Tin Quân Sự - Blog tin tức Quân sự Việt Nam: Hải quân Singapore

Paracel Islands & Spratly Islands Belong to Viet Nam !

Quần Đảo Hoàng Sa - Quần Đảo Trường Sa Thuộc Về Việt Nam !

Hiển thị các bài đăng có nhãn Hải quân Singapore. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Hải quân Singapore. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 8 tháng 5, 2012

>> Quân đội Singapore: hiện đại và thách thức

Cùng với sự lớn mạnh về kinh tế, Singapore đang chứng tỏ vị thế không hề kém cạnh trong sân chơi quốc phòng khu vực với nhiều thương vụ lớn gần đây. 



http://nghiadx.blogspot.com
Mức chi quốc phòng trên đầu người của Singapore chỉ kém Israel, đối tác chiến lược số 1 của đảo quốc này.

Ryo Hinata-Yamaguchi, nhà phân tích anh ninh đến từ Nhật Bản đã có bài viết bình luận về Quân đội Singapore, đăng tải trên The Diplomat.

Dưới đây là nội dung bài viết:

Hiện đại hóa

Đầu tháng 4/2012, đảo quốc sư tử này đã chính thức khởi động hệ thống chỉ huy, điều khiển, truyền tin, máy tính và tình báo tích hợp (hệ thống C4I), đặt dấu mốc quan trọng trong chương trình hiện đại hóa quân đội mang tên “Dự án Lực lượng Vũ trang Singapore thế hệ 3”.

Với bước tiến này, Singapore tiếp tục khẳng định lực lượng vũ trang nước mình là tiên tiến và công nghệ cao nhất trong số các nước ở khu vực Đông Nam Á.

Ngân sách quốc phòng của Singapore năm 2011 là 9,6 tỷ USD, chiếm khoảng 26% ngân sách chính phủ và bằng 5% GDP.

Nhiều nhà phân tích tính toán, với số dân chỉ khoảng 5 triệu người, quốc gia này chi trả ngân sách quốc phòng trên mỗi đầu người hơn bất kỳ quốc gia nào, ngoại trừ Israel.

Quốc phòng luôn là ưu tiên hàng đầu kể từ khi Singapore giành độc lập vào năm 1965. Khi đó, Thủ tướng Lý Quang Diệu, người khai sinh ra đất nước đã viết trong cuốn sách của mình với tựa đề “Những sự thật khó khăn” rằng: “Không có nền quốc phòng mạnh mẽ thì sẽ không có Singapore, thay vào đó, Singapore chỉ trở thanh một vệ tinh bị hăm dọa bởi những người hàng xóm”.

Singapore có quan hệ quốc phòng gần gũi với Israel. Nó giải thích vì sao những công ty quốc phòng Israel là lựa chọn trong các thương vụ quốc phòng chủ yếu của nước này, ví dụ như những máy bay tiếp dầu trên không và các máy bay chống tàu ngầm cánh cố định.

Bên cạnh dự án C4I, Bộ Quốc Phòng nước này còn tiến hành nhiều thương vụ mua bán khác, đặc biệt là tăng cường khả năng đổ bộ và đột kích chính xác.

Các hợp đồng mua bán với các đối tác nước ngoài là sự cải tiến toàn diện cho mọi lực lượng: lục quân, hải quân và không quân. Một số cái tên nổi bật như tàu đổ bộ có sân đỗ trực thăng (LPDS), các tàu khu trục tàng hình lớp Formidable, chiến đấu cơ đa nhiệm F-15SG và F-16D; Phương tiện chiến đấu bộ binh Bionix II và máy bay cảnh báo sớm trên không (AEW) Gulfstream 550.

Hồi cuối năm 2010, Bộ trưởng Quốc phòng Eng Hen còn tuyên bố, Singapore đang có tính khả năng mua cả chiến đấu cơ F-35.

Trở ngại

Dù có cấu trúc lực lượng khá ấn tượng, vẫn còn 2 vấn đề lớn đối với lực lượng vũ trang của Singapore ở mức chiến lược và chiến thuật.

Thứ nhất, các kế hoạch quốc phòng của nước này thường dựa nhiều trên kịch bản thay vì các mối đe dọa thực tế. Trong khi đó, nước này có có những mối quan hệ bất ổn với hai láng giềng là Malaysia và Indonesia.

Hơn nữa, những quan tâm an ninh của đảo quốc này quá rộng. Ví dụ, Singapore gửi lực lượng tham gia vào Lực lượng Đặc nhiệm Kết hợp 115 nhằm chống cướp biển trên Vịnh Aden.

Nhược điểm của việc tham gia vào quá nhiều vai là, quân đội sẽ phải xem xét quá nhiều kịch bản (trong khi nhiều kịch bản có thể dần trở thành một giả thuyết nguy cơ thay vì xung đột thật sự). Khi đó, năng lực của Singapore bị kéo dãn quá mức.


http://nghiadx.blogspot.com
Tham gia vào nhiều nhiệm vụ, lực lượng của Singapore sẽ bị kéo dãn về năng lực cũng như trọng tâm an ninh.


Trở ngại thứ hai, do thiếu chiều sâu chiến lược, lực lượng vũ trang nước này luôn phải duy trì ở mức độ sẵn sàng cho hoạt động rất cao.

Lợi ích của việc này là tính kỷ luật cho quân đội, sẵn sàng ứng phó trong tình thế nguy cấp chỉ với thời gian ngắn.

Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra là, nước này có khả năng đầy đủ để ngăn chặn một mối đe dọa không? Nếu không, Singapore có đủ sức chịu đựng để duy trì lực lượng của mình trong tình trạng dự phòng kéo dài như thế nào.

Trong cả hai trở ngại này, Singapore không có một lựa chọn giải quyết vẹn đôi đường, xuất phát từ những đặc điểm địa chính trị tự nhiên.

Giải pháp

Do đó, trước mắt Singapore cần thoát khỏi sự loay hoay tìm kiếm, phát triển những năng lực mà tập trung sử dụng "năng lực quân sự” sẵn có.

Nếu không có sự cân bằng thích hợp, những kế hoạch quốc phòng của nước này sẽ trượt vào bẫy “kế hoạch dựa trên công nghệ” - điều chỉ đem lại những gánh nặng kinh tế và tăng nguy cơ tạo ra những bất ổn chiến lược về sau.

Điều này không có nghĩa Singapore cần một cuộc cải tổ trên quy mô rộng tất cả kế hoạch quốc phòng. Thay vào đó, nước này nên tập trung và việc tinh chỉnh và cân bằng những đổi mới công nghệ trong lực lượng vũ trang với những yêu cầu chiến lược, thay vì chỉ quá chú trọng vào công nghệ.

Ví dụ, khi hệ thống C4I đưa vào hoạt động, lực lượng vũ trang nên hoàn chỉnh các quy trình và phương thức làm sao để 3 nhánh quân sự có thể huy động theo một cách thống nhất, gắn kết và hiệu quả.

http://nghiadx.blogspot.com
Singapore nên phát triển theo chiều sâu, kết hợp các lực lượng vũ trang thay vì chỉ dựa quá nhiều vào công nghệ tiên tiến.

Thêm vào đó, đảo quốc này nên khuyến khích và cổ vũ cho một nền văn hóa quân sự, yếu tố mà theo đó mọi nhánh của lực lượng vũ trang đều có thể hòa hợp.

Tiếp cận với cách quản lý khả năng quân sự, nước này có thể cho phép lực lượng vũ trang của mình duy trì mức độ sẵn sàng hoạt động cao.

Điều quan trọng nhất, những khía cạnh hoạt động và chiến thuật quân sự phải cùng tiến thay vì chỉ hướng tới khía cạnh công nghệ.

Đảm bảo thế cân bằng này là chìa khóa cho Singapore giành được lợi thế trong vấn đề an ninh khu vực.

Chủ Nhật, 7 tháng 8, 2011

>> Lý Quang Diệu bàn về 'sự thách thức từ TQ'



Bài phân tích "Thách thức ở Thái Bình Dương: Sự trỗi dậy của Trung Quốc" của nguyên thủ tướng Singapore Lý Quang Diệu được đăng tải trên tạp chí Forbes.

Trong suốt hơn nửa thập kỷ qua – kể từ khi cuộc chiến tranh ở Hàn Quốc vào năm 1953 và chiến tranh ở Việt Nam vào năm 1975 kết thúc – sự hiện diện của Mỹ ở Tây Thái Bình Dương được nhiều người đánh giá là đã mang lại sự ổn định và an ninh cho khu vực. Đây cũng là động lực kích thích phát triển kinh tế với nhiều nguồn đầu tư và thương mại. Singapore là một ví dụ điển hình. Từ những năm 1960, Đảo quốc Sư tử này đã có những sự phát triển nhanh chóng. Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) tăng từ 974 triệu USD vào năm 1965 lên 223 tỷ USD vào năm 2010. Trong cùng giai đoạn, thu nhập đầu người tăng từ 516 USD lên gần 44.000 USD.

http://nghiadx.blogspot.com

Ông Lý Quang Diệu.


Tuy nhiên, vị trí thống trị của Mỹ trong khu vực đang gặp phải thách thức lớn từ phía Trung Quốc, một đất nước mà sự tăng trưởng về kinh tế thời gian qua được đánh giá là sự kiện ấn tượng nhất của thế kỷ 21. Với sự kết thúc của cuộc Cách mạng văn hóa (1966-76), thời kỳ khó khăn triền miên của Mao Trạch Đông nhằm tạo ra một sự nhiệt tình cách mạng mang tính bất diệt đã dần đi vào quên lãng. Chính Đặng Tiểu Bình, nhà lãnh đạo theo chủ nghĩa thực dụng vốn được ví như kiến trúc sư của những cải cách kinh tế ở Trung Quốc, mới được coi là người phục lại sự ổn định và phát triển của đất nước này. Khi còn là Phó thủ tướng, ông này đã từng có chuyến thăm Singapore vào năm 1978. Đây là chuyến thăm bổ ích vì ở đây, ông đã khám phá ra lý do tại sao một hòn đảo không có tài nguyên thiên nhiên như Singapore lại có thể phát triển nhanh chóng nhờ vào việc bắt tay hợp tác với các nước phát triển, thu hút đầu tư từ các tập đoàn đa quốc gia và thiết lập các trung tâm hậu cần và ngành dịch vụ, trong đó bao gồm những dịch vụ tài chính tối quan trọng.

Khi Đặng Tiểu Bình trở về Trung Quốc vào tháng 12, Chính phủ Trung Quốc đã cho thông qua chính sách “mở cửa”. Đây là tiền đề cho việc hình thành bốn đặc khu kinh tế ven biển vào năm 1980, trong đó đầu tư nước ngoài và tự do thương mại được khuyến khích. Các đặc khu kinh tế này đã mang lại những thành công to lớn cho nền kinh tế TQ và là động lực để thủ tướng Chu Dung Cơ đưa ra chính sách mở cửa đất nước nhằm thu hút đầu tư và thương mại vào năm 2001, thời điểm Trung Quốc trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới.
Mỹ hiện nay đang phải đối mặt với một Trung Quốc mà theo dự đoán GDP của nước này có thể sẽ vượt qua Mỹ trong vòng 20 năm tới. Nhiều người cho rằng, Mỹ nên chào đón Trung Quốc để nước này tham gia vào việc giải quyết các vấn đề của thế giới, đặc biệt là việc giải quyết vấn nạn nghèo đói của các nước đang phát triển.

Mỹ và Trung Quốc cũng đã thiết lập Đối thoại Chiến lược và Kinh tế Mỹ - Trung nhằm đưa ra các biện pháp chống lại sự cạnh tranh ở khu vực Châu Á Thái Bình Dương. Mỗi nước cũng chủ động tìm kiếm đồng minh ở khu vực, trong khi vẫn tái khẳng định cam kết về một mối quan hệ bền chặt và hợp tác. Mỹ đã và đang tăng cường mối quan hệ với Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc và ASEAN. Trong khi đó, mặc dù Nhật Bản, Ấn Độ và Australia tỏ ra quan ngại trước những tham vọng và sự cương quyết của Trung Quốc, nhưng các nước này cũng muốn duy trì mối quan hệ tích cực với Trung Quốc.

Các chuyên gia còn cho rằng, để đi đến sự ổn định ở Thái Bình Dương sẽ cần phải có một sự cân bằng về quyền lực, khi mà Mỹ và Nhật ở cùng một phe trong khi Trung Quốc lại ở một phe khác. Bên cạnh đó, Ấn Độ cũng là một trong những nước mới nổi đáng chú ý nhất tại khu vực. Dân số Ấn Độ hiện nay vào khoảng 1,2 tỷ người và sẽ dân số Ấn Độ sẽ vượt qua Trung Quốc trong khoảng 20 năm nữa. Tốc độ phát triển kinh tế của Ấn Độ thời gian vừa qua khá ấn tượng, và cùng với Trung Quốc, Nhật Bản và các nước ASEAN, trung tâm kinh tế sẽ dần chuyển dịch từ Đại Tây Dương sang Thái Bình Dương. Thương mại và đầu từ giữa Mỹ và các nước Đông Á (Trung Quốc, Nhật Bản, ASEAN và Ấn Độ) sẽ vượt qua thương mại và đầu tư giữa Mỹ và Châu Âu.

Mỹ sẽ tiếp tục giữ vị thế dẫn đầu trong lĩnh vực công nghệ cao. Trong khi đó, Trung Quốc sẽ cần phải tiếp cận thị trường, thương mại, đầu tư, công nghệ cũng như xã hội mở và các trung tâm giáo dục đại học của Mỹ. Trung Quốc đưa hàng nghìn nhân tài tới Mỹ để nghiên cứu, sống và làm việc tại các viện nghiên cứu của Mỹ. Nước này muốn thiết lập những viện tương tự, thúc đẩy sáng tạo và đổi mới, ở Trung Quốc. Nhưng Trung Quốc cũng sẽ phải mất hàng thập kỷ mới có thể theo kịp Mỹ.

Năm 1949, sau 250 năm hỗn loạn, Mao Trạch Đông đã thống nhất Trung Quốc và tuyên bố “Người Trung Quốc đã đứng lên”. Nếu Trung Quốc có thể duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình hơn 10% mỗi năm thì nước này sẽ sớm vươn lên ngang hàng cán cân quyền lực với các nước lớn.

Thứ Sáu, 22 tháng 7, 2011

>> So sánh các chiến hạm tiêu biểu ở Đông Nam Á



Bài báo sẽ điểm qua 4 "gương mặt" nổi trội nhất trong số các chiến hạm chủ lực thuộc Hải quân các quốc gia Đông Nam Á, là Gepard 3.9, Formidable, Lekiu và Sigma.

Tiếp nối dòng bài về Hải quân các nước ASEAN,xin đi sâu vào phân tích ưu thế của các chiến hạm tiêu biểu trong khu vực, dựa trên các tiêu chí về khả năng tấn công, phòng vệ, cơ động và mức độ hiện đại...

Dưới đây là các phân tích cụ thể:

Khả năng tấn công

Nhìn chung, các chiến hạm tiêu biểu kể trên có vũ khí chủ lực là tên lửa chống hạm. Nếu Gepard 3.9 trang bị tên lửa Kh-35 và Formidable (của Singapore) trang bị tên lửa Harpoon, 2 chiến hạm còn lại sử dụng tên lửa Exocet. Bên cạnh đó, cũng cần xét tới uy lực của các pháo hạm.

Chiến hạm lớp Lekiu của Malaysia được trang bị 8 tên lửa Exocet Block 2, tầm bắn 70km đầu đạn nặng 165kg, một pháo 57mm tầm bắn 17km với tốc độ 220 viên/phút.

Còn Sigma của Indonesia có 4 tên lửa Exocet Block 2, một pháo Oto Melara 76mm với các tính năng như trên Formidable.

Formidable có 8 tên lửa Harpoon tầm bắn 130km đầu đạn 227kg, bên cạnh đó là 1 khẩu pháo Oto Melara 76mm tầm bắn 16km, bắn đạn pháo 6kg với tốc độ lên tới 120 viên/phút.

Gepard có 8 tên lửa Kh-35 Uran-E tầm bắn 130km, một pháo AK-176M 76mm tầm bắn 10km với tốc độ 120 viên/phút.



Tên lửa đối hạm Harpoon.


Về cơ bản các tên lửa cận âm như Exocet, Harpoon hay Uran-E khá giống nhau ở chỗ được radar tàu chiến hay máy bay dẫn đường ở pha đầu và tự sử dụng radar của tên lửa ở pha cuối. Tuy nhiên, do tầm hoạt động thấp, các tàu trang bị loại tên lửa Exocet phải tiếp cận đối phương gần hơn so với Gepard 3.9 và Formidable

Với các thông số (số lượng trong trạng thái sẵn sàng chiến đấu, tầm bắn) của tên lửa như đã nói, kết hợp với pháo hạm trang bị, có thể tạm xếp sức mạnh các tàu chiến theo thứ tự: Formidable, Gepard 3.9, tiếp đó là Lekiu và Sigma.



Gepard 3.9 của Việt Nam.




Formidable của Singapore.


Khả năng phòng vệ

Hệ thống phòng vệ của các tàu chiến trên đều có loại tầm gần và cực gần, cùng hệ thống chống ngầm.

Trong đó, chiến hạm lớp Lekiu có 2 pháo phòng không CWIS MSI 30mm tốc độ bắn 650 viên/phút, 16 tên lửa phòng không Sea-wolf tầm bắn 6km. Khả năng bảo vệ ở mức trung bình.

Sigma có 8 tên lửa phòng không Mistral với tầm bắn 5,3km tốc độ 800m/giây, về căn bản đây là loại tên lửa phòng không vác vai cải tiến nên không thể bằng các loại chuyên nghiệp như Aster hay Seawolf. Hơn nữa, các tên lửa này có cơ chế điều khiển đơn giản (bằng hồng ngoại) và số lượng tên lửa ít.

Gepard có 2 pháo phòng không AK-630 30mm, tổ hợp phòng không gồm 2 pháo AO-18KD 30mm và 8 tên lửa nạp sẵn Sosna-R tầm bắn 8km với tốc độ 1.200m/giây. Hệ thống bảo vệ 4 nòng 30mm kết hợp với 8 tên lửa (có thể hơn) giúp Gepard có khả năng bảo vệ tương đối tốt.

Còn Formidable có tên lửa phòng không Aster-15 với 32 quả tên lửa, loại tên lửa 2 tầng này có thể đánh chặn các loại tên lửa chống hạm cận âm bay thấp khác (ở cự ly 15km), các UAV (ở cự ly 30km).

Nhìn chung, dựa vào số lượng, cự ly đánh chặn và số lượng trang bị, có thể xếp theo thứ tự: Formidable, Gepard 3.9, Lekiu và cuối cùng là Sigma.



Mô phỏng các vị trí trên Formidable



Bắn tên lửa Seawolf trên chiến hạm lớp Lekiu.


Về nhiệm vụ chống ngầm, 3 tàu chiến lớp Formidable, Lekiu, Sigma lại đều dùng ngư lôi hạng nhẹ 324mm của cùng 1 nhà sản xuất còn khả năng của Gepard 3.9 hiện là ẩn số nên trường hợp này chưa thể đưa ra "xếp hạng".

Khả năng cơ động và dự trữ hành trình

Lekiu có lượng giãn nước 2.270 tấn, tốc độ tối đa 28 hải lý/giờ, thủy thủ đoàn 164 người.

Sigma có lượng giãn nước 1.700 tấn, tốc độ tối đa 28 hải lý/giờ, thủy thủ đoàn chừng 80 người

Formidable có tốc độ 27 hải lý/giờ, gần bằng 2 chiến hạm trên nhưng có lượng giãn nước lên tới 3.200 tấn, với thủy thủ đoàn 85 người.

Gepard 3.9 cũng không thua kém gì các tàu bạn khi có vận tốc tối đa là 28 hải lý/giờ, với lượng giãn nước 2.100 tấn, thủy thủ đoàn 103 người

Qua so sánh ta thấy về tốc độ tối đa thì các tàu tương đương nhau, tầm hoạt động cũng đều chừng 5000 dặm nhưng Formidable của Singapore có tải trọng gấp rưỡi các tàu còn lại với số lượng thủy thủ ít, do đó khả năng dự trữ thực phẩm sẽ vượt trội hơn các tàu khác, qua đó cũng góp phần nâng cao khả năng đi biển dài ngày.

Trong hạng mục này, Formidable vẫn đầu bảng, các tàu xếp sau khó phân "hơn thua".




Sigma của Indonesia





Lekiu của Malaysia


Tính năng tàng hình và tự động hóa trên tàu

Xét về tàng hình phụ thuộc vào các yếu tố như thiết kế, chất liệu, các thiết bị phụ trợ, vậy chúng ta tạm thời sẽ đánh giá khả năng tàng hình qua thiết kế hình dáng bên ngoài con tàu.

Chiến hạm Lekiu có thiết kế nhiều thiết bị đặt lộ thiên, điều này sẽ tăng phản xạ radar lên rất nhiều, qua đó khiến nó “nổi bật: trên màn hình theo dõi hơn các tàu khác.

Sigma có thiết kế tương đối ổn, giống như Gepard 3.9 nếu so Formidable có thiết kế "dấu biệt" vũ khí, phương tiện, khí tài vào bên trong. Bất cứ chuyên gia kỹ thuật quân sự nào nhìn vào sẽ cho điểm Formidable cao nhất trong các tàu kể trên.

Về khả năng thông tin liên lạc cũng như thiết bị trên tàu, sẽ khá là khó để kiểm chứng vì các thông số của nhà sản xuất chỉ ở mức tham khảo, nhưng cũng sẽ không khó nhận ra con tàu có tải trọng lớn nhất lại có số người điều khiển gần ít nhất là khả năng tự động hóa sẽ rất cao, đó là Formidable.

Vì vậy, trong hạng mục này, thứ tự lần lượt sẽ là: Formidable, Gepard 3.9 và Sigma, Lekiu.




Theo dõi bắn tên lửa Aster trên Formidable





Sigma của Indonesia có thiết kế khá "mượt"


Kết luận tạm thời

Như vậy, không khó để nhận ra Formidable là chiến hạm hiện đại nhất Đông Nam Á, Gepard 3.9 cũng sử dụng những công nghệ khá hiện đại, nó có một số vượt trội so với các tàu của Malaysia hay Indonesia.

Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, những phép thử so sánh trên đây đơn giản chỉ dựa vào thông số kĩ thuật. Trong tác chiến, thành bại còn phụ thuộc vào kĩ năng của người sử dụng cũng như nghệ thuật quân sự. Hiện đại là quan trọng, con người là quyết định.


[BDV news]


Thứ Hai, 20 tháng 6, 2011

>> 7 nước ASEAN ra lời kêu gọi chung về Biển Đông





Việt Nam, Indonesia, Malaysia, Thái Lan, Lào, Philippines và Singapore cùng kêu gọi việc tìm ra giải pháp hòa bình và sử dụng Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS) để giải quyết tranh chấp tại Biển Đông.


Hải quân Việt Nam trên đảo Trường Sa. Ảnh: Nguyễn Hưng


Đây là tuyên bố chung được 7 thành viên ASEAN đưa ra khi cùng tham dự Hội nghị các quốc gia thành viên UNCLOS vừa diễn ra từ ngày 13-17/6 tại New York, Mỹ. Các nước ASEAN nói trên cũng nhấn mạnh sự cần thiết của việc duy trì hòa bình và an ninh tại Đông Nam Á, tờ Philippines Star cho hay.

Đoàn Việt Nam do Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, Đại sứ, Trưởng phái đoàn Việt Nam tại Liên Hợp Quốc Lê Lương Minh dẫn đầu, theo TTXVN. Phát biểu tại Hội nghị, Trưởng đoàn Việt Nam khẳng định lại ý nghĩa và tầm quan trọng của Công ước Luật Biển 1982, cơ sở pháp lý quốc tế toàn diện và bao quát nhất điều chỉnh các vấn đề liên quan đến biển và đại dương, nhấn mạnh mọi hoạt động trên biển phải được tiến hành phù hợp với Công ước, tôn trọng đầy đủ quyền quốc gia ven biển được hưởng trên các vùng biển được xác định theo Công ước.

Trưởng đoàn Việt Nam cũng khẳng định lại quyết tâm và lập trường của Việt Nam thực hiện nghiêm túc các quy định của Công ước Luật Biển cũng như Tuyên bố về các ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) nhằm xây dựng khu vực Biển Đông thành khu vực hòa bình, hợp tác, hữu nghị và ổn định.

Trong khi đó, phái đoàn Philippines cho hay: "Quy tắc luật pháp là nền tảng của hòa bình, trật tự và công bằng trong các xã hội hiện đại. Vai trò ngày một lớn của một hệ thống quốc tế dựa trên cơ sở là các quy tắc luật pháp giúp mang lại một sự cân bằng cân thiết trong các vấn đề toàn cầu."

Philippines cũng cho rằng việc tôn trọng và tuân thủ luật pháp quốc tế giúp duy trì hòa bình và giải quyết các mâu thuẫn. Luật pháp quốc tế mang lại tiếng nói có trọng lượng ngang bằng cho các quốc gia bất kể tầm vóc chính trị, kinh tế hay quân sự, đồng thời loại bỏ việc sử dụng vũ lực trái luật pháp.

Chia sẻ quan điểm của Việt Nam và Philippines, các nước ASEAN nhấn mạnh rằng cần phải tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định của Công ước Luật Biển khi tiến hành các hoạt động trên biển; đề cao sự cần thiết của việc duy trì hòa bình, ổn định và an ninh ở khu vực Biển Đông, thực hiện đầy đủ DOC và tiến tới sớm đạt được Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC).

Hội nghị các quốc gia thành viên UNCLOS năm nay là lần thứ 21 các nước họp mặt để bàn về các vấn đề liên quan tới Công ước năm 1982.

Bên cạnh việc đánh giá hoạt động của các cơ quan được thành lập theo Công ước gồm Tòa án quốc tế về Luật Biển, Ủy ban ranh giới thềm lục địa, Cơ quan quyền lực quốc tế đáy đại dương, hội nghị năm nay tập trung thảo luận các biện pháp cải tiến hoạt động của Ủy ban ranh giới thềm lục địa nhằm đẩy nhanh tiến trình xem xét báo cáo quốc gia xác định ranh giới thềm lục địa kéo dài, tiến hành bầu 7 thẩm phán Tòa án quốc tế về Luật Biển và kiểm điểm việc triển khai Công ước.

Trong khi đó, tàu tuần tra lớn nhất của Trung Quốc là Haixun 31 đang trên hành trình tới thăm Singapore. Báo chí Trung Quốc cho biết trước khi tới Singapore, tàu này sẽ qua Biển Đông, qua các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nơi Việt Nam tuyên bố chủ quyền. Tại căn cứ quân sự Changi của Singapore, các tàu chiến của Mỹ, trong đó có USS Chung-hoon và tàu của các nước ASEAN đang tham gia cuộc huấn luyện thường niên.


[Vnexpres news]


Thứ Bảy, 18 tháng 6, 2011

>> Tàu chiến lớn nhất của Philippines tuần tra Biển Đông





Philippines cử tàu chiến lớn nhất của họ là BRP Rajah Humabon tuần tra biển Tây Philippines, sau khi Trung Quốc cũng cử tàu tuần tra lớn nhất của họ là Haixun 31 tới khu vực.


BRP Rajah Humabonđang đỗ tại cảng Poro Point, chuẩn bị tuần tra khu vực Scarborough Shoal.

Chỉ huy tàu Humabon là Celestino Abalayan tuyên bố: "Chúng tôi sẽ giám sát và kiểm tra nếu có những nguy cơ an ninh trong khu vực; cũng như hành động vi phạm quyền tài phán của chúng tôi”.

Theo báo Phil Star, Scarborough Shoal nằm ở biển Tây Philippines, cách Vịnh Subic 198 km về phía Tây và rộng khoảng 150 km2. Trung Quốc cũng tuyên bố chủ quyền với khu vực này.

Tư lệnh hải quân Philippines là Phó đô đốc Alexander Pama cho rằng, không nên có hành động khiêu khích ở biển Tây Philippines. Hải quân nước này sẽ có những biện pháp phòng thủ chủ động trong lãnh hải của họ.



Tàu Humabon có 68 thủy thủ và 8 sĩ quan.

Trước đó, theo VNE, tàu tuần tra hiện đại nhất và lớn nhất của Trung Quốc là Haixun 31, trước khi thăm Singapore, sẽ vào biển Đông và đi qua các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.

Đài phát thanh quốc tế Trung Quốc cho hay tàu Haixun 31, tải trọng 3.000 tấn, xuất phát sáng qua từ cảng Chu Hải, tỉnh Quảng Đông. Dự kiến hải trình của nó dài 1.400 hải lý, qua các đảo trên vùng biển này, trong đó có Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.

Đài CRI nói rằng thủy thủ đoàn của tàu tuần tra này sẽ kiểm tra những tàu mang cờ nước khác trên vùng biển mà Bắc Kinh tuyên bố thuộc chủ quyền của họ.

Bắc Kinh tuyên bố yêu sách đường 9 đoạn, hay còn gọi là đường lưỡi bò hoặc chữ U, ôm gần như trọn cả vùng biển Đông. Yêu sách này là hoàn toàn vô lý, không có cơ sở về luật pháp cũng như lịch sử, bị các nước, trong đó có Việt Nam, phản đối.

Haixun 31 là tàu tuần tra lớn nhất và hiện đại nhất từ trước tới nay tại Trung Quốc, được trang bị bãi đáp cho trực thăng, kho chứa máy bay và một tháp điều khiển không lưu. Con tàu có khả năng di chuyển 6.000 hải lý mà không cần tiếp nhiên liệu.

Đây là chuyến đi ra nước ngoài đầu tiên của Haixun 31. Nó sẽ ở Singapore trong 6 ngày. Phái đoàn Trung Quốc sẽ hội đàm với các quan chức hải quân Singapore về các vấn đề an ninh hàng hải, quản lý hải cảng và chống hải tặc.

Trung Quốc đang cho đóng một tàu tuần tra lớn hơn, mang tên Haixun 01. Tàu mới sẽ hoàn thành vào tháng 7 năm tới, với chiều dài 128 m và tải trọng 5.400 tấn.

[BDV news]


Chủ Nhật, 5 tháng 6, 2011

>> Đối thoại Shangri-La 2011: Cơ hội ổn định và hòa bình



Đối thoại Shangri-La 2011 là cơ hội để các nước xây dựng lòng tin và thúc đẩy hợp tác an ninh cũng như để nâng cao sự minh bạch chính sách quốc phòng và hiện đại hóa quân sự trong khu vực.





Tiến sĩ John Chipman, tổng giám đốc Viện Nghiên cứu chiến lược quốc tế (IISS) - đơn vị tổ chức Đối thoại Shangri-La

Tổng giám đốc Viện nghiên cứu chiến lược quốc tế (IISS) John Chipman cho biết, Hội nghị An ninh châu Á hay còn gọi là Đối thoại Shangri-La, được tổ chức tại Singapo từ ngày 3 đến ngày 5/6/2011.

Đối thoại Shangri-La tại Singapo tập trung vào những vấn đề an ninh đang nổi lên, các học thuyết quân sự mới, ngân sách quốc phòng các nước, tranh chấp chủ quyền, sự phát triển vũ khí hạt nhân, vấn đề an ninh hàng hải hay các lợi ích về an ninh của Trung Quốc.

Chủ đề liên quan đến Biển Đông cũng được nhắc đến nhiều trong chương trình nghị sự. Theo ông John Chipman, mối quan tâm của Trung Quốc đối với hội nghị thường niên về an ninh tại Singapore này được thể hiện ngay từ tháng 3, khi Bắc Kinh công bố Sách trắng quốc phòng có nhắc đến “tầm quan trọng của Đối thoại Shangri-La đối với hợp tác quốc phòng khu vực.

Đối thoại Shangri-La ra đời từ năm 2002, nhằm tạo diễn đàn cho các bộ trưởng quốc phòng châu Á - Thái Bình Dương đối thoại, xây dựng lòng tin và thúc đẩy hợp tác an ninh.

Đối thoại Shangri-La tại Singapo được kỳ vọng sẽ là cơ hội để nâng cao sự minh bạch các chính sách quốc phòng và hiện đại hóa quân sự trong khu vực. Hội nghị thường niên quy tụ các quan chức hàng đầu về quốc phòng của 28 nước trong trong khu vực, gồm Việt Nam, Mỹ, Trung Quốc, Anh, Australia, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, cùng đại diện của NATO và Nga, là nhân tố quan trọng trong việc định hình các vấn đề an ninh đang nổi lên ở châu Á - Thái Bình Dương.

Bên cạnh vấn đề chung, các nước còn tổ chức các cuộc họp song phương bên lề. Phía Trung Quốc do Bộ trưởng Quốc phòng Lương Quang Liệt tham dự Hội nghị An ninh châu Á. Đây là lần đầu tiên ông Lương Quang Liệt dẫn đầu phái đoàn Trung Quốc tham dự hội nghị này và phát biểu về hợp tác an ninh quốc tế của nước này.



Cuộc họp giữa phái đoàn Việt Nam và Trung Quốc bên lề hội nghị.


Trong khi đó, đại diện cho phái đoàn Mỹ tham dự Đối thoại Shangri-la là Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Robert Gates nhằm khẳng định cam kết của Mỹ đối với an ninh khu vực, với sự tháp tùng của Tư lệnh Bộ tư lệnh chiến trường Thái Bình Dương Robert F. Willard.

Đây sẽ là lần cuối Bộ trưởng Robert Gates xuất hiện tại diễn đàn quốc tế trên cương vị người đứng đầu Lầu Năm Góc, trước khi cơ quan này có ông chủ mới. Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ dự kiến sẽ có cuộc thảo luận bên lề hội nghị với Bộ trưởng Quốc phòng của Hàn Quốc, Nhật Bản và đặc biệt với người đồng cấp Trung Quốc Lương Quang Liệt nhằm cải thiện hợp tác và đối thoại giữa hai quân đội.

Bộ Quốc phòng Mỹ cũng có kế hoạch tới thăm Manila và có thể sẽ thảo luận về việc đóng quân của Mỹ tại đây. Theo các quan chức chính phủ Mỹ cho biết, Bộ trưởng Robert Gates sẽ trấn an các đồng minh ở châu Á đang lo lắng về việc vai trò quân sự của Mỹ bị thu hẹp trong bối cảnh Trung Quốc không ngừng gia tăng nỗ lực hiện đại hóa quân sự và các lực lượng vũ trang của họ có lập trường quả quyết hơn.

Tại cuộc Đối thoại, Bộ trưởng Robert Gates sẽ đưa ra cam kết của Mỹ về việc, quân đội Mỹ sẽ vẫn duy trì sự hiện diện mạnh mẽ trong khu vực bất chấp kế hoạch cắt giảm chi tiêu quốc phòng của nước này và sự thay đổi lãnh đạo hàng đầu trong Bộ Quốc phòng Mỹ

Nhận định của các chuyên gia về Đối thoại Shangri-La 2011

Giám đốc điều hành ISS-Asia, tiến sĩ Tim Huwley nhận định, Đối thoại Shangri-La 2011 diễn ra trong bối cảnh an ninh và quân sự tại châu Á - Thái Bình Dương vừa trải qua một số biến động.

Theo tiến sĩ Huwley, sự cạnh tranh về quân sự giữa các bên có thể gây ra sự bất ổn trong khu vực này. Tài liệu thường niên The Military Balance của chi nhánh IISS tại Singapore cũng nhấn mạnh đến sự chuyển dịch về sức mạnh quân sự từ phương Tây sang châu Á.


Chủ đề về tranh chấp Biển Đông được đề cập rất nhiều tại hội nghị.


Trong khi khủng hoảng kinh tế đang làm giảm mức chi tiêu quân sự tại Mỹ và châu Âu, thì tại châu Á với tốc độ tăng trưởng kinh tế ổn định đã giúp ngân sách quốc phòng không bị ảnh hưởng. Điển hình là những phát triển của quân đội Trung Quốc, như việc công bố tàu sân bay đầu tiên Shi Lang, máy bay chiến đấu tàng hình J-20 cùng các chương trình về tên lửa chống hạm và tàu ngầm.

Theo tiến sĩ Huwley, bối cảnh chiến lược tại châu Á hiện nay với sự nghi ngờ ngày càng sâu sắc giữa các nước và một loạt các cuộc xung đột tiềm tàng có thể tạo lý do để các nước mở rộng năng lực quân sự của mình.

Trong số này ông nhắc đến mối lo ngại về chương trình hiện đại hoá quân đội tại châu Á nguy hiểm ở chỗ nó thường phản ánh những nỗ lực không được công bố, dẫn đến gây mất ổn định cho các chiến lược và học thuyết quốc phòng.

Ông cho rằng việc Trung Quốc nâng cao sức mạnh quân sự có liên quan đến tranh chấp chủ quyền với các láng giềng tại Biển Đông. Ngược lại, một số nước Đông Nam Á nâng cấp sức mạnh quốc phòng cũng không chỉ vì các lý do được công bố công khai là hiện đại hoá quân đội, mà còn là vì họ muốn đối phó sự phiêu lưu của Trung Quốc.
[Vitinfo news]


Thứ Năm, 2 tháng 6, 2011

>> 'Quân đội Trung Quốc chưa xứng làm đối thủ của Mỹ'



Bắc Kinh không thể đe dọa quân đội Washington trong tương lai gần, cựu Thủ tướng Singapore Lý Quang Diệu khẳng định.


Phát biểu tại Hội nghị quốc tế lần thứ 17 về tương lai châu Á diễn ra tại Tokyo, ông Lý cho rằng, việc Trung Quốc tập trung đầu tư cho quốc phòng là quyết định hoàn toàn dễ hiểu.

“Vì vậy, chúng ta phải chấp nhận khao khát của Trung Quốc về việc xây dựng lực lượng lục quân, hải quân và không quân hùng mạnh sao cho xứng tầm với tiềm lực kinh tế. Đó là điều không thể tránh khỏi”, Thủ tướng đầu tiên của Singapore nhấn mạnh.


Trong bối cảnh nền kinh tế đang phát triển như vũ bão, chắc chắn giới chức quân sự trong nước sẽ không hài lòng khi Chính phủ Trung Quốc chỉ đầu tư cho lĩnh vực dân sinh.


Tuy nhiên, ông Lý nhận định, dù có đầu tư phát triển thì tiềm lực quân sự và công nghệ của Trung Quốc vẫn khó có thể sánh với Mỹ trong thời gian tới.

Ông Lý Quang Diệu được coi là “cha đẻ” của Singapore hiện đại. Mới đây, ông tuyên bố rút khỏi nội các Singapore nhưng vẫn là thành viên nghị viện.
[BDV news]


Thứ Hai, 16 tháng 5, 2011

>> Hải quân Nga ‘dương oai’ ở Đông Nam Á



Một đội tàu chiến của Hạm đội Thái Bình Dương hôm nay thăm Singapore và Indonesia. Trong số này có tàu săn ngầm lớn nhất thế giới là Đô đốc Panteleev và tàu cứu hộ "khủng" nhất thế giới Fotiy Krylov.



Đội tàu chiến của Hạm đội Thái Bình Dương hôm nay thăm Singapore và Indonesia.

Hôm nay, đội tàu chiến này tới Singapore để dự Triển lãm phòng vệ hải quân quốc tế (IMDEX-2011). Tới ngày 20/5, đội tàu chiến sẽ tới cảng Macasar của Indonesia để tham dự cuộc tập trận chung chống cướp biển với hải quân Indonesia.

Đông Nam Á từ lâu là khu vực hợp tác chặt với Nga trong lĩnh vực kỹ thuật quân sự. Ngay từ giai đoạn đấu tranh vũ trang vì độc lập dân tộc, nhiều quốc gia trong khu vực là đối tác tiếp nhận vũ khí Liên Xô như Việt Nam, Lào, Campuchia, Indonesia...

Tình hình ngày nay cũng không khác trước là mấy. Học giả Nga Anatoly Voronin khẳng định: “Do các nước của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á duy trì chính sách đối ngoại tự chủ nên họ mua của Nga thiết bị hàng không, các phương tiện phòng không, quân trang phục vụ lực lượng bộ binh và hải quân. Hiệp hội là một trong những thị trường hứa hẹn nhất đối với các sản phẩm quốc phòng của Nga. Nga tiếp tục thúc đẩy hợp tác quân sự với Malaysia, Myanmar, Thái Lan và cả Singapore”.

Tương lai là năng lượng

Học giả Nga Anatoly Voronin nhận định, ASEAN là những nhà nhập siêu dầu mỏ và khí đốt. Sự phụ thuộc rất lớn của họ vào thị trường năng lượng toàn cầu sẽ không ngừng tăng cùng với tiến trình tăng trưởng kinh tế của họ.

Tuy nhiên, việc phụ thuộc như trên là rất nguy hiểm bởi tình hình chính trị Trung Đông rất mất ổn định. Do đó, ASEAN ngày càng có nhu cầu đa dạng hóa thị trường năng lượng nhằm thoát khỏi sự lệ thuộc vào Trung Đông. Và như một lẽ tất yếu, Hiệp hội ngày càng hướng sự chú ý của mình về phía Nga, cường quốc về sản xuất năng lượng với cơ sở vật chất, trình độ kỹ thuật vững chắc…

Hợp tác với Nga trong lĩnh vực năng lượng hạt nhân, năng lượng địa nhiệt và thủy điện là những sự lựa chọn tốt bởi nó không chỉ đáp ứng được các yêu cầu an ninh, thương mại và còn giúp các nước ASEAN hạn chế khí thải nhà kính, giảm phụ thuộc vào việc vận tải dầu, khí đốt… trên biển bởi nhiều nước trong Hiệp hội chưa kiểm soát được hoàn toàn vấn đề an ninh, dễ bị hải quân nước ngoài, cướp biển, khủng bố… phá rối.

Về phía Nga, đây là cơ hội lớn cho họ. Trong chuyến thăm Hà Nội vừa qua, Tổng thống Nga Dmitry Medvedev cũng khẳng định, Nga có lợi ích to lớn tại châu lục này.



Nga tăng cường hợp tác với ASEAN.

Tiềm năng to lớn

Hiện, Nga và ASEAN có tiềm năng lớn về hợp tác kinh tế, năng lượng, quân sự và quan trọng hơn, cả hai đều muốn cộng tác với nhau.

Học giả Anatoly Voronin, thành viên Hội đồng chuyên viên thuộc Hội đồng liên bang Nga nhận xét: “Các nước của Hiệp hội là một thị trường phong phú và năng động. Tổng trị giá sản phẩm của họ vượt quá 500 tỷ USD. Đã vậy, ASEAN còn ở ngã tư động giao thông thế giới: một phần ba khối lượng lưu thông thương mại, một nửa dòng chảy dầu mỏ thế giới… đi qua eo biển Malacca. Rõ ràng rằng, cùng với sự đẩy mạnh các quá trình toàn cầu hóa về kinh tế, ý nghĩa của khu vực sẽ chỉ tăng lên”.

Tuy vậy, quan hệ kinh tế, thương mại Nga - ASEAN vẫn chưa tương xứng tiềm năng. Thương mại giữa các quốc gia ASEAN và Nga chiếm dưới 0,5% tổng kim ngạch ngoại thương của hiệp hội. Trong năm 2009, trị giá các hợp đồng qua lại giữa đôi bên không vượt quá 7 tỷ USD.

Trong khi đó, theo các chuyên gia Nga, trao đổi kinh tế giữa Nga và các nước ASEAN tới năm 2020 hoàn toàn có thể tăng tới 40-50 tỷ USD.

Học giả Voronin tiếp tục nói: “Trong mặt này, sự hợp tác của Nga và Việt Nam mang tính tiêu biểu, tự tin chứng minh hiệu quả kinh tế cao đối với cả hai bên. Nhờ có sự hợp tác với Nga, Việt Nam hiện sở hữu một tổ hợp nhiên liệu - năng lượng hiện đại, là nguồn đóng góp lớn cho ngân sách. Chỉ riêng Liên doanh Vietsovpetro trong thời gian hoạt động tại Việt Nam khai thác khoảng 200 triệu tấn dầu, thúc đẩy Việt Nam hòa nhập vị trí các nước hàng đầu trong khu vực về sản xuất dầu mỏ".

"Phía Nga cũng không hề chịu sự thiệt thòi. Ngân sách Nga nhận được khoảng 8 tỷ USD từ hoạt động liên doanh này. Và gần đây, Nga là đối tác được Việt Nam chọn lựa để xây dựng nhà máy điện hạt nhân đầu tiên", ông Voronin nói tiếp.
[BDV news]


Thứ Sáu, 22 tháng 4, 2011

>> Thực lực tàu ngầm của các nước châu Á -TBD



Trang tin China.com ngày 15/4 cho biết, các nước và khu vực ở châu Á đã tạo ra “làn sóng” mua sắm tàu ngầm trang bị cho quân đội.

Tổng quan về xu hướng mua sắm tàu ngầm


Theo dự tính của các chuyên gia quân sự tại khu vực châu Á, trong khoảng 10 năm tới, các nước khu vực này sẽ đầu tư trên 50 tỷ USD để mua hơn 90 tàu ngầm. Sự đầu tư này có thể dẫn tới một cuộc chạy đua vũ trang không thể tránh được.

Báo cso nhận xét, một đặc trưng giống nhau cơ bản nhất của hầu hết các nước trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương là đều có biển bao quanh hoặc một phần lãnh thổ tiếp giáp biển. Vì vậy, những quốc gia này cần phải có một lực lượng hải quân lớn mạnh và khả năng chiến đấu cao trên biển nhằm bảo vệ lãnh hải của quốc gia đó.

Chính vì vậy, tàu ngầm được coi là một trong những vũ khí bảo vệ hiệu quả nhất và rất thích hợp để thực hiện các nhiệm vụ này.



Tàu ngầm tấn công lớp Kilo của Nga đang được sử dụng trong hải quân của rất nhiều nước trên thế giới.


Tất nhiên, khi hải quân của một nước có tàu ngầm đối đầu với hải quân không được trang bị tàu ngầm, ưu thế tác chiến và khả năng dành quyền kiểm soát chiến trường thuộc về nước sở hữu vũ khí lặn được dưới nước.

Sau Chiến tranh Thế giới thứ 2, ở châu Á, một số nước có nền kinh tế khá ổn định bắt đầu xây dựng các hạm đội tàu ngầm cho riêng nước mình.

Nghiên cứu mới đây của Viện nghiên cứu hòa bình và xung đột Ấn Độ (Institute of Peace and Conflict Studies) chỉ ra, trong thời kỳ “chiến tranh lạnh”, tàu ngầm đã trở thành lực lượng hàng đầu của Hải quân hiện đại. Các quốc gia châu Á - Thái Bình Dương có khao khát giống nhau là có thể sở hữư những chiếc tàu ngầm có khả năng chiến đấu cao. Tuy nhiên, lúc đó các khoản chi phí để chi trả cho việc mua sắm tàu ngầm, xây dựng và duy trì các hạm đội đã khiến một số nước phải đứng ngoài và mơ ước.

Hiện nay, cùng với sự ra đời của tàu ngầm động cơ diesel hiện đại hóa và giá cả hợp lý, các nước ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương cũng tích lũy được ngân sách để đầu tư mua tàu ngầm nhằm tăng cường sức mạnh hải quân. Trong số đó, phải kể tới Trung Quốc và Ấn Độ, hai nước tích cực trang bị và cạnh tranh mua sắm tàu ngầm, đặc biệt là tàu ngầm hạt nhân.

Bên cạnh đó còn có các nước có nền kinh tế phát triển và các nước đang phát triển như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Triều Tiên, Malaysia, Singapore, Pakistan, Thái Lan, Indonesia, và Australia... Xu hướng chung của các nước này là phát triển và mua các loại tàu ngầm động cơ diesel trong 10 năm tới.

Dưới đây là thông tin về lực lượng tàu ngầm của một số quốc gia trong khu vực:

Trung Quốc
Ở khu vực Châu Á Thái Bình Dương, Trung Quốc có hạm đội tàu ngầm lớn mạnh, có hơn 60 chiếc tàu ngầm đang phục vụ trong Lực lượng Hải quân Trung Quốc.

Hải quân Trung Quốc đã có kế hoạch nâng cấp hiện đại hóa các trang thiết bị hiện có của Hải quân, từng bước loại bỏ những các động cơ tàu ngầm đã có tuổi thọ hơn 30 năm, và sẽ thay thế vào đó là tàu ngầm hiện đại hơn như tàu ngầm lớp Kilo của Nga.

Ngoài ra, Trung Quốc còn có kế hoạck mua tàu ngầm hạt nhân tấn công lớp Akula, và chế tạo tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa đạn đạo Type 094

Ấn Độ:

 Hải quân Ấn Độ có 4chiếc tàu ngầm mua từ nhà máy đóng tàu Horvath Deutsche của Đức (HDW), 10 chiếc tàu ngầm lớp Kilo và 4 chiếc tàu ngầm lớp Foxtrot.


Hải quân Ấn Độ đang tăng cường phát triển lực lượng tàu ngầm.


Ngoài ra, Ấn Độ đang lên kế hoạch chuẩn bị nâng cấp các trang thiết bị cho Lực lượng Hải quân Ấn Độ bằng việc đã đặt mua 6 chiếc tàu ngầm lớp Scorpene và bổ sung thêm 6 chiếc tàu ngầm tiên tiến được trang bị hệ thống đẩy không khí độc lập (AIP).

Indonesia: 

Indonesia là quốc gia có các quần đảo lớn nhất thế giới, có diện tích biển rộng lớn, nhưng lại chỉ có 2 chiếc tàu ngầm Type 209 đã được nâng cấp.

Dự kiến, Bộ quốc phòng Indonesia đã lên kế hoạch trước năm 2024 sẽ mua ít nhất 12 chiếc tàu ngầm, trong đó bao gồm tàu ngầm lớp Chang Bogo do Hàn Quốc sản xuất, tàu ngầm lớp Amur, tàu ngầm lớp Kilo của Nga, tàu ngầm Type 214 của Đức.

Malaysia: 

Hải quân Malaysia hiện tại có 2 chiếc tàu ngầm lớp Scorpene do công ty DCN của Đức và Nhà máy đóng tàu Navantia của Tây Ban Nha phối hợp sản xuất.

Hải quân Malaysia đang có kế hoạch để mua nhiều tàu ngầm loại nhỏ Andrsta để thực hiện các nhiệm vụ ở khu vực ven biển.

Singapore:

 Hiện tại Hải quân Singapore (RSN) đang sở hữu 4 chiếc tàu ngầm lớp Sjoormen đã được cải tiến để thích ứng với điều kiện khí hậu của Singapore, số tàu ngầm này đều được mua từ Hải quân Hoàng gia Thụy Điển.

Loại tàu ngầm này sau khi được thiết kế lại và tối ưu hóa, thì thích ứng với môi trường chiến đấu dưới nước nông hơn, và còn thích hợp với các vùng biển quanh Singapore.

Bên cạnh đó, Singapore còn có dự tính mua hai chiếc tàu ngầm A-17 lớp Vastergotland của Thụy Điển, để thay thế tàu ngầm lớp Challenger.

Thái Lan: 

Hải quân Hoàng gia Thái Lan đã nỗ lực để xây dựng hạm đội tàu ngầm của riêng nước mình, và có kế hoạch mua tàu ngầm lớp Amur, hoặc mua tàu ngầm lớp Song của Trung Quốc.

Nhật Bản: 

Lực lượng Bảo vệ bờ biển của Nhật Bản hiện có 18 chiếc tàu ngầm lớp Harushio và tàu ngầm lớp Oyashio.


Nhật Bản cũng có kế hoạch tăng cường phát triển Lực lượng phòng vệ bờ biển.


Tuy nhiên Phía Nhật cũng có kế hoạch thúc đẩy việc sử dụng tàu ngầm lớp Soryu có trang bị hệ thống đẩy không khí độc lập (AIP).

Hàn Quốc: 

 Hải quân Hàn Quốc có 9 chiếc tàu ngầm Type 209 thuộc lớp Chang Bogo, và 2 chiếc tàu ngầm lớp Sun Yuan Yi. Đến năm 2018, Hàn Quốc có kế hoạch sử dụng tàu ngầm tiên tiến Type 214 do Đức sản xuất.

Pakistan:

 Hải quân Pakistan hiện có 3 chiếc tàu ngầm lớp Agosta 90B, 4 chiếc tàu ngầm lớp Daphne và 2 chiếc tàu ngầm Type 70 lớp Agosta. Tuy nhiên, tàu ngầm lớp Daphne sẽ sớm bị loại thải, Pakistan đã có kế hoạch mua mới 3 chiếc tàu ngầm SSK Type-214.

Australia: 

Chính phủ Australia cũng đang có kế hoạch nâng cấp hạm đội của hải quân., và dự kiến sẽ trang bị tàu ngầm thế hệ mới để thay thế tàu ngầm lớp Collins đang trong biên chế của hải quân nước này.

Dự tính tàu ngầm lớp Collins sẽ ngừng hoạt động vào năm 2026. Giai đoạn thiết kế ban đầu của tàu ngầm thế hệ mới của Australia có sẽ bắt đầu từ năm 2014 đến năm 2015.

Đây là một trong những đầu tư lớn nhất trong lịch sử của Chính phủ Australia cho lĩnh vực quân sự này, tổng chí phí có thể lên tới 25 tỷ USD và sẽ mất 17 năm để hoàn thành.

Dựa vào các số liệu trên, dự đoán thị trường tàu ngầm Châu Á trong 10 năm tới sẽ đầu tư hơn 50 tỷ USD để mua hơn 90 chiếc tàu ngầm. Việc mua bán không chỉ giới hạn ở các tàu ngầm chạy bằng động cơ diesel truyền thống, mà nhiều nước cũng có ý định mua tàu ngầm động cơ hạt nhân được trang bị động cơ đẩy không khí độc lập và có thể duy trì khả năng chiến đấu cao hơn.


[BDV news]


Thứ Sáu, 25 tháng 3, 2011

>> Hé lộ về tàu đổ bộ chở trực thăng đóng cho Thái Lan



[Vietnamdefence news] Công ty Singapore Technologies Marine (ST Marine) đã cung cấp thông tin về tàu đốc đổ bộ chở trực thăng LPD (Landing Platform Dock) đang đóng cho Hải quân Thái Lan.



Tàu đổ bộ chở trực thăng lớp Endurance của Hải quân Singapore


Tàu đổ bộ LPD sẽ giống với tàu đổ bộ tăng Endurance của Hải quân Singapore. Điểm khác biệt chủ yếu là không có cửa dốc ở mũi mà thay cho nó là các cửa và thang tàu ở mạn phải rộng gần 6 m cho phép bốc xếp binh khí kỹ thuật nhẹ và binh lính, Jane’s navy International cho hay.


Tàu đổ bộ chở trực thăng LPD đóng cho Hải quân Thái Lan

Hải quân Thái Lan đã ký với ST Marine hợp đồng trị giá 5 tỷ baht (144 triệu USD) để thiết kế và đóng tàu đổ bộ dài 141 m và một số xuồng đổ bộ vào tháng 11.2008 sau một cuộc thầu quốc tế.

Hợp đồng bao gồm việc đóng 2 tàu đổ bộ tăng LCM (Landing Craft, mechanised) dài 23 m và 2 xuồng đổ bộ bộ binh LCVP dài 13m. Hai tàu LCM sẽ được bố trí ở khoang đốc ở đuôi tàu LPD, còn 2 xuồng LVCP bố trí trên các giá treo xà lúp ở 2 bên sườn phần thượng tầng của tàu.

Tàu LPD sẽ dùng để chuyển chở binh khí kỹ thuật và binh sĩ, tham gia các chiến dịch yểm trợ, tìm cứu và cứu trợ nạn nhân thiên tai.

LPD được đóng từ giữa năm 2009 và dự kiến bàn giao cho Thái Lan vào nửa cuối năm 2012.

Hệ thống động lực của tàu LPD bao gồm 2 động cơ diesel Catepillar C280-12 công suất 4.060 kW mỗi động cơ. Tàu được trang bị thiết bị trợ lái ở mũi. Tốc độ tối đa 17 hải lý/h, cự ly hành trình trên biển ở tốc độ 12 hải lý/h là 5.000 hải lý. Nguồn điện được cấp bởi 4 máy phát 3512B công suất 900 kW.





Các tàu RSS Endeavour (trên) và RSS Persistence lớp Endurance của Hải quân Singapore

Công ty Đan Mạch Terma sẽ cung cấp cho tàu LPD hệ thống chỉ huy chiến đấu C-Flex với 3 công-xon đa năng, radar C-Search và tổ hợp các sensor, bao gồm radar phát hiện mục tiêu bay/mục tiêu mặt nước SCANTER 4100 với hệ thống nhận dạng địch-ta và hệ thống quang-điện tử điều khiển hỏa lực C-Fire với 1 khí tài ảnh nhiệt, 1 camera truyền hình và 1 máy đo xa laser.

Hệ thống vũ khí bao gồm 1 pháo 76 mm Super Rapid của công ty OTO Melara và 2 giá để lắp các khẩu pháo MSI Seahawk 30 mm. Ngoài ra, trên cầu chỉ huy có thể lắp 2 súng máy.

Tàu LPD có trọng tải 1.000 tấn, lượng giãn nước đầy đủ 1.600 tấn. Tàu có thể chở 300 lính. Thủy thủ đoàn 120 người (cộng 15 người của đội bay), tức là gần gấp đôi tàu Endurance, điều này cho thấy tàu của Thái Lan có trình độ tự động hóa kém hơn.





Tàu đổ bộ chở trực thăng RSS Endurance của Hải quân Singapore



Thứ Năm, 17 tháng 3, 2011

>> Các chiến hạm tiêu biểu ở Đông Nam Á



Thời gian gần đây, các nước Đông Nam Á có những đầu tư đáng kể cho hải quân, nhằm tăng cường sức mạnh trên biển.

Khinh hạm La Fayette
Tuy không có số lượng tàu chiến đông đảo như các nước khác, nhưng Singapore lại sở hữu 6 kinh hạm tàng hình lớp La Fayette do Pháp chế tạo, thuộc loại hiện đại bậc nhất khu vực.






Khinh hạm lớp La Fayette của hải quân Singapore.

Thông số cơ bản: Dài 125m, rộng 15,4m, mớn nước 4,1m, tải trọng 3600 tấn đầy tải, tốc độ tối đa 25 hải lý/giờ.

Vũ khí chính: 8 tên lửa chống hạm Harpoon tầm bắn 70km, pháo hạm Oto Melara 76 mm, 16 tên lửa phòng không Aster 15 tầm bắn từ 1,7-13km, 2 pháo bắn nhanh 20mm, hệ thống phòng thủ tầm cực gần Sylver, đuôi tàu có sàn đáp cho trực thăng S-70B.

Tàu hộ tống Nakhoda Ragam
Là quốc gia có diện tích nhỏ bé trong khu vực, song Brunei sở hữu đội tàu chiến khá hiện đại, trong tiêu biểu là 3 tàu hộ tống tên lửa lớp Nakhoda Ragam do BAE System của Anh chế tạo, được trang bị hệ thống điện tử tiên tiến, vũ khí uy lực mạnh.


Hộ tống hạm Nakhoda Ragam.

Vũ khí chính: 8 tên lửa chống hạm hạm Exocet MM40 Block II tầm bắn 70km, pháo hạm đa năng Oto Melara 76mm, hệ thống tên lửa đối không Sea wolf tầm bắn 6km, hai pháo phòng không 30mm, ống phóng ngư lôi 324mm, đuôi tàu có sàn đáp cho trực thăng chống ngầm S-70B Seahawk.

Thông số cơ bản: Dài 89,9m, rộng 12,8m, mớn nước 3,6m, tải trọng 1.940 tấn, tầm hoạt động 5.000 hải lý, tốc độ tối đa 30 hải lý/giờ.

Khu trục hạm Giang Hồ-III (Type-053H2)
Giang Hồ-III hay Type-053H2 theo cách gọi của Trung Quốc, là biến thể xuất khẩu cho Hải quân Hoàng gia Thái Lan. Hiện nay, Thái Lan sở hữu 4 chiếc tàu thuộc loại này. Giang Hồ-III được các công ty công nghiệp tàu thủy Trung Quốc đóng.


Khinh hạm Giang Hồ-III.

Vũ khí chính: 8 tên lửa chống tàu YJ-82 C-802 tầm bắn 120km, hai pháo hạm nòng kép Type 79A 100mm, một ở phía trước mũi tàu và một ở sau đuôi tàu, 4 pháo phòng không AAA-37mm Type-76, hai hệ thống phóng rocket chống ngầm Type-81, đuôi tàu có sàn đáp cho trực thăng Z-9C.

Thông số cơ bản: Dài 103m, rộng 11,3m, mớn nước 3,19m, tải trọng 1960 tấn, tốc độ tối đa 26,5 hải lý/giờ.

Khinh hạm Gepard 3.9
Được sản xuất tại Nga, thuộc Project 1166.1E, thiết kế theo công nghệ hiện đại và có khả năng tàng hình nhẹ.

Sự xuất hiện của Gepard 3.9 tại Đông Nam Á phá vỡ thế độc tôn sở hữu kinh hạm tàng hình của Singapone.


Khinh hạm Gepard 3.9.

Vũ khí chính: 8 tên lửa chống hạm Kh-35 Uran E, tầm bắn 130km, pháo hạm đa năng AK-176M 76,2mm, hệ thống pháo tích hợp tên lửa phòng không Palma-SU, hai pháo bắn nhanh AK-630M, ống phóng ngư lôi kép 533mm, hệ thống phóng mồi bẩy PK-10, đuôi tàu có sàn đáp cho trực thăng chống ngầm Ka-27, Ka-28 hoặc Ka-31.

Thông số cơ bản: Dài 102,2m, rộng 13,2m, mớn nước 5,3m, tải trọng 2.100 tấn đầy tải, tầm hoạt động 5.000 hải lý, tốc độ tối đa 28 hải lý/giờ.

Tàu khu trục lớp Leiku
Được sản xuất bởi BAE System của Anh, đây là chiếc tàu khu trục hiện đại nhất trong biên chế của hải quân Malaysia.

Hiện tại hải quân Malaysia đang sở hữu 2 tàu khu trục loại này. Nước này còn đàm phán với Anh để mua giấy phép đóng trong nước.


Chiến hạm hiện đại lớp Leiku.

Vũ khí chính: 8 tên lửa chống tàu Exocet Block II tầm bắn 70km, pháo hạm đa năng 57mm, hai pháo bắn nhanh DS30 30mm, 16 tên lửa đối không Seawolf, hai ống phóng ngư lôi 324mm, đuôi tàu có sàn đáp cho trực thăng Lynx 300.

Thông số cơ bản: Dài 106m, rộng 12,75m, mớn nước 3,08m, tải trọng 2.270 tấn, tốc độ tối đa 28 hải ly/giờ, tầm hoạt động 5000 hải lý.

(bdv news)

Thứ Bảy, 5 tháng 3, 2011

>> Những chú 'sư tử biển' của Hải quân Singapore



Được trang bị tàu chiến tối tân, Singapore hiện có lực lượng hải quân hiện đại hàng đầu trong khu vực Đông Nam Á. Hầu như toàn bộ vũ khí này được mua từ các nước phương Tây.

Dưới đây là một số thành viên chủ chốt trong lực lượng hải quân Singapore:

Khu trục hạm lớp Formidable
Năm 2002, Bộ Quốc Phòng Singapore ký hợp đồng với Pháp đóng 6 tàu khu trục lớp Formidable. Tính đến năm 2009, tất cả 6 tàu loại này đều được chuyển giao cho Hải quân Singapore và được biên chế vào liên đội tàu chiến 185 (Hải quân Singapore-RSN).

Tàu khu trục lớp Formidable thiết kế hoàn toàn dựa trên chiến hạm lớp La Fayette của Pháp. Formidable là khu trục hạm đa năng có thể làm nhiêm vụ chống hạm, chống ngầm và phòng không. Tàu có lượng giãn nước 3.200 tấn, dài 114,8m.



Tàu chiến tàng hình lớp Formidable (RSS Steadfast) với trực thăng SH-60B "Seahawk" trên boong

Vũ khí chống hạm chủ lực là tổ hợp tên lửa chống tàu AGM-84 Harpoon, tên lửa có tầm bắn 130 km, dẫn đường bằng ra đa chủ động.

Đặc biệt, hệ thống tên lửa đối không của tàu được kết hợp giữa radar Thales Herakles với ống phóng Sylver A50 và khoảng từ 15-30 tên lửa MBDA Aster (tên lửa Aster có thể dùng để chống máy bay hoặc tên lửa hành trình).

Hệ thống chống ngầm của Formidable là ngư lôi hạng nhẹ Eurotop A244-S Mod 3, có tầm bắn 13,5km. Ngoài ra, Formidable còn được vũ trang pháo hạm Oto Melara 76mm rất hữu hiệu khi công kích các mục tiêu nhỏ, tầm gần trên biển.

Năm 2005, Bộ Quốc Phòng Singapore mua 6 chiếc trực thăng SH-60B từ Mỹ. Tất cả đều được chuyển giao trong thời gian từ 2008 tới 2010. SH-60B sẽ được trang bị cho khu trục hạm Formidable, có thể dùng để chống ngầm hoặc chống hạm.

Tàu chiến lớp Formidable được đánh giá là một trong những tàu chiến hiện đại nhất trong khu vực Đông Nam Á.

Tàu hộ tống lớp Victory
Trước khi Formidable xuất hiện, các tàu hộ tống lớp Victory là lực lượng chống ngầm đầu tiên của Hải quân Singapore.

Năm 1983, Bộ Quốc phòng Singapore mua 6 chiếc loại này từ Đức. Lượng giãn nước của Victory là 600 tấn, dài 62m. Tàu có thể chạy với tốc độ tối đa 30 hải lý mỗi giờ.


RSS Victory đang bắn pháo 76mm trong cuộc diễn tập với hải quân Mỹ.

Hệ thống vũ khí trên tàu bao gồm tên lửa chống hạm Harpoon, tên lửa đối không Rafael Barak, ngư lôi chống ngầm Eurotop 2A44-S Mod 3, pháo hạm Oto Melara 76mm và cuối cùng là súng máy phòng không CIS 50 12,7mm.

Hiện tại, tất cả sáu chiếc loại này đều nằm trong biên chế liên đội tàu chiến 188 (Hải quân Singapore).

Tàu tuần tra lớp Fearless
Tàu tuần tra lớp Fearless được Hải quân Singapore tự đóng mới để thay thế những chiếc tàu tuần tiễu già cỗi.

Fearless có lượng giãn nước 500 tấn, tàu dài 55m. Vũ khí trang bị trên tàu bao gồm tên lửa đối không Mistral, ngư lôi chống ngầm Eurotop A244-S Mod 3 có tầm bắn 13,5km.

Tàu còn được trang bị pháo hạm Oto Melara 76mm và súng máy phòng không CIS 50 12,7 mm.


Tàu tuần tra lớp Fearless (RSS Resilience) trên biển.

Có tất cả 12 chiếc loại này được đóng, nhưng chỉ có sáu chiếc đầu tiên là được vũ trang ngư lôi A244 chống ngầm. Tất cả đều được biên chế trong hai liên đội tàu 182 và 189.

Tàu quét mìn lớp Bedok
Tàu quét mìn lớp Bedok được Thụy Sĩ thiết kế và chế tạo, có tất cả bốn chiếc đã được chuyển giao cho Hải quân Singapore. Hiện, Bedok được biên chế trong liên đội tàu chiến 194 của nước này.


Tàu quét mìn lớp Bedok tại quân cảng Changi.

Bedok có lượng giãn nước 360 tấn, tàu dài 47.5m. Tàu được vũ trang pháo phòng không Bofors 40mm, súng máy CIS 50 12.7mm. Đặc biệt, Bedok được lắp đặt máy xử lý bom mìn điều khiển từ xa ECA PAP 104 Mk5.

Tàu vận tải đổ bộ lớp Endurance
Tàu vận tải đổ bộ lớp Endurance được Hải quân Singapore tự thiết kế và đóng mới để thay thế tàu đổ bộ lớp County cũ kĩ. Endurance có lượng choán nước lên tới 6000 tấn, là loại tàu lớn nhất của nước này.

Tàu dài 141m, thủy thủ đoàn 65 người, Endurance đạt tốc độ tối đa 20 hải lý mỗi giờ. Tàu có khả năng chở 18 xe tăng và binh lính, đồng thời trên boong tàu phía sau còn có sân đỗ cho hai trực thăng hạng trung.

Hệ thống phòng vệ của tàu bao gồm tên lửa đối không Mistral, súng máy CIS 50 12.7mm và pháo hạm Oto Melara 76 mm.


Tàu vận tải đổ bộ lớp Endurance.

RSS Endurance đã trở thành chiếc tàu hải quân đầu tiên của Singapore thực hiện chuyến đi vòng quanh trái đất để tới tham gia cuộc tập trận hải quân quốc tế tại thành phố New York, Mỹ, năm 2000.

Chúng cũng tham gia tích cực vào các hoạt động cứu trợ nhân đạo, điển hình như ở Đông Timor, vịnh Ba Tư và đợt sóng thần ở tỉnh Aceh, Indonesia.

Hiện nay, Hải quân Singapore đang sở hữu bốn chiếc tàu Endurance. Tất cả đều được biên chế chính thức trong liên đội tàu 191-Hải quân Singapore.

Tàu ngầm lớp Challenger
Năm 1995, Singapore đã mua được một tàu ngầm lớp Challenger từ Hải quân Thụy Điển. Năm 1997, thêm ba chiếc nữa đã được chuyển giao. Những chiếc Challenger là vốn liếng đầu tiên của lực lượng tàu ngầm Hải quân Singapore.

Challenger dài 51m, tàu có lượng choán nước 1.130 tấn (trên mặt biển) và 1.200 tấn (dưới mặt biển).


Tàu ngầm lớp Challenger.

Hệ thống vũ khí của Challenger bao gồm bốn máy phóng ngư lôi 533mm và hai máy phóng 400mm. Số lượng thủy thủ trên tàu gồm 18 thành viên.

Trước khi được chuyển giao cho Singapore, phía Thụy Điển đã thực hiện nâng cấp tàu để phù hợp với khí hậu vùng biển nhiệt đới, đồng thời cũng tiến hành lắp đặt thêm một số thiết bị khác như điều hòa không khí, hệ thống ống dẫn chống ăn mòn…

Hiện tại, cả bốn chiếc lớp Challenger đều nằm trong liên đội tàu số 171 của nước này.

Tàu ngầm lớp Archer
Tháng 4/2005, Bộ Quốc phòng Singapore ký hợp đồng đồng ý mua hai chiếc tàu ngầm lớp Archer từ Thụy Điển. Chiếc đầu tiên RSS Archer được hạ thủy ngày 16/9 vừa qua và đang thực hiện các cuộc thử nghiệm.

Tàu ngầm lớp Archer có lượng choán nước 1.400 tấn (trên mặt biển) và 1.500 tấn (dưới mặt biển). Chiều dài của con tàu là 60,5m. Số lượng thủy thủ đoàn trên tàu là 28.

Tốc độ tối đa của Archer khi lặn là 15 hải lý mỗi giờ. Đặc biệt, tàu được trang bị hệ thống động cơ chạy khí độc lập, nhờ đó cho phép tàu ngầm có khả năng lặn sâu và gây ra tiếng ồn thấp tăng thêm khả năng tàng hình.


Hạ thủy RSS Archer tại Thụy Điển.

Hệ thống định vị siêu âm tiên tiến giúp dò tìm mục tiêu ở khoảng cách xa. Và cuối cùng, Archer được trang bị 9 máy phóng ngư lôi cỡ 533 mm và 400 mm.

Thực tế, Archer đã phục vụ trong Hải quân Thụy Điển 20 năm, nên trước khi đến Singapore, nó đã được nâng cấp để phù hợp với khí hậu vùng biển nhiệt đới và lắp thêm một số trang thiết bị kĩ thuật khác.

Dự kiến, Archer sau khi hoàn tất các cuộc thử nghiệm, sẽ đi vào hoạt động năm 2010. Archer sẽ dần thay thế đội tàu Challenger vốn có tuổi đời 40 năm.

(tổng hợp)

Copyright 2012 Tin Tức Quân Sự - Blog tin tức Quân Sự Việt Nam
 
Lên đầu trang
Xuống cuối trang