Tin Quân Sự - Blog tin tức Quân sự Việt Nam: Đối thoại Shangri-La 2011

Paracel Islands & Spratly Islands Belong to Viet Nam !

Quần Đảo Hoàng Sa - Quần Đảo Trường Sa Thuộc Về Việt Nam !

Hiển thị các bài đăng có nhãn Đối thoại Shangri-La 2011. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Đối thoại Shangri-La 2011. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Năm, 16 tháng 6, 2011

>> Sau Việt Nam, Philippines, TQ sẽ gây hấn với nhiều quốc gia khác?



Các chuyên gia bình luận chính trị quốc tế cho rằng, thứ nhất, mặc dù cả Philippines, Việt Nam, Malaysia, Indonesia và Brunei đều bị tác động trực tiếp bởi sự bành trướng, đòi chủ quyền phi lý của Trung Quốc song không gian biển của các quốc gia nằm gần Trung Quốc nhất sẽ chịu ảnh hưởng nhiều nhất.



Hải quân Trung Quốc (ảnh minh hoạ)

Thứ hai, là nếu Trung Quốc không cố khẳng định chủ quyền đối với các không gian biển thuộc về Philippines và Việt Nam thì những tuyên bố chủ quyền của Bắc Kinh đối với các không gian biển của Malaysia, Indonesia và Brunei sẽ vô giá trị.

Điều này cho thấy, mặc dù Trung Quốc có thể chấp nhận thỏa hiệp đối với vùng biển ở cực Nam của yêu sách “đường lưỡi bò” thể hiện sự nhận vơ của họ cốt sao giữ cho Malaysia, Indonesia và Brunei không lên tiếng phản đối mạnh mẽ trong lúc Trung Quốc giải quyết tình hình với Philippines và Việt Nam.

Như vậy, có thể nhận thấy rằng chưa chắc Trung Quốc rồi đây sẽ tự nguyện hạ giọng trong các tuyên bố chủ quyền đối với những không gian biển thuộc chủ quyền của Philippines và Việt Nam. Mặt khác, nếu như Trung Quốc đạt được ý đồ của họ đối với Philippines và Việt Nam thì chắc chắn sau đó sẽ đến lượt Malaysia, Indonesia và Brunei.

Việc Philippines gửi thư ngoại giao cho Tiểu ban Ranh giới thềm lục địa của Liên Hiệp Quốc sau vụ bãi Cỏ Rong cho thấy rằng nước này đang áp dụng UNCLOS (Công ước Luật biển quốc tế của Liên Hiệp Quốc) để bảo vệ các quyền của họ ở biển Đông.

Các chuyên gia cho rằng nếu Việt Nam cũng sử dụng cơ quan pháp lý này, hai nước sẽ có một khung thông tin, hiểu biết và hợp tác chung. Ví dụ, nếu Việt Nam và Philippines có thể bày tỏ sự ủng hộ lẫn nhau qua con đường ngoại giao trong những sự cố như sự cố bãi Cỏ Rong và tàu Bình Minh 02, Viking 2 thì việc làm đó sẽ có tác dụng tốt trước dư luận quốc tế.

Biện pháp căn bản hơn là chuyên gia và nhà ngoại giao của hai nước nên tiếp xúc với những đối tác và người đồng nhiệm ở Malaysia, Brunei và Indonesia để xác định chính xác quần đảo Trường Sa gồm những gì và không gian biển của quần đảo Trường Sa thực sự là bao nhiêu.

Bằng cách này cả 5 quốc gia nói trên sẽ thống nhất và vạch rõ được đường ranh giới của những khu vực có tranh chấp và những khu vực không có tranh chấp ở biển Đông. Điều này sẽ giúp cho cả 5 nước với tư cách cá nhân và tư cách tập thể chống lại những ý đồ của Trung Quốc nhằm mở rộng tranh chấp biển Đông tới những khu vực không có tranh chấp.

Ngoài ra, về mặt đối ngoại điều này còn góp phần thuyết phục cả thế giới rằng công cuộc đi đòi công lý của cả 5 quốc gia này xứng đáng được cả thế giới ủng hộ.

Cách đây nhiều ngày, Ngoại trưởng Philippines đã lên tiếng thúc giục các quốc gia trong vùng đang có tranh chấp biển Đông hãy gia nhập Bộ luật quốc tế ngăn ngừa xung đột vũ trang và thúc đẩy các giải pháp giải quyết tranh chấp.

Theo Manila, cần một Bộ luật quốc tế bảo đảm cho mỗi quốc gia liên quan một tiếng nói bình đẳng, bất kể sức mạnh kinh tế và quân sự đến đâu và ngăn cấm mọi hành động đè bẹp luật pháp, ỷ mạnh hiếp yếu, lấn chiếm biển đảo bằng vũ lực.

Hiện nay các nước Đông Nam Á và Trung Quốc có một thỏa thuận không trói buộc là DOC nhưng Trung Quốc đã liên tục vi phạm thỏa thuận này. Mặt khác, Ngoại trưởng Philippines cũng nói rằng sự hiện diện quân sự của Mỹ “là đảm bảo an toàn” cho vùng biển có tranh chấp.

Bộ trưởng quốc phòng Philipines, ông Voltaire Gazmin nhận định, Mỹ “có quyền lợi trong việc duy trì ổn định, an ninh và tự do tại tuyến hằng hải nhộn nhịp thứ nhì thế giới”. Ông cũng cho rằng sự có mặt của Mỹ có tác dụng răn đe mọi hành động bất hợp pháp ở vùng biển này.

Sau tháng 7/2011, một loạt các hội nghị quốc tế quan trọng gồm Diễn đàn an ninh khu vực ASEAN, Hội nghị thượng đỉnh Đông Á sẽ được tổ chức. Các nước có tranh chấp chủ quyền biển Đông cần chủ động hơn đối với tình hình khu vực.


[Vietnamdefence news]



Thứ Tư, 15 tháng 6, 2011

>> Trung Quốc cảnh báo bên ngoài tránh xa tranh chấp Biển Đông



Hãng Reuters vừa dẫn tin từ Nhật báo quân đội Trung Quốc cho biết, Trung Quốc kịch liệt phản đối sự can thiệp của các cường quốc bên ngoài trong vấn đề tranh chấp ở Biển Đông.



http://nghiadx.blogspot.com


Bình luận đăng ở nhật báo trên nhắc lại cảnh báo của Bắc Kinh rằng, những nước khác “không liên quan” nên đứng ngoài. "Tranh chấp phải giải quyết một cách hòa bình thông qua hiệp thương hữu nghị giữa hai bên liên quan”, tờ báo nhấn mạnh. "Vì thế, Trung Quốc kiên quyết phản đối bất kỳ nước nào không liên quan tới vấn đề Biển Đông can thiệp vào tranh chấp, và phản đối quốc tế hóa vấn đề Biển Đông”.

Căng thẳng giữa Trung Quốc và Mỹ lên cao vào năm ngoái sau khi chính quyền Obama ra tuyên bố chính thức về quan điểm của Mỹ trong vấn đề Biển Đông. Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton khẳng định, Mỹ có lợi ích quốc gia trong giải pháp hòa bình cho tranh chấp Biển Đông và ủng hộ một giải pháp tập thể.

Bắc Kinh vẫn khăng khăng theo đuổi con đường song phương để giải quyết tranh chấp. Một chiến lược mà nhiều nhà phê bình mô tả là cách “chia để trị”.

Theo hãng Reuters, bình luận trên báo Trung Quốc dường như nhằm vào bất kỳ sự dính líu nào của Mỹ trong tranh chấp Biển Đông.

Hôm qua (13/6), các Thượng nghị sĩ Jim Webb và James Inhofe đã đệ trình lên Thượng viện Mỹ nghị quyết lên án các hành động của Trung Quốc tại Biển Đông . Nghị quyết ủng hộ việc tiếp tục các hoạt động của lực lượng Mỹ nhằm bảo vệ tự do hàng hải ở Biển Đông và thúc giục Mỹ tạo điều kiện cho một tiến trình đa phương để giải quyết tranh chấp lãnh thổ.

Hãng AP hôm nay dẫn lời ông Webb, Chủ tịch Tiểu ban các vấn đề Đông Á - Thái Bình Dương thuộc Ủy ban đối ngoại Thượng viện, nói trong một hội nghị ở Washington rằng, Mỹ cần lên án việc Trung Quốc sử dụng vũ lực và thúc đẩy các cuộc đàm phán đa phương để giải quyết tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông. Ông khẳng định: “Điều này không có nghĩa là đối đầu quân sự, nhưng chúng ta cần có một tín hiệu rõ ràng”.

Trước đó, ngày 10/6, người phát ngôn bộ Ngoại giao Mỹ Mark Toner đã tuyên bố. "Chúng tôi lo lắng bởi những báo cáo gần đây về tình hình Biển Đông và tin tưởng rằng, nó chỉ làm gia tăng căng thẳng, không góp phần cho hòa bình và an ninh khu vực. Chúng tôi ủng hộ một tiến trình hợp tác ngoại giao…và kêu gọi tất cả các bên tuyên bố chủ quyền, cả trên đất liền và trên biển, tuân thủ luật pháp quốc tế”.
Ông nhấn mạnh, Mỹ và cộng đồng quốc tế cùng chia sẻ lợi ích chung trong duy trì an ninh hàng hải ở khu vực thông qua tự do hàng hải, phát triển kinh tế và tuân thủ luật pháp quốc tế.

Gần đây, cả Việt Nam và Philippines đã cáo buộc Trung Quốc hành xử gây hấn ở Biển Đông, làm căng thẳng thêm leo thang ở vùng biển vốn luôn có tranh chấp này.

Chỉ trong vòng hai tuần lễ, cụ thể vào ngày 26/5 và 9/6, các tàu Trung Quốc đã hai lần cắt cáp tàu thăm dò dầu khí của Việt Nam các tàu thăm dò hoạt động trong phạm vi thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Trong khi đó, quan chức Philippines cáo buộc lực lượng Trung Quốc đã 6 lần xâm nhập vào khu vực mà Manila tuyên bố chủ quyền kể từ tháng 2 tới nay, và bắn vào các ngư dân Philippines trong ít nhất một vụ việc.

Trước tình hình này, ngày 4/6, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Robert Gates đã cảnh báo rằng, có những “quan ngại ngày càng gia tăng” về hành động khiêu khích gần đây của Trung Quốc ở Biển Đông và các vùng biển tranh chấp khác tại châu Á. Ông nói tại Đối thoại Shangri-La, một diễn đàn an ninh cấp cao châu Á: “Tôi e rằng nếu không có quy tắc và phương pháp tiếp cận thống nhất để giải quyết những vấn đề này thì còn sẽ có đụng độ”.

[BDV news]



Thứ Sáu, 10 tháng 6, 2011

>> Lật 'con bài' của Mỹ tại Shangri-la 10



Mỹ đã có những động thái điều chỉnh tại châu Á, cụ thể là ở Đông Nam Á, vậy điều gì đã xảy ra sau cuộc đại mặc cả Mỹ-Trung?

Đầu năm 2011, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Robert M Gates đã có chuyến thăm quan trọng đến Trung Quốc, làm ấm lại mối quan hệ quân sự bị đóng băng suốt năm 2010 giữa đôi bên.

Rõ ràng, sự căng thẳng trong quan hệ quân sự giữa Mỹ và Trung Quốc đều bất lợi cho cả hai. Cả hai nước hiểu rõ điều này nên cùng tích cực hành động để làm ấm mối quan hệ này.

Rất nhiều vấn đề quan trọng đã được đặt lên bàn thương lượng giữa đôi bên, mong muốn của Trung Quốc là quá rõ, chiếm lại Đài Loan và độc chiếm biển Đông. Còn với Mỹ họ không dễ gì từ bỏ những lợi ích của mình tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương.

Diễn biến quan điểm Trung - Mỹ

Tháng 7/2010, tại Diễn đàn ARF ở Hà Nội, Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton đã nêu bật mối quan tâm chiến lược của Mỹ ở Biển Đông và ngỏ ý Mỹ sẽ đứng ra làm trung gian cho các cuộc đàm phán hòa bình giữa các bên liên quan. Lúc đó, Ngoại trưởng Mỹ còn bày tỏ mối quan tâm của Mỹ đến Biển Đông khi nêu “lợi ích quốc gia” để đối chọi “lợi ích cốt lõi” mà Trung Quốc nêu lên trước đó.

Tuy nhiên, từ đầu năm 2011, cả hai bên đều thể hiện cách tiếp cận mới trong quan hệ song phương. Bắt đầu từ cuộc gặp gỡ thượng đỉnh Trung-Mỹ ở Washington tháng 1/2011, chuyến thăm của Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Robert Gates đến Bắc Kinh.


Nhiều ẩn số sau cái bắt tay thân mật giữa lãnh đạo quốc phòng Mỹ-Trung.


Tại Đối thoại Shangri-la 2011, trong bài phát biểu của mình, Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc Lương Quang Liệt nêu 4 nguyên tắc hợp tác an ninh quốc tế mà Bắc Kinh đang theo đuổi. Trong đó có nguyên tắc "chú ý lợi ích cốt lõi và những mối quan tâm quan trọng của nhau" và "hợp tác cùng có lợi, không kết liên minh mang tính đối kháng nhằm vào bên thứ ba".

Cũng ở Shangri-la 10, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Robert Gates đã có bài phát biểu trình bày quan điểm của chính quyền Obama về lập trường an ninh quân sự của Mỹ đối với châu Á-Thái Bình Dương.

Tuy Mỹ phải cắt giảm ngân sách quốc phòng, nhưng vẫn ưu tiên duy trì sự hiện diện quân sự tại các khu vực liên quan ở Đông Á và Ấn Độ Dương.

Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ tái khẳng định “lợi ích quốc gia” đối với tự do hàng hải, bày tỏ mong muốn các bên giải quyết các tranh chấp phù hợp với Công ước luật biển Liên Hợp Quốc và không sử dụng vũ lực.

Trước đó, trong năm 2010, Bắc Kinh luôn phản đối sự hiển diện quân sự của Mỹ tại Đông Nam Á. Nhưng hiện tại, Trung Quốc không tìm cách cản trở sự hiện diện của Mỹ tại đây. Bà Susan Shirk, một chuyên gia nghiên cứu về Trung Quốc thuộc ĐH Tổng hợp California cho rằng, Bắc Kinh đang điều chính các chính sách của mình đối với Washington nhằm tìm cách quay lại thời kỳ quan hệ “trăng mật” giữa đôi bên vào những năm 1990.

Ván bài của Mỹ tại Đông Nam Á?

Nhiều quốc gia coi sự hiện diện của Mỹ tại châu Á, đặc biệt là Đông Nam Á như là một cán cân đối với sự lớn mạnh của quân đội Trung Quốc. Tuy nhiên, Mỹ sẽ thể hiện vai trò gì tại khu vực đang tồn tại nhiều tranh chấp chủ quyền biển đảo này lại là chuyện khác. Sự có mặt của Mỹ tại Đông Nam Á có thực sự là để tạo cán cân và làm trung gian cho các tranh chấp, hay đơn giản là để bảo vệ lợi ích của chính họ.

Phát biểu với báo chí ngày 1/6 tại Kuala Lumpur, Đô đốc Robert Willard, Tư lệnh lực lượng Mỹ ở Thái Bình Dương, đã bày tỏ mối quan ngại về những căng thẳng gần đây giữa Trung Quốc với các nước láng giềng, nhưng ông nhắc lại Mỹ không đứng về phe nào và rất muốn thấy các bên tranh chấp giải quyết một cách hoà bình thông qua đối thoại, không để xảy ra xung đột trên không hoặc trên biển.

ASEAN muốn quốc tế hóa vấn đề tranh chấp trên biển Đông và muốn Mỹ đứng ra làm trung gian cho vấn đề này. Bắc Kinh lại có suy nghĩ khác, họ luôn tìm cách để phản đối sự đa phương hóa vấn đề tranh chấp biển Đông.

Trung Quốc coi ASEAN là một “bó đũa” tách rời và “bẽ gảy” từng chiếc một là mục tiêu hàng đầu của Bắc Kinh, và họ sẳn sàng thỏa hiệp với Washington để làm điều này.

Với những tuyên bố của đôi bên cho thấy, Mỹ đang chơi trò “hai mặt” tại Đông Nam Á. Một mặt vẫn tăng cường quan hệ quân sự với Trung Quốc, mặt khác cũng mở rộng quan hệ với các nước trong khu vực. Nhưng Mỹ sẽ đứng ngoài các tranh chấp giữa các quốc gia, bởi “lợi ích quốc gia” vẫn là ưu tiên hàng đầu của Mỹ. Sẽ là sai lầm nếu kỳ vọng quá nhiều vào sự có mặt của Mỹ tại Đông Nam Á.

Mở rộng sự hiện diện quân sự nhưng đứng ngoài các tranh chấp, Mỹ đẩy các quốc gia Đông Nam Á vào thế khó. Nhất là những nước xung đột quyền lợi với Bắc Kinh. Tiến gần tới Washington đồng nghĩa với việc chọc giận Bắc Kinh mà lại không có sự đảm bảo từ phía Mỹ.

Một số nhà phân tích chính trị nhận định, mối quan hệ quân sự Trung-Mỹ đang trải qua một kỳ “giải lao” sau một năm căng thẳng. Tất nhiên đây chính là cơ hội để Bắc Kinh thể hiện yêu sách của mình. Không ai có thể đoán trước được Bắc Kinh sẽ hành động như thế nào trên biển Đông. Một khi “ván đã đóng thuyền” rất khó để lật ngược tình thế dù Washington có can thiệp hay không.

Hiện tại, ASEAN chỉ có thể dựa vào sự đoàn kết vì lợi ích chung mới có thể đối trọng lại với những yêu sách của Trung Quốc trên biển Đông. Bất kỳ hành động đơn phương thiếu trách nhiệm nào đều có thể làm sụp đổ mọi nỗ lực của các quốc gia.



[BDV news]



>> Đang hình thành liên minh đối phó Trung Quốc



Lo ngại sự lớn mạnh và những hành động cứng rắn của Trung Quốc, nhiều láng giềng của Bắc Kinh đang dần đoàn kết lại với nhau để hình thành liên minh chống lại “gã khổng lồ” này, South China Morning Post đưa tin.

Đoàn kết vì Trung Quốc

Theo SCMP, GAPAC (viết tắt của Grouping of Asian Powers Around China - Nhóm các thế lực xung quanh Trung Quốc) đang trong giai đoạn hình thành.

Về thành viên, GAPAC gồm Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ, Ấn Độ, Australia... những láng giềng lo ngại sự lớn mạnh của Trung Quốc.



Nhiều láng giềng của Bắc Kinh đang đoàn kết lại với nhau. Ảnh minh họa.


Hiện GAPAC mới trong giai đoạn “phôi thai", ở mức là một tập hợp, được gắn lại với nhau nhờ “chất keo”: “kháng cự Trung Quốc”.
Do đó, họ chưa có ban thư ký, chẳng có hiến chương mà cũng chưa có các cuộc họp thường niên, thậm chí là một phát ngôn viên.

Tuy nhiên, các kênh liên lạc, sự hợp tác bí mật giữa các thành viên đang gia tăng, tỉ lệ thuận với những nguy cơ về chiến lược, an ninh mà Trung Quốc đặt ra.

Về hình thức, các cuộc gặp của các thành viên GAPAC ít khi được thông báo rầm rộ nhưng cũng không khó để nhận ra những mối liên hệ mang tính chiến lược giữa các thành viên.

Đơn cử như hai cường quốc Nhật Bản và Ấn Độ dù cách xa địa lý, khác biệt lớn về văn hóa... đang chủ động “tán tỉnh” lẫn nhau, hợp tác với nhau trong lĩnh vực năng lượng, quốc phòng... Hay như bộ đôi Hàn Quốc - Australia đang cùng nhau truyền sinh lực cho liên minh Đông Á vốn được Washington, Tokyo và Seoul ủng hộ...

Dễ thấy hơn nữa là những gì diễn ra tại hội nghị Đối thoại Shangri-La 10 vừa diễn ra tại Singapore. Trong khi Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc Lương Quang Liệt là “ngôi sao” của hội nghị, thu hút sự mọi “ánh đèn sân khấu” thì phía sau “tấm rèm” là hàng loạt cuộc họp không chính thức của các thành viên GAPAC mà.các phương tiện truyền thông vẫn gọi là các cuộc gặp bên lề Shangri-La, thậm chí một số còn không được đưa tin...


Hàng loạt cuộc gặp bên lề Shangri-La diễn ra. Ảnh minh họa.

Tính về “tuổi tác”, GAPAC rất non trẻ khi so với nhiều tổ chức, kể cả Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), tổ chức định hình Hội nghị thượng đỉnh Đông Á (liên kết các cường quốc như Trung Quốc, Mỹ, Nga...).

Tuy nhiên, xét về khả năng ra quyết định, GAPAC mạnh hơn ASEAN và dường như khối này phản ứng nhanh hơn với những diễn biến đang xảy ra. Tuy nhiên, đây vẫn là một vấn đề cần được thử thách trong thời gian tới.

Về mục tiêu, trong bối cảnh Bắc Kinh đẩy mạnh chính sách ngoại giao quân sự, các thành viên GAPAC âm thầm phối hợp để chống lại nước này; giống như một quan chức an ninh Ấn Độ khẳng định: “ Chúng tôi đều hài lòng khi những quan chức như Tướng Lương Quang Liệt can dự nhiều hơn vào khu vực. Tuy nhiên, ở hậu trường, chúng tôi mới tìm thấy sự an toàn khi đoàn kết với nhau. Nói cách khác, các cường quốc châu Á xích lại gần nhau nhằm tìm đối sách với Trung Quốc”.

Cựu cố vấn cho Tổng thống Hàn Quốc là Tiến sĩ Lee Chung-min thì cho biết: “Trung Quốc đang đẩy chúng tôi lại với nhau. Bắc Kinh quá lớn để bị kiềm chế nhưng chúng tôi vẫn phải tìm cách khống chế họ. Chúng tôi phải hiểu, hỗ trợ và cân bằng với nhau”.

Tuy nhiên, GAPAC đang gặp khá nhiều khó khăn. Quan trọng nhất là việc tất cả các thành viên đều đang trong tình thế lưỡng nan trong quan hệ với Trung Quốc. Cụ thể thì mỗi thành viên đều có lợi khi Trung Quốc phát triển nhưng ngược lại, họ lo sợ chính việc Bắc Kinh lớn mạnh. Do đó, họ vừa phải ủng hộ Trung Quốc tiến lên, nhưng vẫn phải chuẩn bị để đứng lên kháng cự lại Bắc Kinh khi thấy cần thiết.

Trung Quốc đang đẩy ASEAN vào vòng tay Mỹ

Theo RUVR, với nhiều hành động cứng rắn công khai, Trung Quốc đang buộc nhiều láng giềng tìm kiếm đối trọng cân bằng. Riêng với ASEAN, Trung Quốc đang đẩy khối này vào vòng tay Mỹ.

Nguyên nhân thì có nhiều nhưng quan trọng nhất vẫn là tranh chấp ở biển Đông. Cách đây chưa lâu, Philippines gửi Liên Hiệp Quốc công hàm chính thức, khẳng định chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa.

Đó là phản ứng đối với hành động của Trung Quốc, bởi Bắc Kinh công bố vùng lợi ích của mình bao trùm gần như toàn bộ biển Đông có trữ lượng dầu khí dồi dào và tài nguyên sinh vật biển rất phong phú.

Manila cũng đưa ra tuyên bố do thực tế là các tàu hải quân Trung Quốc lấn át tàu của Philippinnes đang thăm dò dầu khí trong khu vực tranh chấp.

Trước đó, các nước ASEAN cố gắng giảm độ gay gắt của vấn đề. Năm 2002, ASEAN và Trung Quốc ký Tuyên bố về cách ứng xử trong biển Đông.

Trong văn kiện quy định về sự sẵn sàng từ bỏ đối đầu và giải quyết vấn đề quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa thuần túy bằng con đường ngoại giao; quy nhận cần thiết hoạch định một cơ chế giải quyết tranh chấp lãnh thổ, để quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa cũng như các vùng biển xung quanh trở thành “khu vực của hòa bình và hợp tác”.

Cuộc tranh chấp xung quanh các quần đảo trên biển Đông cần và có thể giải quyết bằng nỗ lực của tất cả các thành viên hữu quan, Phó Giám đốc Viện Kinh tế thế giới và quan hệ quốc tế Vasily Mikheev nêu ý kiến.

Ông cho biết: “Trung Quốc và ASEAN có thỏa thuận cơ bản về cùng chung sử dụng các quần đảo này, về việc tại đây là khu vực phi hạt nhân, khu vực hòa bình và v.v... Đó là Tuyên bố về cách ứng xử ở biển Đông. Nhưng thỏa thuận này mang tính chất văn kiện khung, chỉ xác định những nguyên tắc quan hệ cơ bản. Nhiệm vụ giờ đây là ở chỗ, làm thế nào để biến thỏa thuận này thành cơ chế hành động thực tiễn, không chia rẽ mà liên kết các quốc gia lại với nhau".

"Dưới tác động tiêu cực thể hiện qua tất cả các động thái ngoại giao thời gian gần đây, tôi nghĩ rằng ban lãnh đạo các nước tuyên bố tham vọng chủ quyền với các quần đảo này cần thêm một lần nữa suy nghĩ kỹ lưỡng, có thái độ tiếp cận nghiêm túc hơn với vấn đề, làm thế nào để biến thỏa thuận khung thành những bước đi thực tế”, chuyên viên Nga nhận xét.

Tuy nhiên hiện thời Trung Quốc tỏ ra không vội gì tuân thủ tinh thần và văn bản của Tuyên bố. Các hành động cứng rắn công khai của Trung Quốc thực sự đang buộc các láng giềng phải tìm kiếm một đối trọng để cân bằng với thế lực ngày càng tăng của Bắc Kinh trong khu vực.

Hôm nay, trong cuộc tìm kiếm đó, các nước ASEAN đang thể hiện sự quan tâm rằng Mỹ không chỉ duy trì mà còn tăng thêm sự hiện diện tại khu vực. Nguyện vọng đó hiển nhiên được Washington hoan nghênh.

Năm ngoái trong hội nghị thượng đỉnh ASEAN ở Hà Nội, Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton nói rằng nước Mỹ có “lợi ích quốc gia tới tự do hàng hải và sự tôn trọng pháp quyền quốc tế trong khu vực biển Đông”.

ASEAN hy vọng rằng đến 2012 – mốc đánh dấu 45 năm thành lập tổ chức – sẽ ký kết Quy tắc ứng xử ở biển Đông. Luật phải mang tính bắt buộc đối với tất cả các quốc gia trong khu vực. Nếu mục tiêu này trở thành hiện thực, thì biển Đông sẽ có thể trở thành một khu vực của hòa bình và hợp tác.
[BDV news]



>> 'Không được đơn phương sử dụng bạo lực tại biển Đông'



Tại Hội nghị Chính sách an ninh Diễn đàn khu vực ASEAN (AFR) ngày 8/6 ở Indonesia, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Nguyễn Chí Vịnh nhấn mạnh, với tranh chấp ở biển Đông, các bên tuyệt đối không được sử dụng bạo lực với nhau.


Trung tướng Nguyễn Chí Vịnh, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng. Ảnh: TTXVN.

Theo TTXVN, Trung tướng Nguyễn Chí Vịnh, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Trưởng đoàn Việt Nam khẳng định, vấn đề biển Đông cần được giải quyết thông qua đàm phán hòa bình đa phương, trên cơ sở tuân thủ Công ước Liên hợp quốc năm 1982 về Luật biển (UNCLOS 1982), thực hiện tốt Tuyên bố về ứng xử của các bên ở biển Đông (DOC) và cố gắng tiến tới Bộ quy tắc ứng xử ở biển Đông (COC) trong thời gian sớm nhất.

Thứ trưởng Vịnh cũng khẳng định sự ủng hộ của Việt Nam đối với các đề xuất thiết thực và mạnh mẽ của Bộ trưởng Quốc phòng Indonesia Purnomo Yusgiantoro về việc cuối năm nay sẽ có bước tiến mới về COC và của Thủ tướng Campuchia Hunsen mong muốn COC sẽ được ký kết năm 2012 tại Campuchia, nhân kỷ niệm 10 năm DOC.

Tuy nhiên, trong khi chưa tiến tới được COC hoặc chưa thực hiện một cách đầy đủ UNCLOS 1982, thì tất cả tranh chấp, bất đồng trong vấn đề này phải được giải quyết bằng biện pháp hòa bình, tránh những hành động đơn phương, đặc biệt tuyệt đối không được sử dụng bạo lực, sử dụng các biện pháp mạnh để hành xử với nhau.

Trung tướng Nguyễn Chí Vịnh nêu rõ Việt Nam cho rằng để giải quyết tốt những thách thức, trước hết tất cả các nước thành viên ARF, những nước có lợi ích ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương cần có trách nhiệm đầy đủ hơn, mạnh mẽ hơn đối với các thách thức về an ninh. Các nước ASEAN cần tăng cường đoàn kết, thống nhất, đặc biệt là tránh chia rẽ, tránh xung đột, để ASEAN luôn trở thành trung tâm trong các cấu trúc an ninh khu vực.

Phát biểu tại hội nghị, Trưởng đoàn Trung Quốc, trung tướng Phó tổng tham mưu trưởng Ngụy Phụng Hòa khẳng định Trung Quốc sẽ nghiêm chỉnh tuân thủ nguyên tắc hòa bình và phát triển đã cam kết với cộng đồng thế giới, cam kết tiếp tục đóng vai trò duy trì hòa bình và ổn định tại khu vực. Trung Quốc ủng hộ giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, ủng hộ UNCLOS 1982, song không nhất trí đưa các vấn đề song phương như tranh chấp lãnh thổ ra các diễn đàn đa phương.

Trong khi đó, Trưởng đoàn Mỹ khẳng định nước này cam kết tiếp tục mở rộng hợp tác trên cơ sở luật pháp quốc tế, đảm bảo các nước có thể tự do tiếp cận đầy đủ biển, trên không và trên đất liền, nhằm đảm bảo tự do lưu thông thương mại, hàng hóa; phản đối dùng vũ lực trong giải quyết các vấn đề tranh chấp; kêu gọi các nước tuân thủ UNCLOS 1982, tự do hàng hải và các bên tuyên bố chủ quyền thực hiện nghiêm chỉnh DOC và tiến tới COC.

Mỹ hoan nghênh ASEAN và Trung Quốc đã tiến hành các cuộc họp nhóm kỹ thuật bàn về việc thực hiện DOC và tiến tới xây dựng COC đảm bảo sự ràng buộc trong thực thi các cam kết tại biển Đông, nhằm giải quyết các vấn đề tranh chấp ở khu vực này thông qua các biện pháp hòa bình.

Hội nghị Chính sách an ninh Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF) lần thứ 8 có sự tham dự của nhiều quan chức quốc phòng cấp cao từ 23 quốc gia thành viên ARF (vắng Triều Tiên và Pakistan). Hội nghị đã tập trung trao đổi quan điểm về tình hình quốc tế và khu vực, thảo luận vấn đề điều phối giữa ARF và ADMM+ (Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN và các nước đối thoại).
Trong khi Hội nghị Chính sách an ninh Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF) đang diễn ra thì sáng nay (9/6) tàu thăm dò Viking II của Việt Nam hoạt động trong phạm vi 200 hải lý trên thềm lục địa của Việt Nam đã bị tàu đánh cá của Trung Quốc (với sự yểm trợ của các tàu ngư chính) lao vào cắt cáp.

Trước đó, sáng 26/5, ba tàu hải giám của Trung Quốc đã cắt cáp thăm dò của tàu Bình Minh 02 thuộc Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) khi tàu Bình Minh 02 đang khảo sát địa chấn trong vùng thềm lục địa của Việt Nam.

Ngay lập tức Bộ Ngoại giao Việt Nam đã lên tiếng phản đối Trung Quốc xâm phạm chủ quyền Việt Nam.

Trong bài phát biểu ngày 5/6 tại Hội nghị An ninh châu Á tổ chức ở Singapore, Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh tiếp tục đưa dẫn chứng vụ tàu Bình Minh 02. Tại cuộc gặp bên lề hội nghị với Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc Lương Quang Liệt, đại tướng Phùng Quang Thanh nhấn mạnh: “Vụ việc tàu Bình Minh 02 đang gây bức xúc trong dư luận nhân dân và khiến lãnh đạo Đảng và Nhà nước Việt Nam lo ngại”.


[Vnexpress news]



Thứ Năm, 9 tháng 6, 2011

>> Quân đội Trung Quốc phân tán sự chú ý của dư luận



Sức mạnh quân sự Trung Quốc vẫn tụt hậu 20 năm so với Mỹ, tuy nhiên một số ý kiến cho rằng đây là động thái nhằm tránh sự e ngại của dư luận.

Trong bài phát biểu của mình tại Đối thoại Shangri-la 2011, Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc Lương Quang Liệt đã lên tiếng thừa nhận: Quân đội Trung Quốc còn tụt hậu đến 20 năm so với Mỹ.

“Tôi muốn nói rằng, khoảng cách giữa Trung Quốc và Mỹ ngày càng lớn, quá trình hiện đại hóa quân đội Trung Quốc đã có những cải thiện đáng kể. Tuy nhiên các trang thiết bị chiến đấu chính của chúng tôi chủ yếu vẫn là các thế hệ vũ khí thứ 2. Chúng tôi không có kho vũ khí thế hệ thứ 3 đủ lớn, cũng như các hệ thống và nền tảng cơ bản. Quân đội chúng tôi mới bắt đầu bước vào cơ giới hóa chứ chưa thực sự được cơ giới hóa như quân đội Mỹ” trích dẫn bài phát biểu của Bộ trưởng Lương Quang Liệt.

Bô trưởng Lương Quang Liệt cũng thừa nhận rằng, quá trình hiện đại hóa quân đội Trung Quốc đã thu hút sự quan tâm của cộng đồng quốc tế về khả năng của mình. "Quân đội Trung Quốc “không tìm kiếm sự bá quyền”, sự phát triển của quân đội Trung Quốc chỉ để bảo vệ lợi ích cốt lõi và chủ quyền của mình", ông này cho biết thêm.



PLA tuy còn kém xa Mỹ, song vẫn mạnh hơn các nước trong khu vực.


Đằng sau những lời lẽ "khiêm tốn"

Đối thoại Shangri-la được tổ chức bởi Viện nghiên cứu chiến lược quốc tế IISS, một tổ chức phi chính phủ chuyên tổ chức các cuộc đối thoại an ninh để quản lý các cuộc chiến tranh lạnh.

Dù Đối thoại Shangri-la đã ra đời cách đây tương đối lâu, nhưng những lần trước Trung Quốc chỉ tham dự đối thoại này một cách “hững hờ”, theo kiểu cho có lệ.

Vậy mà, tại Đối thoại Shangri-la 2011, lần đầu tiên sau 10 năm, đích thân Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc dẫn đầu phái đoàn quân sự cấp cao tham dự đối thoại này. Điều đó cho thấy Bắc Kinh đã có những chuẩn bị kỹ lưỡng về ngoại giao đối với đối thoại lần này.

Phân tán sự chú ý của dự luận là điều mà Bắc Kinh muốn hướng đến tại Shangri-la 2011.



Trước thềm Shangri-La 10, Trung Quốc có nhiều hành động cứng rắn trên biển Đông.

Thời gian gần đây, dư luận quốc tế tốn không ít giấy mực để nói về quá trình hiện đại hóa quân đội Trung Quốc. Đặc biệt là đầu năm 2011, Trung Quốc liên tiếp trình làng các hệ thống vũ khí mới.

Mẫu thử nghiệm tiêm kích tàng hình thế hệ 5 J-20 xuất hiện và có chuyến bay thử nghiệm đầu tiên. Tên lửa hành trình diệt tàu sân bay DF-21D cũng được cho là đã trải qua quá trình phát triển ban đầu. Tàu sân bay Thi Lang cũng đang được gấp rút hoàn thành. Cùng với đó là sự “úp mở” trên các trang mạng quốc phòng Trung Quốc về các mẫu thử nghiệm tiêm kích mới như J-18, J-15, khiến các nước trong khu vực không khỏi lo lắng. Chưa hết, ngay trước thềm Đối thoại Shangri-la 2011, Trung Quốc liên tiếp có các hành động "cứng rắn" trên biển Đông.

Do đó, có thể thấy bài phát biểu "khiêm tốn" của ông Lương Quang Liệt tại Shangri-La 10 không ngoài mục đích nhằm phân tán sự chú ý của dự luận.

Đúng là quân đội Trung Quốc còn kém xa so với Mỹ, nhưng vẫn mạnh hơn tất cả các nước ASEAN cộng lại. Với những gì quân đội Trung Quốc đã và đang làm ASEAN không thể không lo lắng.

Mỹ đang xem Trung Quốc là đối tượng cạnh tranh, không muốn nói là đối thủ tiềm tàng, Washington đang dành một sự ưu ái đặc biệt đối với châu Á. Tại Shangri-La 10, Mỹ đã cam kết hiện hiện mạnh mẽ và lâu dài tại châu Á, đó quả là một cản trở lớn đối với Trung Quốc. Hạ thấp năng lực của mình so với đối thủ cũng là cách để làm giảm sự tập trung của Washington đối với Bắc Kinh.

Đó vẫn là “chiêu bài” mà giới ngoại giao quân sự Trung Quốc luôn sử dụng để trấn an các nước trong khu vực. Tuy nhiên, vẫn luôn có một khoảng cách nhất định giữa những tuyên bố và những hành động của quân đội đặc biệt là Hải quân Trung Quốc.

Điều đó đặt ra những hoài nghi lớn trong dư luận quốc tế, đặc biệt là các nước ASEAN. Phải chăng, nội bộ Trung Quốc không đạt được sự thống nhất hoàn toàn trong cương lĩnh hành động hay đây là những “chiêu bài” đã được chuẩn bị kỹ lưỡng theo kiểu “ném đá dò đường”, từng bước, từng bước một, nghe ngóng, quan sát thái độ của các nước trong khu vực rồi tính toán bước đi tiếp theo.

Không vội vàng, hấp tấp, Trung Quốc đang “ru ngủ” các nước trong khu vực bằng những tuyên bố của mình. Điều đó một lần nữa cho thấy giá trị của sự đoàn kết trong ASEAN vì lợi ích chung.


[BDV news]



Thứ Tư, 8 tháng 6, 2011

>> LCS USS Independence được Mỹ triển khai tới Châu Á



Nhằm duy trì sự hiển diện lâu dài tại châu Á-Thái Bình Dương, Lầu Năm Góc sẽ triển khai đến khu vực này loại tàu tuần duyên LCS mới, cùng với một số vũ khí công nghệ cao.

Trong bài phát biểu tại Đối thoại Shangri-la 2011, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Robert Gates cho biết, quân đội Mỹ sẽ duy trì sự hiển diện mạnh mẽ và lâu dài trên khắp châu Á-Thái Bình Dương.

Lầu Năm Góc sẽ triển khai đến khu vực này các hệ thống vũ khí công nghệ cao để bảo vệ các đồng minh và lợi ích cốt lõi của Mỹ cũng như đảm bảo tự do và an ninh hàng hải trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương.

Washington cam kết, sự hiện diện của Mỹ tại đây không hề giảm sút như nhiều người vẫn nghĩ, quân đội Mỹ sẽ mở rộng hợp tác và chia sẽ các căn cứ với Autralia tại Ấn Độ Dương.

Theo đó, trong thời gian tới Lầu Năm Góc sẽ triển khai đến Singapore loại tàu tuần duyên LCS mới.



Tàu tuần duyên LCS USS Independence trông rất hầm hố.?


Chiến hạm loại LCS được thiết kế để hoạt động tại các vùng biển nông xung quanh Singapore, một đồng minh thân cận của Mỹ tại ASEAN. Khu vực có tuyến đường biển thương mại bận rộn nhất thế giới.

Trước mắt, Lầu Năm Góc dự định sẽ triển khai đến Singapore 1 hoặc 2 tàu LCS, nhằm đánh giá hoạt động cũng như tăng cường sự hợp tác với hải quân các nước trong khu vực thông qua các cuộc tập trận và huấn luyện thủy thủ.

Ngoài việc triển khai hoạt động tàu tuần duyên thế hệ mới đến châu Á, Bộ trưởng Gates còn nhấn mạnh, Lầu Năm Góc sẽ tiếp tục đầu tư phát triển các loại máy bay trinh sát không người lái mới, cùng với các tàu chiến mới, hệ thống vũ khí không gian và các biện pháp đối phó với an ninh mạng.

Các hệ thống vũ khí công nghệ cao này sẽ tiếp tục được triển khai đến châu Á nhằm xây dựng và tăng cường năng lực phòng thủ hợp nhất liên quốc gia, đảm bảo an ninh, chủ quyền, tự do hàng hải của Mỹ cùng với các đồng minh và đối tác trong khu vực.



LCS có khả năng hoạt động như một tàu đổ bộ trực thăng mini.


Việc triển khai tàu tuần duyên cao tốc thế hệ mới LCS đến châu Á sẽ tăng cường đáng kể khả năng tuần tra và ứng phó trước các nguy cơ đối với an ninh hàng hải của Mỹ cũng như các nước đồng minh trong khu vực. Nếu không muốn nói thẳng ra là việc triển khai tàu tuần duyên LCS, cùng với hàng loạt các hệ thống vũ khí công nghệ cao là để đối phó với những thách thức mới đến từ Hải quân Trung Quốc.

LCS Littoral Combat Ship, tàu tấn công khu vực duyên hải, là một loại tàu chiến được thiết kế đặc biệt để hoạt động tại các vùng biển nông.

LCS được thiết kế với khả năng tàng hình tối ưu, trang bị hỏa lực mạnh. Đây là một biện pháp để đối phó trước các cuộc tấn công, xâm nhập theo kiểu tác chiến phi đối xứng, cũng như các mối đe dọa tiềm tàng trong khu vực duyên hải gần bờ.

So với tiêu chuẩn của các tàu khu trục mang tên lửa điều khiển, LCS có thiết kế nhỏ hơn, tuy nhiên đuôi tàu được thiết kế với sàn đáp và nhà chứa khá lớn cho 2 trực thăng SH-60 Seahawk hoạt động.

Đuôi tàu được thiết như một hệ thống đổ bộ mini với khả năng mang theo 4 xe chiến đấu bọc thép Stryker , hoặc xe chiến đấu bộ binh Humvee. Một hệ thống đường nối kiểu roll-on/roll-off cho phép nhanh chóng triển khai các xe chiến đấu bộ binh cho nhiệm vụ đổ bộ nhẹ.

Hệ thống vũ khí trên tàu chủ yếu cho nhiệm vụ đảm bảo an ninh ven biển, pháo hạm Mk-110 57mm, 4 súng máy caliber 50 (2 đặt phía trước, 2 đặt phía sau), 2 pháo Mk44 30mm, hệ thống phòng thủ tên lửa Evolved SeaRam được bố trí phía trên nhà chứa máy bay.

Với thiết kế 3 thân độc đáo, LCS có thể đạt tốc độ tối đa hơn 44 hải lý/giờ, tầm hoạt động 10.000 hải lý.

LCS được trang bị hệ thống điện tử hàng hải rất hiện đại, radar tìm kiếm mục tiêu 3D Sea GiRaffe, radar dẫn đường hàng hải BridgeMaster E, cảm biến chỉ thị mục tiêu quang-điện tử AN/KAX-2, hệ thống chỉ thị mục tiêu hồng ngoại FLIR.

Đặc biệt, trung tâm của LCS là hệ thống quản lý thông tin chiến đấu tích hợp ICMS được thiết kế bởi Northrop Grumman, hệ thống chiến tranh điện tử tích hợp ES-3601. 4 hệ thống phóng mồi bẫy hồng ngoại Mark 36 SRBOC, hệ thống phóng mồi bẫy radar Nulka.


[BDV news]


>> Ai "nói một đàng làm một nẻo"?



Việc tàu Hải giám của nhà nước Trung Quốc tấn công cắt cáp của Tàu Bình Minh 02 của PetroVietnam ngày 26/5/2011 đã làm dấy lên làn sóng phản đối của nhân dân Việt Nam. Báo chí đã góp phần để bạn đọc hiểu rõ thực chất vụ việc.



Bộ trưởng Quốc phòng TQ Lương Quang Liệt trước khi lên phát biểu tại Shangri-la 10 sáng 5/6

Đặc biệt, báo chí lần này đã giúp người dân chia sẻ được phần nào những phản ứng tích cực và cần thiết của lãnh đạo Việt Nam. (Thực ra, người dân có quyền đòi hỏi báo chí phải luôn làm được điều đó).

Luật Biển của mỗi quốc gia quy định đường cơ sở phù hợp với Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS 82). Vùng nước nằm giữa đường cơ sở và đất liền được gọi là nội thủy. Tàu thuyền nước ngoài không được phép tự do đi lại trong vùng này.

Lãnh hải là vùng biển kéo dài từ đường cơ sở có bề ngang 12 hải lý. Trong vùng này nước chủ nhà toàn quyền nhưng tàu nước ngoài được tự do đi lại “không gây hại” mà không phải xin phép.

Vùng có bề ngang 12 hải lý kế tiếp là vùng tiếp giáp lãnh hải nơi nước chủ nhà vẫn thực thi luật pháp của mình đối với các hoạt động buôn lậu và nhập cư bất hợp pháp.

Vùng có bề ngang 200 hải lý kể từ đường cơ sở là vùng đặc quyền kinh tế. Tại đây nước chủ nhà có độc quyền về khai thác mọi tài nguyên thiên nhiên. Tàu bè nước ngoài được tự do đi lại, máy bay nước ngoài được tự do bay trên vùng trời tương ứng theo sự kiểm soát của quốc gia ven biển.

Nếu hai nước ven biển có các vùng (lãnh hải, tiếp giáp lãnh hải hay đặc quyền kinh tế) chồng lên nhau, thì họ phải thỏa thuận việc phân chia với nhau. Nếu có sự chồng lấn mà các bên chưa thống nhất việc phân chia và còn tranh chấp, thì vùng đó được gọi là vùng tranh chấp.

Tàu Bình Minh 02, khi bị tấn công, đang thăm dò địa chấn hoàn toàn trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam và là vùng không thể có tranh chấp.

Các nhà chức trách Trung Quốc luôn nói hữu nghị, hòa bình, xây dựng nhưng lời nói không đi đôi với việc làm. Liên quan đến vụ Trung Quốc tấn công tàu Bình Minh 02, người phát ngôn của Bộ Ngoại giao Trung Quốc đổ lỗi cho phía Việt Nam một cách mập mờ “việc phía Việt Nam tiến hành hoạt động thăm dò dầu khí tại vùng biển do Trung Quốc quản lý đã làm tổn hại lợi ích và quyền quản lý của Trung Quốc...”.

Còn Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc biện bạch “quân giải phóng nhân dân Trung Quốc không có hành động can dự nào vào sự việc vừa diễn ra”. Lời biện bạch chỉ khẳng định tàu hải giám, một loại tàu quân sự trá hình, không thuộc biên chế của quân đội Trung Quốc, không hơn không kém.

Đúng như tướng Vịnh nói “Bộ trưởng Lương Quang Liệt phát biểu tại Shangri-La rất tầm cỡ, rất hòa hiếu, thiện chí. Chúng ta chờ những hành động cụ thể thể hiện thiện chí đó. Còn với một đất nước có một sự quản lý chặt chẽ như Trung Quốc, việc cấp dưới đi ngược lại ý kiến cấp trên là điều khó xảy ra.

Vụ tàu Bình Minh 02 nghiêm trọng ở chỗ trước đây Trung Quốc cũng đã đâm tàu và cắt cáp rồi, nhưng khu vực xảy ra là ở vùng ngoài 200 hải lý hoặc vùng tranh chấp. Còn đây là vào rất sâu vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam. Thứ hai, không phải tàu cá đâm tàu cá mà đây là tàu chấp pháp xử lý một tàu dân sự trong vùng biển Việt Nam. Thứ ba, đó là hành vi bạo lực”.

Đưa thông tin đủ và đúng là cách giúp mọi người nhìn ra ai là kẻ "nói một đàng làm một nẻo".

[BDV news]


>> Thứ trưởng bộ Quốc phòng Nguyễn Chí Vịnh: Nếu xung đột không bên nào thắng



Vừa trở về từ Đối thoại Shangri-La, trung tướng Nguyễn Chí Vịnh, thứ trưởng Bộ Quốc phòng, lại chuẩn bị chuyến công du Indonesia dự Hội nghị quốc phòng khu vực ASEAN vào ngày 7-6. Ông đã dành cho Tuổi Trẻ cuộc trao đổi vào tối 06/6.



Trung tướng Nguyễn Chí Vịnh trong buổi trả lời phỏng vấn báo Tuổi Trẻ ngày 6-6 sau khi trở về từ Đối thoại Shangri-LaẢnh: VIỆT DŨNG

- Ông nói: Tại Đối thoại Shangri-La, vấn đề biển Đông được dư luận quốc tế hết sức quan tâm.

Có hai lý do: Thứ nhất là lợi ích trên biển Đông ngày càng phát triển, can dự của các nước lớn vào đây ngày càng nhiều. Thứ hai, tuy cho rằng tình hình biển Đông về cơ bản là ổn định, các nước đều mong muốn hòa bình để phát triển, nhưng những sự kiện gần đây cho thấy biển Đông là khu vực không hề yên tĩnh.

Về phía nước ta đã mang đến Đối thoại Shangri-La thông điệp rất rõ ràng. Trước hết bày tỏ mong muốn biển Đông là khu vực hòa bình, ổn định, nhưng phải trên cơ sở bình đẳng và tôn trọng luật pháp quốc tế. Việt Nam giải quyết các vấn đề trên biển Đông bằng giải pháp hòa bình và công khai, minh bạch. Việt Nam cũng đề nghị cần phải chấm dứt, không để tái diễn các sự kiện trên biển Đông có thể dẫn đến leo thang về tranh chấp, đặc biệt có thể làm ngòi nổ cho các cuộc xung đột.

Nếu có xung đột trên biển Đông thì không bên nào thắng, thiệt hại trước hết cho các nước tham gia xung đột và ảnh hưởng đến tất cả những nước có lợi ích ở khu vực.

Trên cơ sở quan điểm chính thống như vậy, đoàn Việt Nam đã nêu sự kiện ngày 26-5 (sự kiện tàu hải giám của Trung Quốc cắt cáp thăm dò địa chấn của tàu Bình Minh 02 trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam - PV) như là một báo động cho việc không tuân thủ luật pháp quốc tế.

Quan điểm của Việt Nam là các nước có xung đột giải quyết với nhau trên tinh thần cùng lợi ích nhưng công khai, minh bạch và tôn trọng luật pháp quốc tế. Không nước nào, không thế lực nào được quyền tự đặt ra những luật lệ riêng của họ, không có nước nào được bước qua luật lệ quốc tế đã được thừa nhận hoặc là những thông lệ trong hành xử của thế giới hiện đại ngày nay.

* Với những diễn biến gần đây trên biển Đông, theo ông, đâu là giải pháp ngắn hạn và dài hạn cần thiết cho Việt Nam?

- Đối với những vấn đề cụ thể như sự kiện ngày 26-5, chúng ta phải nhìn nhận đúng bản chất trên cơ sở luật pháp quốc tế. Đây là vụ việc nghiêm trọng về tính chất cũng như hệ lụy lâu dài. Việc tàu chấp pháp của nước ngoài vào sâu trong thềm lục địa của Việt Nam để hoạt động mang tính chất pháp luật là hiếm có trong quan hệ trên biển. Việc này vừa gây thiệt hại kinh tế cho Việt Nam, vừa là một hành động bạo lực dưới danh nghĩa dân sự.

Nếu bạo lực đó không được kiềm chế thì sẽ phát triển leo thang. Trung Quốc dựa trên cơ sở nào để có hành xử như vậy?

Nếu về luật quốc tế thì chỉ có duy nhất “đường 9 khúc” mà Trung Quốc tự đưa ra, mà theo tôi được biết chưa có nước nào hay tổ chức quốc tế nào thừa nhận và chưa có chứng lý nào khả dĩ để chứng minh. Như vậy, phải chăng Trung Quốc đang đi những bước đầu tiên để hiện thực hóa “đường 9 khúc”? Nếu vấn đề này là có thật thì rõ ràng sẽ ảnh hưởng đến lợi ích không chỉ Việt Nam mà nhiều nước khác.

“Điều tôi mong muốn nhất là làm sao người dân hiểu chỉ có dựa vào chính mình mới giải quyết được việc của mình, không thể dựa vào ai để giải quyết được vì đó chỉ là nhân tố bên ngoài.

Chúng ta tin rằng có thể giải quyết được trong hòa bình và vẫn giữ được chủ quyền lãnh thổ. Quá khó khăn nhưng nếu phân tích dưới góc độ lợi ích, chúng ta hi vọng. Hi vọng đó xuất phát từ sự tin tưởng vào lãnh đạo các nước lớn tính toán lợi ích chiến lược của chính họ...

Người có quyền quyết định là người lãnh đạo, nhưng người có tiếng nói lại là nhân dân. Như lời đại tướng Lê Đức Anh (nguyên chủ tịch nước - PV) nói tôi rất phục, đối tượng ta cần tuyên truyền đầu tiên chính là nhân dân ta và người dân Trung Quốc ”.

Muốn giải quyết được những vấn đề tương tự, chúng ta phải bằng chính nỗ lực, nội lực của mình và giải quyết với chính nước có vấn đề với Việt Nam, cụ thể ở đây là Trung Quốc. Nói như vậy không có nghĩa là chúng ta đóng cửa.

Chúng ta giải quyết trực tiếp với nước có tranh chấp, không lôi ai vào đây để cùng giải quyết, không nhờ vả ai để tạo lợi thế trong giải quyết vấn đề. Nhưng chúng ta công khai, minh bạch, ví dụ như những phát biểu tại Đối thoại Shangri-La của Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh sẽ làm cho cộng đồng thế giới hiểu được ai đúng, ai sai và họ sẽ phán quyết về mặt lương tâm là lẽ phải thuộc về bên nào.

Tiếp theo, chúng ta giải quyết bằng biện pháp hòa bình, và chúng ta có cơ sở để kiên trì giải pháp hòa bình trên tinh thần tăng cường đoàn kết, hữu nghị, tăng cường sự hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau. Trong thế giới toàn cầu hóa, Trung Quốc cần một hình ảnh tốt đẹp để phát triển quan hệ ngoại giao, kinh tế, xã hội...

Trong không gian phát triển của Trung Quốc, phía nam là hướng tương đối ổn định, khu vực ASEAN là cửa ngõ để Trung Quốc vươn ra xa hơn. Liệu Trung Quốc có thể “cắt” cái cửa này được không, làm cho khu vực này có những quốc gia không bằng lòng với chính sách của Trung Quốc được không?

Chúng ta tin tưởng các nhà lãnh đạo Trung Quốc hiểu được vấn đề này. Trên cơ sở nhận thức như vậy, nhưng giải pháp của chúng ta sẽ mang lại lợi ích cho chúng ta và lợi ích cho chính Trung Quốc, và có thể sẽ được hiện thực hóa trong tương lai, tất nhiên nó sẽ vô cùng lâu dài và khó khăn, nhưng phải kiên trì.

Vấn đề cần thiết nữa là chúng ta phải tăng cường sự tin cậy, hiểu biết lẫn nhau với Trung Quốc. Chúng ta muốn hòa bình, hòa hiếu, chỉ muốn giữ mảnh đất, vùng biển của chúng ta theo điều luật quốc tế quy định, và chúng ta cần giữ được độc lập tự chủ về đường lối.

Khi nói để bảo vệ Tổ quốc thì phải xây dựng nền quốc phòng toàn dân và thế trận chiến tranh nhân dân, trong đó xây dựng tiềm lực quốc phòng là nhiệm vụ trung tâm và là nét đặc trưng. Chúng ta phải tăng cường các hoạt động đánh cá vùng biển xa, kêu gọi hợp tác đầu tư ở vùng biển thuộc chủ quyền Việt Nam, hình thành lực lượng kiểm ngư, phát triển Trường Sa ngày càng tốt lên, giao lưu giữa biển đảo và bờ...

Một điểm nữa là tuyên truyền trong nhân dân. Nhân dân ta rất yêu nước, sẵn sàng làm tất cả để bảo vệ Tổ quốc. Cần tuyên truyền để dân ta hiểu Công ước Luật biển 1982 là thế nào, biển Đông của chúng ta đến đâu, chúng ta phải hành xử thế nào, các nước hành xử ra sao... để mỗi người đều có tinh thần đấu tranh nhưng phải trên cơ sở luật pháp quốc tế, đấu tranh chính xác để các nước tâm phục khẩu phục, chứ không phải chỉ là những lời nói suông. Chúng ta cũng phải tuyên truyền rộng rãi để cộng đồng thế giới biết ai đúng ai sai.

Trở lại câu chuyện tại Đối thoại Shangri-La, trung tướng Nguyễn Chí Vịnh nói:

- Có người hỏi tôi: “Ngài có thất vọng không trước phát biểu của một số nước năm trước rất cứng rắn, năm nay dịu giọng khác hẳn?”. Tôi đáp: “Tôi nhận thấy điều đó, nhưng tôi không thất vọng. Trước hết là vì chúng tôi không đặt cược vào phát biểu của các nước đó. Thứ hai, tôi nghĩ do sự kiện ngày 26-5 mới diễn ra ngay trước thềm hội nghị nên thông tin về vụ việc cũng như hệ lụy của nó chưa được hiểu đầy đủ. Tôi tin một thời gian nữa khi họ hiểu đầy đủ, họ sẽ nhắc lại vấn đề này”.

Trong thế giới mở, toàn cầu hóa hiện nay, khi có xung đột, không nước nào đứng ngoài được. Không nước nào trục lợi được cả, có chăng là trục lợi cục bộ, trục lợi tham lam. Còn nếu muốn tìm kiếm lợi ích thật sự cho đất nước mình một cách chính đáng và lâu dài thì xung đột không đem lại lợi ích cho ai cả.

Trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, chúng ta luôn kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Sức mạnh ấy là sức mạnh chính nghĩa, được thế giới thừa nhận và ngay chính nội bộ, nhân dân đất nước gây hấn với chúng ta cũng đồng tình với chính nghĩa của chúng ta. Đó là quyền lực mềm, trong thế giới ngày nay điều đó vô cùng quan trọng. Quyền lực mềm ấy chi phối mọi hành động từ chính trị, kinh tế tới văn hóa, xã hội...

Điểm cuối cùng là chúng ta cần quan tâm xây dựng quân đội tinh gọn, hiện đại. Không trang bị vũ khí có tính chất tấn công mà chỉ mang tính tự vệ. Không tham gia các liên minh quân sự. Đặc biệt không gây lo ngại cho bất kỳ quốc gia nào về đe dọa sử dụng vũ lực. Vừa rồi chúng ta mua tàu ngầm, máy bay... hoàn toàn là để phòng thủ.

Bộ trưởng Phùng Quang Thanh phát biểu tại Đối thoại Shangri-La nói rằng tàu ngầm của chúng tôi chỉ hoạt động ở vùng biển Việt Nam. Đó là điều rất hiếm, rất đặc sắc Việt Nam.

* Năng lực quân sự hiện nay đã đủ đáp ứng yêu cầu về phòng thủ biển Đông, thưa ông?

- Tôi xin nói ngay với tư cách chuyên gia quân sự, rằng không bao giờ là đủ đối với trang bị quân đội bất kỳ nước nào. Trang bị quốc phòng bao giờ cũng ở tình thế cần phát triển. Chúng ta trang bị vũ khí vừa đủ theo đường lối quân sự Việt Nam, cách đánh của Việt Nam. Tin rằng với sức mạnh tổng hợp như đã nói, chúng ta có thể giành chiến thắng trong mọi cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc.

* Nhưng vấn đề là chúng ta kiểm soát toàn bộ vùng biển thuộc chủ quyền của ta ra sao để có thể phát hiện và ngăn chặn kịp thời sự xâm nhập và xâm nhập rất sâu vào vùng chủ quyền Việt Nam để gây hấn của tàu nước ngoài?

- Việc kiểm soát vùng biển của mọi quốc gia đều vô cùng khó khăn. Chúng ta đang cố gắng kiểm soát tốt nhất vùng biển của mình. Nhưng như sự việc ngày 26-5 vừa qua, việc lưu thông vô hại là quyền của các nước, ta không có quyền ngăn cấm, ngược lại ta còn phải bảo vệ họ. Tàu hải giám Trung Quốc vi phạm là khi bắt đầu lao vào tàu Bình Minh 02 cắt cáp.

* Sự phối hợp giữa các lực lượng như hải quân, cảnh sát biển, biên phòng, kiểm ngư... như thế nào để bảo vệ chủ quyền, bảo vệ an ninh an toàn cho ngư dân?

- Chủ trương của ta trong các va chạm dân sự thì các chủ thể dân sự giải quyết với nhau trên cơ sở giám sát của các cơ quan pháp luật, cơ sở luật pháp quốc tế và nước mình. Quân đội theo dõi, giám sát chặt chẽ không để vụ việc leo thang nhưng không tham gia giải quyết. Như vụ tàu hải giám Trung Quốc cắt cáp tàu Bình Minh 02 vừa rồi, ta không đưa hải quân trở thành chủ thể giải quyết. Khác nhiều nước ở chỗ ấy.

Có người hỏi tôi: sao ngư dân ta bị các nước bắt thì bị phạt tiền, xử nặng nhưng khi ngư dân họ vi phạm pháp luật, chủ quyền của ta, ta không hành xử như thế? Ngư dân các nước cũng là người lao động, là dân nghèo. Lỗi của họ chỉ là phần nhỏ. Lỗi chính là ở người quản lý họ. Nếu vi phạm mình lập biên bản, bắt viết cam kết không tái phạm, nếu tái phạm sẽ xử lý trước pháp luật. Rồi mình cung cấp dầu, nước, lương thực mời họ ra. Cái đó là truyền thống dân tộc mình.

Nếu ngư dân mình vi phạm luật pháp nước khác, mình đồng tình xử lý theo pháp luật, nhưng một điều không chấp nhận được là đối xử vô nhân đạo với ngư dân. Cắt dầu, cắt nước, cắt lương thực, tháo dỡ các phương tiện đi biển, phương tiện thông tin liên lạc... Đó là cách hành xử thô bạo, gây nguy hiểm tính mạng ngư dân. Chúng ta kiên quyết phản đối nhưng ta cũng không lấy hành động tương tự để trả đũa.

* Liệu cách hành xử của Philippines có giá trị tham khảo đối với Việt Nam: lập hồ sơ những vụ việc để đưa lên Liên Hiệp Quốc?

- Ở đây có hai câu hỏi: câu hỏi một, Philippines đưa hải quân, không quân ra, sao Việt Nam không đưa ra? Tôi nói quan trọng nhất là chúng ta đạt được mục đích, đó là mời tàu vi phạm luật pháp về. Tàu Bình Minh 02 được bảo vệ để tiếp tục khảo sát thăm dò chính ở vùng biển ấy. Và chúng ta phản ứng ở các kênh với Trung Quốc và công khai minh bạch với các nước khác để thấy đúng sai. Như vậy mục đích đạt được, không cần huy động lực lượng quân sự. Cái đó mới lâu bền, thể hiện sự kiềm chế của chúng ta, quyết tâm không để xảy ra xung đột.

Câu hỏi hai, xây dựng hồ sơ đưa lên tòa án quốc tế cũng là một lựa chọn. Nhưng xét cho cùng, Việt Nam và Trung Quốc vẫn phải giải quyết với nhau. Tòa án quốc tế đem lại chính nghĩa về mặt lương tâm, tiếng nói của cộng đồng thế giới để Trung Quốc tự nhìn nhận lại mình. Còn về thực địa, không ai “sờ” vào được. Mình không cự tuyệt lựa chọn này. Nhưng chủ trương của ta hiện nay, theo tôi là đúng đắn, chưa cần thiết tới sự lựa chọn ấy.

* Ông đánh giá thế nào về khả năng ra đời COC (Bộ quy tắc ứng xử tại biển Đông)?

- COC là văn kiện cần thiết cho ASEAN và Trung Quốc, được nhiều nước quan tâm để cải thiện mối quan hệ trên biển Đông. ASEAN cam kết thực hiện tốt DOC (Tuyên bố về ứng xử của các bên trên biển Đông) và tiến tới COC. Như Indonesia tuyên bố cố gắng cuối năm nay có được COC. Thủ tướng Campuchia Hun Sen mong muốn năm sau kỷ niệm mười năm DOC tại Phnom Penh sẽ ký luôn COC. Hội nghị bộ trưởng quốc phòng các nước ASEAN.5 cũng khẳng định cần khẩn trương xây dựng COC.

Tuy nhiên còn nhiều khó khăn. ASEAN và Trung Quốc chưa xác định được lộ trình tiến đến COC, còn tùy thuộc vào sự thống nhất trong ASEAN và sự đồng tình tham gia của Trung Quốc. Nhưng trước hết, việc tạo được sự đồng thuận trong ASEAN về cố gắng xây dựng COC cũng là sức mạnh để đấu tranh.

* Đã có người ví ASEAN cần như bó đũa?

- Chúng ta không thể trông chờ ASEAN đồng thuận trong mọi vấn đề. Sự can dự của các nước vào ASEAN rất khác nhau. ASEAN chọn những vấn đề chung nhất để tạo sự đồng thuận và rất may mắn trong đó có vấn đề biển Đông, vấn đề hòa bình ổn định, DOC...

Tôi rất mong có COC nhưng không coi COC là trang bị pháp lý tuyệt đối, đầy đủ để giải quyết mọi vấn đề ở biển Đông. Cái mà chúng ta chờ đợi là hành động của chính mình, giải quyết trực tiếp với những quốc gia có khác biệt, tranh chấp với chúng ta như đã đề cập. Không thể trông chờ vào một nước nào đó, một diễn đàn đa phương nào đó bởi những yếu tố này chỉ là hỗ trợ. Ngay cả Công ước của Liên Hiệp Quốc về Luật biển họ còn coi thường thì cũng không lấy gì đảm bảo COC giải quyết được vấn đề.

* Việc đầu tư nghiên cứu biển Đông, xây dựng Luật biển có ý nghĩa như thế nào, thưa ông?

- Chúng ta phải luật hóa, dân sự hóa, kinh tế hóa, xã hội hóa, quốc tế hóa các hoạt động kinh tế xã hội trên vùng biển của chúng ta. Cái đó là biện pháp cơ bản, lâu dài khẳng định chủ quyền của chúng ta.

* Xin cảm ơn thứ trưởng.

[Vitinfo news]


Thứ Ba, 7 tháng 6, 2011

>> "Đừng thách thức Việt Nam" !



Nếu thế lực nào muốn làm “phép thử” với Việt Nam bằng việc trắng trợn xâm phạm lãnh hải, táo tợn thực hiện các hành động phá hoại thì họ đã nhận được kết quả rất rõ ràng: Sự bùng nổ dữ dội của lòng yêu nước. Rõ ràng rằng mũi tên đó đã co rúm, oằn cong khi chạm phải lá chắn thép là lòng tự tôn dân tộc và tình yêu nước của người Việt Nam.

Ngày 26/5/2011, 3 tàu Hải giám của Trung Quốc ngang nhiên tiến sâu vào vùng đặc quyền kinh tế, lô 148 Thềm lục địa Việt Nam, cắt đứt cáp thăm dò của tàu Bình Minh 02. Hành động này được ví như một "phép thử" các bên có liên quan trong vấn đề biển Đông, là mũi tên nhắm vào nhiều đích. Thế nhưng, rõ ràng rằng mũi tên đó đã co rúm, oằn cong khi chạm phải lá chắn thép là lòng tự tôn dân tộc và tình yêu nước của người Việt Nam.

Yêu hòa bình nhưng không nhu nhược!

Toan tính đến từ những kẻ chủ mưu gây bất ổn trên biển Đông vô tình hay hữu ý đã thực hiện cuộc sát hạch lòng yêu nước của người dân đất Việt. Và kết quả là chỉ trong một thời gian ngắn, chủ nghĩa yêu nước, ý thức bảo vệ độc lập dân tộc, toàn vẹn lãnh thổ lan tỏa, cộng hưởng và thăng hoa một cách mạnh mẽ.



Vị trí tàu Hải giám Trung Quốc mang số hiệu 84 vi phạm vùng biển Việt Nam.



Tàu hải giám Trung Quốc mang số hiệu 84 vi phạm vùng biển của Việt Nam.


Điều này có thể được ghi nhận, kiểm chứng rõ ràng nhất trong hàng vạn, hàng triệu lời bình luận của các độc giả báo điện tử, các thành viên mạng xã hội tiếng Việt… trong những ngày qua ủng hộ phản ứng cương quyết, đanh thép của Bộ Ngoại giao Việt Nam, nhiệt tình đề xuất các giải pháp củng cố an ninh quốc phòng, thể hiện tinh thần sẵn sàng đóng góp, hy sinh cho công cuộc bảo vệ Tổ quốc. Dân tộc Việt Nam yêu hòa bình nhưng không nhu nhược!

Trong số đó, có em học sinh dù đang miệt mài ôn tập chuẩn bị cho kỳ thi tốt nghiệp và đại học vẫn dành thời gian theo dõi, cập nhật thông tin về chủ quyền của đất nước;

Có cán bộ trong ngành tư pháp đề nghị Quốc hội ban hành Luật Bảo vệ Tổ quốc, bởi theo ông, Việt Nam đã có Luật Công an Nhân dân, Luật Quân đội Nhân dân, Luật dân quân tự vệ... quy định rõ về quốc phòng, trật tự trị an, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc... nhưng chưa hội đủ các quy định về người Việt Nam trong việc bảo vệ Tổ quốc.

Một đạo luật về Bảo vệ Tổ quốc chính là đạo luật của lòng yêu nước, là cơ sở pháp lý củng cố vững chắc khối đại đoàn kết toàn dân quanh Đảng, Nhà nước trong công cuộc bảo vệ độc lập dân tộc, toàn vẹn lãnh thổ mà biết bao thế hệ cha ông đã hy sinh xương máu vun đắp, gìn giữ.

Nhiều người kêu gọi lập “Quỹ quốc phòng” hay “Quỹ Bảo vệ Tổ quốc” tương tự như “Tuần lễ vàng” từng có trong lịch sử kháng chiến. Sự đóng góp này sẽ giúp quân đội tiến thẳng lên hiện đại, đầu tư cho ngành công nghiệp quốc phòng, bởi muốn giữ vững nền độc lập, trước hết phải tự chủ sức mạnh quân sự. Họ tuyên bố, sẵn sàng đóng góp tháng lương, thậm chí nhiều hơn nữa cho những quỹ này.



Trung tướng Nguyễn Chí Vịnh: "....Hòa bình của chúng ta không phải là cầu hòa, Việt Nam không chấp nhận hòa bình lệ thuộc. Khi ta đã làm tất cả những gì có thể để gìn giữ hòa bình mà nước khác cứ muốn xâm hại lợi ích của đất nước ta thì lúc đó, thế của ta sẽ như cánh cung kéo hết, đã buông dây cung thì đó là sức mạnh vô cùng to lớn của cả dân tộc để bảo vệ Tổ quốc mình".


Cũng trong dòng suy nghĩ xây dựng và củng cố tiềm lực quốc phòng, nhiều ý kiến đề xuất Việt Nam phải tự chủ hơn nữa trong việc các hệ thống phòng thủ bờ biển, tự lực phát triển các phương tiện bay không người lái (UAV) làm nhiệm vụ tuần tra biển, phát hiện từ xa và thu thập bằng chứng về các cuộc xâm nhập trái phép… bởi đơn giản là “Không có quân đội mạnh thì không được kính trọng”.

Bằng “trái tim nóng và cái đầu lạnh”, nhiều người cũng cho rằng, bên cạnh việc bày tỏ thái độ kiên quyết, cứng rắn trước các hành động ngang ngược xâm phạm chủ quyền, Việt Nam cần phải có những tính toán dài lâu, phát triển kinh tế làm nền tảng vững chắc, đặc biệt phải khôn khéo tránh sự khiêu khích và các “bẫy chiến lược”, tận dụng được sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế để bảo vệ đất nước.

Không chỉ bằng lời nói

Nếu ai cho rằng “mạng chỉ là ảo” và những cảm xúc này chỉ là những bộc phát tức thời, na ná cách thể hiện niềm tự hào dân tộc mỗi khi đội tuyển bóng đá quốc gia Việt Nam chiến thắng hay là thứ "phản xạ bản năng" của một dân tộc có nền độc bị đe dọa hàng ngàn năm, hãy nhớ lại những ngày cuối năm 2007.

Sau sự khiêu khích mang tên “Tam Sa”, một loạt các phong trào thanh niên được thực hiện, duy trì đến nay như một kênh tuyên truyền cho chủ quyền biển đảo, song hành cùng các hoạt động chính thức vốn có trước đó của Nhà nước.

Điển hình, các bạn trẻ trên diễn đàn Hoangsa.org đã quyên góp, ủng hộ, hỗ trợ ngư dân Lý Sơn tiếp tục truyền thống bám biển bao đời của ông cha.

Họ lặn lội tới các miền xa trên khắp đất nước, tìm đến gia đình của 74 liệt sĩ, những người đã kết thành “vòng tròn bất tử” ở Trường Sa năm 1988, để thắp nén hương tưởng nhớ, để nghe, ghi chép rồi kể lại cho bạn bè câu chuyện đậm chất sử thi về những chiến sĩ Quân đội Nhân dân Việt Nam “thà hy sinh chứ không chịu mất đảo... để cho máu của mình tô thắm lá cờ truyền thống của Quân chủng hải quân anh hùng”.


Nhóm tình nguyện Hoangsa.org tặng quà cho gia đình liệt sĩ Nguyễn Thanh Hải, hy sinh năm 1988 tại Trường Sa.


Họ còn là cầu nối giữa các học giả, các nhà nghiên cứu về biển Đông từ góc độ lịch sử, luật pháp quốc tế tới các thành viên của diễn đàn, giúp cho những ai quan tâm tới vấn đề chủ quyền có được những thông tin chính thống và đáng tin cậy nhất.

Cùng làm công việc tương tự, một nhóm các bạn trẻ lấy tên COC Radio đã thu âm và phát trên internet các bài viết có giá trị học thuật về mặt lịch sử và pháp lý liên quan đến biển Đông, của các học giả hàng đầu trong lĩnh vực như Nguyễn Nhã, Nguyễn Đình Đầu, Từ Đặng Minh Thu, Vũ Quang Việt, Lê Minh Nghĩa... tới rộng rãi cư dân mạng.


Trường Sa, Hoàng Sa là của Việt Nam

Cũng những ngày cuối năm 2007 ấy, trên internet xuất hiện một bức tranh cổ động với đường nét liền mạch, tách bạch, bố cục sắp xếp có liệt kê vẽ một người người lính hải quân cầm chắc tay súng, canh cột mốc chủ quyền ở Trường Sa, với nền là toàn bộ hình ảnh 2 quần đảo tiền tiêu của Tổ quốc kèm tọa độ địa lý, dưới cùng là dòng chữ Việt – Anh: “Trường Sa, Hoàng Sa là của Việt Nam”, như một lời tuyên bố chắc nịch với thế giới về chủ quyền không thể chối cãi của Tổ quốc.

Hướng nhìn của người lính trong hình không chính diện tạo không gian cùng hướng đến, mang lại cảm giác đồng thuận, có tính cổ vũ mà không kích động. Do đó, ngay từ khi mới xuất hiện trên internet, hình ảnh đã lan truyền mạnh mẽ trên các blog, diễn đàn và mạng xã hội.

Tâm sự với Đất Việt, tác giả bức tranh cho biết, khi cái tên “Tam Sa” được đưa ra để “khiêu khích” và “thăm dò”, trong khi đó, cộng đồng mạng chưa có nhiều hình ảnh mang tính biểu tượng để đáp trả lại (những bức ảnh tìm thấy thường có dung lượng nhỏ, chất lượng thấp). Do đó, người họa sĩ trẻ quyết tâm thực hiện một bức hình để giúp cộng đồng mạng bày tỏ lòng tự tôn dân tộc, khẳng định chủ quyền của Việt Nam.

Từ tấm hình gốc vỏn vẹn 134x190 điểm ảnh (dung lượng 6,81KB), tác giả đã sắp xếp, chọn bố cục phù hợp và hoàn thành tác phẩm bằng bàn vẽ điện tử (wacom) trên nền Photoshop sau vài giờ đồng hồ. Tới nay, hình ảnh này nhiều lần xuất hiện trên các trang mạng, báo chí trong và ngoài nước, được in trên nhiều bìa sách về biển, đảo…





Bức ảnh gốc người lính hải quân bên cột chủ quyền và bức tranh phác thảo xuất hiện trên bìa sách, banner của các báo điện tử, trang tin, diễn đàn mạng.


"Đừng thách thức Việt Nam"!

Khi có dịp tới Trường Sa, phóng viên Đất Việt đã cố gắng chuyển lời chào của người họa sĩ tới người lính trong bức ảnh nhỏ được phóng tác, bởi ảnh chụp đã lâu, còn nhiệm vụ của người lính thì thường xuyên thay đổi.

Khi được hỏi về vấn đề này, Thượng tá Phạm Quang Oánh, trợ lý tuyên huấn Quân chủng Hải quân trả lời: “Chuyện đó không quá quan trọng, là người lính họ sẽ thực hiện nhiệm vụ của mình bằng mọi giá. Còn hình ảnh, miễn là người Việt Nam, khoác lên mình bộ quần áo Bộ đội Cụ Hồ, tay cầm súng đứng bên cột chủ quyền đều tạo ra nguồn cảm hứng cho lòng yêu nước cho tất cả mọi người”.

Có lẽ vậy, bởi tình yêu nước, đâu chỉ là một thứ phản xạ bản năng, đây là thứ tình cảm thường trực chảy trong huyết quản, là sợi dây liên kết tinh thần bền chắc, mà mỗi người dân Việt Nam đều có thể cảm nhận, chia sẻ. Còn đối với các thế lực khiêu khích, đây là thông điệp rất rõ ràng: "Đừng thách thức Việt Nam"!
[BDV news]


>> Trung Quốc khó thuyết phục láng giềng



Tại Đối thoại Shangri-la, Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc Lương Quang Liệt nói nhiều đến hợp tác và trấn an các nước láng giềng, nhưng các nước này vẫn phải nhắc lại yêu cầu Bắc Kinh 'biến lời nói thành việc làm" cụ thể.


Tạp chí Foreign Policy bình luận về cách tiếp cận của Trung Quốc đối với tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông tại hội nghị an ninh châu Á vừa rồi ở Singapore, như sau:

Lần đầu tiên dẫn một phái đoàn lớn đến Singapore, ông Lương Quang Liệt muốn khẳng định với cộng đồng quốc tế về một nước Trung Quốc đang mạnh lên nhưng ôn hòa, không đe dọa ai, và muốn đóng một vai trò tích cực hơn trong môi trường an ninh ở Đông Nam Á. Nhưng những câu từ to tát cộng với việc phủ nhận toàn bộ các hành động trong thời gian gần đây của Trung Quốc đối với các quốc gia nhỏ láng giềng, khiến các đại biểu, các chuyên gia và quan chức chính phủ cảm thấy không thuyết phục.

Ông Lương có bài phát biểu dài 45 phút, nói về các chính sách của Quân Giải phóng PLA đối với các vấn đề khu vực, trong đó có biển Đông; công cuộc hiện đại hóa quân đội Trung Quốc; hợp tác an ninh trong vùng. Ông cũng nhận và trả lời câu hỏi của báo chí, tỏ ra rất vui mừng trước mối quan hệ giữa Trung Quốc với các nước láng giềng.

"Hơn ai hết, Trung Quốc muốn có ổn định và hòa bình trong khu vực. Chúng tôi phản đối bất kỳ hành động nào có thể dẫn đến bất ổn khu vực hoặc làm giảm lòng tin giữa các nước láng giềng. Trung Quốc theo đuổi chính sách xây dựng tình hữu nghị và đối tác với các nước láng giềng", ông Lương nói.


Một tàu ngầm của Trung Quốc gần căn cứ tàu ngầm ở đảo Hải Nam. Vị trí của căn cứ tàu ngầm này cho phép các chiến hạm Trung Quốc nhanh chóng triển khai - trong vòng 20 phút - ra Biển Đông, nơi có các tuyến đường hàng hải bận rộn hạng nhất thế giới và là vùng biển rất giàu tài nguyên. Ảnh: FP.

Tuy thế ông Lương không công nhận bất kỳ hành động nào trong thời gian gần đây mà Trung Quốc đã thực hiện đối với các nước Đông Nam Á, khiến cử tọa gồm các quan chức quân sự và chuyên gia cao cấp đến từ 35 đoàn thất vọng. Hai bộ trưởng quốc phòng Việt Nam và Philippines, phát biểu ngay sau ông Lương, đã đưa ra những phản bác công khai và sắc bén đối với thái độ của Trung Quốc.

"Chúng tôi luôn luôn trông đợi Trung Quốc tôn trọng các chính sách mà họ đã công bố với thế giới, chúng tôi mong rằng những lời tuyên bố đó sẽ được biến thành sự thực", Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam Phùng Quang Thanh nói. Ông đề cập việc tàu của Việt Nam hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam bị tàu Trung Quốc cắt cáp.

Bộ trưởng Quốc phòng Philippines Voltaire Tuvera Gazmin thậm chí còn mạnh mẽ hơn nhiều, và kêu gọi sự hiện diện quân sự mạnh hơn của Mỹ trong khu vực. Gazmin tố cáo Trung Quốc nhiều lần có hành động đe dọa các thuyền đánh cá của Philippines ở gần các đảo mà Manila tuyên bố chủ quyền ở Trường Sa.

"Những hành động đó gây bất an không chỉ cho chính phủ, mà còn quấy rối những người dân thường, những người vốn phải dựa vào môi trường biển để mưu sinh", Gazmin nói.

Trung Quốc đang cố làm dịu hình ảnh của mình ở Đông Nam Á, sau sự thoái trào trong mối quan hệ gây ra bởi lập trường cứng rắn của Bắc Kinh đối với các vấn đề khu vực, chẳng hạn như các tuyên bố "đường lưỡi bò" hay "lợi ích cốt lõi".

"Đó là sự lấy lòng. Mục tiêu của ông Lương là tránh tấn công hay chiến đấu với bất cứ ai và cố xóa đi những dấu vết của thái độ mạnh bạo trong hai năm qua. Họ đã nhận ra rằng cách thức đó không có lợi cho họ", một đại biểu Mỹ nói.

Tuy nhiên các hành động trên thực địa lại khiến người ta khó tin rằng Trung Quốc đang dành sự quan tâm hoàn toàn cho việc thương thảo tìm giải pháp.

"Tôi không cho là bài phát biểu đó trấn an được ai. Nó không giải đáp được những câu hỏi và mối quan ngại mà các nước láng giềng đang đặt ra trước thái độ của Trung Quốc", đại biểu nói trên bình luận.

Trong Đối thoại lần này, cả Mỹ và Trung Quốc dùng những lời lẽ nồng ấm, không đả động đến chuyện gây bất đồng đôi bên là vấn đề Đài Loan. Hai thế lực quân sự lớn nhất ở châu Á Thái bình dương đã hết sức tránh không để mếch lòng nhau.

"Thông điệp của ông Lương nhấn mạnh quyết tâm đi theo con đường phát triển hòa bình và sẵn sàng ủng hộ an ninh khu vực", Bonnie Glaser, nghiên cứu viên cao cấp của Trung tâm nghiên cứu chiến lược quốc tế nhận xét.

"Tất cả những lời to tát trong bài phát biểu của ông Lương là nhằm trấn an khu vực", một đại biểu khác của Mỹ nói. "Nhưng, theo dõi việc hỏi đáp, thì thấy có một số câu hỏi không được giải đáp và điều đó gây quan ngại, nó cho thấy khoảng cách giữa lời nói với việc làm trong thái độ của Trung Quốc ở biển Nam Trung Hoa (Biển Đông) và quá trình hiện đại hóa quân đội của họ".

[BDV news]


>> Việt Nam minh bạch với thế giới các hợp đồng quốc phòng



Việt Nam xác nhận mua 6 tàu ngầm Kilo cùng với các máy bay chiến đấu và hệ thống tên lửa phòng không mới.

Tại Đối thoại Shangri-la 2011, Bộ trưởng BQP Việt Nam Phùng Quang Thanh đã chính thức công bố xác nhận việc mua 6 tàu ngầm tấn công điện-diesel lớp Kilo cùng với một số máy bay chiến đấu Su-30 và hệ thống tên lửa phòng không mới.


Hợp đồng mua 6 tàu ngầm Kilo đã được Bộ trưởng Phùng Quang Thanh công khai xác nhận tại Đối thoại Shangri-la 2011. Ảnh minh họa


Cụ thể, trong cuộc họp báo sau khi kết thúc Diễn đàn an ninh châu Á, Đối thoại Shangri-la 2011, Thứ trưởng BQP Việt Nam, Trung tướng Nguyễn Chí Vịnh cũng công khai xác nhận thương vụ mua 6 tàu ngầm tấn công điện-diesel Kilo cùng với một số máy bay chiến đấu và hệ thống tên lửa phòng không mới.

Trước một số ý kiến cho rằng, chương trình mua sắm vũ khí lần này của Việt Nam có liên quan đến những sự kiện gần đây trên biển Đông.

Thứ trưởng Nguyễn Chí Vịnh nhấn mạnh rằng, chương trình mua sắm vũ khí này là một phần trong chương trình mua sắm vũ khí nhằm tăng cường năng lực quốc phòng của Việt Nam. Đó là nhu cầu chính đáng nhằm hiện đại hóa quân đội Việt Nam, và không liên quan gì đến các sự cố trên biển Đông gần đây.

Sự cố gần đây trên biển Đông là một “xung đột dân sự” và đó không phải là một vấn đề quân sự. Vấn đề này sẽ được các cơ quan thi hành luật pháp hàng hải Việt Nam chịu trách nhiệm giải quyết.

Những gì đã xảy ra phải được xữ lý trong nguyên tắc của luật pháp quốc tế bằng các biện pháp hòa bình. Tuy nhiên, “Việt Nam sẽ sử dụng tất cả các phương tiện để bảo vệ chủ quyền quốc gia”.

Các nhà phân tích thế giới nhận định, thương vụ mua bán này có giá trị hơn 3 tỷ USD, đây được xem là thương vụ mua bán vũ khí lớn nhất từ trước đến nay của Việt Nam.
[BDV news]


>> Trung Quốc trấn an hay dằn mặt ASEAN?



Trung Quốc cam kết hòa bình và ổn định trong khu vực thông qua hợp tác an ninh, nhưng không nên tham gia vào bất kỳ liên minh nhằm chống lại bên thứ 3.

Trấn an hay dằn mặt?

Trong một bài phát biểu dài 45 phút tại diễn đàn an ninh châu Á, đối thoại Shangri-la 2011, Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc Lương Quang Liệt nhắc đi nhắc lại điệp khúc “Sự phát triển của quân đội Trung Quốc không phải là mối đe dọa với các nước trong khu vực”.

Hãng tin Channel News Asia dẫn lời bài phát biểu của Bộ trưởng Lương Quang Liệt, “Trung Quốc ủng hộ dân chủ trong quan hệ quốc tế và tôn trọng lợi ích cốt lõi của nhau, đó là một mối quan tâm lớn để duy trì hòa bình và ổn định trong khu vực."

Theo đó, Sự lớn mạnh của quân đội Trung Quốc đơn giãn là để đảm bảo an ninh quốc phòng của Trung Quốc. "Trung Quốc tuân thủ một chính sách quốc phòng là tự vệ trong tự nhiên. Tôi biết nhiều người đang có xu hướng tin rằng sự tăng trưởng kinh tế, cùng với sự phát triển của quân đội Trung Quốc sẽ trở thành một mối đe dọa quân sự. Tôi muốn nhấn mạnh rằng, đó không phải là lựa chọn của chúng tôi, Trung Quốc sẽ không bao giờ tìm kiếm quyền bá chủ hay đe dọa bất cứ nước nào”, Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc Lương Quang Liệt nói.



Sự phát triển của quân đội đặc biệt là hải quân Trung Quốc cùng với những gì họ đã và đang làm khiến các nước trong khu vực không khỏi lo lắng.

Trong bài phát biểu nhằm trấn an các nước trong khu vực trước những phát biểu cho rằng, Trung Quốc đang trở thành một “kẻ bắt nạt trên biển Đông”. Bộ trưởng Lương Quang Liệt không quên nhấn mạnh một điều rằng: “Các nước trong khu vực không nên tham gia vào bất cứ liên minh nào nhằm chống lại một bên thứ 3 nào đó”. Tuy nhiên, Bộ trưởng Lương Quang Liệt không đi vào chi tiết của vấn đề này.

Trước đó, trong bài phát biểu của mình tại Đối thoại Shangri-la 2011, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Robert Gates đã tái khẳng định cam kết hiện diện quân sự lâu dài tại châu Á-Thái Bình Dương. Như vậy có thể thấy rằng, bài phát biểu của Bộ trưởng Lương Quang Liệt là một thông điệp nhằm cảnh báo các nước trong khu vực đối với cam kết của Washington.

Sự hiện diện quân sự của Mỹ tại châu Á, đặc biệt là ASEAN là một trở ngại rất lớn đối với chiến lược hướng ra biển lớn của Trung Quốc.

Bài phát biểu của Bộ trưởng Lương Quang Liệt, một mặt trấn an các nước trong khu vực trước những diễn biến phức tạp trên biển Đông trước thềm đối thoại Shangri-la nhưng cũng không ngoài mục đích cảnh báo các nước châu Á, đặc biệt là ASEAN không nên đi quá xa trong mối quan hệ với Washington.

Nói một đường làm một nẻo

Dù lãnh đạo cao cấp của Trung Quốc luôn nhấn mạnh rằng, “Quân đội Trung Quốc không phải là mối đe dọa với các nước trong khu vực. Tuy nhiên, giữa tuyên bố của lãnh đạo cấp cao và hành động cấp dưới có một khoảng cách rất lớn.

Ngay trước thềm đối thoại Shangri-la, Trung Quốc liên tiếp có những hành động "chơi rắn" trên biển Đông.

Ngày 26/5/2011 tàu hải giám của Trung Quốc ngang nhiên xâm phạm lãnh hải Việt Nam, cắt cáp thăm dò của tàu thăm dò dầu khí Bình Minh-02 thuộc Tập đoàn dầu khí quốc gia Việt Nam. Tiếp đó, nổ súng uy hiếp ngư dân Việt Nam đang đánh bắt trên vùng biển thuộc quân đảo Trường Sa của Việt Nam.

Tàu hải quân Trung Quốc cũng đã có những hành động uy hiếp tàu đánh cá của ngư dân và tàu thăm dò dầu khí của Phillippine.

Nếu quân đội Trung Quốc không phải là mối đe dọa với các nước trong khu vực. Vậy đâu là lời lý giải cho những hành động ngang ngược này?




Tàu hải giám Trung Quốc xâm nhập lãnh hải Việt Nam, vi phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam.

Trong bài phát biểu của mình, Bộ trưởng Lương Quang Liệt nhấn mạnh đến vấn đề "Xây dựng hòa bình và ổn định trong khu vực thông qua sự hợp tác và tin tưởng lẫn nhau". Nhưng với những gì mà lực lượng hải giám và Hải quân Trung Quốc đã và đang làm thì đâu là cơ sở để xây dựng lòng tin lẫn nhau giữa Trung Quốc và các nước trong khu vực, đặc biệt là các nước đang có tranh chấp trực tiếp về chủ quyền biển đảo?

Theo toàn văn bài phát biểu của Bộ trưởng Lương Quang Liệt được đăng tải trên trang Web của IISS có đoạn như sau: "Chúng tôi phản đối bất kỳ hành động có thể dẫn đến bất ổn trong khu vực". Nhưng chính những hành động của Trung Quốc đang tạo ra những nguy cơ tiềm ẩn có thể dẫn đến bất ổn trong khu vực.

Phía Trung Quốc cho rằng, hành động của tàu hải quân và tàu hải giám nước này là để thực thi pháp luật trên vùng biển thuộc quyền tài phán của Trung Quốc. Điều nghịch lý là Trung Quốc không thể chứng minh được tính hợp pháp của đường lưỡi bò chiếm đến 80% diện tích biển Đông.

Hành động không đi đôi với lời nói, Trung Quốc đang dần làm nản lòng các nước ASEAN, đặc biệt là các nước có tranh chấp về chủ quyền biển đảo, về những tuyên bố của mình.

Tại đối thoại Shangri-la 2011, các nước ASEAN một lần nữa nhắc lại sự cần thiết phải tôn trọng các Tuyên bố về cách ứng xữ trên biển Đông DOC mà ASEAN đã ký kết với Trung Quốc năm 2002. Sự quan trọng của việc ký kết bộ quy tắc ứng xử trên biển Đông COC để các tranh chấp không lâm vào ngõ cụt, tránh nguy cơ xung đột. Tuy nhiên, Trung Quốc vẫn “im lặng” với COC.

Các nước ASEAN đã đạt được sự nhất trí, cố gắng sẽ đạt được sự ký kết Bộ quy tắc ứng xử trên biển Đông COC vào năm 2012, nhân dịp kỷ niệm 10 năm ngày ký kết Tuyên bố ứng xử trên biển Đông DOC giữa ASEAN và Trung Quốc.

Việc COC có được ký kết vào năm 2012 hay không phụ thuộc rất lớn vào động thái của Trung Quốc, tuy nhiên theo nhìn nhận của một số chuyên gia nghiên cứu về biển Đông, lộ trình này rất khó đạt được.


[BDV news]


Copyright 2012 Tin Tức Quân Sự - Blog tin tức Quân Sự Việt Nam
 
Lên đầu trang
Xuống cuối trang