Tin Quân Sự - Blog tin tức Quân sự Việt Nam: Đô đốc Hải quân Mỹ

Paracel Islands & Spratly Islands Belong to Viet Nam !

Quần Đảo Hoàng Sa - Quần Đảo Trường Sa Thuộc Về Việt Nam !

Hiển thị các bài đăng có nhãn Đô đốc Hải quân Mỹ. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Đô đốc Hải quân Mỹ. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 26 tháng 7, 2011

>> Mỹ có nên mở rộng căn cứ quân sự ở Australia?



Sự trỗi dậy của Trung Quốc khiến Mỹ phải lưu tâm. Có ý kiến cho rằng cường quốc này nên tăng cường quân sự ở Australia nhằm kiềm chế Trung Quốc.


Trong một bài luận gần đây, Tiến sĩ Toshi Yoshihara - một nhà nghiên cứu về chiến lược chính trị Trung Quốc, trường ĐH Hải chiến, đảo Rhodes, Hoa Kỳ đã đưa ra ý kiến cần tăng cường hơn nữa sự hiện diện của đội quân xứ cờ hoa tại Australia, đặc biệt là hải quân.

Triển khai kế hoạch này sẽ khẳng định và nâng cao vị thế của Mỹ tại khu vực châu Á Thái Bình Dương, đồng thời đối phó với Trung Quốc – đất nước đang phát triển mạnh mẽ nhưng đồng thời cũng bị coi là yếu tố tiềm ẩn gây bất ổn khu vực.


Tiến sĩ Toshi Yoshihara.


Ý kiến này xuất phát từ sự quan sát đánh giá về tiềm lực quân sự Mỹ và thỏa thuận tại Hội đàm quân sự Australia – Mỹ năm 2010.

Phân tích của Tiến sĩ Yoshihara chỉ ra rằng Mỹ nên mở rộng hơn nữa các căn cứ và cơ sở quân sự ở châu Á Thái Bình Dương vượt ra khỏi những khu vực mà Trung Quốc có thế gây ảnh hưởng trong tương lai.

Trong chiến lược đó, Australia có vị trí quan trọng. Sở dĩ nói vậy là bởi khoảng cách từ Australia đến các khu vực Mỹ quan tâm là rất thích hợp.

Những cơ sở vật chất và căn cứ sẵn có ở Australia có ý nghĩa lâu dài mang chiều sâu chiến lược. Chúng có thể bổ sung, thậm chí thay thế cho các căn cứ quân sự Guam và Diego Garcia.

Tuy nhiên ý kiến này không hoàn toàn được ủng hộ.

Theo ông Ron Huisken tại Đại học Quốc gia Australia, phản ứng này là không cần thiết và đã vượt quá phạm vi phân tích.


Ông Ron Huisken


Thậm chí ông còn cho rằng, kiến nghị của ông Yoshihara trong thời điểm hiện tại có thể truyền đi những tín hiệu chính trị sai lầm. Nếu Mỹ làm vậy, các nước đồng minh, bè bạn sẽ dấy lên mối nghi ngờ rằng Mỹ đã trở nên yếu ớt và phải “chật vật” trong việc kiềm chế Trung Quốc.

Năm 1992, Mỹ rời các căn cứ quân sự ở Philippines và chỉ để lại khoảng 100.000 nhân viên quân sự để thực hiện các nhiệm vụ. Sau đó Mỹ đã phải mất khá nhiều thời gian để khôi phục lòng tin về các khu vực Mỹ cam kết.

Quả thực sức mạnh và ảnh hưởng của Trung Quốc đang gia tăng không ngừng. Song mặc dù còn tồn tại nhiều khó khăn kinh tế, Mỹ vẫn có thể kìm hãm Trung Quốc trong vài năm tới.

Hai cường quốc Mỹ, Trung và các quốc gia khác trong khu vực Đông Á mới chỉ bắt đầu kiểm tra các cơ hội nhằm thiết lập một luật chơi chung sao cho phù hợp với các bên. Mỹ có quan hệ khá rộng và tầm ảnh hưởng mạnh mẽ. Về khoản này, Trung Quốc vẫn còn thua kém.

Có nhiều tín hiệu trái ngược nhau về việc liệu Trung Quốc có muốn nuôi dưỡng mối quan hệ quốc tế rộng rãi và thật lòng hay không.

Ông Huisken nhấn mạnh, "Điểm mấu chốt là chúng ta vẫn có cơ hội để thiết lập hòa bình và ổn định của khu vực Đông Á dựa trên một cơ cấu quyền lực mới và rộng hơn một cách an toàn”.

Tăng cường sự hiện diện của Mỹ về cơ bản là không thay đổi gì nhiều. Hơn nữa nếu xảy ra vào thời điểm này có thể sẽ không làm cải thiện các chi phí và mối quan tâm an ninh. “Thay vào đó, truyền đạt một tư duy mới, có thể là vị thế của Mỹ đối với châu Á sẽ hợp lý hơn”, ông Huisken cho hay.

[BDV news]


Thứ Hai, 25 tháng 7, 2011

>> Hải quân Mỹ và ván bài năng lượng xanh



100 năm trước Hải quân Mỹ đã thành công trong việc làm chủ đại dương giúp nước Mỹ "cầm trịch" bàn cờ địa chính trị thế giới trong thế kỷ 20.

Năm 1907, tổng thống Mỹ Theodore Roosevelt gửi một hạm đội 16 tàu chiến đi thực hiện một hành trình dài 16 tháng vòng quanh thế giới. Hạm đội này có biệt danh là Hạm Đội Trắng Vĩ Đại bởi vỏ ngoài của những chiếc tàu được sơn màu trắng của tàu chiến thời bình, nhưng đội tàu tất nhiên không được gửi đi để nghỉ mát.

Thời kỳ đó một cuộc chiến giữa liên minh Tây Ban Nha- Mỹ và Nga – Nhật đang cận kề và Tổng thống Mỹ cần cho thế giới thấy rằng Hoa Kỳ đang nắm trong tay sức mạnh quân sự đủ để đương đầu với đối phương ở mọi ngóc ngách của đại dương.

Giờ đã là thế kỷ 21 và việc định hình các vấn đề địa chính trị có lẽ đã chuyển sang năng lượng và các vấn đề liên quan đến năng lượng như biến đổi khí hậu hoặc dầu khí. Khi chính giới Mỹ vẫn chưa thống nhất được một chính sách năng lượng hiệu quả, Hải quân Hoa Kỳ sẽ phải tự mình đối đầu với các vấn đề này.




Tàu sân bay USS George Washington chạy bằng năng lượng hạt nhân, nguồn cung cấp 16% tổng năng lượng cho Hải quân Mỹ


Kế hoạch "Hạm đội xanh"

Từ nay đến 2016, Hải quân Mỹ có kế hoạch tổ chức “Hạm Đội Xanh Vĩ Đại” bao gồm tàu hạt nhân, tàu chạy bằng nguồn năng lượng hybrid và máy bay chạy bằng xăng sinh học.

Giống như Hạm đội trắng trước đây, “Hạm Đội Xanh Vĩ Đại” có thể giúp Mỹ tuyên bố với thế giới Washington tiếp tục dẫn đầu thế giới trong kỷ nguyên năng lượng - ít nhất là về Hải quân và sức mạnh quân sự nói chung.

Năm 2010, Bộ Quốc phòng Mỹ dùng hết 135 triệu thùng dầu, nhiều hơn bất kỳ một cơ quan tổ chức nào khác trên thế giới. Trong đó, Hải quân là ngành tiêu tốn xăng dầu thứ 2 chỉ sau Không quân.

Các quan chức Hải quân cũng hiểu cái giá của việc đảm bảo nguồn cung dầu khí từ nước ngoài cho Mỹ bởi chính Hạm đội 5 của họ đang đảm nhiệm việc giữ an toàn nguồn cung dầu từ Trung Đông.

Sự phụ thuộc vào nguồn dầu nhập khẩu có lẽ là mắt xích yếu nhất của bộ máy Quân đội Mỹ. Điểm yếu không chỉ thể hiện trên biển, trên chiến trường mà còn ảnh hưởng đến tính hiệu quả của quân đội khi Bộ Quốc phòng đang chịu sức ép rất lớn về kinh phí từ khoản nợ liên bang ở Mỹ. Trong bối cảnh giá năng lượng tăng cao, Quân đội Mỹ đã tiêu tốn 20 tỷ USD cho nhiên liệu và điện trong năm 2010.

Cho dù Quân đội nhận được lợi thế quan trọng trọng là họ không bị nghị viện phủ quyết hay công chúng gây áp lực nhưng Hải quân Mỹ vẫn cam kết cho đến trước 2015 sẽ giảm 1/2 lượng xăng dầu tiêu thụ cho các xe jeep và xe tải. Đến năm 2020 các cơ sở năng lượng bờ biển sẽ sản xuất ít nhất 50% năng lượng dựa trên nguồn thay thế mới. Đồng thời 1/2 căn cứ Hải quân sẽ tự cung cấp được năng lượng.

Tổng hợp lại, cho đến cuối thập niên thứ hai của thế kỷ, năng lượng tái tạo phải chiếm 1/2 tổng tiêu thụ năng lượng của Hải quân Mỹ.

Cái giá để thân thiện với môi trường

Hải quân Mỹ đã cải thiện vững chắc hiệu suất năng lượng tại các cơ sở trên bờ và đã đưa năng lượng tái tạo vào sử dụng tại một số căn cứ. Tuy nhiên không hẳn sẽ dễ dàng để thân thiện hơn với môi trường.

Năm 2008, chỉ có khoảng 1% năng lượng mà Hải quân Mỹ tiêu thụ là từ nguồn tái tạo. Nếu nhiên liệu sinh học và các nguồn thay thế khác không đảm bảo sẵn sàng cho tác chiến thì hiển nhiên quân đội không mạo hiểm chỉ để thân thiện hơn với môi trường. Quân đội cần thứ tương đương với xăng khi sử dụng, thế nhưng, một số nhiên liệu phổ biến như ethanol không đạt hiệu suất năng lượng cần thiết cho hoạt động quân sự.

Rand Corporation, tổ chức nghiên cứu và tư vấn chính sách cho quân đội Mỹ mới đây đã đệ trình một báo cáo cho rằng việc tập trung vào nguồn năng lượng tái tạo cho hải quân và không quân là sai lầm và không thể hy vọng tiến bộ nhanh chóng.

Diễn biến hoàn toàn có thể sẽ bi quan như ý kiến của Rand Corporation. Tuy nhiên, hy vọng vẫn còn rất lớn bởi thực tế đã chứng minh khoa học quân sự đã đóng góp như thế nào đối với sự phát triển chung của toàn xã hội nói chung.

Hải quân Mỹ đã bắt tay với các tổ chức dân sự như Học viện Công nghệ Masachuset (MIT) thực hiện một chương trình đào tạo sỹ quan cấp trung quản lý về chính sách năng lượng, và nguồn nhân lực của Hải quân Mỹ đủ để người Mỹ đặt hy vọng. Nếu Hải quân Mỹ có thể làm cho từng thủy thủ và từng quân nhân hiểu được vấn đề, người Mỹ hoàn toàn có thể được đặt vào đúng quỹ đạo cần thiết.

[BDV news]


Chủ Nhật, 17 tháng 7, 2011

>> Nguy hiểm tiềm ẩn của robot lặn UUV



Công ty Columbia Group đã giới thiệu một tàu ngầm robot (UUV) đa dụng có khả năng thay đổi khái niệm chiến tranh tương lai trên đại dương.

Robot này có tên Proteus, dài 7,6 m, nặng gần 3 tấn và có thể di chuyển ngầm dưới nước với tốc độ đến 10 hải lý/h (18 km/h).

Phẩm chất chủ yếu “thợ săn ngầm” này là là tính tự hoạt và linh hoạt sử dụng. Với một lần nạp nhiên liệu, Proteus có thể chạy ngầm trong phạm vi 600 km, với tốc độ trung bình 5-9 km/h, hoạt động trong 92 giờ.

Nhờ có hình dáng thuôn nhọn, động cơ có độ ồn nhỏ và tốc độ chạy ngầm thấp, robot này hầu như tàng hình và có khả năng xâm nhập qua hệ thống phòng thủ chống tàu ngầm của đối phương.

Tính năng của Proteus cho phép nó đảm nhiệm nhiều chức năng: từ tuần tra vùng biển cho đến bí mật theo dõi các tàu ngầm hạt nhân trang bị tên lửa đường đạn xuyên lục địa.



Robot có khoang chở hàng có thể chứa hàng hóa lên tới 180 kg gồm các loại cảm biến (sensor), thiết bị liên lạc, thuốc nổ, nhiên liệu bổ sung...


Proteus cũng có thể chở 7 lính đặc nhiệm trang bị đầy đủ, nhờ thế nó trở thành phương tiện lý tưởng để chuyên chở lực lượng đặc nhiệm đến các con tàu hoặc bờ biển đối phương.

Tuy vậy, không phải ngẫu nhiên mà UUV này được gọi là "ác thú dưới nước". Bởi nó có thể tác chiến một thủy lôi cơ động nặng 800 kg MK67 hoặc các ngư lôi tự dẫn tối tân nhất МК54 cỡ 324 mm. Robot cũng có thể mang một thiết bị lặn không người lái Sea Fox dùng để phá nổ thủy lôi.

Giới quân sự Mỹ nhiều lần tỏ ý muốn đưa vào trang bị các robot có thể thực hiện các nhiệm vụ ngầm dưới nước để tiết kiệm sinh mạng binh sĩ, đồng thời, có thể thực hiện các nhiệm vụ xa hàng ngàn hải lý, trong hàng tháng trời.

Tham mưu trưởng Hải quân Mỹ, Đô đốc Gary Roughead cho rằng các tàu ngầm không người lái (UUV) có trang bị vũ khí là tất yếu. Tàu ngầm robot tương lai sẽ có thể mang được các vũ khí như ngư lôi và vô hiệu hóa thủy lôi. Hoặc bản thân chúng sẽ là một thứ vũ khí cảm tử lao vào mục tiêu. Proteus được thiết kế theo cách tiếp cận đầu.

Các robot như Proteus ban đầu có lẽ sẽ được sử dụng như một trong các vũ khí trang bị của các tàu ngầm. Tuy vậy, rõ ràng là tiềm năng to lớn của chúng sẽ là mối đe dọa lớn đối với các tàu nổi và tàu ngầm trị giá có khi lên tới 1 tỷ USD.

Với số tiền đó, đáy đại dương sẽ hết sức sôi động với các robot tự hoạt tàng hình, được trang bị các cảm biến, vũ khí và các hệ thống liên lạc hiện đại.

Các robot đó sẽ có thể đối phó hiệu quả với mọi loại tàu chiến, cũng như hiện thực hóa ước mơ lâu nay của giới quân sự là theo dõi sát các tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa của đối phương.

[BDV news]


Thứ Bảy, 16 tháng 7, 2011

>> Hình ảnh tàu Hải quân Mỹ thăm Việt Nam



Hoạt động giao lưu giữa hải quân 2 nước bắt đầu từ ngày 15/7 nhằm kỷ niệm 16 năm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Mỹ.


Dưới đây là một số hình ảnh các tàu Hải quân Mỹ cập cảng Tiên Sa, Đà Nẵng:



Chiến hạm USS Chung-Hoon (DDG-93) dẫn đầu đoàn tàu Hải quân Mỹ tiến vào cảng Tiên Sa, Đà Nẵng.




Thủy thủ tàu USNS Safeguard làm lễ thượng cờ 2 nước.




Cờ 2 nước Việt Nam, Hoa Kỳ được treo trên tàu USNS Safeguard.




Lãnh đạo TP Đà Nẵng và đại diện Quân đội Nhân dân Việt Nam chụp ảnh lưu niệm cùng đại diện ĐSQ Mỹ và hạm trưởng các tàu Hải quân Mỹ.


[BDV news]


Thứ Tư, 22 tháng 6, 2011

>> TNS John McCain: Mỹ phải giúp các nước ASEAN





“Mỹ phải giúp đỡ các quốc gia Đông Nam Á xây dựng hệ thống phòng thủ trên biển để đối phó với những hành động “hung hăng” của Trung Quốc tại biển Đông”

Nước Mỹ cũng nên viện trợ cho 10 quốc gia ASEAN “xây dựng hệ thống phòng thủ và phát triển các các hệ thống cơ bản như radar cảnh báo sớm và tàu an ninh ven biển”, ông McCain phát biểu tại Hội nghị An ninh Hàng hải trên biển Đông.

Hội nghị do Trung tâm nghiên cứu chiến lược quốc tế CSIS tổ chức trong hai ngày 20 – 21/6 với sự tham gia của các học giả và giới chính khách đến từ nhiều quốc gia Mỹ, Trung Quốc, ASEAN, Nhật Bản, Ấn Độ...

Căng thẳng xung quanh vấn đề tranh chấp biển Đông đã gia tăng liên tục trong tháng qua. Việt Nam và Philippines đã lên tiếng tố cáo các tàu Trung Quốc quấy phá tàu thăm dò dầu khí của các quốc gia này.

Ông McCain, Thượng Nghị sĩ người tiểu bang Arizona, thành viên Đảng Cộng hòa, đồng thời thành viên của Ủy ban Quân sự Thượng viện thẳng thừng nói: “Những hành vi và những tuyên bố vô căn cứ của Trung Quốc đang làm cho căng thẳng trên biển Đông ngày càng trầm trọng”.


Thượng nghị sĩ John McCain: “Mỹ phải giúp đỡ các quốc gia Đông Nam Á xây dựng hệ thống phòng thủ trên biển để đối phó với những hành động “hung hăng” của Trung Quốc tại biển Đông”.


“Những biến động đang diễn ra tại khu vực châu Á Thái Bình Dương sẽ có vai trò quyết định đến sự phát triển của thế kỷ này”, ông McCain nhấn mạnh.

Do vậy, ông kêu gọi Tổng thống Barack Obama xác lập vị trí của nước Mỹ tại khu vực tranh chấp và có những hành động hỗ trợ cho các nước trong khu vực.

Hôm 13/6, ông Jim Webb, Thượng nghị sĩ Đảng Dân chủ bang Virginia, hiện là Chủ tịch Tiểu ban Thượng viện về chính sách của Mỹ với Đông Á và ông James Inhofe, Thượng nghị sĩ Đảng Cộng hòa bang Oklahoma cũng đã lên án những hành vi “sử dụng vũ lực” của các tàu Trung Quốc.

[BDV news]


Thứ Sáu, 10 tháng 6, 2011

>> Lật 'con bài' của Mỹ tại Shangri-la 10



Mỹ đã có những động thái điều chỉnh tại châu Á, cụ thể là ở Đông Nam Á, vậy điều gì đã xảy ra sau cuộc đại mặc cả Mỹ-Trung?

Đầu năm 2011, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Robert M Gates đã có chuyến thăm quan trọng đến Trung Quốc, làm ấm lại mối quan hệ quân sự bị đóng băng suốt năm 2010 giữa đôi bên.

Rõ ràng, sự căng thẳng trong quan hệ quân sự giữa Mỹ và Trung Quốc đều bất lợi cho cả hai. Cả hai nước hiểu rõ điều này nên cùng tích cực hành động để làm ấm mối quan hệ này.

Rất nhiều vấn đề quan trọng đã được đặt lên bàn thương lượng giữa đôi bên, mong muốn của Trung Quốc là quá rõ, chiếm lại Đài Loan và độc chiếm biển Đông. Còn với Mỹ họ không dễ gì từ bỏ những lợi ích của mình tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương.

Diễn biến quan điểm Trung - Mỹ

Tháng 7/2010, tại Diễn đàn ARF ở Hà Nội, Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton đã nêu bật mối quan tâm chiến lược của Mỹ ở Biển Đông và ngỏ ý Mỹ sẽ đứng ra làm trung gian cho các cuộc đàm phán hòa bình giữa các bên liên quan. Lúc đó, Ngoại trưởng Mỹ còn bày tỏ mối quan tâm của Mỹ đến Biển Đông khi nêu “lợi ích quốc gia” để đối chọi “lợi ích cốt lõi” mà Trung Quốc nêu lên trước đó.

Tuy nhiên, từ đầu năm 2011, cả hai bên đều thể hiện cách tiếp cận mới trong quan hệ song phương. Bắt đầu từ cuộc gặp gỡ thượng đỉnh Trung-Mỹ ở Washington tháng 1/2011, chuyến thăm của Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Robert Gates đến Bắc Kinh.


Nhiều ẩn số sau cái bắt tay thân mật giữa lãnh đạo quốc phòng Mỹ-Trung.


Tại Đối thoại Shangri-la 2011, trong bài phát biểu của mình, Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc Lương Quang Liệt nêu 4 nguyên tắc hợp tác an ninh quốc tế mà Bắc Kinh đang theo đuổi. Trong đó có nguyên tắc "chú ý lợi ích cốt lõi và những mối quan tâm quan trọng của nhau" và "hợp tác cùng có lợi, không kết liên minh mang tính đối kháng nhằm vào bên thứ ba".

Cũng ở Shangri-la 10, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Robert Gates đã có bài phát biểu trình bày quan điểm của chính quyền Obama về lập trường an ninh quân sự của Mỹ đối với châu Á-Thái Bình Dương.

Tuy Mỹ phải cắt giảm ngân sách quốc phòng, nhưng vẫn ưu tiên duy trì sự hiện diện quân sự tại các khu vực liên quan ở Đông Á và Ấn Độ Dương.

Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ tái khẳng định “lợi ích quốc gia” đối với tự do hàng hải, bày tỏ mong muốn các bên giải quyết các tranh chấp phù hợp với Công ước luật biển Liên Hợp Quốc và không sử dụng vũ lực.

Trước đó, trong năm 2010, Bắc Kinh luôn phản đối sự hiển diện quân sự của Mỹ tại Đông Nam Á. Nhưng hiện tại, Trung Quốc không tìm cách cản trở sự hiện diện của Mỹ tại đây. Bà Susan Shirk, một chuyên gia nghiên cứu về Trung Quốc thuộc ĐH Tổng hợp California cho rằng, Bắc Kinh đang điều chính các chính sách của mình đối với Washington nhằm tìm cách quay lại thời kỳ quan hệ “trăng mật” giữa đôi bên vào những năm 1990.

Ván bài của Mỹ tại Đông Nam Á?

Nhiều quốc gia coi sự hiện diện của Mỹ tại châu Á, đặc biệt là Đông Nam Á như là một cán cân đối với sự lớn mạnh của quân đội Trung Quốc. Tuy nhiên, Mỹ sẽ thể hiện vai trò gì tại khu vực đang tồn tại nhiều tranh chấp chủ quyền biển đảo này lại là chuyện khác. Sự có mặt của Mỹ tại Đông Nam Á có thực sự là để tạo cán cân và làm trung gian cho các tranh chấp, hay đơn giản là để bảo vệ lợi ích của chính họ.

Phát biểu với báo chí ngày 1/6 tại Kuala Lumpur, Đô đốc Robert Willard, Tư lệnh lực lượng Mỹ ở Thái Bình Dương, đã bày tỏ mối quan ngại về những căng thẳng gần đây giữa Trung Quốc với các nước láng giềng, nhưng ông nhắc lại Mỹ không đứng về phe nào và rất muốn thấy các bên tranh chấp giải quyết một cách hoà bình thông qua đối thoại, không để xảy ra xung đột trên không hoặc trên biển.

ASEAN muốn quốc tế hóa vấn đề tranh chấp trên biển Đông và muốn Mỹ đứng ra làm trung gian cho vấn đề này. Bắc Kinh lại có suy nghĩ khác, họ luôn tìm cách để phản đối sự đa phương hóa vấn đề tranh chấp biển Đông.

Trung Quốc coi ASEAN là một “bó đũa” tách rời và “bẽ gảy” từng chiếc một là mục tiêu hàng đầu của Bắc Kinh, và họ sẳn sàng thỏa hiệp với Washington để làm điều này.

Với những tuyên bố của đôi bên cho thấy, Mỹ đang chơi trò “hai mặt” tại Đông Nam Á. Một mặt vẫn tăng cường quan hệ quân sự với Trung Quốc, mặt khác cũng mở rộng quan hệ với các nước trong khu vực. Nhưng Mỹ sẽ đứng ngoài các tranh chấp giữa các quốc gia, bởi “lợi ích quốc gia” vẫn là ưu tiên hàng đầu của Mỹ. Sẽ là sai lầm nếu kỳ vọng quá nhiều vào sự có mặt của Mỹ tại Đông Nam Á.

Mở rộng sự hiện diện quân sự nhưng đứng ngoài các tranh chấp, Mỹ đẩy các quốc gia Đông Nam Á vào thế khó. Nhất là những nước xung đột quyền lợi với Bắc Kinh. Tiến gần tới Washington đồng nghĩa với việc chọc giận Bắc Kinh mà lại không có sự đảm bảo từ phía Mỹ.

Một số nhà phân tích chính trị nhận định, mối quan hệ quân sự Trung-Mỹ đang trải qua một kỳ “giải lao” sau một năm căng thẳng. Tất nhiên đây chính là cơ hội để Bắc Kinh thể hiện yêu sách của mình. Không ai có thể đoán trước được Bắc Kinh sẽ hành động như thế nào trên biển Đông. Một khi “ván đã đóng thuyền” rất khó để lật ngược tình thế dù Washington có can thiệp hay không.

Hiện tại, ASEAN chỉ có thể dựa vào sự đoàn kết vì lợi ích chung mới có thể đối trọng lại với những yêu sách của Trung Quốc trên biển Đông. Bất kỳ hành động đơn phương thiếu trách nhiệm nào đều có thể làm sụp đổ mọi nỗ lực của các quốc gia.



[BDV news]



Thứ Năm, 9 tháng 6, 2011

>> Quân đội Trung Quốc phân tán sự chú ý của dư luận



Sức mạnh quân sự Trung Quốc vẫn tụt hậu 20 năm so với Mỹ, tuy nhiên một số ý kiến cho rằng đây là động thái nhằm tránh sự e ngại của dư luận.

Trong bài phát biểu của mình tại Đối thoại Shangri-la 2011, Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc Lương Quang Liệt đã lên tiếng thừa nhận: Quân đội Trung Quốc còn tụt hậu đến 20 năm so với Mỹ.

“Tôi muốn nói rằng, khoảng cách giữa Trung Quốc và Mỹ ngày càng lớn, quá trình hiện đại hóa quân đội Trung Quốc đã có những cải thiện đáng kể. Tuy nhiên các trang thiết bị chiến đấu chính của chúng tôi chủ yếu vẫn là các thế hệ vũ khí thứ 2. Chúng tôi không có kho vũ khí thế hệ thứ 3 đủ lớn, cũng như các hệ thống và nền tảng cơ bản. Quân đội chúng tôi mới bắt đầu bước vào cơ giới hóa chứ chưa thực sự được cơ giới hóa như quân đội Mỹ” trích dẫn bài phát biểu của Bộ trưởng Lương Quang Liệt.

Bô trưởng Lương Quang Liệt cũng thừa nhận rằng, quá trình hiện đại hóa quân đội Trung Quốc đã thu hút sự quan tâm của cộng đồng quốc tế về khả năng của mình. "Quân đội Trung Quốc “không tìm kiếm sự bá quyền”, sự phát triển của quân đội Trung Quốc chỉ để bảo vệ lợi ích cốt lõi và chủ quyền của mình", ông này cho biết thêm.



PLA tuy còn kém xa Mỹ, song vẫn mạnh hơn các nước trong khu vực.


Đằng sau những lời lẽ "khiêm tốn"

Đối thoại Shangri-la được tổ chức bởi Viện nghiên cứu chiến lược quốc tế IISS, một tổ chức phi chính phủ chuyên tổ chức các cuộc đối thoại an ninh để quản lý các cuộc chiến tranh lạnh.

Dù Đối thoại Shangri-la đã ra đời cách đây tương đối lâu, nhưng những lần trước Trung Quốc chỉ tham dự đối thoại này một cách “hững hờ”, theo kiểu cho có lệ.

Vậy mà, tại Đối thoại Shangri-la 2011, lần đầu tiên sau 10 năm, đích thân Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc dẫn đầu phái đoàn quân sự cấp cao tham dự đối thoại này. Điều đó cho thấy Bắc Kinh đã có những chuẩn bị kỹ lưỡng về ngoại giao đối với đối thoại lần này.

Phân tán sự chú ý của dự luận là điều mà Bắc Kinh muốn hướng đến tại Shangri-la 2011.



Trước thềm Shangri-La 10, Trung Quốc có nhiều hành động cứng rắn trên biển Đông.

Thời gian gần đây, dư luận quốc tế tốn không ít giấy mực để nói về quá trình hiện đại hóa quân đội Trung Quốc. Đặc biệt là đầu năm 2011, Trung Quốc liên tiếp trình làng các hệ thống vũ khí mới.

Mẫu thử nghiệm tiêm kích tàng hình thế hệ 5 J-20 xuất hiện và có chuyến bay thử nghiệm đầu tiên. Tên lửa hành trình diệt tàu sân bay DF-21D cũng được cho là đã trải qua quá trình phát triển ban đầu. Tàu sân bay Thi Lang cũng đang được gấp rút hoàn thành. Cùng với đó là sự “úp mở” trên các trang mạng quốc phòng Trung Quốc về các mẫu thử nghiệm tiêm kích mới như J-18, J-15, khiến các nước trong khu vực không khỏi lo lắng. Chưa hết, ngay trước thềm Đối thoại Shangri-la 2011, Trung Quốc liên tiếp có các hành động "cứng rắn" trên biển Đông.

Do đó, có thể thấy bài phát biểu "khiêm tốn" của ông Lương Quang Liệt tại Shangri-La 10 không ngoài mục đích nhằm phân tán sự chú ý của dự luận.

Đúng là quân đội Trung Quốc còn kém xa so với Mỹ, nhưng vẫn mạnh hơn tất cả các nước ASEAN cộng lại. Với những gì quân đội Trung Quốc đã và đang làm ASEAN không thể không lo lắng.

Mỹ đang xem Trung Quốc là đối tượng cạnh tranh, không muốn nói là đối thủ tiềm tàng, Washington đang dành một sự ưu ái đặc biệt đối với châu Á. Tại Shangri-La 10, Mỹ đã cam kết hiện hiện mạnh mẽ và lâu dài tại châu Á, đó quả là một cản trở lớn đối với Trung Quốc. Hạ thấp năng lực của mình so với đối thủ cũng là cách để làm giảm sự tập trung của Washington đối với Bắc Kinh.

Đó vẫn là “chiêu bài” mà giới ngoại giao quân sự Trung Quốc luôn sử dụng để trấn an các nước trong khu vực. Tuy nhiên, vẫn luôn có một khoảng cách nhất định giữa những tuyên bố và những hành động của quân đội đặc biệt là Hải quân Trung Quốc.

Điều đó đặt ra những hoài nghi lớn trong dư luận quốc tế, đặc biệt là các nước ASEAN. Phải chăng, nội bộ Trung Quốc không đạt được sự thống nhất hoàn toàn trong cương lĩnh hành động hay đây là những “chiêu bài” đã được chuẩn bị kỹ lưỡng theo kiểu “ném đá dò đường”, từng bước, từng bước một, nghe ngóng, quan sát thái độ của các nước trong khu vực rồi tính toán bước đi tiếp theo.

Không vội vàng, hấp tấp, Trung Quốc đang “ru ngủ” các nước trong khu vực bằng những tuyên bố của mình. Điều đó một lần nữa cho thấy giá trị của sự đoàn kết trong ASEAN vì lợi ích chung.


[BDV news]



Thứ Bảy, 4 tháng 6, 2011

>> Kế hoạch bao vây Trung Quốc của Mỹ thất bại?



Hãng tin Tân Hoa Xã của Trung Quốc đăng bài phân tích đánh giá chiến lược của Mỹ ở Tây Thái Bình Dương.




Kế hoạch bao vây Trung Quốc của Mỹ thất bại?

Dưới đây là nội dung bài viết này:

Trong thời gian gần đây, Mỹ - Nhật tăng cường bố trí quân tại khu vực Tây Thái Bình Dương. Một báo cáo của Mỹ cho biết, Không quân Trung Quốc hoàn toàn có khả năng cải tiến máy bay J-7 thành máy bay không người lái để giành quyền chủ động trên chiến trường.

Đồng thời báo Hong Kong Asia Sentinel cũng chỉ ra cho dù Mỹ liên minh với Nhật và bán vũ khí cho Đài Loan cũng không thể phá vỡ được chiến lược “chuỗi đảo thứ nhất” của Trung Quốc. Có hai lý do dẫn tới điều này:

Sức mạnh Mỹ ở Tây Thái Bình Dương là có hạn

Ưu thế của Không quân và Hải quân Mỹ trên biển Thái Bình Dương là có hạn. Theo báo cáo của Mỹ, tươn quan lực lượng Trung Quốc và Không quân Mỹ trong vấn đề Đài Loan cho thấy: Dù Mỹ ở vị trí chi phối, nhưng không thể đảm bảo thắng lợi.

Ông Andrew Davis, Viện nghiên cứu chính sách chiến lược Australia cho biết: Chiến tích (kinh nghiệm chiến tranh được tích lũy) 1của máy bay chiến đấu của Mỹ cùng Trung Quốc có tỉ lệ là 6:1, Không quân Trung Quốc có đủ lực lượng đối phó với các máy bay tiếp nhiên liệu của Mỹ.

Ông Davis nhấn mạnh, cất cánh từ đảo Guam và Okinawa, các máy bay chiến đấu Mỹ sẽ có nhiều hạn chế. Trong đó, hạn chế nhất là tầm tác chiến quá xa. Do đó, số lượng các cuộc tấn công lực lượng không quân Trung Quốc sẽ được tổ chức nhiều hơn, thắng lợi chỉ còn là vấn đề thời gian.

Đối với các mẫu hạm của Mỹ, Davis đã nhấn mạnh: "Vấn đề là khi các tàu sân bay Mỹ tham gia trận chiến thực sự có dám vào gần đối phương?" Trước đó, Robert Willard, chỉ huy Hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ đã thông báo tên lửa DF-21D của Trung Quốc đã có những tiến triển bước đầu.

Theo một báo cáo của Aviation Week, ở Kosovo và Iraq, Mỹ triển khai rất nhiều các loại vũ khí công nghệ cao để tiến hành một cuộc tấn công mạnh mẽ nhưng các mô hình tác chiến này đối với trung Quốc không hẳn có hiệu quả.

Davis nói, nền tảng của “viên đạn bạc" này (vũ khí dẫn đường chính xác, máy bay chiến đấu tiên tiến) không phát huy được hết tác dụng của nó. Davis suy đoán rằng, "Trung Quốc có hàng ngàn chiếc máy bay chiến đấu MiG -21 (gồm cả biến thể nội địa J-7), liệu rằng Không quân Mỹ có khả năng tiêu diệt được tất cả các máy bay này?”.

Dù các học giả phương Tây và các chuyên gia quân sự luôn cho rằng sức mạnh quân sự Trung Quốc không đúng như những gì đã “quảng cáo”, nhưng cần nhận thức rằng, các chiến hạm hoặc các máy bay chiến đấu tiên tiến đang ngày càng gia tăng thực lực cho Quân đội trung Quốc.

Tàu ngầm Trung Quốc trở nên nguy hiểm

Sau khi xảy ra sự việc chìm tàu Cheonan, tàu sân bay Mỹ nhiều lần tiến hành tập trận chống ngầm trong khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, Nhật Bản cũng bắt đầu tăng cường khả năng giám sát trên không và biển, và rõ ràng là hướng vào Trung Quốc.

Các nhà phân tích thế giới cho rằng Mỹ và Nhật Bản đang cố gắng để bao vây Hải quân Trung Quốc nhằm phá vỡ chiến lược “chuỗi đảo đầu tiên”.

Nhưng báo Asia Sentinel cho rằng tàu ngầm của Hải quâu Trung Quốc có đủ khả năng phá vỡ sự phong tỏa của Mỹ và Nhật Bản.

Theo báo cáo, Quân đội Trung Quốc hiện nay đã có đủ khả năng để kiểm soát vùng biển rộng 500 hải lý, có nghĩa là chỉ có sự cho phép của Trung Quốc, thì mẫu hạm của Mỹ mới có thể tiến đến gần bờ biển Trung Quốc.

Quan trọng hơn, các vùng biển xung quanh Đài Loan, đã trở thành khu vực an toàn của Hải quân Trung Quốc ở Thái Bình Dương.

Tháng 2/2009, một tàu ngầm của Trung Quốc từ eo biển Đài Loan vượt qua vùng biển giữa Nhật Bản và Hàn Quốc. Ngay cả các “đôi mắt thần” của máy bay trinh sát P-3C của Nhật Bản cũng rất khó khăn để “bắt” tàu ngầm của Trung Quốc. Mỹ cũng đã gửi một loại thiết bị giám sát các hoạt động của tàu ngầm Trung Quốc nhưng không có hiệu quả Do đó, có thể nói Mỹ và Nhật Bản đã mất khả năng theo dõi các tàu ngầm này.

Là một phần trọng yếu trong chiến lược “chuỗi đảo đầu tiên" nhưng khả năng của tàu ngầm Đài Loan là rất yếu. Gần đây, Quân đội Đài Loan đã tiết lộ kế hoạch mua 12 máy bay chống tàu ngầm P-3C, nhưng các nhà phân tính nghi ngờ về hiệu quả của nó.

Báo Asia Sentinel đánh giá sức mạnh tàu ngầm của Hải quân Đài Loan mạnh hơn Hải quân Israel, nhưng khả năng chống tàu ngầm của Hải quân Đài Loan lại rất thấp.

Tạp chí Tin tức quốc phòng của Mỹ cũng thừa nhận rằng, tất cả dự án bán vũ khí của Mỹ cho Đài Loan chỉ là tượng trưng. Quân đội nhân dân Trung Quốc hoàn toàn có thể phá vỡ được thế bao vây của Mỹ.
[BDV news]


Thứ Sáu, 3 tháng 6, 2011

>> Trung Quốc đang đẩy ASEAN vào vòng tay Mỹ



Sự hung hăng, ngang ngược của Trung Quốc đang khiến các bên tranh chấp Biển Đông hết sức lo ngại. Tập hợp liên minh ASEAN, tìm đối trọng cân bằng sức mạnh sẽ là một trong những chính sách mà các quốc gia tranh chấp với Trung Quốc lựa chọn.



Trung Quốc đang đẩy ASEAN vào vòng tay Mỹ

Hà Nội đưa ra tuyên bố kháng nghị mạnh mẽ đối với Bắc Kinh về vụ các tàu tuần tra của Trung Quốc xâm phạm lãnh hải Việt Nam tại vùng Biển Đông. Theo thông báo ngày 30/5 của phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Việt Nam, tàu hải giám Trung Quốc đã tiến sát gần tàu nghiên cứu của Việt Nam đang tiến hành công tác khảo sát tình trạng địa chấn trên bề mặt đáy biển. Các binh sĩ Trung Quốc đã phá những thiết bị nghiên cứu, cắt đứt dây cáp nối tàu Việt Nam với các thiết bị khảo sát đáy biển.

Vấn đề các đảo tranh chấp ở Biển Đông luôn là yếu tố gây bất ổn nghiêm trọng trong khu vực. Cách đây chưa lâu, Philíppin và sau đó là Việt Nam đã gửi Liên hợp quốc công hàm chính thức, khẳng định chủ quyền của nước mình đối với quần đảo Trường Sa. Đó là phản ứng trước việc Bắc Kinh công bố vùng lợi ích của họ bao trùm gần như toàn bộ lãnh thổ vùng biển Đông có trữ lượng dầu khí dồi dào và tài nguyên sinh vật biển rất phong phú. Manila có động thái trên sau khi các tàu hải quân Trung Quốc uy hiếp tàu của Philippin đang tiến hành thăm dò dầu khí trong khu vực tranh chấp.

Bắc Kinh không tỏ thái độ gì trước phản đối chính thức của Philíppin và mấy ngày sau công bố lệnh cấm đánh cá tại một số khu vực vùng biển có những quần đảo tranh chấp. Hà Nội không chấp nhận lệnh cấm này và xem văn bản như là sự vi phạm trắng trợn tới toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam và chủ quyền của quốc gia trên các quần đảo và đặc khu kinh tế biển độc quyền xung quanh.

Các nước trong khu vực đang cố gắng giảm độ gay gắt của vấn đề. Năm 2002, ASEAN và Trung Quốc đã ký Tuyên bố về cách ứng xử trong vùng biển Đông, theo đó quy định về sự sẵn sàng từ bỏ đối đầu và giải quyết vấn đề quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa thuần túy bằng con đường ngoại giao. Văn kiện ghi nhận sự cần thiết hoạch định một cơ chế giải quyết tranh chấp lãnh thổ, để quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa cũng như các vùng biển xung quanh trở thành “khu vực của hòa bình và hợp tác”.

Ông Vasily Mikheev, Phó Giám đốc Viện Kinh tế thế giới và quan hệ quốc tế, cho rằng cuộc tranh chấp xung quanh các quần đảo trên Biển Đông cần và có thể giải quyết bằng nỗ lực của tất cả các bên liên quan. Ông Mikheev nói: “Trung Quốc và ASEAN đã có thỏa thuận cơ bản về cùng chung sử dụng các quần đảo này, về việc tại đây là khu vực phi hạt nhân, khu vực hòa bình... Đó là Tuyên bố về cách ứng xử ở Biển Đông. Nhưng thỏa thuận này mang tính chất văn kiện khung, chỉ xác định những nguyên tắc quan hệ cơ bản. Nhiệm vụ giờ đây là phải làm thế nào để biến thỏa thuận này thành cơ chế hành động thực tiễn, không chia rẽ mà liên kết các quốc gia lại với nhau. Xét trên những tác động tiêu cực thể hiện qua tất cả các động thái ngoại giao thời gian gần đây, tôi cho rằng rằng ban lãnh đạo các nước tuyên bố tham vọng chủ quyền với các quần đảo này cần suy nghĩ kỹ lưỡng, có thái độ tiếp cận nghiêm túc hơn với vấn đề, để biến thỏa thuận khung thành những bước đi thực tế”.

Tuy nhiên, hiện Trung Quốc tỏ ra không vội gì tuân thủ tinh thần và văn bản của Tuyên bố. Các tàu hải giám Trung Quốc tiến hành tuần tra vùng biển quần đảo Hoàng Sa, chiếm tàu đánh cá của Việt Nam và lấy đi các thiết bị đánh bắt hải sản của ngư dân Việt Nam. Bằng hành động cứng rắn ngang nhiên của mình, Trung Quốc thực sự đang buộc các nước láng giềng phải tìm kiếm một đối trọng để cân bằng với thế lực ngày càng tăng của Bắc Kinh trong khu vực. Trong cuộc tìm kiếm đó, các nước ASEAN đang thể hiện mong muốn Mỹ không chỉ duy trì mà còn tăng thêm sự hiện diện tại khu vực. Nguyện vọng đó hiển nhiên được Oasinhtơn hoan nghênh. Năm ngoái, tại hội nghị thượng đỉnh ASEAN ở Hà Nội, Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton đã nói nước Mỹ có “lợi ích quốc gia đối với tự do hàng hải và sự tôn trọng pháp quyền quốc tế tại khu vực Biển Đông”.

ASEAN hy vọng rằng đến năm 2012, mốc đánh dấu 45 năm thành lập tổ chức - sẽ ký kết được Quy tắc ứng xử ở Biển Đông. Luật phải mang tính bắt buộc đối với tất cả các quốc gia trong khu vực. Nếu mục tiêu này trở thành hiện thực, thì Biển Đông sẽ có thể trở thành một khu vực của hòa bình và hợp tác.
[Đài Tiếng nói nước Nga]


Thứ Năm, 2 tháng 6, 2011

>> Quân đội Mỹ 'khoe' một loạt siêu vũ khí



Hải quân Mỹ sẽ trang bị đại bác laser có thể làm chảy thép trong vài giây, tàu tuần tra dưới nước hoạt động liên tục 60-70 ngày, tàu ngầm và trực thăng chiến đấu không người lái.



Đô đốc Hải quân Mỹ Gary Roughead cho biết, các nhà khoa học công tác tại Phòng nghiên cứu Hải quân Mỹ nghiên cứu sâu về công nghệ Laser để chế tạo ra súng đại bác bắn đạn năng lượng điện từ với tốc độ nhanh gấp 5 lần tốc độ âm thanh (trong không khí khô ở nhiệt độ 20 độ C, vận tốc âm thanh là 343,2 m/giây, tương đương 1.236 km/giờ), làm nóng chảy lớp thép dày trong vòng vài giây.

Các nhà khoa học nói rằng, đến năm 2020, tàu chiến Mỹ có thể được trang bị đại bác laser có năng lượng ở mức kilowatt, thậm chí megawatt.

Theo ông Gary Roughead, việc phát triển đại bác laser cho tàu chiến, đặc biệt là hàng không mẫu hạm trị giá hàng tỷ USD, rất hữu ích vì tàu có thể đến gần bờ biển hoặc tàu đối phương mà không bị tên lửa đối phương bắn hạ. Đại bác Laser chỉ cần gắn vào máy phát điện của tàu, không phải nạp đạn nên dễ dàng đánh chặn tên lửa đang bay tới.


Quân đội Mỹ đang tích cực nghiên cứu chế tạo đại bác Laser.


Song song với việc phát triển công nghệ vũ khí laser, Quân đội Mỹ tiếp tục tăng cường phát triển sức mạnh hải quân bằng việc nghiên cưu chế tạo loại tàu có khả năng hoạt động dưới nước trong vòng 60-70 ngày, được phóng đi từ tàu chiến đấu ven biển hoặc tàu khu trục, có khả năng hoạt động xa khoảng 13.000km mà không phải quay lại tàu mẹ.

Loại tàu ngầm không người lái này được lắp nhiều loại vũ khí hoặc bộ cảm biến, có nhiệm vụ thu thập thông tin tình báo, rà phá thủy lôi, tấn công tàu có người lái của đối phương…

Tàu ngầm không người lái của Hải quân Mỹ hiện nay chủ yếu được dùng để gỡ thủy lôi và hoạt động trong cự ly ngắn tối đa 222km.

Đặc biệt Hải quân Mỹ coi trọng nhất loại máy bay chiến đấu X47B bay thử hồi tháng 2/2011 và có thể được sử dụng rộng rãi từ năm 2018. X47B có thể hạ cánh, cất cánh từ tàu sân bay. Ngoài ra, BAMS - một loại máy bay giám sát tầm xa, sẽ phục vụ Hải quân Mỹ từ năm 2015.

Fire Scout, loại trực thăng không người lái tương tự của Mỹ, có nhiều bộ cảm biến cũng như camera đã được sử dụng để theo dõi những kẻ buôn lậu ma túy ở châu Mỹ Latinh và mới đây hoạt động trên chiến trường Afghanistan.
[BDV news]


Copyright 2012 Tin Tức Quân Sự - Blog tin tức Quân Sự Việt Nam
 
Lên đầu trang
Xuống cuối trang