn nữa. Ví dụ, thời gian dành cho chương trình phát triển tiêm kích thế hệ 4 Eurofighter là hơn 20 năm (các nước tham gia là Anh, Đức, Italia và Tây Ban Nha, hai trong số đó là Anh и Italia đồng thời là khách hàng mua F-35).

Việc chương trình F-35 làn “chia rẽ” Tây Âu trong vấn đề xây dựng chương trình chế tạo tiêm kích thế hệ 5 tiêu chuẩn của châu Âu có thể xem như một “thắng lợi” lớn của Mỹ. Hơn nữa, nó còn ảnh hưởng tiêu cực đến giai đoạn 3, giai đoạn cuối của chương trình mua sắm Eurofighter bởi lẽ những nước đã lựa chọn mua F-35 vì lý do tài chính sẽ không thể thực hiện đầy đủ kế hoạch mua sắm Eurofighter, đồng thời phải tài trợ cho các đợt mua sắm F-35 đầu tiên (đó là Anh và Italia). Nghĩa là hiện tại thì khả năng dù là giả định chế tạo tiêm kích thế hệ 5 của Tây Âu đã bị loại bỏ hoàn toàn.

Trong khi đó, Nga sẽ hoàn toàn đủ sức, khi xét tới sự hợp tác đang phát triển trên tất cả các lĩnh vực với Pháp và Đức, tranh giành các thị trường này và thị trường nhiều nước Tây Âu và Đông Âu khác.

Một khi Pháp và Đức bắt tay tham gia chương trình PAK FA với Nga và Ấn Độ thì sẽ tạo ra một liên minh hùng mạnh, có thể bảo đảm một khả năng cạnh tranh xứng đáng với F-35 trên thị trường thế giới cho đến khi các cường quốc hàng đầu thế giới chuyển sang tiêm kích thế hệ 6 vốn sẽ là các loại không người lái vào năm 2060-2070.

Chương trình sản xuất F-35 sẽ kết thúc vào khoảng năm 2045-2050, PAK FA vào khoảng năm 2055. Từ đó cho đến hết thế kỷ ХXI, Mỹ và Nga sẽ tập trung vào việc bảo dưỡng các máy bay đã cung cấp. Đồng thời, trong giai đoạn này sẽ bắt đầu sự chuyển đối sang tiêm kích đa năng thế hệ 6 không người lái.

Tiêm kích thế 6 - Máy bay không người lái

Việc chuyển hoàn toàn sang các hệ thống máy bay không người lái là tất yếu, tuy nhiên nó sẽ chỉ thực sự bắt đầu không trước thập niên 2060 và sẽ chỉ liên quan đến các cường quốc thế giới hàng đầu. Việc chuyển dần sang máy bay không người lái vào nửa cuối thế kỷ XXI được tạo điều kiện bởi sự hoàn thiện kỹ thuật của các hệ thống máy bay, cũng như những hạn chế thuần túy sinh lý học của các phi công trong việc điều khiển máy bay tiêm kích. Ở các nước hàng đầu thế giới, các máy bay có người lái dự kiến sẽ được thay thế bằng máy bay không người lái vào gần cuối thế kỷ XXI, tức là vào thời điểm loại bỏ những tiêm kích thế hệ 5 cuối cùng vốn được chuyển giao vào năm 2050-2055.

[VietnamDefence news]


>> 50 tỷ USD được Mỹ chi cho máy bay ném bom chiến lược mới



Ông Ashton Carter, Cục trưởng Cục mua sắm và công nghệ, Bộ Quốc phòng Mỹ đã gặp các quan chức công ty Northrop Grumman và công nghiệp quốc phòng để thảo luận triển vọng chế tạo và mua sắm máy bay ném bom chiến lược thế hệ mới NGB (Next Generation Bomber).

Dự kiến, Mỹ sẽ chi tổng cộng 40-50 tỷ USD cho chương trình phát triển và mua sắm NGB.

Lầu Năm góc dự định hiện đại hóa các máy bay В-2 được chế tạo trong thập niên 1990 và không hiện đại hóa 6 chiếc В-1В sản xuất trong thập niên 1980.
Năm 2012, Mỹ sẽ chi 3,7 tỷ USD cho dự án NGB. Khoản kinh phí bổ sung 800 triệu USD sẽ được chi để phát triển tên lửa hành trình hạt nhân mới.

Hình ảnh giả định NGB của Northrop Grumman(defaiya.com)


Bộ Quốc phòng Mỹ dự định mua NGB với đơn giá không quá 550 triệu USD/chiếc. Không quân Mỹ sẽ nhận được tổng cộng 80-100 máy bay ném bom mới. Chúng sẽ thay thế toàn bộ 66 máy bay ném bom B-1B Lancer, 20 B-2 Spirit và 85 B-52 Stratofortress hiện có trong trang bị. Dự án chế tạo NGB sẽ bắt đầu được cấp kinh phí vào năm 2012. Trong 5 năm tới, Mỹ sẽ chi tổng cộng 3,7 USD cho dự án.

Đặc điểm của dự án NGB sẽ là toàn bộ công tác phát triển máy bay, cũng như tính năng kỹ thuật sẽ được bảo mật hoàn toàn, còn chi phí cho dự án sẽ được công khai. Điều khiến các công ty Mỹ lo ngại là Lầu Năm góc có thể ký hợp đồng phát triển NGB với mức giá cố định thay vì hợp đồng dạng “chi phí+” như với nhiều dự án trước đó.

Thông tin chi tiết về NGB hiện chưa được tiết lộ. Dự kiến máy bay mới sẽ được nhận vào trang bị vào năm 2018. NGB sẽ là bước quá độ chuyển sang máy bay ném bom siêu âm mới “2037 Bomber” (Máy bay ném bom năm 2037), vốn chưa được bắt đầu phát triển. Dự định tham gia dự án NGB có Northrop Grumman, Boeing và Lockheed Martin. Theo một số nguồn tin, các công ty này đã nhận được 1 tỷ USD để phát triển các công nghệ cho NGB.

Chương trình phát triển NGB bắt đầu vào năm 2007 được tiếp tục đến giữa năm 2009, khi Lầu Năm góc công bố dự định tăng hạn sử dụng các máy bay ném bom B-1B, B-52 và B-2 hiện có, cũng như ngừng cấp kinh phí cho chương trình chế tạo NGB. Đầu năm 2011, Mỹ quyết định nối lại dự án. Hiện chưa rõ công ty nào sẽ đảm nhiệm nghiên cứu chế tạo NGB.

Chi tiết kỹ thuật về máy bay mới vẫn được bảo mật. Theo thông tin chính thức chỉ biết rằng, máy bay sẽ có 2 chế độ bay có và không có người lái, có khả năng đột phá phòng không đối phương và mang vũ khí hạt nhân.
[VietnamDefence news]


>> Việt Nam-Indonesia chia sẻ quan điểm hợp tác quốc phòng



Ngày 18/5, tại cuộc hội đàm song phương với Bộ trưởng Quốc phòng Indonesia Purnomo Yusgiantoro trong khuôn khổ chuyến thăm chính thức nước này và tham dự Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN lần thứ năm (ADMM-5), Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam, Đại tướng Phùng Quang Thanh và người đồng cấp nước chủ nhà đã trao đổi một số vấn đề khu vực cùng quan tâm và nhất trí các biện pháp tăng cường quan hệ hợp tác quốc phòng-an ninh giữa hai nước.

Chào mừng Đại tướng Phùng Quang Thanh và Đoàn đại biểu quân sự cấp cao Việt Nam, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Indonesia Purnomo Yusgiantoro bày tỏ hy vọng ADMM-5 sẽ có kết quả tốt đẹp để phát huy những thành quả về hợp tác an ninh-quốc phòng mà các nước ASEAN đã đạt được trong năm 2010 khi Việt Nam đảm nhiệm cương vị Chủ tịch ASEAN.

Đại tướng Phùng Quang Thanh đánh giá cao công tác chuẩn bị ADMM-5 và sự đón tiếp trọng thị, tình cảm hữu nghị chân thành mà phía Indonesia dành cho đoàn Việt Nam. Đại tướng Phùng Quang Thanh khẳng định Bộ Quốc phòng Việt Nam sẽ đóng góp tích cực và tin tưởng chắc chắn ADMM-5 sẽ thành công tốt đẹp.

Tại cuộc hội đàm, hai Bộ trưởng thống nhất cần sớm thúc đẩy việc triển khai thực hiện Bản ghi nhớ về hợp tác quốc phòng song phương mà Bộ Quốc phòng hai nước ký tháng 10/2010, tạo cơ sở pháp lý để thúc đẩy quan hệ quốc phòng giữa hai nước.

Đại tướng Phùng Quang Thanh cho rằng hai bên cần sớm lập nhóm làm việc để trao đổi biện pháp triển khai tất cả các lĩnh vực trong Bản ghi nhớ; nhấn mạnh Việt Nam mong muốn lĩnh vực hải quân sẽ đi đầu trong hợp tác quốc phòng giữa hai nước, muốn mời nhóm chuyên viên của Hải quân Indonesia sang thăm và làm việc với Hải quân Việt Nam để thảo luận việc thực hiện tuần tra chung và thiết lập kênh thông tin liên lạc giữa hải quân hai nước; bày tỏ hy vọng Tư lệnh Hải quân hai bên sẽ ký kết thỏa thuận này trong năm nay.

Nhất trí với ý kiến của Đại tướng Phùng Quang Thanh, Bộ trưởng Purnomo Yusgiantoro khẳng định Indonesia sẽ sớm lập nhóm công tác và cử Phó Tư lệnh Hải quân Indonesia sang thăm và làm việc với Hải quân Việt Nam.


Về hợp tác trên các diễn đàn đa phương, Đại tướng Phùng Quang Thanh khẳng định Việt Nam luôn ủng hộ Indonesia đảm nhiệm thành công cương vị Chủ tịch ASEAN; nhấn mạnh thành công của Indonesia là thành công chung của cả ASEAN, trong đó có Việt Nam.

Về vấn đề xung đột biên giới giữa Campuchia và Thái Lan, hai bên nhất trí cho rằng đây là điều đáng tiếc cho tiến trình xây dựng Cộng đồng chính trị - an ninh ASEAN, ảnh hưởng tới liên kết nội khối và tình đoàn kết của các nước ASEAN.

Đại tướng Phùng Quang Thanh nêu rõ là nước láng giềng của cả Thái Lan và Campuchia, và cùng là thành viên của ASEAN, Việt Nam hoan nghênh hai bên đã đạt được thỏa thuận ngừng bắn, mong muốn hai bên không để tái diễn xung đột và tiếp tục thực hiện cam kết tại cuộc họp không chính thức các Ngoại trưởng ASEAN tại Jakarta ngày 22/2.

Việt Nam ủng hộ vai trò của ASEAN hỗ trợ hai bên giải quyết hòa bình các tranh chấp, ủng hộ Indonesia với tư cách là Chủ tịch ASEAN tiếp tục các nỗ lực hỗ trợ trên cơ sở đảm bảo tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương ASEAN, nhất là tham vấn và đồng thuận.

Việt Nam mong muốn Indonesia, với cương vị Chủ tịch ASEAN 2011, sớm cử quan sát viên tới giúp giải quyết vấn đề xung đột biên giới giữa Thái Lan và Campuchia, và tiếp tục đóng góp tích cực vào tiến trình này.

Bộ trưởng Purnomo Yusgiantoro cho biết trên cương vị Chủ tịch ASEAN, Indonesia đang nỗ lực góp phần giải quyết vấn đề xung đột biên giới giữa Thái Lan và Campuchia. Indonesia sẵn sàng cử quan sát viên tới khu vực tranh chấp khi được hai bên đồng ý. Bộ trưởng Purnomo Yusgiantoro nhất trí rằng công việc của ASEAN phải được giải quyết theo các nguyên tắc của ASEAN, trên cơ sở Hiến chương ASEAN.

Về vấn đề Biển Đông, Đại tướng Phùng Quang Thanh đánh giá nhìn chung hiện nay vẫn giữ được ổn định. Đại tướng Phùng Quang Thanh cho rằng các nước dù đang tranh chấp chủ quyền, ở ven bờ và cả trong khu vực đều có lợi ích và nguyện vọng chung là duy trì hòa bình, ổn định để hợp tác cùng phát triển.

Đại tướng Phùng Quang Thanh nêu rõ: “Quan điểm của Việt Nam là các tranh chấp phải được giải quyết bằng biện pháp hòa bình, dựa trên cơ sở luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982. Các nước ASEAN và Trung Quốc cần thực hiện đầy đủ Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), được ký giữa ASEAN và Trung Quốc năm 2002 tại Campuchia. ASEAN và Trung Quốc tiến tới soạn thảo Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC).”

Bộ trưởng Purnomo Yusgiantoro khẳng định Indonesia muốn Biển Đông là một khu vực ổn định, an ninh và tự do hàng hải được đảm bảo. Bộ trưởng thông báo Indonesia đã đưa vấn đề này vào dự thảo Tuyên bố chung của ADMM-5, nêu rõ Indonesia chia sẻ mong muốn các bên liên quan sẽ đạt được COC trong tương lai gần.

Cùng ngày, Đoàn đại biểu quân sự cấp cao Việt Nam đã đến chào xã giao Phó Tổng thống Indonesia Boediono./.
[Vitinfo news]


>> Trung Quốc ép Đài Loan chạy đua vũ trang



Lo ngại sức mạnh quân sự Trung Quốc, Đài Loan tích cực phát triển các loại vũ khí trang bị hiện đại để nâng cao khả năng phòng thủ.


Đài Loan cho rằng mặc dù quan hệ giữa hai bờ eo biển Đài Loan có cải thiển trong thời gian qua, nhưng Trung Quốc vẫn là mối đe dọa quân sự tiềm tàng đối với hòn đảo này.

Đài Bắc không có ý định chạy đua vũ trang, nhưng họ luôn cho rằng cần phải hiện đại hóa quân đội, tổ chức tuyến phòng thủ để sẵn sàng đối phó với một cuộc chiến phi đối xứng. Đồng thời, Đài Bắc còn có ý gia tăng sức mạnh quân sự nhằm đối phó với nhưng tranh chấp biển đảo trong khu vực.

Vũ trang bằng vũ khí nội địa

Đầu tháng 5/2011, Bộ trưởng Quốc phòng Đài Loan đã công bố việc sản xuất các tên lửa “Hùng Phong 3” (HF-3) và dự kiến trong tương lai có thể sẽ sản xuất cả tên lửa bố trí cơ động trên bộ.

Không chỉ vậy, Đài Loan đã bắt đầu triển khai tên lửa HF-3 trên các tàu chiến nhằm đối phó với sức mạnh của hải quân của Trung Quốc.

Theo đó, tên lửa loại này sẽ được trang bị cho 8 tàu khu trục và 7 tàu tuần tra trong một dự án trị giá 413 triệu USD. HF-3 là tên lửa siêu âm đầu tiên do Đài Loan phát triển, có tầm bắn khoảng 130 km, vận tốc 2.300 km/h.

Dự kiến, đến năm 2012, Đài Loan sẽ đóng loại tàu chiến lớp Corvette mới và sẽ bàn giao cho Hải quân vào năm 2014 (>> chi tiết). Các tàu mới sẽ đóng theo công nghệ tàng hình và sẽ được trang bị các tên lửa hành trình chống hạm HF-2 và HF-3.

Theo thứ trưởng quốc phòng Đài Loan Lin Yupa, Đài Loan đóng các tàu này nhằm đối phó với Hải quân của Trung Quốc.



Tên lửa đối hạm “Hùng Phong 3” (HF-3) của Đài Loan.


Trước đó, ngày 7/4/2011 Đài Loan đã hạ thủy 10 xuồng cao tốc gắn tên lửa tự chế để biên chế cho lực lượng hải quân.

Đài Loan cũng đang đóng thêm 10 tàu cao tốc tàng hình Kuang Hua 6, được trang bị 4 tên lửa hạm đối hạm để thay thế cho các tàu loại Seagull đã lõi thời.

Ngày 26/1/2011, tại một cầu cảng phía Nam thành phố Cao Hùng, Đài Loan đã hạ thủy 2 tàu tuần dương mới mang tên Tainan và Hsunhu 77 tự thiết kế và chế tạo.

Tàu Tainan có tải trọng 2.000 tấn, dài 99m, rộng 13m, vận tốc tối đa 24 hải lý/giờ, tầm hoạt động 13.500km, có thể mang 1 trực thăng vũ trang trên boong, được dùng để tuần tra trên biển. Tàu Hsunhu7, tải trọng 1.000 tấn, tầm hoạt động 27.000km.



Tàu cao tốc tàng hình Kuang Hua 6.

Hợp tác quân sự với Mỹ

Ở một số dự án, việc tăng cường mua sắm vũ khí trang bị không phải chạy đua vũ trang, mà là để thay thế một số vũ khí đã quá cũ, không đủ khả năng phòng thủ cho các hòn đảo. Song song với việc tự nghiên cứu chế tạo vũ khí trang bị, Đài Loan còn tích cực mua sắm và nâng cấp vũ khí.

Ngày 25/2/2011 Tổng thống Đài Loan Mã Anh Cửu ngỏ ý với Mỹ muốn mua các máy bay F-16C/D và tàu ngầm chạy bằng diesel của Mỹ (>> chi tiết) để tăng cường khả năng tự vệ.

Mới đây, ngày 12/5, Tổng thống Mã Anh Cửu lại một lần nữa hối thúc Mỹ bán cho Đài Loan các loại vũ khí trang bị như đề nghị trước đây. Tổng thống Mã Anh Cửu nhấn mạnh, chỉ có sự cam kết mạnh mẽ và sự hỗ trợ bằng uy tín của Mỹ tại Đông Á mới có thể bảo đảm cho hòa bình và ổn định trong khu vực này.

Cụ thể, Đài Loan đề nghị Mỹ nâng cấp các máy bay F16A/B Block 20 hiện có. Theo đó, Mỹ sẽ giúp Đài Loan nâng cấp 150 máy bay F-16A/B Block 20 lên chuẩn mới hiện đại hơn. Trong tương lai gần, những máy bay này sẽ được trang bị hệ thống điện tử hiện đại cho buồng lái; được trang bị động cơ và hệ thống radar cải tiến có khả năng tác chiến tầm xa, chống nhiễu điện tử và có thể mang được tên lửa đối không tầm trung AIM -120 phiên bản C5 và C7.

Tăng cường tập trận

Ngày 18/1/11, tại căn cứ quân sự Jiu-peng ở phía Nam Đài Loan, Lực lượng vũ trang Đài Loan tiến hành diễn tập phòng không bắn đạn thật, với tình huống giả định là các máy bay chiến đấu của đối phương xâm lược Đài Loan, nhằm nâng cao khả năng tác chiến của các đơn vị phòng không.

Đây là một động thái của Đài Bắc thể hiện quyết tâm trong việc bảo vệ hòn đảo này, sau khi Trung Quốc tiến hành bay thử máy bay chiến đầu tàng hình J-20.

Tham gia cuộc diễn tập này có 12 đơn vị của Lữ đoàn cơ động đường không số 602 của Lục quân, Lữ đoàn số 77 của Thủy quân lục chiến và Liên đội chiến đấu số 427 của Không quân với biên chế máy bay F-CK-1A/B.

Các khoa mục gồm các chiến thuật, chiến lược tác chiến, phản công đường không có bắn nhiều loại tên lửa như: Thiên cung, Hawk, Sparow, Avenger Stinger, Cobra, MICA Thiên Tiễn-1 và Thiên Tiễn-2 từ các bệ phóng mặt đất và các may bay chiến đấu.

Ngoài ra, từ đầu năm 2011 đến nay, Đài Loan đã tổ chức 3 đợt huấn luyện quân sự. Gần đây nhất vào ngày 19/3/2011 Đài Loan đã triển khai Biên đội huấn luyện viễn dương gồm tàu tiếp tế Vũ Di, tàu hộ vệ Thừa Đức và tàu hộ vệ Trịnh Hòa đến Nam Thái Bình Dương thực hiện nhiệm vụ huấn luyện và kết hợp ngoại giao.

Đài Loan đang thực sự quan ngại trước sức mạnh quân sự của Trung Quốc. Để đối phó với vấn đề này, Đài Loan sẽ tiếp tục tăng cường phát triển tiềm lực quân sự hơn nữa để sãn sang đương đầu với những nguy cơ đe dọa.
[BDV news]


>> PAK F/A T-50 và F-35 sẽ 'đối đầu' năm 2025



Trung tâm phân tích mua bán vũ khí TSAMTO (Nga) nhận định, tiêm kích thế hệ 5 PAK P/A và F-35 sẽ là 2 sản phẩm xuất khẩu chủ lực của thị trường máy bay thế giới.


Theo nhận định của TSAMTO, vào năm 2025, PAK F/A và F-35 sẽ thay thế cho tất cả các loại tiêm kích trên thị trường thế giới hiện nay.

Tại thời điểm hiện tại, trong biên chế của không quân các nước trên thế giới chủ yếu là các tiêm kích thế hệ 4++ và 4,5.

Một số quốc gia khác còn giữ lại các máy bay thế hệ thứ 3, tuy nhiên nhu cầu mua sắm hiện tại vẫn tập trung vào các máy bay thế hệ 4++ và 4,5.



Tiêm kích tiến công kết hợp thế hệ 5 JSF F-35.


Chiếc tiêm kích thế hệ 5 đầu tiên F-22 Raptor phải trải qua quá trình phát triển kéo dài tới 20 năm. Tuy nhiên, cơ hội bước ra thị trường xuất khẩu của F-22 gần như bằng không, sau khi sản xuất được 183 chiếc. Dây chuyền sản xuất của F-22 sẽ bị đóng cửa vào năm 2012.

Quốc hội Mỹ đã thông qua sắc lệnh cấm xuất khẩu đối với siêu tiêm kích này cho dù rất nhiều quốc gia đồng minh của Mỹ muốn sở hữu nó. Hiện tại, các máy bay F-22 còn bị cấm cất cánh do lý do kỹ thuật.

Như vậy, thị trường xuất khẩu tiêm kích thế hệ 5 sẽ là cuộc chiến giữa F-35 và PAK F/A T-50. Theo lộ trình sản xuất hiện tại, cuộc đua này sẽ bắt đầu vào khoảng năm 2025.

Lợi thế của F-35 là đã sẵn sàng cho hoạt động sản xuất hàng loạt. 13 chiếc đầu tiên đã được chế tạo và chuyển giao cho Không quân Mỹ. Còn PAK F/A T-50 công việc sản xuất loạt sẽ bắt đầu sau ít nhất 5 năm nữa.

Tuy nhiên, việc xuất khẩu F-35 có nhiều hạn chế trong gia đoạn trước năm 2025. Bởi Lockheed Martin phải hoàn thành giao hàng ưu tiên cho không quân, hải quân Mỹ, tiếp đến là các nước đồng minh tham gia chương trình phát triển.

Theo tính toán, các nước tham gia chương trình JSF chế tạo F-35 sẽ mua khoảng 772 chiếc. Trong đó, Australia mua 100 chiếc, Canada 60 chiếc, Đan Mạch 48 chiếc, Italy 131 chiếc, Hà Lan 85 chiếc, Na Uy 48 chiếc, Thổ Nhĩ Kỳ 100 chiếc, Anh 150 chiếc. Hai nước đối tác tiềm năng tiếp theo là Singapone và Israel với số lượng mua dự kiến là 100 và 75 chiếc. Cộng với số lượng sản xuất cho quân đội Mỹ, Lockheed Martin sẽ sản xuất 3.340 chiếc F-35.

Những khách hàng tiềm năng khác bao gồm, Tây Ban Nha, Đài Loan, Israel, Hàn Quốc và Nhật Bản nhưng họ sẽ phải chờ đợi khá lâu mới có thể mua được tiêm kích này. Tính đến năm 2050, số lượng sản xuất dự kiến vào khoảng 4.500 chiếc.

Đối với những khách hàng ngoài chương trình, trong lúc chờ đợi F-35 họ có thể mua tiêm kích F-15SE của Boeing như là một giải pháp tình thế. F-15SE cũng được trang bị một số công nghệ của tiêm kích thế hệ 5 gồm: lớp sơn hấp thụ sóng điện từ, hệ thống radar quét mảng pha điện tử chủ động, hệ thống điện tử kỷ thuật số...

Boeing dự tính, số lượng đặt hàng của F-15SE vào khoảng 190 chiếc, và F-15SE sẽ là một thế hệ chuyển tiếp, có thể đáp ứng được nhu cầu của các quốc gia.




Cùng với F-35, PAK F/A T-50 sẽ là 2 sản phẩm chủ lực của thị trường máy bay chiến đấu thế giới giai đoạn 2025-2050?

Đối với Sukhoi, dù PAK F/A T-50 có sự chậm trễ so với F-35, nhưng hãng này đã có giải pháp thay thế đầy triển vọng là Su-35. Su-35 cũng được áp dụng một số công nghệ của tiêm kích thế hệ 5.

Mặt cắt radar của Su-35 tương đối thấp, hệ thống điện tử hàng không tiên tiến. Máy bay trang bị radar quét mảng pha điện tử bị động giúp nâng khả năng phát hiện nhiều mục tiêu cùng lúc ở cự ly xa. Su-35 còn cực kỳ cơ động với động cơ đẩy vector Saturn 117S.
Su-35 được đánh giá là vượt trội hơn cả so với các máy bay tiêm kích thế hệ 4 và 4++ hiện tại. Su-35 là giải pháp tạm thời để Sukhoi cạnh tranh với các máy bay thế hệ 5 trên thị trường xuất khẩu. Các quốc gia chưa, hoặc không thể mua tiêm kích thế hệ 5 sẽ chọn Su-35 như là một giải pháp để tạo sự cân bằng động.

Su-35 sẽ bắt đầu tiến hành xuất khẩu trong giai đoạn từ 2012-2020. Theo dự kiến số lượng sản xuất của Su-35 khoảng 340 chiếc. Trong đó 200 chiếc dành cho Không quân Nga, 140 chiếc dành cho xuất khẩu.

Khách hàng chủ yếu của Su-35 là các quốc gia khu vực Đông Nam Á, châu Phi và Nam Mỹ. Các quốc gia này sẽ có nhiều cơ hội để mua PAK F/A T-50 sau khi tiêm kích này được phép xuất khẩu.

Dự đoán, khối lượng sản xuất của PAK F/A T-50 khoảng 1.000 chiếc, trong đó Không quân Nga sẽ mua khoảng 200-250 chiếc. Với Ấn Độ, chương trình hợp tác FGFA sẽ sản xuất khoảng 250 chiếc trong giai đoạn đầu tiên. Sau đó có thể tăng lên tùy thuộc vào diễn biến của thị trường.

Theo đánh giá của TSAMTO khối lượng đặt hàng Su-35 và PAK F/A T-50 cho các khách hàng tiềm năng như sau:

Algeria 24-36 chiếc giao hàng trong khoảng từ năm 2025-2030.
Argentina 24-12 chiếc giao hàng khoảng từ năm 2040-2045.
Brazil 24-36 chiếc giao hàng khoảng từ năm 2030-2035.
Venezuela 24-36 chiếc giao hàng từ năm 2027-2032.
Việt Nam 24-12 chiếc giao hàng giai đoạn 2030-2035.
Ai Cập 24-12 chiếc giao hàng từ 2040-2045.
Indonesia 12-6 chiếc giao hàng từ năm 2028-2032.
Iran 36-48 giao hàng từ năm 2035-2040.
Malaysia 24-12 chiếc giao hàng từ năm 2035-2040.
Syria 24-12 chiếc giao hàng từ năm 2025-2030.

Với Trung Quốc nhiều khả năng họ sẽ tự phát triển tiêm kích thế hệ 5 J-20 riêng của mình, nhưng TSAMTO vẫn đánh gia Trung Quốc sẽ mua khoảng 100 chiếc trong trường hợp Bắc Kinh có nhu cầu "nghiên cứu" máy bay thế hệ 5 của Nga.

Đối với Pháp, họ không tham gia chương trình F-35 hay Eurofigher. Theo nhận định của TSAMTO Pháp không đủ khả năng để phát triển tiêm kích thế hệ 5 riêng của mình nên nhiều khả năng nước này sẽ hợp tác với Sukhoi để phát triển một biến thể sửa đổi theo nhu cầu của họ.

Việc sản xuất tiêm kích thế hệ 5 sẽ kết thúc vào giai đoạn khoảng năm 2050-2055, từ năm 2060 trở đi, các nước như Nga, Mỹ sẽ tập trung vào việc phát triển tiêm kích thế hệ 6 không người lái.

[BDV news]


>> Anh phóng thành công hệ thống tên lửa Sea Viper



Tàu khu trục phòng không Type-45 của Hải quân Hoàng gia Anh vừa hoàn thành bài tập thử nghiệm với hệ thống phòng không Sea Viper.


Tàu khu trục HMS Daring đã hoàn thành thử nghiệm phóng tên lửa Sea Viper và hoàn thành xuất sắc việc tiêu diệt mục tiêu giả định.

Theo đánh giá của Hải quân Hoàng gia Anh, Sea Viper là một trong những hệ thống phòng không cho tàu chiến tối tân nhất hiện nay.

Kết hợp với khả năng tuyệt vời của tàu khu trục Type-45, hệ thống tạo nên năng lực tác chiến đối không hoàn toàn mới trên biển.


Hệ thống Sea Viper thử nghiệm thành công đánh trúng mục tiêu giã định.


Sea Viper là hệ thống tên lửa đối không dành cho tàu chiến, được sản xuất bởi EuroPaams, một liên doanh giữa Eurosam, MBDA và Ukams.

Hệ thống điện tử của Sea Viper chạy trên môi trường Windowns 2000 dành cho tàu chiến và nó tương thích với các giao tiếp điện tử của tàu khu trục Type-45.

Hiện tại, Sea Viper được thử nghiệm duy nhất trên tàu Type-45 của Hải quân Hoàng gia Anh, sử dụng tên lửa đối không Aster -30, hệ thống có khả năng phóng 8 tên lửa trong vòng 10 giây.

Tên lửa đối không đa năng Aster-30 có khả tham chiến đối không chống máy bay, tên lửa diệt hạm và tên lửa đạn đạo. Tên lửa có tốc độ lên đến Mach-4,5 (5.040km/h), tầm bắn hiệu quả từ 3-120km. Tên lửa được dẫn đường kết hợp, đường truyền dữ liệu và radar chủ động ở giai đoạn cuối.

Hệ thống Sea Viper được thiết kế để đối phó trước một cuộc tấn công bằng tên lửa chống hạm siêu âm như BrahMos, P-800 Yakhont hay P-270 Moskit.



HMS Daring là tàu khu trục phòng không hiện đại nhất của Hải quân Hoàng gia.

Bộ trưởng Bộ thiết bị hỗ trợ quốc phòng và công nghệ Peter Luff cho biết: “Sea Viper là một trong những hệ thống vũ khí tiên tiến nhất thế giới. Kết hợp với tàu khu trục đa chức năng Type-45 sẽ cung cấp cho Hải quân Hoàng gia một khả năng chưa từng có trong tác chiến chống lại các cuộc không kích đáng sợ nhất”.

Giới chức quân sự Anh rất tự hào về khả năng của Sea Viper. Theo đó, hệ thống có thể chống lại các cuộc tấn công bằng tên lửa từ mọi góc độ, và bất kể tốc độ, cận âm hay siêu âm. Cùng với tàu Type-45, "bộ đôi" này đại diện cho một bước nhảy vọt lớn trong năng lực tác chiến của Hải quân Hoàng gia Anh.

Đại úy Guy Robinson, sỹ quan chỉ huy của tàu khu trục HMS Daring cho biết “Việc phóng thành công Sea Viper là cột mốc quan trọng trong việc kết hợp các mảnh ghép cuối cùng cho việc triển khai hoạt động. Tôi rất hài lòng với thử nghiệm này, đội tác chiến đối không của chúng tôi đã tiến hành thử nghiệm với các thủ tục phức tạp nhất”.

Sự thành công của hệ thống tên lửa đối không Sea Viper là động lực quan trọng để các nhà chế tạo vũ khí Anh tiếp tục hoàn thiện khả năng của Sea Viper trong các tàu khu trục Type-45 sắp được đưa vào sử dụng là HMS Diamond, và HMS Dragon.
[BDV news]


Thứ Sáu, 20 tháng 5, 2011

>> Trung Quốc phát triển máy bay báo động sớm trên tàu sân bay



Trung Quốc đã bắt đầu phát triển máy bay chỉ huy-báo động sớm (AEW&C) để triển khai trên tàu sân bay tương lai, Jane's Defence Weekly cho hay.

Trên mạng đã xuất hiện hàng loạt ảnh của loại máy bay tương lai được chế tạo dựa trên máy bay vận tải quân sự Y-7, vốn là bản sao chép có sửa đổi của máy bay An-24.


Mô hình máy bay AEW&C trên hạm của Trung Quốc trong ống thổi khí động (scramble.nl)

Rõ ràng là máy bay AWACS trên hạm này sẽ không được sử dụng trên tàu sân bay Thi Lang (tàu Varyag cũ, mua từ Ukraine năm 1998).

Tàu này sẽ bắt đầu được thử nghiệm vào cuối năm 2011, song không được trang bị máy phóng máy bay để bảo đảm cất cánh cho các máy bay hạng nặng.

Máy phóng máy bay dự kiến sẽ trang bị cho các tàu sân bay tương lai của Trung Quốc mà theo dự đoán sẽ được thiết kế dựa trên tàu Varyag.

Năm 2010, trên mạng đã xuất hiện những bức ảnh biến thể trên hạm của máy bay vận tải Y-7, được trang bị trạm radar với anten mạng pha bên trên thân máy bay.


KJ-200

KJ-200 Bề ngoài, radar này giống với loại đang sử dụng trên các máy bay AWACS KJ-200, được chế tạo dựa trên máy bay vận tải Y-8 (sao chép An-12). KJ-200 sử dụng radar anten mạng pha chủ động.

Theo phỏng đoán, dự án chế tạo máy bay AWACS trên hạm được Trung Quốc tiến hành từ năm 2005 khi trên internet xuất hiện những bức ảnh đầu tiên chụp mô hình máy bay này.

Máy bay này dự đoán sẽ có ký hiệu KL-200. Trung Quốc không chính thức xác nhận việc tiến hành dự án này.

Theo Trung tâm Phân tích mua bán vũ khí thế giới, TsAMTO (Nga) trong giai đoạn 2011-2014, Trung Quốc sẽ đứng thứ tư trong số các nước dẫn đầu thị trường thế giới về máy bay AEW&C, sau Mỹ, Thụy Điển và Israel.

Cụ thể, trong giai đoạn kể trên, số lượng máy bay AEW&C bán ra sẽ là 23 chiếc trị giá 6,292 tỷ USD, trong đó Mỹ đứng đầu với 13 chiếc trị giá 4,247 tỷ USD, thứ hai là Thụy Điển với hệ thống AEW&C Eryeye lắp trên các máy bay do khách hàng chọn, 4 máy bay trị giá 1,2 tỷ USD, thứ ba là Israel với 2 máy bay trị giá 566,7 triệu USD và thứ tư là Trung Quốc với 4 chiếc KJ-200 trị giá 278 triệu USD bán cho Pakistan.
[VietnamDefence news]


>> Ấn Độ nâng cấp Mirage 2000



Bộ Quốc phòng Ấn Độ sắp tới sẽ ký với Pháp hợp đồng nâng cấp 52 tiêm kích Mirage-2000 trị giá 110 tỷ rupi (2,4 tỷ USD).

Hiện nay, các điều kiện hợp đồng đang được Hội đồng bộ trưởng về an ninh CCS xem xét thông qua.


Mirage-2000H của IAF (atricksaviation.com)

Ấn Độ cũng hy vọng ký với Pháp hợp đồng mua 450 tên lửa không-đối-không MICA để lắp cho các máy bay được nâng cấp. Tổng trị giá các hợp đồng nâng cấp máy bay và mua tên lửa sẽ là gần 150 tỷ rupi.

Tham gia nâng cấp máy bay của Ấn Độ là các công ty Pháp Dassult, Thales và MBDA, theo hợp đồng, họ sẽ phải chuyển giao nhiều công nghệ cho Ấn Độ.

Theo điều kiện hợp đồng, 4-6 chiếc Mirage-2000 sẽ được nâng cấp tại Pháp, các máy bay còn lại sẽ được Hindustan Aeronautics hiện đại hóa tại Ấn Độ. Các máy bay Mirage-2000 của Ấn Độ sẽ được trang bị radar, máy tính trên khoang, thiết bị avionics, màn hình đa năng, màn hình trên mũ bay, thiết bị tác chiến điện tử và các hệ thống ngắm bắn mới.

Tuy nhiên, kế hoạch của Bộ Quốc phòng và Không quân Ấn Độ (IAF) nâng cấp Mirage-2000 đã khiến một số chính trị gia bực tức vì cho rằng với 110 tỷ rupi có thể mua mấy chiếc tiêm kích hoàn toàn mới thay vì cải tiến các máy bay có trong trang bị từ thập niên 1980. IAF khẳng định rằng, nhờ hiện đại hóa, Mirage-2000 sẽ trở thành máy bay thế hệ 4+ và sẽ phục vụ được thêm 20 năm nữa.

Hiện IAF đang thiếu trầm trọng máy bay chiến đấu. Trong biên chế IAF hiện có 32 phi đội tiêm kích trang bị 16-18 máy bay mỗi phi đội, trong khi chiến lược an ninh quốc gia Ấn Độ đòi hỏi IAF phải có không dưới 39,5 phi đội. Để duy trì lực lượng máy bay, IAF đã bắt đầu thực hiện chương trình nâng cấp 63 tiêm kích MiG-29 trị giá 964 triệu USD, cũng như tiếp tục đưa vào trang bị Su-30MKI.
[VietnamDefence news]


>> Trung Quốc rao bán HQ-16



Trung Quốc đã bắt đầu chào bán hệ thống tên lửa phòng không phóng thẳng đứng HQ-16 triển khai trên mặt đất và hạm tàu được chế tạo dựa trên hệ thống Buk-M2 của Nga.

HQ-16

Hệ thống tên lửa của Trung Quốc có tên xuất khẩu là LY-80. Hiện chưa rõ tính năng kỹ thuật của hệ thống này.




HQ-16 được sản xuất theo giấy phép hoặc chế tạo bằng công nghệ đánh cắp của hệ thống Buk-M2 của Nga. Buk-M2 là biến thể mới nhất của hệ thống nổi tiếng Kub/Kvadrat (SA-6) từng thể hiện hiệu quả chiến đấu cao trong cuộc chiến Arab-Israel năm 1973.

Buk sử dụng khung gầm xích, lắp 4 tên lửa. Khác với hệ thống của Nga, LY-80 sử dụng khung gầm ô tô 3 trục chở 6 contenơ kiêm ống phóng chứa tên lửa phóng thẳng đứng.

Tên lửa phòng không có điều khiển của Buk-M2E có trọng lượng 328 kg, có khả năng tiêu diệt mục tiêu ở cự ly đến 50 km.

Đài radar của hệ thống có thể phát hiện mục tiêu ở cự ly đến 150 km. Không loại trừ khả năng hệ thống của Trung Quốc cũng có tính năng như vậy.

Trước đó blog China-Defense đưa tin, HQ-16 là thiết kế chung của Nga và Trung Quốc và được chế tạo dựa trên hệ thống Buk-M1.


HQ-16 phóng thẳng đứng

Trung Quốc cũng đã phát triển trang bị cho tàu chiến của HQ-16 có tên HHQ-16 với tên lửa được lắp trong các bệ phóng thẳng đứng. HHQ-16 có 32 hầm phóng tên lửa và được điều khiển bởi 4 radar MR090.

Hệ thống tên lửa phòng không hạm tàu phóng thẳng đứng đầu tiên do Mỹ chế tạo. Mong muốn chế tạo bệ phóng tên lửa phòng không hạm tàu phóng thẳng đứng đã thúc đẩy Trung Quốc phát triển các thiết kế tàu nổi mới để thay thế các tàu chiến kiểu Nga.

Loại tàu đầu tiên có thiết kế đó là Type 054 có lượng giãn nước 4.300 tấn. Tàu này được thiết kế theo khái niệm của phương Tây chứ không phải của Nga.

Trung Quốc đã đóng tổng cộng 12 frigate lớp này, sau đó đã đóng hơn 10 tàu cải tiến lớp Type 054А. Mỗi frigate này được trang bị bệ phóng thẳng đứng chứa 32 tên lửa.

Bên cạnh đó, Trung Quốc cũng đang phát triển hệ thống tên lửa phòng không HQ-17 (chế tạo dựa trên Buk-М1B) có tầm bắn tăng lên đến 90 km. HQ-17 được xem là sự phát triển của HQ-16.
[VietnamDefence news]


>> Trực thăng cao tốc X3 đạt tốc độ bay 430 km/h



Công ty Eurocopter của châu Âu đã bước vào giai đoạn 2 thử nghiệm trực thăng cao tốc X3.

Thử nghiệm thuận lợi

Mục tiêu đặt ra của giai đoạn này là đạt tốc độ bay 220 hải lý/h (407 km/h), nhưng mốc này đã bị phá khi bay thử nghiệm hôm 12/5/2011. Theo đó, X3 đã đạt tốc độ 232 hải lý/h (430 km/h). Tốc độ này được duy trì trong vài phút.

Kết quả này đạt được trong chuyến bay thứ ba, sau khi cải tiến hộp số, cho phép động cơ hoạt động hết công suất.

Mục tiêu của chương trình phát triển là chế tạo máy bay có khả năng cất/hạ cánh thẳng đứng và có tốc độ bay hành trình hơn 220 hải lý/h (410 km/h).

Eurocopter bắt đầu bay thử X3 vào tháng 9/2010. Ở giai đoạn thử nghiệm đầu tiên, tháng 11/2010, X3 đã đạt tốc độ 180 hải lý/h khi công suất động cơ được cố ý giảm đi.



Trực thăng cao tốc X3.

Sau khi mẫu chế thử X3 được xác nhận có khả năng bay, các chuyên gia của Eurocopter đã thay thế hệ thống truyền động, cải tiến hộp số nhờ đó động cơ có khả năng hoạt động hết công suất. Theo các phi công thử nghiệm, tất cả các hệ thống của X3 đã hoạt động ổn định ở tốc độ cao, kể cả khi tắt máy lái tự động.

Máy bay phát sinh rung động nhỏ, không phải sử dụng các hệ thống giảm rung thụ động và chủ động.

X3 đang bay thử tại căn cứ trung tâm thử nghiệm bay thuộc Tổng cục Trang bị (DGA) của Bộ Quốc phòng Pháp. Việc thử nghiệm sẽ tiếp tục trong năm 2011, nhằm nghiên cứu hành vi của X3 ở các chế độ bay khác nhau.

Cấu tạo, tính năng trực thăng cao tốc X3

X3 có sơ đồ thiết kế cánh quạt hỗn hợp với 1 rotor nâng và 2 cánh quạt đẩy lắp trên 2 mút cánh. Mẫu chế thử X3 sử dụng thân vỏ của trực thăng Dauphin và được trang bị 2 động cơ turbine trục dẫn động rotor nâng 5 lá cánh và 2 cánh quạt bổ trợ trên đầu mút 2 cánh ngắn 2 bên thân. Kết cấu như vậy cho phép X3 đạt tốc độ cao.

Máy bay này có điểm khác với sơ đồ máy bay cánh quạt hỗn hợp ở chỗ có đuôi ngang lớn. Nhờ giải pháp kỹ thuật này mà trực thăng kết hợp được các phẩm chất của máy bay và trực thăng (cất/hạ cánh thẳng đứng).

Dự kiến, X3 được chế tạo theo nhiều biến thể và thực hiện nhiều nhiệm vụ như tìm cứu tầm xa, tuần tra biên giới, vùng biển gần bờ, chuyên chở hàng hóa, chở quân, chở người, tải thương, tìm cứu...

Nhờ có tốc độ hành trình cao và khả năng hạ cánh khi không có đường băng, máy bay có thể dùng cho nhiệm vụ đặc biệt, kể cả chuyên chở và bốc rút các toán trinh sát, hoạt động tìm cứu trong chiến đấu, tải thương.

Trực thăng tương lai này sẽ đạt tốc độ cao hơn 50% so với các mẫu hiện có ở mức chi phí khai thác tương đương.
[BDV news]


>> ‘Quỷ xanh’ gia nhập Không quân Mỹ



Tháng 2/2012, Không quân Mỹ (USAF) sẽ nhận vào trang bị khinh khí cầu mềm mới Blue Devil 2, được chế tạo trong chương trình Blue Devil.

Hợp đồng chế tạo khinh khí cầu do thám - chỉ huy trị giá 82,6 triệu USD này được ký với công ty MAV6 vào tháng 10/2010. Chuyến bay đầu tiên của Blue Devil 2 được ấn định vào tháng 9/2011.

Blue Devil 2 được chế tạo dựa trên khinh khí cầu Polar 100. Khinh khí cầu mới sẽ có chế độ điều khiển tùy chọn: hoặc do phi công (ngồi trong khoang đặc biệt trên khí cầu) hoặc do nhân viên mặt đất điều khiển. Blue Devil 2 có chiều dài 7 m, chiều rộng 3m, chiều cao khoang thiết bị 2,1 m.



Sơ đồ sử dụng Blue Devil 2. Blue Devil 2 có một khoang chở hàng phía dưới và có thể tiến hành do thám trong vòng 5 ngày.


Blue Devil 2 có khả năng tiến hành trinh sát quang - điện tử và hồng ngoại với độ nét cao và dải tần hẹp để thu thập thông tin, cung cấp mốc định hướng, định vị mặt đất và nhận dạng mục tiêu.

Khinh khí cầu sẽ được trang bị nhiều loại sensor, camera quang - điện tử và hồng ngoại độ nét cao và hệ thống trinh sát điện tử nên nó có thể đảm nhiệm vai trò một phương tiện tương tự trạm điều khiển mặt đất.

Blue Devil 2 là thành quả hợp tác của USAF, Lục quân Mỹ và một cơ quan khác của Lầu Năm góc.

Trước đó, chương trình Blue Devil đã phát triển máy bay do thám Blue Devil 1 và chuyển giao cho Quân đội Mỹ vào tháng 12/2010. Máy bay này được chế tạo dựa trên cơ sở máy bay King Air 90, 2 động cơ turbine cánh quạt của Hawker Beechcraft và được trang bị các phương tiện do thám gần như tương tự Blue Devil 2.

Máy bay do thám không người lái Blue Devil 1 được USA coi như bước quá độ và dự định từ bỏ Blue Devil 1 sau khi đưa vào trang bị Blue Devil 2.

[BDV news]


>> 'Trung Quốc không bao giờ đối đầu với Mỹ'



Các nhà quân sự Trung Quốc thừa nhận, Quân Giải phóng Nhân dân Trung Hoa (PLA) còn thua kém Quân đội Mỹ rất nhiều và không muốn đối đầu.


Tổng tham mưu trưởng PLA, Tướng Trần Bỉnh Đức phát biểu tại Washington: “Dù khả năng phòng thủ và sự phát triển trong lĩnh vực quân sự của Trung Quốc trong những năm gần đây không ngừng gia tăng, nhưng có thể khẳng định giữa chúng tôi (Trung Quốc) và các bạn (Mỹ) vẫn còn khoảng cách trong lĩnh vực phát triển các lực lượng vũ trang. Trung Quốc sẽ không bao giờ đối đầu với Mỹ ”.

Theo lời Tướng Trần Bỉnh Đức, Trung Quốc muốn xây dựng mối quan hệ thân thiện với Mỹ và quan tâm đến việc tăng cường hợp tác quân sự giữa hai bên, vốn xảy ra hàng loạt vấn đề trong thời gian qua.


Tổng tham mưu trưởng Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc, Tướng Trần Bỉnh Đức. Ảnh: China-defense-mashup


Theo kế họạch, chuyến công du của phái đoàn Quân đội Trung Quốc đến Mỹ lần này kéo dài từ ngày 15-22/5, bao gồm 24 người và có thêm 7 tướng lĩnh cao cấp khác.

Trong thời gian qua, mục tiêu duy trì các mối quan hệ quân sự Trung - Mỹ đã gặp quá nhiều trở ngại. Đã nhiều thời điểm, Bắc Kinh đã chủ động cắt đứt quan hệ quân sự khi xảy ra những vụ tranh chấp với Mỹ.

Gần đây nhất, hai nước đã “đóng băng” quan hệ hợp tác kỹ thuật quân sự sau khi Tổng thống Barack Obama chấp thuận kế hoạch bán lô vũ khí trị giá 6,4 tỷ USD cho Đài Loan.

Theo luật pháp của Mỹ, Washington có quyền duy trì an ninh Đài Loan – lãnh thổ mà Bắc Kinh tuyên bố thuộc Trung Quốc.

Về vấn đề này, Tướng Trần Bỉnh Đức chỉ tuyên bố, Mỹ cần tôn trọng các lợi ích quan trọng và sự thống nhất lãnh thổ của Trung Quốc.

Theo kế hoạch, tại Mỹ, Tướng Trần Bỉnh Đức sẽ gặp hầu hết các quan chức cấp cao của Mỹ, gồm: Tổng tham mưu trưởng Liên quân Mỹ, Đô đốc Mike Mullen, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Leon Panetta, Ngoại trưởng Hillary Clinton và Cố vấn An ninh Quốc gia Tom Donilon. Đa số các cuộc gặp đều diễn ra dưới hình thức kín.

Ngoài ra, ông Trần Bỉnh Đức dự kiến còn đi thăm hàng loạt các căn cứ quân sự Mỹ, từ căn cứ hải quân ở Norfolk, Virginia, cho đến căn cứ không quân Nellis tại Nevada. Đặc biệt ông còn được mời phát biểu tại Học viện Quốc phòng Mỹ.

Trước chuyến công du đến Washington, phát ngôn viên Bộ Quốc phòng Trung Quốc, ông Cảnh Nhạn Sinh nói rằng, chuyến viếng thăm của Tướng Trần Bỉnh Đức sẽ tập trung vào việc tăng cường các mối quan hệ quân sự song phương và các giới chức sẽ thảo luận về các vấn đề khu vực và toàn cầu.

Ông Abe Denmark, một nhà phân tích an ninh Á châu, từng giữ chức Trưởng phòng Trung Quốc của Lầu Năm Góc nói rằng, đây là một chuyến viếng thăm có tính chất quan trọng. "Đây là một dấu hiệu quan trọng cho thấy rằng cả hai nước đều muốn "hâm nóng" lại quan hệ trong lĩnh vực quân sự”. Ông Denmark nói.

AP dẫn lời giới chức Lầu Năm Góc cho biết, chuyến công du của ông Trần Bỉnh Đức được hy vọng đánh dấu một sự khởi đầu mới cho mối quan hệ vốn nhiều thăng trầm giữa hai cường quốc quân sự ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
[BDV news]


>> 'Phải làm thất bại mọi âm mưu xâm phạm chủ quyền'



Đó là một trong những nhiệm vụ cơ bản của đối ngoại Quốc phòng Việt Nam được Trung tướng Nguyễn Chí Vịnh, khẳng định.


Trước thềm Hội nghị Bộ trưởng quốc phòng ASEAN lần thứ 5 (ADMM-5) tổ chức ngày 19/5 tại Jakarta (Indonesia), Trung tướng Nguyễn Chí Vịnh, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng đã có bài viết gửi VnExpress, nêu rõ quan điểm, nội dung và chiến lược đối ngoại quốc phòng của Việt Nam trong thời gian tới.

Dưới đây là nội dung bài viết được trích đăng:

"Lần đầu tiên trong các kỳ đại hội của Đảng, Đại hội 11 đã đề cập trực tiếp đến công tác đối ngoại quốc phòng đó là: "Tiếp tục mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh".

Trên cơ sở định hướng quan trọng đó của Đảng, cần nhận thức sâu sắc về mục tiêu của hội nhập quốc tế trên lĩnh vực quốc phòng, nhằm phục vụ công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Mục tiêu này chính là lợi ích quốc gia, dân tộc và phải được xem là thước đo hiệu quả của mọi hoạt động đối ngoại nói chung và nói riêng.

Để bảo vệ lợi ích quốc gia, công tác đối ngoại quốc phòng trước hết cần nắm vững và vận dụng quan điểm của Đảng về đối tượng, đối tác được nêu rõ trong Nghị quyết trung ương 8 (khoá 9) về Chiến lược bảo vệ tổ quốc trong tình hình mới. Từ quan điểm nêu trên, việc xác định đối tượng, đối tác để hợp tác và đấu tranh trong công tác đối ngoại quốc phòng phải lấy lợi ích quốc gia, dân tộc làm tiêu chí cơ bản.



Trung tướng Nguyễn Chí Vịnh. Ảnh: Nguyễn Hưng.


Quan hệ quốc tế về quốc phòng nhằm đem lại và bảo vệ các lợi ích quốc gia về chính trị, ngoại giao, quốc phòng an ninh, khoa học - công nghệ, kinh tế... phục vụ xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Đó chính là lợi ích cơ bản của đất nước, và cũng là mục tiêu cơ bản của công tác đối ngoại quốc phòng, trên nguyên tắc giữ vững độc lập, tự chủ, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, hợp tác phát triển, cùng có lợi.

Cần quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng về mối quan hệ giữa độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế, giữa bảo vệ lợi ích quốc gia với đóng góp cho hoà bình, ổn định của khu vực và trên thế giới. Trong quá trình hợp tác khu vực và quốc tế, do sự đan xen và mâu thuẫn về lợi ích, tất yếu sẽ dẫn đến những điểm đồng và bất đồng giữa các nước đối với các vấn đề an ninh - quốc phòng. Chúng ta cần chủ động, tích cực phát huy các điểm đồng, có giải pháp phù hợp khắc phục bất đồng nhằm thúc đẩy hợp tác để vừa bảo vệ được các lợi ích cơ bản của đất nước, vừa bảo đảm lợi ích chính đáng của các đối tác và lợi ích chung của khu vực và cộng đồng quốc tế.

Tất cả các điểm đồng đều phải hướng về một điểm cơ bản là đồng về lợi ích - ở đây là lợi ích chính đáng của đất nước ta, của các nước bạn bè, đối tác, lợi ích chung của khu vực và thế giới chứ không phải là lợi ích cục bộ theo kiểu “được mình, hại người”, ngược lại, càng không thể vì lợi ích “chung chung” mà quên đi hay coi nhẹ mục đích lợi ích cơ bản, tiên quyết, đó là lợi ích của dân tộc mình.

Giữ vững độc lập tự chủ là nguyên tắc cơ bản, bất di, bất dịch và cần được quán triệt trong mọi kế hoạch, biện pháp công tác đối ngoại quốc phòng, là cơ sở để nâng cao vị thế, uy tín của đất nước trong quan hệ quốc tế, là điều kiện để hội nhập thành công.

Hội nhập quốc tế trên lĩnh vực quốc phòng nhằm tăng cường sức mạnh quốc phòng của đất nước cả về tiềm lực và thế trận, để giữ vững độc lập, tự chủ của đất nước. Ngược lại, giữ vững độc lập, tự chủ là điều kiện thuận lợi cơ bản để tăng cường hội nhập quốc tế về quốc phòng. Nếu không có độc lập, tự chủ thì không thể hội nhập thành công, và dù có “thân thiện” đến mấy cũng không đem lại lợi ích đích thực cho đất nước, mà sẽ càng ngày càng sa vào lệ thuộc.

Khi chúng ta giữ độc lập tự chủ, giành lợi ích cho đất nước thì cũng phải tôn trọng độc lập tự chủ và lợi ích của các nước khác. Nếu một nước đối tác không có độc lập tự chủ thì khó có thể hợp tác bền vững và đem lại lợi ích cho tất cả các bên. Đồng thời phải giữ cho được quan hệ bình đẳng, không phân biệt giữa nước lớn và nước nhỏ.

Thấm nhuần tư duy của Đảng về hội nhập quốc tế, công tác đối ngoại quốc phòng trong thời gian tới cần tập trung thực hiện tốt các nhiệm vụ chính sau: Một là, hợp tác quốc phòng trong những năm tới cần được tiến hành đồng bộ với hội nhập quốc tế trên các lĩnh vực khác để tạo thành một thể thống nhất trong chiến lược chung của quốc gia, giữ vững mối quan hệ hữu cơ giữa xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Đối ngoại quốc phòng không chỉ nhằm tăng cường khả năng quốc phòng của đất nước mà còn phải tạo điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Trước hết và trên hết, công tác đối ngoại quốc phòng phải đấu tranh giữ vững môi trường hòa bình, ổn định tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc phát triển đất nước, đóng góp tích cực cho hoà bình, ổn định và phát triển trong khu vực và trên thế giới.

Hai là, tích cực tham gia bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền và lợi ích quốc gia. Đối ngoại quốc phòng phải trở thành một trong những lực lượng nòng cốt cùng toàn dân thực hiện thắng lợi chiến lược bảo vệ tổ quốc. Đẩy mạnh hợp tác quốc phòng với các đối tác để có thể giải quyết hiệu quả các vấn đề an ninh có liên quan, đẩy mạnh hợp tác với các nước láng giềng để bảo vệ an ninh biên giới, giữ vững chủ quyền của tổ quốc. Phối hợp chặt chẽ với ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân, kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh ngoại giao với đấu tranh trên thực địa để làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn xâm phạm chủ quyền, quyền chủ quyền và lợi ích quốc gia của Việt Nam.

Hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế, trong bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền và các lợi ích quốc gia là hai mặt của một vấn đề, không thể xem nhẹ mặt nào. Chúng ta đấu tranh không khoan nhượng trên những vấn đề có tính nguyên tắc nhưng lại mềm dẻo, linh hoạt trong các vấn đề cụ thể để có thể hợp tác giải quyết các bất đồng, thông qua hợp tác để tác động, đấu tranh nhằm hạn chế các hoạt động xâm phạm chủ quyền của tổ quốc. Cần phải công khai minh bạch về chính sách đối ngoại quốc phòng để xây dựng lòng tin trong bạn bè quốc tế và phát huy tối đa sức mạnh chính nghĩa của ta.

Ba là, công tác đối ngoại quốc phòng góp phần quan trọng trong đấu tranh chống diễn biến hoà bình, chống bạo loạn lật đổ; bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và ổn định chính trị của đất nước. Thông qua mở rộng quy mô và nâng cao hiệu quả hợp tác, đối ngoại quốc phòng tăng cường sự hiểu biết và tin cậy lẫn nhau giữa quân đội và nhân dân ta với quân đội và nhân dân các nước, làm cho các nước hiểu rõ hơn đường lối, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước, bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa. Như vậy, đối ngoại quốc phòng có thể làm thất bại ngay từ bên ngoài các luận điệu tuyên truyền chống chế độ xã hội chủ nghĩa của các thế lực thù địch. Mặt khác, đối ngoại quốc phòng phải đấu tranh có hiệu quả đối với âm mưu nhằm phi chính trị hoá quân đội, tách quân đội khỏi sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, phòng và chống các hoạt động tuyên truyền phản cách mạng, các tác động tiêu cực của hội nhập quốc tế đến tư tưởng của quân đội.

Bốn là đối ngoại quốc phòng tích cực góp phần xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Thông qua các hoạt động hợp tác quốc tế, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ quân đội có bản lĩnh chính trị vững vàng, tiếp thu các kiến thức quân sự hiện đại của thế giới. Mặt khác, thông qua các cơ chế hợp tác công nghiệp, khoa học kỹ thuật, thương mại quốc phòng, tranh thủ các nguồn lực về vốn, khoa học - công nghệ, trình độ quản lý tiên tiến…, để trang bị cho quân đội các loại vũ khí, khí tài ngày càng hiện đại, phù hợp với điều kiện và nghệ thuật quân sự Việt Nam, làm cho đất nước ngày càng tự chủ về khoa học, kỹ thuật quân sự, đáp ứng yêu cầu xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh toàn diện trong thời đại cách mạng khoa học kỹ thuật.

Trong thời gian tới, cần tập trung phát triển các mối quan hệ quốc phòng theo chiều sâu, nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại quốc phòng. Kết hợp chặt chẽ giữa hợp tác song phương và đa phương. Quan hệ quốc phòng song phương với các nước láng giềng cần được ưu tiên và không ngừng phát triển ngày càng sâu sắc, phát huy các điểm đồng về lợi ích kinh tế, mô hình phát triển, nhu cầu hợp tác xây dựng biên giới hoà bình, hữu nghị, bảo vệ an ninh chung và giữ vững môi trường hoà bình, ổn định…

Quan hệ quốc phòng với Lào và Campuchia dựa trên cơ sở tình hữu nghị truyền thống, tôn trọng độc lập, chủ quyền của nhau, nâng cao hiệu quả, đi vào thực chất đáp ứng nhu cầu bảo vệ an ninh của mỗi nước. Trong điều kiện các nước bạn còn có những khó khăn, nền kinh tế - quốc phòng còn chưa phát triển… nhưng trên cơ sở tôn trọng độc lập tự chủ và lợi ích của bạn, chúng ta cần xây dựng mối quan hệ hợp tác vừa đem lại lợi ích cho đất nước mình, vừa tạo điều kiện giúp bạn mạnh lên, đồng thời tăng cường mối quan hệ truyền thống đoàn kết, gắn bó thêm sâu sắc, bền vững và lâu dài.

Cần coi trọng và tập trung đầu tư cho quan hệ hợp tác quốc phòng với Trung Quốc - quốc gia láng giềng có truyền thống quan hệ hữu nghị tốt đẹp, hiện là đối tác hợp tác chiến lược toàn diện với Việt Nam, đồng thời cũng đang tồn tại những vấn đề khác biệt - nhất là những vấn đề trên biển Đông cần được giải quyết trong tình đồng chí, anh em, láng giềng gần gũi, bằng biện pháp hoà bình, tuân thủ luật pháp quốc tế, công khai minh bạch, trên cơ sở tôn trọng và tin cậy lẫn nhau.

Ở đây, quan hệ quốc phòng có một ý nghĩa và tác dụng rất đặc biệt để tăng cường hợp tác phát triển về mặt chiến lược, vừa để đấu tranh giải quyết những khác biệt, hướng tới một quan hệ thật sự tốt đẹp, bình đẳng, ổn định, bền vững, lâu dài. Muốn có được mối quan hệ tốt đẹp như vậy, hoà hiếu chưa đủ, mà quan trọng hơn cả là ta phải giữ cho được độc lập tự chủ và tìm kiếm lợi ích chung trên con đường phát triển của hai nước. Thực tế cho thấy trong thời gian qua, khi chúng ta giữ vững độc lập tự chủ, tôn trọng lợi ích của bạn thì chúng ta đã tăng cường quan hệ hữu nghị với Trung Quốc, từng bước nâng cao hiệu quả hợp tác, đồng thời bàn bạc giải quyết những bất đồng còn tồn tại.

Quan hệ quốc phòng giữa Việt Nam với các thành viên của ASEAN cần chú trọng hiệu quả trong quá trình xây dựng cộng đồng chính trị - an ninh ASEAN, cần đặt trọng tâm vào những nội dung gắn với an ninh của Việt Nam như vấn đề an ninh biển, vấn đề sông Mê Kông... Cần chú ý thích đáng để mở rộng hợp tác với các đối tác lớn như Nga, Ấn Độ, Mỹ... và dần dần đi vào thực chất ở các khía cạnh, nội dung và mức độ khác nhau, đáp ứng nhu cầu quốc phòng của đất nước. Chúng ta cũng coi trọng và tiếp tục phát triển quan hệ quốc phòng với các nước bạn bè truyền thống như Cuba, các nước Đông Âu, Liên Xô cũ…

Quan hệ quốc phòng đa phương cần phát huy các thành tích đã đạt được trong năm Việt Nam đảm nhiệm Chủ tịch ASEAN, tiếp tục khẳng định vai trò của cơ chế Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN (ADMM) và Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng (ADMM+), cũng như tiếp tục nghiên cứu để tham gia ngày càng sâu hơn vào các hoạt động hợp tác quốc phòng đa phương khác trong khuôn khổ Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF) và các hoạt động gìn giữ hoà bình của Liên hợp quốc.

Để hoàn thành tốt các nhiệm vụ nêu trên, cần chú trọng nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại quốc phòng, tiếp tục đưa các mối quan hệ quốc tế về quốc phòng đi vào chiều sâu. Trong thời kỳ phát triển mới của đất nước, công tác đối ngoại quốc phòng cần tiếp tục quán triệt sâu sắc đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước, bám sát sự chỉ đạo của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, chủ động, tích cực phát triển đồng bộ, toàn diện, có chiều sâu, lấy hiệu quả làm thước đo thực hiện nhiệm vụ của quân đội, nhiệm vụ quốc phòng của đất nước, phục vụ công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc".
[BDV news]


>> Quân đội Ai Cập nhận trực thăng đa nhiệm



Theo Defense Aerospace, Quân đội Mỹ đã trao cho công ty Agusta Westland hợp đồng máy bay trực thăng đa năng AW139 cho Ai Cập.


Theo hợp đồng có giá trị lên đến 37.800.000 USD, Agusta Westland sẽ cung cấp hai phiên bản AW139 tìm kiếm cứu nạn cho Ai Cập.

Không quân Ai Cập sẽ nhận các máy bay trực thăng thông qua cục cung ứng quân sự nước ngoài (FMS) của Bộ Quốc phòng Mỹ.


Trực thăng đa nhiệm AW139.


Ngoài việc cung cấp máy bay trực thăng AW139, công ty AgustaWestland sẽ được tham gia vào việc cung cấp phụ tùng, trang thiết bị dự phòng, cũng như giúp quân đội Mỹ đào tạo phi công Ai Cập.

Máy bay trực thăng AW139 được trang bị 2 động phản lực PT6C-67C, có tốc độ lên đến 310 km/h với tầm bay khoảng 1.000 km.

AW139 là trực thăng đa năng hạng trung có trọng lượng cất cánh tối đa 6,4 tấn, máy bay có khả năng chở 15 người hoặc hàng hóa với tổng trọng lượng 2,5 tấn.

Trước đó vào tháng 7/2008, Tập đoàn Oboronprom của Nga và Agusta Westland hợp tác lắp ráp trực thăng AW139 tại Nga. Dự kiến, chiếc trực thăng đầu tiên sẽ “ra lò” năm 2012. Oboronprom là công ty con của Rosoboronexport, tập đoàn chuyên phụ trách xuất khẩu vũ khí của Liên Bang Nga.

Agusta Westland là bộ phận của Finmeccanica Group, một trong những nhà sản xuất trực thăng lớn nhất thế giới với các cơ sở chế tạo đặt ở Italy, Anh và Mỹ.

Máy bay trực thăng AW139 và các biến thể khác nhau đang được sử dụng trong lực lượng quân đội của gần 50 nước trên thế giới.
[BDV news]


>> Mỹ - Trung : 'Một trời một vực'



Một vị tướng hàng đầu của Trung Quốc cho biết, Bắc Kinh không có ý định chạy đua sức mạnh quân sự với Washington.

Phát biểu ở đại học Quốc Phòng tại Washington nhân chuyến thăm Mỹ kéo dài 1 tuần, tướng Trần Bỉnh Đức, Tham mưu trưởng bộ Tổng tham mưu quân đội Trung Quốc nhận xét vẫn có khoảng cách giữa quân đội Mỹ so với quân đội Trung Quốc hiện nay, mặc dù Trung Quốc đã có sự tiến bộ đáng kể trong những năm gần đây.

Nhận xét về chuyến thăm Mỹ của tướng Chen, phóng viên quốc phòng Jonathan Marcus của hãng thông tấn BBC cho biết: "Chuyến thăm của tướng Trần là tín hiệu tốt cho quan hệ quân sự quốc phòng giữa Mỹ và Trung Quốc". Tuy nhiên, ông Jonathan nhận định, sự hòa hợp bên ngoài có thể chỉ là "mặt nạ" cho những căng thẳng bên dưới.

Mục tiêu của việc hiện đại hóa quân đội của Trung Quốc là để mở rộng phạm vi hoạt động của ra biển lớn và có khả năng vô hiệu hóa hệ thống vũ khí mà Mỹ có lợi thế chi phối, ông Jonathan bổ sung.

Trong dịp này, BBC cũng đưa ra bảng so sánh tương quan lực lượng các khí tài hiện đại giữa Mỹ và Trung Quốc.



Tương quan lực lượng các khí tài hiện đại của Mỹ và Trung Quốc


Nhìn vào đây, có thể thấy sức mạnh quân sự của Trung Quốc chưa là gì so với siêu cường số 1 thế giới.

Theo đó, năm 2010, Mỹ chi cho quân đội 729 tỷ USD thì Trung Quốc chỉ chi khoảng 78 tỷ USD. Số lượng quân nhân chuyên nghiệp của Trung Quốc là 2,26 triệu binh lính thì Mỹ là 1,58 triệu.

Về không quân, trong khi Mỹ có 2.379 máy bay chiến đấu và 139 máy bay tàng hình thì Trung Quốc chỉ có khoảng 1.320 máy bay chiến đấu.

Về hải quân, Mỹ vẫn chiếm ưu thế tuyệt đối với 11 tàu sân bay, 71 tàu ngầm và 57 tàu khu trục, còn Trung Quốc chỉ có 65 tàu ngầm và 27 tàu khu trục.

Chưa kể, số lượng đầu đạn hạt nhân của Mỹ lên tới 9.400 đơn vị còn của Trung Quốc là 240.
[BDV news]


>> Việt Nam: Ứng viên số 1 cho tiêm kích thế hệ 5 T-50



Theo dự báo của chuyên gia quân sự Nga Konstantin Makienko, trong tương lai Việt Nam có thể mua 24-36 máy bay tiêm kích thế hệ 5 PAK FA T-50.

Sự kiện chính của công nghiệp hàng không Nga năm 2010 là việc bắt đầu bay thử nghiệm mẫu chế thử tiêm kích thế hệ 5. Tuy nhiên, thành tựu kỹ thuật tuyệt vời này của các công trình sư, kỹ sư và công nhân Nga bản thân nó không bảo đảm sự thành công của chương trình.



Bộ Quốc phòng Nga đã công bố ý định mua khoảng 50-70 tiêm kích thế hệ 5 trong giai đoạn đến năm 2020. Có lẽ, trong tương lai, số lượng này sẽ tăng lên và con số 150 hay thậm chí 200 chiếc. Nhưng việc mua sắm một số lượng tương đối ít Т-50 không lý giải thỏa đáng cho những khoản đầu tư hàng tỷ của nhà nước và công ty sản xuất vào công tác nghiên cứu phát triển, hiện đại hóa công nghệ và chuẩn bị sản xuất loạt máy bay này. Và vấn đề ở đây không chỉ là ở quan điểm của giới quân sự, vốn ưa thích các giải pháp rẻ tối đa.

Hạn chế cơ bản đối với việc mua sắm cho quân đội Nga là quy mô khiêm tốn của nền kinh tế Nga. Vì thế, yếu tố có tầm cực kỳ quan trọng để phát triển dự án là tìm kiếm một đối tác quốc tế, có đối tác đó sẽ cho phép chia xẻ gánh nặng tài chính của việc phát triển máy bay và tăng khối lượng hợp đồng chắc chắn. Ngoài ra, việc xúc tiến xuất khẩu máy bay T-50 cũng có tầm quan trọng lớn.

Ấn Độ

Yếu tố đảm bảo không thể đảo ngược chương trình Т-50 là việc Ấn Độ, đối tác kỹ thuật quân sự và công nghiệp quốc phòng chiến lược của Nga tham gia chương trình. Ngày 21.12.2010, trong chuyến thăm Ấn Độ của TT Nga Dmitri Medvedev, hai bên đã ký hợp đồng trị giá 295 triệu USD để thiết kế phác thảo biến thể máy bay tiêm kích thế hệ 5 dành cho Ấn Độ. Sự kiện này có thể coi là dấu hiệu chính thức về sự tham gia dự án của Ấn Độ. Ý nghĩa của nó có thể thậm chí còn lớn hơn chuyến bay ra mắt vào tháng 1.2010 của T-50. Nếu ngày 29.1 là bằng chứng thuyết phục về sự chín muồi về kỹ thuật của chương trình thì ngày 21.12 bảo đảm tương lai thương mại và công nghiệp của nó.

Tồn tại sự phụ thuộc giữa sức mạnh kinh tế của một nước và khả năng của quốc gia đó thực hiện một dự án tiêm kích thế hệ 5. Hiện nay, đang thực hiện các chương trình này có Mỹ với GDP 14,3 ngàn tỷ USD, Trung Quốc (8 ngàn tỷ USD), Nhật Bản (4,4 ngàn tỷ USD) và Nga (2,3 ngàn tỷ USD). Ngoài ra, Hàn Quốc cũng tuyên bố tiến hành dự án chế tạo tiêm kích thế hệ 5, hơn nữa còn có tin Indonesia cũng tham gia chương trình của Hàn Quốc. Tổng GDP của hai nước này là 2,3-2,4 ngàn tỷ USD.

Điều rất đáng chú ý là Pháp (GDP 2,1 ngàn tỷ USD) và Thụy Điển (300 tỷ USD), những nước có các trường phái chế tạo máy bay mạnh và độc đáo, cũng như các tiêm kích thế hệ 4 tuyệt vời lại từ bỏ tham vọng chế tạo máy bay thế hệ 5, điều sẽ dẫn tới việc hai đấu thủ này rời khỏi thị trường trong 15-120 năm tới. Dĩ nhiên, điều đó được lý giải một phần ở việc không có nguy cơ quân sự-chính trị, nhưng nguyên nhân chủ yếu việc từ bỏ tham vọng chế tạo máy bay thế hệ 5 là những hạn chế về tài chính và kinh tế. Nói một cách thẳng thắn thì quy mô nền kinh tế hai nước này không đủ lớn để thực hiện những dự án tốn kém đến thế.

Vị thế chính trị-quân sự của Nga đòi hỏi phải có hệ thống máy bay chiến đấu thế hệ 5 của mình. Cần lưu ý là ở Viễn Đông, Nga tiếp giáp với các nước có yêu sách lãnh thổ chính thức (Nhật Bản) hay tiềm ẩn (Trung Quốc) đối với Nga, hơn nữa cả Trung Quốc và Nhật Bản chắc chắn sẽ có tiêm kích thế hệ 5, có thể cả loại hạng nặng. Ở hướng Tây và Nam, một số nước như Ba Lan hay Gruzia đang thi hành chính sách đối ngoại bài Nga, hoàn toàn có thể sẽ được Mỹ cung cấp tiêm kích thế hệ 5 F-35.

Tuy nhiên trong khi có những đòi hỏi bắt buộc về quân sự rõ ràng để chế tạo Т-50, quy mô GDP của Nga lại đang ở ngưỡng thấp nhất cần thiết được xác định để làm việc đó. Quy mô nền kinh tế Nga xét về sức mua hầu như bằng GDP của Pháp, nước vốn gặp rất nhiều khó khăn khi mua sắm ngay cả tiêm kích thế hệ 4 và hơn nữa là không đặt ra nhiệm vụ chế tạo máy bay thế hệ 5. Điều đó thực tế có nghĩa là đơn thương độc mã Nga chắc chắn có khả năng phát triển tiêm kích thế hệ 5, song chưa chắc có thể mua sắm một số lượng đáng kể máy bay này.

Trong khi đó, tổng GDP của Nga và Ấn Độ là gần 6 ngàn tỷ USD và trên nền tảng kinh tế đó thì việc thực hiện dự án chẳng còn khiến ai phải nghi ngờ. Tham vọng quân sự của Ấn Độ tăng thậm chí nhanh hơn khả năng kinh tế và tài chính của họ. Ngay đánh giá bảo thủ nhất về nhu cầu tiêm kích thế hệ 5 của Không quân Ấn Độ cũng là 300 chiếc. Nhưng chắc chắn, số lượng mua sắm thực tế sẽ vượt đáng kể con số này. Xét tới nhu cầu duy trì ưu thế đối với không quân Pakistan và tạo lập sự cân bằng dù là tối thiểu với không quân Trung Quốc, cũng như việc mua sắm biến thể trên hạm của tiêm kích thế hệ 5 FGFA, tổng số các máy bay này trong Không quân và Hải quân Ấn Độ trong suốt vòng đời của chương trình sẽ lên tới 400-450 chiếc.

Các yếu tố thị trường cơ bản

Т-50/FGFA sẽ được đưa ra thị trường không sớm hơn năm 2018-2020. Điều đó có nghĩa là mọi dự báo về triển vọng xuất khẩu máy bay này sang các nước thứ ba, ngoài Nga và Ấn Độ chắc chắn sẽ không chính xác do không thể tiên lượng thế giới lúc đó sẽ ra sao. Nhưng ngay hôm nay đã hoàn toàn có thể nêu ra những yếu tố then chốt quyết định tiềm năng xuất khẩu Т-50/FGFA.

Những yếu tố quan trọng nhất trong số đó sẽ là:

• giá cả của máy bay tiêm kích thế hệ 5 của Nga-Ấn Độ;

• tiến triển của dự án tiêm kích thế hệ 5 của Trung Quốc;

• tiến triển của các hệ thống máy bay không người lái;

• các yếu tố cơ bản đối với thị trường vũ khí nói chung, như mức độ xung đột và trạng thái của nền kinh tế thế giới.

Giá cả của máy bay tiêm kích sẽ quyết định khả năng của các nước tương đối nhỏ mua sắm các máy bay này. Hiện nay, dự kiến theo thời giá năm 2010, đơn giá của Т-50 sẽ là 80-100 triệu USD. Trong trường hợp này, máy bay tiêm kích sẽ vừa túi tiền của tất cả các khách hàng hiện nay mua Su-30, sẽ có ưu thế về giá so với F-35 của Mỹ và vẫn có khả năng cạnh tranh đối với máy bay giả định của Trung Quốc. Điều có ý nghĩa nguyên tắc là phải kiểm soát sự tăng giá không tránh khỏi, đây rõ ràng là sẽ là một trong những thách thức chính đối với các nhà thiết kế máy bay. Xét tới yếu tố trang thiết bị điện tử, cụ thể là hệ thống vô tuyến điện tử đa năng tích hợp, sẽ chiếm phần lớn giá cả của máy bay, nên một trong những phương cách giảm giá có thể là chào bán ra thị trường một biến thể tiêm kích với hệ thống avionics giản lược. Ví dụ như một biến thể với một radar ở mũi, không có các anten lưới ở sườn và cánh.

Khối lượng xuất khẩu Т-50 cũng sẽ phụ thuộc vào tiến độ chế tạo tiêm kích thế hệ 5 của Trung Quốc. Máy bay của Trung Quốc có khả năng sẽ trở thành đối thủ cạnh tranh thậm chí nguy hiểm hơn là F-35 của Mỹ. Vũ khí Nga chủ yếu đang bán cho các nước có đường lối đối ngoại và quốc phòng độc lập, những nước thường thích mua vũ khí trang bị không phải của Mỹ. Chừng nào Trung Quốc không có các máy bay đáng nể chào bán thì trên thị trường các quốc gia đó, Nga sẽ vẫn có thế gần như độc quyền hoặc chỉ cạnh tranh với châu Âu. Điều dễ hiểu là sự xuất hiện của máy bay thế hệ 5 của Trung Quốc sẽ dẫn tới sự cạnh tranh trực tiếp, thẳng thừng giữa Т-50 và máy bay tương lai của Trung Quốc.

Cuối cùng, quy mô thị trường sẽ được quy định bởi những xu hướng công nghệ mới mà việc phát triển chúng có thể sẽ làm mất vai trò của máy bay chiến đấu có người lái. Hiện nay, rủi ro chủ yếu kiểu này là sự tiến bộ trong lĩnh vực các hệ thống máy bay tiến công không người lái. Hy vọng là đến năm 2020, yếu tố này sẽ không kịp gây ảnh hưởng tiêu cực đối với thị trường tiêm kích có người lái.

Những khách hàng mua sắm Т-50 nhiều khả năng nhất là các nước sở hữu các tiêm kích hạng nặng Su-27/30 của Nga (hiển nhiên là loại trừ Trung Quốc). Nhưng một tin xấu là khi thay thế Su-30, các nước đó sẽ mua Т-50 chắc chắn không phải với tỷ lệ 1 đổi 1 mà may lắm là 1 đổi 1,5.

Các thị trường triển vọng nhất là các nước Đông Nam Á, những quốc gia mà vì lý do chính trị sẽ không thể xem xét mua sắm máy bay Trung Quốc. Trước hết đó là Việt Nam, cũng như Malaysia và Indonesia. Ngoài ra, trên thị trường Malaysia vẫn có khả năng có cạnh tranh với Mỹ, còn Indonesia ngoài khả năng mua sắm máy bay Mỹ còn có kế hoạch tham gia dự án tiêm kích thế hệ 5 của Hàn Quốc. Bất chấp những rủi ro đó, xác suất mua máy bay Nga-Ấn của cả hai nước này vẫn rất cao.

Với độ chắc chắn cao, có thể dự đoán rằng, cả Algeria cũng sẽ trung thành với máy bay Nga. Liên quan đến một khách hàng truyền thống của vũ khí Liên Xô là Libya thì có sự bất định liên quan đến triển vọng định hướng chính trị không rõ ràng của nước này. Do rủi ro cao về thay đổi chế độ chính trị và hủy bỏ dự án cách mạng Bolivar của TT đương nhiệm Hugo Chavez của Venezuela, cũng rất khó dự báo các đơn đặt hàng của nước này sau năm 2020. Trong trường hợp duy trì chính phủ cánh tả ở nước này, Nga sẽ đụng đầu với công nghiệp hàng không Trung Quốc vốn đã giành nhiều thắng lợi ở đây. Cuối cùng, có thể hy vọng rằng, thị trường tự nhiên đối với máy bay Nga sẽ là một số nước cộng hòa hậu Xô-viết, trước hết là Kazakhstan và Belarus.

Các thị trường tiềm năng của Nga như iran và Sirya nhiều khả năng sẽ bị Trung Quốc chi phối. Đáng tiếc là ban lãnh đạo chính trị Nga sau khi hủy bỏ các hợp đồng bán tên lửa chiến dịch-chiến thuật Iskander-E cho Sirya và hệ thống tên lửa phòng không S-300PMU2 cho Iran lại đang tích cực tiếp tay cho kịch bản đó.

Mặt khác, có thể có những thị trường hôm nay xem ra không thể sẽ mở ra cho Nga sau 10-20 năm nữa. Thái Lan từng suýt nữa mua Su-30. Sau 20-30 năm nữa, tiềm lực kinh tế khổng lồ đang ngủ yên của Myanmar có thể sẽ thức dậy. Đối với Argentina thì việc mua sắm Т-50 sẽ là giải pháp đối phó phi đối xứng tuyệt vời đối với kế hoạch của Brazil mua sắm 36 và trong tương lai là 120 chiếc Rafale của Pháp. Có thể phỏng đoán mãi như thế. Hiện nay, có một điều rõ ràng là liên minh Nga-Ấn nhất định sẽ là một trong 3 đối thủ trên thị trường máy bay tiêm kích thế hệ 5 của thế giới. Điều đó có nghĩa là Nga bảo đảm được vị thế cường quốc công nghiệp hàng không thế giới trong suốt nửa cuối thế kỷ XXI.




[Vietnamdefence news]


Copyright 2012 Tin Tức Quân Sự - Blog tin tức Quân Sự Việt Nam
 
Lên đầu trang
Xuống cuối trang