Tin Quân Sự - Blog tin tức Quân sự Việt Nam: Không quân Ấn Độ

Paracel Islands & Spratly Islands Belong to Viet Nam !

Quần Đảo Hoàng Sa - Quần Đảo Trường Sa Thuộc Về Việt Nam !

Hiển thị các bài đăng có nhãn Không quân Ấn Độ. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Không quân Ấn Độ. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 9 tháng 10, 2012

>> Chiến tranh với Trung Quốc - Ấn Độ đóng vai trò chủ chốt ?

Tư lệnh Không quân Ấn Độ nhấn mạnh vai trò mới của Không quân nước này nếu có đối đầu quân sự với Trung Quốc.

>> Độc chiêu khống chế Trung Quốc của Ấn Độ


Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com

Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Máy bay chiến đấu Su-30MKI của Không quân Ấn Độ.

Tờ “Central News Agency” (CNA) dẫn lời Tư lệnh Không quân Ấn Độ N.A.K. Browne ngày 6/10 cho biết, nếu không quân nước này đóng vai trò mang tính tấn công trong chiến tranh biên giới Ấn-Trung năm 1962 thì kết quả đã khác nhiều.

Chiến tranh biên giới Ấn-Trung năm 1962 là trận "thua" duy nhất của Ấn Độ sau độc lập năm 1947, nay (2012) đã tròn 50 năm. Không quân Ấn Độ khi đó chỉ đóng vai trò tiếp tế cho lực lượng mặt đất, không đóng vai trò tấn công quân địch. Rất nhiều nhà nghiên cứu lịch sử phê phán sai lầm chính sách của nhà cầm quyền, dẫn đến thua trận.

N.A.K. Browne, Tư lệnh Không quân Ấn Độ ngày 6/10 đã trả lời phỏng vấn tờ “Mail Today”. Phóng viên đặt câu hỏi rằng, nếu Không quân Ấn Độ được phép tấn công đối với Quân đội lục địa Trung Quốc khi đó, kết quả chiến tranh phải chăng sẽ khác?

Browne cho rằng: “Nếu Không quân tham chiến, kết quả sẽ khác”.


Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Ấn Độ đã mua 126 máy bay chiến đấu Rafale của Pháp.

Ông đặc biệt nhấn mạnh, cuốn hồi ký “Himalayan Blunder” (Sách lược sai lầm Himalayas) của John Dalvi, chỉ huy Lữ đoàn 7 Lục quân Ấn Độ bị Quân đội Trung Quốc bắt làm tù binh khi đó, đã viết rất rõ về vấn đề này. Ông nói: “Lần sau sẽ không có hạn chế này. Cho dù khu vực nào, đối đầu với ai, Không quân Ấn Độ đều sẽ đóng vai trò chủ đạo”.

Browne còn nói, trong chiến tranh Kargil (Kargil War) năm 1999, nếu Không quân Ấn Độ không tham gia tấn công lực lượng Pakistan, chiến tranh kéo dài nhiều nhất 3 tháng. Ông còn cho biết, Không quân Ấn Độ đang từng bước hoàn thành nhiều mục tiêu hiện đại hóa, có thể hứa hẹn tăng cường khả năng chiến đấu ở biên giới phía tây, phía bắc và phía đông.

>> Không quân Trung Quốc - Pakistan gộp lại cũng khó địch nổi Ấn Độ

Theo bài báo, Không quân Ấn Độ đã triển khai 2 phi đội máy bay chiến đấu Su-30MKI (Sukhoi-30MKI) ở biên giới phía đông, 2 phi đội khác sẽ nhanh chóng gia nhập. Hơn nữa, Ấn Độ mua 126 máy bay chiến đấu Rafale của Pháp, trong đó sẽ triển khai một phần ở phía đông. Ngoài ra, Không quân Ấn Độ còn quyết định triển khai 6 máy bay vận tải C-130J Super Hercules ở tỉnh phía đông, ngoài phụ trách biên phòng đông bắc, phạm vi nhiệm vụ còn bao trùm cả quần đảo Andaman.

Trước đó, Tổng Tư lệnh Lục quân Ấn Độ Bikram Singh từng nói rằng, chiến tranh biên giới Ấn-Trung sẽ không tái diễn.


Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Máy bay vận tải chiến thuật C-130J Super Hercules của Ấn Độ

Thứ Năm, 29 tháng 3, 2012

>> Đánh giá mạnh yếu của Ấn Độ qua lời tướng TQ


Năm 2012, chi phí quân sự của Ấn Độ sẽ tăng 17% và đạt 1,93 ngàn tỷ rupi, tức gần 38,6 tỷ USD.

Hãng tin “Tiếng nói Trung Quốc” đưa tin, trong năm tới, chi phí quân sự của Ấn Độ sẽ tăng 17% và đạt 1,93 ngàn tỷ rupi, tức gần 38,6 tỷ USD. Nhưng kể có tăng như các nguồn tin quân sự Ấn Độ loan tin thì cũng không đủ để thỏa mãn các nhu cầu của quân đội nước này.

Dưới đây là bình luận của cục trưởng cục công nghệ thông tin quân đội Trung Quốc, thiếu tướng Yin Zhuo về vấn đề này.





http://nghiadx.blogspot.com
Ấn Độ tăng mạnh chi phí quốc phòng để đối phó với Trung Quốc và Pakistan


Tướng Yin cho rằng, chi phí quân sự Ấn Độ tăng nhanh là do hai nguyên nhân.

Một là nhờ sự tăng trưởng kinh tế của nước này. Trong 10 năm gần đây, kinh tế Ấn Độ tăng trưởng nhanh mặc dù hơi chậm lại vào năm 2011. Xét về tổng GDP, Ấn Độ có khả năng vượt qua Anh và Pháp.

Hai là Ấn Độ có “những ước mơ lớn”. Gần đây, nước này có những nỗ lực to lớn để trở thành ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an LHQ. Quy chế này đặt ra những yêu cầu cao: cần phải có vị thế ngoại giao và kinh tế cao, cụ thể là nước này phải có tiềm lực quân sự tương ứng để duy trì vị thế đại cường. Được Ấn Độ liệt vào số các nhiệm vụ cục bộ là duy trì ưu thế quân sự với Pakistan.

Những yếu tố đó đã dẫn tới việc trong 10 năm qua, Ấn Độ đã tăng gấp đôi chi phí quân sự của mình.

Để tăng cường tiềm lực quân sự, Ấn Độ cố gắng mua thật nhiều vũ khí trang bị hiện đại từ nước ngoài. Theo số liệu của Viện Nghiên cứu hòa bình Stockholm, từ năm 2006, Ấn Độ đã trở thành nước nhập khẩu vũ khí trang bị lớn nhất thế giới.

Ông Yin Zhuo đánh giá, số lượng lớn vũ khí trang bị mua từ nước ngoài có thể nâng cao sức mạnh quân sự Ấn Độ trong tương lai ngắn hạn, nhưng trong tương lai dài hạn, Ấn Độ sẽ buộc phải phát triển tích cực hơn công nghiệp quốc phòng của mình nếu không muốn vấp phải “vòng luẩn quẩn bất tận của những điều khó chịu”.

Ấn Độ đang cố “đi tắt”. Bằng cách mua sắm vũ khí trang bị nước ngoài, nước này đang nỗ lực xây dựng công nghiệp quốc phòng hiện đại. Ví dụ, với sự hỗ trợ của các công nghệ nước ngoài, Ấn Độ đang đóng các tàu sân bay, tàu chiến mặt nước cỡ lớn và tàu ngầm. Việc tự lực phát triển các loại vũ khí chủ yếu có thể mất trung bình 15 năm, còn phát triển các loại vũ khí trang bị công nghệ cao như máy bay tiêm kích và tàu ngầm có thể mất 20 năm hoặc lâu hơn. Vì vậy, Ấn Độ đang cố gắng mua sắm các vũ khí trang bị hiện đại và trang bị thật nhanh cho quân đội của họ.

Ở các lĩnh vực như máy bay chỉ huy/báo động sớm, máy bay tuần tra chống ngầm, máy bay tác chiến điện tử, Ấn Độ dựa vào mua sắm các phương tiện hiện đại của nước ngoài, điều này có thể giúp Ấn Độ có sự đột phá lớn trong lĩnh vực các hệ thống thông tin quân sự. Đây là mặt tốt của “đi tắt”.

Bên cạnh đó, một nước lớn như Ấn Độ đòi hỏi nhiều vũ khí trang bị hơn, điều không thể thỏa mãn chỉ bằng cách mua sắm từ nước ngoài. Ngoài ra, cũng có nguy cơ trở thành “con tin của phụ tùng nước ngoài”, điều có thể có hậu quả chết người một khi xảy ra chiến tranh. Trong cuộc chiến với Pakistan, Ấn Độ đã từng nếm trái đắng từ việc phong tỏa của nước ngoài (cấm vận vũ khí).

Là một nước đang khát khao trở thành ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an LHQ, Ấn Độ phải có nền công nghiệp quốc phòng phát triển mạnh. Nhưng vấn đề là ở chỗ nền kinh tế Ấn Độ phát triển mất cân đối. Chẳng hạn, công nghiệp phần mềm máy tính của họ đang phát triển nhanh, nhưng các ngành công nghiệp truyền thống thì tụt hậu. Cụ thể, Ấn Độ đang tụt hậu về sản xuất thép kỹ thuật và các hợp kim đặc biệt, các cơ sở sản xuất hàm lượng khoa học cao yếu ớt, thiếu kỹ sư và công nhân tay nghề cao, điều có tầm quan trọng sống còn để xây dựng một tổ hợp công nghiệp quốc phòng mạnh. Vì vậy, việc phát triển các hệ thống vũ khí lớn công nghệ cao diễn ra cực kỳ khó khăn.

Sai lầm của Ấn Độ là trong một thời gian dài, nước này giống như một nước nhỏ và trung bình đã dựa vào việc mua sắm vũ khí nước ngoài, nên khi họ muốn trở thành “nước lớn” thì sự kém phát triển của công nghiệp quốc phòng của họ đã gây ra “những khó khăn bất tận”, tướng Yin Zhuo kết luận.
Tướng Doãn Trác :  Ấn Độ phụ thuộc vào mua vũ khí sẽ vỡ mộng nước lớn

Trong điều kiện chiến tranh, chỉ cần một lời nói gây bất hòa hoặc ý thức chính trị mâu thuẫn, lập tức tiến hành phong tỏa công nghệ, bao gồm phụ thùng thay thế. Khi đó, những trang bị chủ yếu được nhập khẩu này đều trở thành đống sắt vụn, cơ bản không thể sử dụng.

http://nghiadx.blogspot.com
Máy bay chiến đấu Su-30MKI của Không quân Ấn Độ, do Nga chế tạo.


Tờ “Phương Đông” dẫn các nguồn tin cho biết, gần đây Chính phủ Ấn Độ tuyên bố, trong năm tài chính tiếp theo, chi tiêu quân sự của Ấn Độ sẽ tăng 17%, lên tới 1.930 tỷ rupee, khoảng 38,6 tỷ USD. Nguồn tin từ Quân đội Ấn Độ cho biết, tốc độ tăng như vậy không thể đáp ứng nhu cầu của Quân đội Ấn Độ.

Như vậy, nhu cầu nội tại để Ấn Độ duy trì tăng trưởng chi tiêu quân sự cao đến từ đâu? Những vũ khí trang bị được Ấn Độ nhập khẩu từ nhiều nước sẽ phát huy hiệu quả như thế nào trong chiến đấu thực tế? Về vấn đề này, nhà quan sát quân sự, Chủ nhiệm Ủy ban Tư vấn Thông tin hóa – Hải quân Trung Quốc, Thiếu tướng Doãn Trác đã có bài trả lời phỏng vấn báo chí.

Có vật chất là có giấc mơ, Ấn Độ tăng lớn chi tiêu quân sự trong mười mấy năm

Những năm gần đây, Ấn Độ đã duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế tương đối nhanh, từ đó duy trì tăng trưởng chi tiêu quân sự cao, đã có được nền tảng vật chất.

Đồng thời, Ấn Độ - nước luôn có “mộng nước lớn” lấy phát triển sức mạnh quân sự làm một phương diện quan trọng để nâng đỡ cho vị thế nước lớn của họ.

Doãn Trác cho rằng, sự tăng trưởng nhanh chóng về chi tiêu quốc phòng của Ấn Độ trong mấy năm qua chủ yếu dựa trên nguyên nhân trên 2 phương diện:

Thứ nhất, nền tảng vật chất. Nền kinh tế Ấn Độ về cơ bản có triển vọng tốt đẹp, mặc dù năm 2011 phát triển có giảm chút ít, nhưng trước đây về cơ bản đã duy trì được giai đoạn tăng trưởng tốc độ cao 10 năm. Sức mạnh kinh tế Ấn Độ đang mở rộng nhanh chóng, GDP hiện nay đã vươn lên khoảng vị trí thứ 7 của thế giới, có thể vượt Anh, Pháp.

Chi tiêu dùng cho lĩnh vực quốc phòng của Ấn Độ có thể nhiều hơn nữa. Cho nên, đây là nền tảng vật chất để Ấn Độ duy trì tốc độ tăng trưởng tương đối cao về chi tiêu quân sự.

http://nghiadx.blogspot.com
Máy bay chiến đấu của Không quân Ấn Độ.

Thứ hai, giấc mộng nước lớn. Từ thời kỳ Nehru đã từng đề xuất, Ấn Độ hoặc là một quốc gia rất xuất sắc trên thế giới, hoặc là một nước không ai biết đến.

Những năm gần đây, Ấn Độ tìm cách trở thành thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an, có các động thái rất mạnh.

Muốn trở thành thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an, phải có vị thế ngoại giao, kinh tế tương ứng, đặc biệt là phải có vị thế quân sự, sức mạnh quốc phòng để nâng đỡ cho vị thế nước lớn.

Đồng thời, Ấn Độ cơ bản ở trong một trạng thái sức ép cao ở toàn bộ khu vực Nam Á, trong đó có Ấn Độ Dương và các nước láng giềng.

Muốn ra sức mở rộng khoảng cách về quân sự với các nước xung quanh, đặc biệt là Pakistan, đây là một tư tưởng chỉ đạo quan trọng của quốc phòng-an ninh Ấn Độ.

Vì vậy, sự kết hợp giữa giá đỡ vật chất (có được tự nền tảng kinh tế) và giấc mộng nước lớn, làm cho chi tiêu quân sự của Ấn Độ mười mấy năm qua luôn duy trì tăng trưởng hai con số.

Phương Đông Báo: Vũ khí trang bị của Ấn Độ “đi đường tắt” thực ra cực kỳ có hại?

Cùng với việc mở rộng quy mô của nền kinh tế, Ấn Độ muốn thông qua mua sắm vũ khí trang bị tiên tiến để đạt mục tiêu nhanh chóng thực hiện hiện đại hóa vũ khí trang bị, trở thành cường quốc quân sự trên thế giới.

Theo báo cáo của Viện Nghiên cứu Hòa bình Quốc tế Stockholm Thụy Điển, từ năm 2006 Ấn Độ luôn là nước nhập khẩu vũ khí trang bị lớn nhất thế giới.


http://nghiadx.blogspot.com
Tàu sân bay Gorshkov đang được Nga cải tạo cho Ấn Độ.


Doãn Trác cho rằng, Ấn Độ thông qua phương thức mua sắm lượng lớn vũ khí trang bị của nước ngoài để tăng cường sức mạnh quân sự, nhìn vào ngắn hạn, sức mạnh kinh tế có thể nhanh chóng chuyển hóa thành sức mạnh quốc phòng, nhưng nhìn về dài hạn, sẽ có hại vô cùng.
Ấn Độ đã áp dụng biện pháp “đi đường tắt”. Những nước vừa và nhỏ bình thường áp dụng biện pháp “đi đường tắt”, bởi vì trong tình hình hệ thống công nghiệp chế tạo, hệ thống công nghiệp quốc phòng không hoàn chỉnh, không thể tiến hành tự nghiên cứu phát triển và chế tạo những vũ khí tác chiến chủ yếu cỡ lớn, buộc phải mua của nước ngoài.

Ấn Độ chủ yếu đã áp dụng phương thức phát triển của các nước vừa và nhỏ, chẳng hạn, tàu chiến, tàu ngầm hạt nhân, tàu sân bay về cơ bản đều mua của nước ngoài.

Đi con đường này có một cái hay là trong vài năm sức mạnh quốc phòng của họ có thể có một bước tiến mới, tức là sức mạnh kinh tế có thể thông qua “đi đường tắt” chuyển hóa tương đối nhanh chóng thành sức mạnh quốc phòng.

Nếu là mua vũ khí tác chiến mới của nước ngoài, trải qua 5 – 7 năm huấn luyện và nội địa hóa một bộ phận linh kiện là có thể trang bị cho quân đội. Trong 5 – 7 năm, sức mạnh kinh tế lập tức chuyển hóa thành sức mạnh quốc phòng, chuyển hóa thành ưu thế trên chiến trường, điều này rất quan trọng đối với Ấn Độ.


http://nghiadx.blogspot.com

Ấn Độ mua máy bay tuần tra chống tàu ngầm P-8I Poseidon của Mỹ.


Trong lĩnh vực thông tin hóa, chẳng hạn như máy bay cảnh báo sớm, máy bay tuần tra chống tàu ngầm, máy bay tác chiến điện tử, về cơ bản đều là mua của nước ngoài. Như vậy sẽ có thể giúp cho trình độ thông tin hóa có một bước tiến lớn.

Đây là một mặt tốt của “đi đường tắt”

Tuy nhiên, đối với một nước lớn, cần lượng trang bị tương đối lớn, không thể luôn mua của nước ngoài. Bởi vì, phải mua trang bị của nước ngoài, bạn lại muốn làm một nước lớn, vị thế không thể được bảo đảm.

Trong điều kiện chiến tranh, chỉ cần một lời nói gây bất hòa hoặc ý thức chính trị mâu thuẫn, lập tức tiến hành phong tỏa công nghệ, bao gồm phụ thùng thay thế. Khi đó, những trang bị chủ yếu được nhập khẩu này đều trở thành đống sắt vụn, cơ bản không thể sử dụng.

Trong cuộc chiến tranh với Pakistan, Ấn Độ từng nếm phải quả đắng phong tỏa của nước ngoài.

Là một nước lớn, muốn trở thành thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an, phải xây dựng được hệ thống công nghiệp quốc phòng của mình. Muốn xây dựng hệ thống công nghiệp quốc phòng thì phải có hệ thống công nghiệp, hệ thống ngành chế tạo hoàn chỉnh.


http://nghiadx.blogspot.com
 Máy bay cảnh báo sớm AWACS của Không quân Ấn Độ, mua của Israel.


Sự phát triển kinh tế của Ấn Độ hoàn toàn không cân bằng. Sự phát triển ngành công nghiệp phần mềm máy tính của họ tương đối nhanh, thu nhập từ thương mại nước ngoài cũng tương đối cao.

Nhưng ngành chế tạo tương đối không hoàn chỉnh, thép vật liệu thì có thể, nhưng thép có tính năng cao dùng cho công nghiệp quốc phòng và vật liệu đặc biệt cần cho ngành chế tạo cao cấp, bao gồm các năng lực cần thiết, hạ tầng cơ sở, kỹ sư và công nhân cũng rất thiếu thốn, đồng thời chưa xây dựng được hệ thống ngành chế tạo hoàn chỉnh, như vậy sẽ không thể nâng đỡ được hệ thống công nghiệp độc lập.
Vì vậy, muốn nghiên cứu chế tạo ra các loại vũ khí trang bị cỡ lớn cũng rất khó khăn.

Điều này có liên quan đến sai lầm trong hoạch định chính sách của Chính phủ Ấn Độ, đánh đồng mình với các nước vừa và nhỏ, không phải nhìn với tư các một nước lớn. Là một nước lớn, đi con đường này, về lâu dài sẽ rất có hại.

Thứ Hai, 19 tháng 3, 2012

>> Không quân Trung Quốc - Pakistan gộp lại cũng khó địch nổi Ấn Độ


Trong cuộc đối đầu với Ấn Độ có thể xảy ra, Không quân Trung Quốc có nhiều hạn chế về thế hệ máy bay, khoảng cách địa lý và yếu tố địa hình...

Ngày 7/3, tờ “Bình luận Quốc phòng Ấn Độ” có bài viết cho rằng, mặc dù số lượng máy bay chiến đấu của Không quân Trung Quốc đã tăng lên khoảng 1687 chiếc, nhưng những máy bay chiến đấu này phần lớn là máy bay chiến đấu thế hệ thứ hai và thứ ba, hơn nữa những máy bay chiến đấu này cơ bản không có kinh nghiệm chiến đấu thực tế, trừ việc tham gia cuộc diễn tập chung giữa Trung Quốc-Thổ Nhĩ Kỳ.

Điều quan trọng hơn là, về phương diện tác chiến đối với Ấn Độ, do biên giới Trung-Ấn cách các căn cứ bên trong nội địa tương đối xa, cộng với lượng tải đạn hiệu quả của máy bay chiến đấu rất có hạn khi hoạt động tại các sân bay ở Tây Tạng, khu vực có độ cao lớn so với mặt nước biển, cho nên khả năng tấn công thực tế của chúng có hạn.


http://nghiadx.blogspot.com
Máy bay chiến đấu J-7 của Trung Quốc.


Bài viết cho rằng, trong thời gian chưa đến 20 năm, sức mạnh của Không quân Trung Quốc đã có sự phát triển nhanh chóng, vượt xa so với trình độ thập niên 1980.

Hơn nữa, khác với dự đoán của phương Tây, Trung Quốc sử dụng khéo léo các ảnh hưởng từ kinh tế và ngoại giao của họ, cải cách Không quân Trung Quốc thành một lực lượng không quân hiện đại.

Trung Quốc không chỉ chú trọng đến máy bay chiến đấu, mà còn nghiên cứu phát triển, chế tạo và nỗ lực sao chép thiết kế của nhiều loại vũ khí và tên lửa phóng từ máy bay, thiết kế của máy bay vận tải, máy bay trực thăng và máy bay không người lái/máy bay chiến đấu không người lái… mua từ Nga và các nước khác.

Trung Quốc có nguồn vốn đầy đủ, có thể giành được bất cứ vũ khí nào mà họ muốn có từ Nga. Tuy nhiên, những nỗ lực của Trung Quốc nhằm chế tạo động cơ phản lực AL-31F (cho máy bay chiến đấu Su-30) tại nước mình vẫn chưa thành công.

Song, phần lớn các nhà quan sát Trung Quốc đều tin rằng, công việc này có thể sẽ giành được thành công trong vài năm nữa. Khi đó, Trung Quốc sẽ trở thành một trong những nước tiên tiến có thể chế tạo động cơ phản lực hiện đại.

http://nghiadx.blogspot.com
Máy bay vận tải Y-8 của Trung Quốc.


Theo bài báo, ngoài ra, Trung Quốc đã cải tạo thành công máy bay vận tải An-12 (Y-8) thành một loại máy bay kiểm soát và cảnh báo sớm trên không (AEW&C), đã lắp thêm động cơ mạnh hơn, cánh quạt mới và thiết bị điện tử hàng không hiện đại. Trung Quốc cũng đã tự sản xuất một loại máy bay trực thăng vũ trang – WZ-10.

Ngoài ra, Trung Quốc sở hữu khoảng 100 máy bay ném bom H-6, máy bay này đã cải tạo trên nền tảng máy bay ném bom Tu-6 kiểu cũ thập niên 1950, được lắp động cơ D-30KP mạnh hơn do Nga chế tạo. Hiện nay, H-6 được dùng để tiến hành tiếp dầu trên không, trinh sát điện tử và phóng tên lửa hành trình chống hạm trong tình hình có mối đe dọa.

Trung Quốc cũng đã bay thử máy bay chiến đấu tàng hình thế hệ thứ năm J-20, đồng thời tin là có thể trang bị máy bay chiến đấu này trong vòng 10 năm tới.

Sức chiến đấu của Không quân Trung Quốc bị hạn chế do độ cao so với mặt biển và khoảng cách

Báo cáo “Cân bằng sức mạnh quân sự 2011” mới nhất của Viện Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế Anh (IISS) cho biết, số lượng máy bay chiến đấu của Không quân Trung Quốc từ 1653 chiếc năm 2010 tăng lên khoảng 1687 chiếc.

Hiện nay, công nghiệp hàng không Trung Quốc có khả năng mỗi năm sản xuất 40-50 máy bay chiến đấu hiện đại. Hơn nữa, Trung Quốc cũng đã giảm nhiều sự phụ thuộc vào sự hỗ trợ công nghệ của Nga.

http://nghiadx.blogspot.com
Máy bay ném bom H-6H của Trung Quốc.


Nhưng, Không quân Trung Quốc hầu như không có kinh nghiệm tác chiến, hơn nữa ngoài việc cử vài chiếc máy bay tham gia cuộc diễn tập không quân với Thổ Nhĩ Kỳ năm 2011, Không quân Trung Quốc chưa từng tổ chức tập trận với không quân các nước khác.

Nếu coi chủng loại và kiểu cỡ (liên quan đến vũ khí, đặc biệt là tên lửa hành trình, máy bay không người lái, máy bay chiến đấu không người lái) và hệ thống trong không gian (như hệ thống định vị toàn cầu/hệ thống vệ tinh dẫn đường toàn cầu GLONASS, vệ tinh do thám) là một biểu tượng, thì tình hình cho thấy, Không quân Trung Quốc tuyệt đối không thua kém không quân các nước khác trên phương diện yếu lĩnh thông hiểu cách sử dụng lực lượng không quân hiện đại.

Tuy nhiên, 1687 máy bay chiến đấu này phần lớn là máy bay chiến đấu thế hệ thứ hai và thứ ba. Ngoài khoảng 144 máy bay J-10, 243 máy bay Su-27/30 và 72 máy bay JH-7A, còn lại đều là máy bay chiến đấu J-7, J-8 thế hệ cũ.

http://nghiadx.blogspot.com
Máy bay chiến đấu JH-7A của Trung Quốc.

Ngoài ra, liên đội hàng không của Hải quân Trung Quốc sở hữu khoảng 311 máy bay chiến đấu, trong đó bao gồm 24 máy bay chiến đấu Su-30 Flanker và 84 máy bay ném bom chiến đấu JH-7, còn lại là máy bay phiên bản thay đổi của J-7 và J-8.

Có khoảng 15 máy bay chiến đấu J-15 (phiên bản Trung Quốc của máy bay chiến đấu Su-33) sẽ được triển khai cho tàu sân bay Varyag của Hải quân Trung Quốc.

Mặc dù Không quân và Hải quân Trung Quốc có số lượng máy bay chiến đấu thế hệ thứ ba tương đối lớn, thậm chí máy bay chiến đấu tiên tiến có số lượng nhiều hơn một chút, nhưng những máy bay chiến đấu này có được dùng để thực hiện nhiệm vụ truyền thống hay không vẫn còn chưa biết.

Xét thấy quan điểm “không đánh mà khuất phục được người khác” của “Binh pháp Tôn Tử” có sức ảnh hưởng rất lớn, vị thế chủ đạo của Lục quân Trung Quốc và kinh nghiệm tác chiến tương đối có hạn của Không quân Trung Quốc, việc dựa dẫm của tầng lớp lãnh đạo Trung Quốc vào lực lượng tên lửa của nước này có thể sẽ cao hơn mức bình thường.

Những vũ khí có số lượng rất nhiều này có thể sẽ được dùng cho giai đoạn bắt đầu của cuộc xung đột biên giới, qua đó truyền đi quyết định chính trị của Trung Quốc và duy trì tiêu hao mức độ thấp.

http://nghiadx.blogspot.com
J-10 Trung Quốc.


Do yếu tố địa hình, cách các sân bay ở Tứ Xuyên và Vân Nam rất xa (khoảng cách từ nam Tây Tạng đến Thành Đô – Tứ Xuyên và Côn Minh – Vân Nam là 1.600 – 1.800 km), hơn nữa do tác động của độ cao so với mặt nước biển của các sân bay ở Tây Tạng, cho nên các hoạt động tác chiến của máy bay chiến đấu cất cánh từ sân bay Tây Tạng bị hạn chế. Điều này có thể sẽ buộc Trung Quốc phụ thuộc vào tên lửa thông thường.

Ngoài ra, khi máy bay Trung Quốc ngắm chuẩn các mục tiêu trong biên giới của Ấn Độ, việc thông qua không phận của Myanmar và Bangladesh cũng có vấn đề.

Nhìn vào khoảng cách thẳng tắp, thành phố Mandalay của Myanmar cách Calcutta 805 km, cách Tawang 821 km, cách Chennai 1.913 km. Hơn nữa, căn cứ ở đảo Great Coco của Myanmar chỉ có một đường băng dài 1.300 m, ở đây cách cảng Blair của Ấn Độ chỉ 284 km.

Khả năng vận tải và tiếp nhiên liệu của Không quân Trung Quốc có hạn

Bài viết cho rằng, điều này phải chăng có nghĩa là Không quân Ấn Độ không thể chống lại được đối thủ được xem là mạnh này, bảo vệ không phận của Ấn Độ? Câu trả lời là phủ định. Như đã nói ở trên, do biên giới Trung-Ấn cách các căn cứ trong nội địa tương đối xa, cộng thêm lượng tải đạn của máy bay chiến đấu bị hạn chế nghiêm trọng ở các sân bay ở Tây Tạng - khu vực có độ cao so với mặt nước biển lớn, vì vậy khả năng tấn công thực tế có hạn.

http://nghiadx.blogspot.com
Máy bay chiến đấu J-11 của Trung Quốc.

Không quân Trung Quốc có vài chiếc máy bay vận tải IL-76 và 10 chiếc máy bay tiếp dầu Tu-160 được tân trang. Nhưng, hiệu suất, tình hình huấn luyện và khả năng sử dụng của những máy bay này vẫn không được chắc chắn lắm.

Nếu Hải quân Trung Quốc và Ấn Độ xảy ra xung đột, Không quân Ấn Độ có thể sẽ nhận lệnh tham chiến. Xét tới hành trình của máy bay, Không quân Ấn Độ sẽ buộc phải điều động biên đội máy bay chiến đấu Su-30 có sự hỗ trợ của máy bay tiếp dầu trên không (FRA).

Theo bài báo, biên đội máy bay tiếp dầu của Không quân Trung Quốc có quy mô không đủ, huấn luyện cũng thiếu, không thể bù đắp cho những hạn chế khi hoạt động ở các sân bay có độ cao so với mặt nước biển lớn. Ngoài ra, các sân bay ở Tây Tạng rất dễ trở thành mục tiêu của Không quân Ấn Độ, vì vậy rất dễ bị tấn công.

Hiện nay, Không quân Ấn Độ có lượng máy bay chiến đấu khổng lồ và lượng nhỏ tên lửa thông thường lớp Prithvi. Biên đội máy bay chiến đấu Su-30MKI ở miền đông Ấn Độ đang từng bước cải tiến, cộng với máy bay Mirage 2000 và MiG-20, Ấn Độ có thể chống lại sự tấn công của bất cứ lực lượng nào của Không quân Trung Quốc đóng tại Ladakh và miền nam Tây Tạng.

Một khi biên đội máy bay chiến đấu Su-30MKI có đầy đủ sức mạnh, cộng với 126 máy bay chiến đấu đa dụng hạng trung và 40 máy bay chiến đấu hạng nhẹ Tejas được Không quân Ấn Độ nhập khẩu trong tương lai, tình hình của Ấn Độ chắc chắn sẽ được cải thiện. Đến năm 2020, Không quân Ấn Độ sẽ còn có triển vọng có được máy bay chiến đấu thế hệ thứ năm do Ấn-Nga hợp tác nghiên cứu chế tạo.

http://nghiadx.blogspot.com
Máy bay chiến đấu tàng hình J-20


Bài báo viết, trước đây, Ấn Độ không hy vọng lắm vào việc triển khai lực lượng không quân mang tính tấn công. Ví dụ, trong thời gian chiến tranh Trung-Ấn năm 1962, do sợ chiến sự leo thang, Ấn Độ không sử dụng lực lượng tác chiến của Không quân, cuối cùng đã bị thất bại.

Sau 37 năm, trong cuộc xung đột Kargil năm 1999, việc sử dụng Không quân Ấn Độ lạc hậu, hơn nữa do lo ngại chiến sự leo thang, hành động của Ấn Độ đã bị hạn chế. Vì vậy, lãnh đạo quân đội và chính trị Ấn Độ cần thiết phải chuẩn bị tốt cho việc thể hiện quyết tâm của Ấn Độ. Không có điều này, bất cứ vũ khí trang bị đắt giá nào đều vô ích.

Bài báo cho rằng, nếu Không quân Pakistan và Không quân Trung Quốc hợp tác phát động tấn công, chiến tuyến phân bổ các nguồn lực của Không quân Ấn Độ chắc chắn sẽ kéo dài. Nhưng, cho dù trong tình hình đó, Không quân Trung Quốc-Pakistan muốn giành được chiến thắng cũng không dễ dàng.

Khả năng Trung Quốc-Pakistan triển khai tấn công đồng bộ và phối hợp là rất nhỏ, nhưng Ấn Độ chắc chắn chuẩn bị tốt cho tình huống này.

Xuất phát từ các nguyên nhân, hiện nay Trung Quốc và Ấn Độ đều không thể triển khai một cuộc chiến tranh thông thường quy mô lớn.

Thứ nhất, mặc dù đối mặt với tình hình ngày càng tự tin của Pakistan, Ấn Độ cũng luôn tránh sử dụng vũ lực.

Thứ hai, đối với Trung Quốc, do gần đây Mỹ tái khẳng định lợi ích của họ ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương, cho nên tầm quan trọng chiến lược của Đài Loan và tranh chấp biển Đông phải lớn hơn nhiều.

Thứ ba, Trung Quốc không còn là quốc gia bị cô lập như thời kỳ đầu Chiến tranh Lạnh. Hiện nay, Trung Quốc là một nước lớn kinh tế quan trọng, có lợi ích thương mại ở các khu vực trên thế giới, chắc chắn phải duy trì hình tượng một nước lớn có trách nhiệm.

Thứ tư, việc nhập khẩu năng lượng và xuất khẩu của Trung Quốc phụ thuộc vào tuyến đường vận tải trên biển (đặc biệt là tuyến đường ở eo biển Malacca), đã làm hạn chế sự lựa chọn chiến lược của bản thân Trung Quốc.

Tuy nhiên, hiện nay hoàn toàn không thể loại trừ khả năng xảy ra xung đột nhỏ cục bộ ở biên giới Trung-Ấn do sự hiểu ngầm về tình hình như “Tuyến kiểm soát thực tế”.

Vì vậy, Ấn Độ cần lập tức đưa ra phản ứng quân sự/ngoại giao thận trọng, hạn chế thời gian và quy mô của cuộc xung đột nhỏ này. Đồng thời, Không quân Ấn Độ còn phải toàn lực tăng cường khả năng tự thân, đáp trả có hiệu quả và nhanh chóng đối với các đợt tấn công của Không quân Trung Quốc.

http://nghiadx.blogspot.com
Tên lửa đất đối đất chiến thuật Prithvi của Ấn Độ.


Tương lai có thể nổ ra xung đột mang tính khu vực

Bài báo cho rằng, tháng 8/2009, Tham mưu trưởng Hải quân Ấn Độ, Thượng tướng Sureesh Mehta nói rằng, Ấn Độ không tiến hành “đối kháng sức mạnh” với Trung Quốc, đề nghị Ấn Độ áp dụng phương án giải quyết có hàm lượng công nghệ hơn để ứng phó với các mối đe dọa, không nên chống lại nước đang trỗi dậy Trung Quốc.

Tháng 7/2011, Tham mưu trưởng Không quân Ấn Độ, Trung tướng PV Naik cho rằng, quy mô của Không quân Trung Quốc gấp 3 lần Không quân Ấn Độ.

Những quan điểm này có sự khác biệt rất lớn so với quan điểm của các quan chức quân sự Ấn Độ trong thời gian 1960-1691. Đến nay, Ấn Độ và Trung Quốc đều đã khác trước rất nhiều. Tuy Trung Quốc có thái độ cứng rắn, nhưng sử dụng vũ lực thực tế lại là một chuyện khác. Hơn nữa, cho dù hành động phòng thủ, sẵn sàng chiến đấu của Ấn Độ có chậm chạp thì cũng không còn bị động nữa.

http://nghiadx.blogspot.com
Máy bay chiến đấu Mirage 2000-5 do Pháp sản xuất. Ấn Độ sở hữu loại máy bay này.


Bài báo viết, hiện nay, Không quân Ấn Độ đang chế tạo radar có thể mang theo hạng nhẹ, cải thiện hạ tầng cơ sở sân bay, trang bị máy bay chiến đấu mới/máy bay không người lái/máy bay chiến đấu không người lái, hơn nữa hệ thống kiểm soát và cảnh báo trên không mang theo trên máy bay và máy bay tiếp dầu trên không đã tăng cường rất lớn sức mạnh trên không.

Điều không may là, tất cả những vũ khí trang bị này đều mua từ nước ngoài. Công nghiệp quốc phòng chiến lược của Trung Quốc đã giành được tiến bộ kinh ngạc, nhanh chóng bước vào hàng ngũ những nước sản xuất và xuất khẩu vũ khí chính. Tuy kinh tế Ấn Độ cũng đang tăng lên, nhưng khoảng cách sức mạnh với Trung Quốc vẫn luôn nới rộng.

Cuối cùng, mặc dù Trung Quốc và Ấn Độ là láng giềng, điều may mắn là, Quân đội hai nước hiện vừa không xảy ra xung đột, vừa không triển khai cạnh tranh. Yếu tố địa lý vẫn sẽ phát huy vai trò quan trọng, hơn nữa có thể sẽ tạo ra xung đột trong tương lai, nhưng có thể chỉ là mang tính khu vực.

http://nghiadx.blogspot.com
Máy bay chiến đấu hạng nhẹ Tejas (LCA) do Ấn Độ tự sản xuất, do Cục Phát triển Hàng không Ấn Độ (Aeronautical Development Agency) phụ trách nghiên cứu phát triển. Tejas bay thử có tốc độ Ma1. 1, bay ở độ cao 11.000 m.

Chủ Nhật, 11 tháng 9, 2011

>> Hồ sơ cục thiết kế Sukhoi (kỳ 1)



Sukhoi là một trong những công ty thiết kế chiến đấu cơ hàng đầu thế giới. Các sản phẩm của Sukhoi trải khắp trong thành phần trang bị quân đội 50 quốc gia.

Kỳ 1: Lịch sử ra đời hoạt động của OKB Sukhoi

Đóng góp của Sukhoi trong chiến tranh Vệ Quốc

Tháng 9/1939, nhà thiết kế Pavel Sukhoi (1895-1975) thành lập cục thiết kế Sukhoi (OKB Sukhoi *). Vị trí ban đầu của cục đặt tại Kharkov (Ukraine), tuy nhiên Pavel Sukhoi tỏ ra không hài lòng về vị trí hiện tại nên quyết định chuyển về gần thủ đô Moscow (sân bay Modmoskovye).

Tháng 12/1941, Phát xít Đức phát động cuộc tấn công xâm lược Liên Xô. Chiến tranh Vệ quốc bùng nổ, tất cả các công ty công nghiệp quốc phòng Liên Xô dồn toàn lực sản xuất trang bị vũ khí cho Hồng Quân, OKB Sukhoi không là ngoại lệ.

Mẫu thiết kế tốt nhất mà OKB Sukhoi có được là máy bay cường kích Su-2 (được sản xuất gần 1.000 chiếc). Ngoài Su-2, OKB Sukhoi còn nghiên cứu dự án Su-1, Su-4, Su-5, Su-6 nhưng đều chỉ dừng lại ở mức thử nghiệm mà không đưa vào sản xuất hàng loạt.

Dẫu sao, những chiếc Su-2 đã góp công không nhỏ trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của nhân dân Liên Xô.

Dấu ấn Su-7

Sau chiến tranh thế giới thứ 2, công nghiệp hàng không quân sự bước vào thời kỳ phát triển máy bay động cơ phản lực. Ở giai đoạn này, OKB Sukhoi chỉ thực hiện hai dự án máy bay phản lực cận âm Su-9 và Su-15 nhưng đều bị hủy bỏ. Công lao lớn nhất của Sukhoi là ứng dụng một số công nghệ mới trong thiết kế máy bay: dù hãm để giảm quãng đường hạ cánh, ghế phóng khẩn cấp.

Giai đoạn 1949-1953, Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô buộc cục thiết kế Sukhoi phải giải thể. Có một số nguồn tin cho rằng, lãnh tụ Xô Viết Stalin không thích cá nhân ông Pavel Sukhoi. Sau khi vị Tổng bí thư Đảng Cộng Sản Liên Xô này qua đời, Pavel Sukhoi tái lập OKB Sukhoi.

Thời kỳ này, xu hướng phát triển chiến dấu cơ trên thế giới chuyển sang giai đoạn các loại máy bay có khả năng đạt vận tốc siêu âm. Vào tháng 9/1955, máy bay cường kích siêu âm đầu tiên của OKB Sukhoi Su-7 cất cánh thành công. Năm 1959, Su-7 chính thức đi vào phục vụ trong Không quân Xô Viết.


http://nghiadx.blogspot.com
Cường kích Su-7 biên chế trong Không quân Ấn Độ.


Su-7 thiết kế theo kiểu dáng cánh cụp, cửa hút khí nằm ở mũi (đặc trưng máy bay Xô Viết những năm 1950-1960), lắp một động cơ tuốc bin phản lực AL-7F cho phép chiếc máy bay đạt tốc độ siêu âm hơn 2.000km/h.

Tuy nhiên, tầm bay của Su-7 rất hạn chế, thể tích chứa nhiên liệu thấp. Dù được thiết kế cho nhiệm vụ tấn công mặt đất nhưng tải trọng vũ khí nhỏ (chỉ hơn 2.000kg).

Dẫu sao, Su-7 khá thành công trong lĩnh vực xuất khẩu, đã có 1.847 chiếc được chế tạo phục vụ rộng rãi ở 10 quốc gia trên thế giới.

Mãi tới những năm 1980, Su-7 mới bị loại khỏi hầu hết không quân các nước. Có thể nói không ngoa, Su-7 đã đặt nền móng đầu tiên tạo dựng thành công sau này cho OKB Sukhoi trong lĩnh vực chế tạo máy bay cường kích.

Tập tành chế tạo tiêm kích

Không chỉ tham gia thiết kế máy bay cường kích, OKB Sukhoi còn “chen chân” vào lĩnh vực tiêm kích đánh chặn.

Năm 1956, tiêm kích đánh chặn Su-9 cất cánh thành công lần đầu. Su-9 có kiểu dáng thân và đuôi tương tự Su-7 nhưng dùng kiểu cánh tam giác. Ngoại hình Su-9 rất giống với tiêm kích huyền thoại MiG-21.

Cũng như Su-7, Su-9 mắc những điểm yếu như tầm bay ngắn, khả năng mang vũ khí giới hạn. Sau Su-9, Sukhoi phát triển mẫu cải tiến Su-11 nhưng chỉ được chế tạo số lượng rất ít do những vấn đề kỹ thuật.

Tiếp đó, năm 1967 OKB Sukhoi trình làng tiêm kích đánh chặn Su-15 với một số sửa đổi trong thiết kế (chuyển cửa hút khí sang 2 bên thân).

Su-15 khá nổi tiếng nhưng không phải do có chiến tích hoành tráng mà là dính vào vụ bê bối bắn hạ máy bay chở khách KAL 007 (Hàng không quốc gia Hàn Quốc) năm 1983.

Su-17 tiếp nối Su-7

Điểm nhấn trong thiết kế chiến đấu cơ OKB Sukhoi những năm 1960-1970 là máy bay cường kích Su-17 – tiếp nối thành quả của Su-7.

Điểm đặc trưng của Su-17 sử dụng kiểu “cánh cụp cánh xòe’ do Viện khí động lực học trung ương (TsAGI) thiết kế. Cánh xòe ra để tạo lực nâng ở trần bay thấp, cánh cụp lại để tăng tốc độ.

Su-17 mang khối lượng vũ khí 4 tấn trên 10 giá treo. Những biến thể cải tiến sau này cho phép nó mang vũ khí tấn công chính xác cao.


http://nghiadx.blogspot.com
Su-22M4 (biến thể xuất khẩu của Su-17) biên chế trong Không quân Ba Lan.

Su-17 là mẫu máy bay thành công của OKB Sukhoi, gần 3.000 chiếc được sản xuất và xuất khẩu tới hơn 20 quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam (chính là các biến thể của Su-22).

Su-17 đi vào phục vụ chưa lâu, năm 1969 OKB Sukhoi giới thiệu cường kích cánh cụp cánh xòe Su-24. Năm 1975, cường kích Su-25 – “sát thủ diệt tăng” ra mắt. Cả hai loại phục vụ tích cực trong Không quân Nga và vài nước khác.

Mở đầu trường phái tiêm kích đa năng

Nối tiếp thành công của Su-17, giai đoạn 1970-1980 OKB Sukhoi để lại dấu ấn bằng thiết kế chiến đấu cơ chiếm ưu thế trên không Su-27.

Su-27 có tầm bay lớn, tải trọng vũ khí 8 tấn, tính cơ động linh hoạt cao. Ngoài thực hiện vai trò đối không bằng các loại tên lửa tầm ngắn tầm trung, Su-27 cũng thể hiện khả năng cường kích bằng bom và rocket không điều khiển nhưng còn nhiều hạn chế. Biến thể Su-27SM mang được vũ khí tấn công chính xác cao.

Su-27 là nguồn lợi chính của Sukhoi sau khi Liên Xô sụp đổ. Lãnh đạo Sukhoi lúc đó là Mikhail Simonov (>> xem thêm) tích cực tìm kiếm thực hiện hợp đồng xuất khẩu Su-27. Nhờ đó mà không quân nhiều nước trên thế giới mới có cơ hội tiếp cận một trong những loại chiến đấu cơ thế hệ thứ tư tiên tiến hàng đầu thế giới.

Đặc biệt, từ nền tảng Su-27 thì Sukhoi đã phát triển thành công nhiều biến thể cải tiến mạnh như Su-30, Su-33, Su-34 và Su-35.


http://nghiadx.blogspot.com
Niềm tự hào của OKB Sukhoi - chiến đấu cơ Su-27.


Những năm 1990, đi cùng xu hướng phát triển chung của thế giới Sukhoi tuy gặp nhiều khó khăn nhưng cũng tích tham gia phát triển máy bay chiến đấu thế hệ thứ 5.

Điển hình là máy bay thử nghiệm Su-47 Berkut với thiết kế cánh ngược độc đáo. Tuy nó chỉ dừng ở giai đoạn thử nghiệm nhưng nó đã đem lại cho Sukhoi nhiều kinh nghiệm quí giá. Và điều đó được hiện thực hóa ở Sukhoi PAK FA T-50.

Ngày 29/1/2010, nguyên mẫu chiến đấu cơ thế hệ thứ năm Sukhoi T-50 lần đầu cất cánh ở sân bay Komsomolsk on Amur Dzemgi. Sukhoi T-50 hứa hẹn sẽ tiếp tục đưa Sukhoi vươn tới thành công lớn hơn.

Sukhoi trong lĩnh vực dân sự

Không chỉ tham gia phát triển máy bay quân sự, Sukhoi còn “xông pha” vào lĩnh vực dân sự.

Kinh nghiệm phát triển chiến đấu cơ với khả năng thao diễn tuyệt vời, Sukhoi đưa vào ứng dụng thiết kế máy bay thể thao động cơ cánh quạt Sukhoi Su-26/29/31. Trong các cuộc thi ở Châu Âu và thế giới, đội bay của Sukhoi đã đạt được 330 huy chương có 156 huy chương vàng).

Trong lĩnh vực hàng không dân dụng, thiết kế mới nhất, đầy tiềm năng xuất khẩu nhất của Sukhoi là máy bay chở khách tầm trung Superjet 100.

Hơn 70 năm hoạt động, những nhà thiết kế tài ba của OKB Sukhoi phát triển 100 loại máy bay và biến thể, với 60 kiểu đưa vào sản xuất, 10.000 chiếc xuất xưởng. Có khoảng 2.000 chiếc máy bay các loại xuất khẩu tới hơn 30 quốc gia trên thế giới.

>> Kỳ 2: Dấu ấn hai nhà lãnh đạo OKB Sukhoi

(*) Cụm từ OKB theo nguyên văn tiếng Nga "Опытное конструкторское бюро" (Opytnoe Konstructorskoe Byuro) nghĩa là Cục thiết kế thí nghiệm. Thông thường, một văn phòng chính thức được biết đến bằng các số thứ tự hoặc tên người đứng đầu (người sáng lập). Ví dụ như với cục thiết kế Sukhoi thì tên gọi là OKB-51 hay là OKB Sukhoi (tên gọi phổ biến).

Thứ Ba, 9 tháng 8, 2011

>> 'Quan tài bay' MiG-21 lại tan xác



Ngày 4/2, một chiếc tiêm kích MiG-21 Bison của không quân Ấn Độ gặp tai nạn.


Vụ rơi máy bay được ghi nhận là vào lúc 11h20 sáng ngày 4/2 ở gần làng Bela - Bhimlat, cách 150km về phía nam căn cứ không quân Gwalior, phát ngôn viên không quân Ấn Độ cho biết.

Nguyên nhân ban đầu được xác định là chiếc máy bay gặp một vài vấn đề với động cơ, viên phi công đã thoát khỏi máy bay và hạ cánh an toàn. Sau đó, trực thăng cứu nạn đã tìm và cứu được phi công.

Vụ tai nạn diễn ra ở vùng núi hẻo lánh nên rất may là không có thương vong dưới mặt đất.


http://nghiadx.blogspot.com
MiG-21 tiếp tục là nỗi kinh hoàng của phi công Ấn Độ.


Đây là vụ tai nạn đầu tiên của dòng tiêm kích huyền thoại MiG-21 trong năm 2011. Đối với Không quân Ấn Độ, cách đó 2 ngày (ngày 2/2) đã mất hai phi công giàu kinh nghiệm khi một trực thăng Cheetah rơi.

Năm 2010 là năm “hạn” của không quân Ấn Độ, có tới 10 chiếc chiến đấu cơ và trực thăng bị rơi (gồm 4 chiếc tiêm kích - bom MiG-27; 2 tiêm kích MiG-21 Bison; 3 trực thăng Mi-17; 1 trực thăng Mi-26 và 1 trực thăng Chetak).

Kể từ cuối những năm 1990, MiG-21 của Ấn Độ thường xuyên gặp tai nạn. Thậm chí, phi công Ấn Độ đã đặt biệt danh cho MiG-21 là “quan tài bay”. Nguyên nhân của các vụ việc hầu hết là do MiG-21 đã quá cũ kỹ, lạc hậu, ngoài ra còn do công tác bảo dưỡng kém.

Để kéo dài "sự sống" MiG-21, Ấn Độ với sự trợ giúp từ phía Nga đã tiến hành gói nâng cấp MiG-21 Bison.

Theo đó, MiG-21 nâng cấp buồng lái với nhiều thiết bị tiên tiến, trang bị radar kiểm soát hỏa lực Phazotron Kopyo cho phép theo dõi 8 mục tiêu cùng lúc và tiêu diệt đồng thời 2 mục tiêu trong số đó.

MiG-21 Bison còn có khả năng không chiến ngoài tầm nhìn với vũ khí là tên lửa không đối không tầm trung R-77. MiG-21 Bison được quảng cáo là ngang ngửa với nguyên mẫu F-16 và các biến thể đầu tiên.


Thứ Hai, 8 tháng 8, 2011

>> Vì sao Mig-35 thất bại tại Ấn Độ?



Động cơ thiếu lực đẩy, tầm phát hiện mục tiêu của radar bị hạn chế đó là 2 nguyên nhân dẫn đến sự thất bại của Mig-35 tại Ấn Độ.


Trong chương trình đấu thấu cùng cấp 126 chiến đấu cơ mới cho không quân Ấn Độ, chương trình MMCRA. MiG-35 được xem là ứng cử viên hàng đầu cho người thắng cuộc. Bởi lẽ không quân Ấn Độ đang sở hữu một phi đội Su-30MKI hùng hậu, cùng với đó là các tiêm kích MiG-29K sẽ được trang bị cho tàu sân bay INS Vikramaditya, sự có mặt của MiG-35 xem như là một sự hoàn thiện cho năng lực của không quân Ấn Độ.

http://nghiadx.blogspot.com

Radar Zhuk-MAE đã không nhận được sự quan tâm của Không quân Ấn Độ đồng nghĩa với sự thất bại của MiG-35.



Bên cạnh đó, đường lối quân sự mà Ấn Độ đang xây dựng có phần ảnh hưởng không nhỏ từ đường lối quân sự của Liên Xô trước đây và Nga hiện nay. Mua vũ khí từ Nga vẫn là một trong những ưu tiên hàng đầu của New Delhi.

Tuy nhiên, trái ngược với những kỳ vọng ban đầu, MiG-35 lại là một trong những ứng viên đầu tiên phải chào từ biệt cuộc đua trong chương trình MMCRA.

Trong bản phản hồi của Không quân Ấn Độ đến Rosboronexport của Nga cho biết: Radar Zhuk –MAE tuy là một radar quét mảng pha điện tử, radar AESA, tuy nhiên tầm phát hiện mục tiêu thực tế của radar này không đạt được như trong hồ sơ dự thầu mà Rosboronexport cung cấp cho không quân Ấn Độ. Động cơ Klimov RD-33MK cũng không đạt được hiệu suất lực đẩy theo yêu cầu của không quân Ấn Độ.

Phát biểu với các phương tiện truyền thông hôm 3/8, Vladimir Barkovsky trưởng bộ phận kỷ thuật của hãng Mikoyan cho biết, trong bản phản hồi gửi cho phía Ấn Độ, hãng đã đề xuất thay thế động cơ Klimov RD-33MK bằng một động cơ khác có hiệu suất tốt hơn. Tuy nhiên không quân Ấn Độ đã từ chối đề nghị này.

Dù động cơ RD-33MK không đạt được yêu cầu của không quân Ấn Độ để sử dụng cho MiG-35. Tuy nhiên động cơ này lại đạt được tất cả các yêu cầu của Hải quân Ấn Độ sử dụng trên Mig-29K. Điều đó cũng cho thấy một sự chênh lệch khá lớn trong yêu cầu kỷ thuật của các hệ thống vũ khí giữa Không quân và Hải quân Ấn Độ.

Trưởng bộ phận kỷ thuật Barkovsky cho rằng, bản thân radar Zhuk-MAE lắp đặt trong chiếc MiG-35 mang đến chào hàng tại Ấn Độ chỉ là một mẫu thử nghiệm, chưa bước vào giai đoạn sản xuất loạt. “Chúng tôi đã có thông báo cho Ủy ban đấu thầu và đơn vị thử nghiệm thực tế, rằng trong tương lai chúng tôi sẽ cung cấp radar có tầm phát hiện mục tiêu xa hơn so với hiện tại”, ông nói.

Ông cũng lên tiếng ám chỉ rằng tiêm kích đang đứng trước cơ hội thắng thầu là EF-2000 Typhoon không được trang bị radar AESA, “trong khi người Nga đang chứng minh radar sẽ trang bị cho máy bay của không quân Ấn Độ là một radar AESA, thì Eurofighter lại giới thiệu radar trên máy bay tiêm kích như radar của một chiếc trực thăng”.

Radar của MiG-35 và EF-2000 Typhoon

Theo yêu cầu của Không quân Ấn Độ, các máy bay tham dự trong chương trình MMCRA phải được trang bị radar ASEA. Mig-35 được trang bị radar quét mảng pha điện tử linh hoạt Zhuk-MAE, đây là phiên bản xuất khẩu của radar Zhuk-AE.


http://nghiadx.blogspot.com

Captor-E tuy chưa chính thức được trang bị nhưng đã nhận được sự quan tâm rất lớn của không quân Ấn Độ. Cùng với đó là cơ hội thắng thầu rất lớn cho EF-2000 Typhoon.


Zhuk-MAE là một radar quét mảng pha điện tử chủ động, sử dụng 4 kênh modun thu phát tín hiệu, năng lượng được tạo ra cho mỗi kênh là 5 watt. Radar này được làm mát bằng chất lỏng, nếu một trong các bộ thu phát tín hiệu của nó quá nóng, nó sẽ được tắt bằng máy tính điều khiển của radar cho đến khi nguội hẳn.

Radar Zhuk-MAE có khả năng phát hiện các mục tiêu trên không ở cự ly 130km với diện tích phản hồi radar là 5m2, 200km với các mục tiêu cỡ tàu khu trục, khả năng phát hiện các mục tiêu phía sau là 50km, theo dõi 30 mục tiêu cùng lúc.

Radar có khả năng theo dõi trong khi đang quét, Zhuk-MAE có thể cung cấp dẫn hướng cho 6 tên lửa tấn công mục tiêu cùng lúc.

Zhuk-MAE cung cấp khả năng giám sát không đối không, đối đất, đối hải cùng lúc. Radar có khả năng lập bản đồ địa hình với độ phân giải là 3x3m. Biến thể nâng cấp của Zhuk-MAE là FGA-35 được giới thiệu là có khả năng phát hiện mục tiêu ở cự ly tới 200km, theo dõi 60 mục tiêu cùng lúc, lập bản đồ địa hình với độ phân giải hình ảnh là 1x1m.

EF-2000 Typhoon cũng sẽ được trang bị một radar ASEA là Captor-E, tuy nhiên, hiện tại radar này đang trong giai đoạn phát triển, thông số kỹ thuật của radar này vẫn chưa được thông báo.

Tầm phát hiện mục tiêu của radar Captor-E vẫn chưa được công bố, nhưng theo một số thông tin từ trang web của Euroradar. Điểm mạnh của radar Captor-E nằm ở bộ vi xử lý “back-end”.

Captor-E có khả năng phát 1.425 tia điện tử độc lập, cung cấp khả năng giám sát đồng thời không đối không, đối đất, đối hải và quản lý giao diện vũ khí, cho phép phát hiện nhanh, chính xác, nhiều đối tượng cùng lúc, với chi phí bảo dưỡng thấp hơn so với radar cũ.

Kết luận

Với những thông tin đang có, thật khó để có thể để kết luận radar nào tốt hơn radar nào, nhưng sự lựa chọn cuối cùng vẫn thuộc về những đánh giá của Không quân Ấn Độ. Zhuk-MAE cùng với MiG-35 đã thất bại ngay lần "ra quân" đầu tiên, ít nhất là dưới con mắt đánh giá của các chuyên gia quân sự Ấn Độ.

Dù chính thức bị loại trong cuộc đua MMCRA, nhưng trưởng bộ phận kỷ thuật Barkovsky của Mikoyan vẫn tự tin tuyên bố rằng, hãng sẽ tiếp tục xúc tiến việc giới thiệu MiG-35 cho các khách hàng tiềm năng tiếp theo. Suy cho cùng không phải ai cũng có cách nhìn nhận giống nhau về một hệ thống vũ khí nào đó.

Thứ Bảy, 9 tháng 7, 2011

>> Quốc hội Mỹ thúc đẩy bán F-35 cho Ấn Độ




Quốc hội Mỹ đề xuất khả năng cho Lockheed Martin trở lại đấu thầu cung cấp máy bay cho MMRCA của Ấn Độ băng "siêu phẩm" F-35.

MMRCA - Medium Multirole Combat Aircraft: Chương trình trang bị máy bay chiến đấu đa năng hạng trung

Đề xuất trên được Ủy ban thượng viện về các vấn đề vũ trang thuộc Quốc hội Mỹ đưa ra cùng với báo cáo các khoản chi dự tính của Bộ Quốc phòng Mỹ trong tài khóa 2012.

Với đề xuất này, chỉ cần Bộ Quốc phòng thông qua “mục đích và tính khả thi” của việc xuất khẩu F-35 cho Ấn Độ là F-35 sẽ có thể được mang đi tham gia đấu thầu chương trình MMRCA.



Máy bay F-35 chỉ cần qua "cửa" của Bộ Quốc phòng trước khi được phép tham gia dự án đấu thầu cung cấp máy bay cho Ấn Độ theo chương trình MMRCA.


Phát ngôn viên của Lockheed Martin đã xác nhận lại thông tin này nhưng cho biết thêm tất cả tiến trình trong việc mang F-35 đi đấu thầu và bán cho Ấn Độ sẽ được quyết định bởi chính phủ Hoa Kỳ chứ không phải công ty.

Bà cho biết thêm, chương trình JSF là chương trình của Chính phủ Hoa Kỳ, vì thế đích thân chính phủ sẽ quyết định chính sách bán F-35 cho quốc gia nào trên thế giới.

Công ty Lockheed Martin sẽ không có bất kỳ một vai trò nào trong việc đưa ra quyết định thị trường sẽ xuất khẩu F-35, tuy nhiên, công ty sẽ bán loại máy bay này cho bất kỳ quốc gia nào nếu Chính phủ Hoa Kỳ cho phép.

Trong tháng 4/2011, chiếc F-16IN của Lockheed Martin là 1 trong 4 loại máy bay đã bị loại khỏi cuộc đấu thầu cung cấp máy bay cho chương trình MMRCA cùng với F/A-18E/F của Boeing, MiG-35 của Nga và JAS-39 Gripen của Thụy Điển.

Hai loại máy bay được chấp nhận là Dassault Rafale và Eurofighter Typhoon của Châu Âu đã thắng thầu sẽ được ký hợp đồng cung cấp trong vài tháng tới. Do tiến độ của chương trình MMRCA, việc F-35 được cung cấp cho Ấn Độ nếu có sẽ không thể sớm hơn năm 2016.



Máy bay Sukhoi T-50 đẫ vượt qua F-35 trong cuộc đấu thầu cung cấp máy bay thế hệ thứ năm cho Ấn Độ theo chương trình FGFA.


Đây không phải lần đầu Washington xem xét đến khả năng bán F-35 cho Ấn Độ. Tháng 7/2007, Lockheed Martin đã gửi các thông số kỹ thuật của F-35 cho lực lượng không quân Ấn Độ (IAF) xem xét.

Cùng với động thái này, phó chủ tịch công ty đã cho biết F-35 có thể thỏa mãn mọi nhu cầu tương lai của chương trình phát triển máy bay thế hệ thứ 5 (FGFA) của Ấn Độ. Tuy nhiên, Ấn Độ đã chọn hợp tác với Nga để phát triển chương trình FGFA.

Theo một hợp đồng được kỳ tháng 12/2010, Nga và Ấn Độ sẽ hợp tác để phát triển loại máy bay FGFA dựa theo phiên bản thử nghiệm Sukhoi T-50 của Nga với sự tham gia của các công ty Hindustan, Sukhoi và Rosoboronexport.

[BDV news]


Thứ Năm, 7 tháng 7, 2011

>> 'Lính gác trời' của quân đội Ấn Độ



Ấn Độ vẫn thực hiện chương trình chế tạo các loại tên lửa có điều khiển bất chấp những rào cản về tài chính và những phản ứng tiêu cực từ các quốc gia khác.


Mục đích chiến lược của chương trình này là chế tạo và phát triển trung tâm sản xuất và nghiên cứu – khoa học, bảo đảm chế tạo các loại tên lửa hiệu quả nhất cho các lực lượng vũ trang đất nước.

Theo đơn đặt hàng của lực lượng không quân, tổ hợp tên lửa phòng không tầm trung Akash đã ra đời vào những năm 1980 và được sản xuất hàng loạt. Nó dùng để tiêu diệt các mục tiêu trên không trong điều kiện đối phương sử dụng các phương tiện chế áp vô tuyến chủ động. Tổ hợp cho phép bảo vệ các mục tiêu và các đơn vị quân đội.

Tổ hợp gồm bệ phóng (3 tên lửa có điều khiển Akash), radar đa năng Rajendra (trang bị anten mảng pha), trạm điều khiển, thiết bị hỗ trợ. Tất cả các thành phần của tổ hợp tên lửa phòng không được bố trí trên khung xe chiến đấu bộ binh BMP-2.



Bệ phóng của tổ hợp Akash


Về hình dạng bên ngoài và kết cấu, tên lửa phòng không có điều khiển Akash tương tự tên lửa thuộc tổ hợp tên lửa tầm trung Club của Nga.

Phần đuôi tên lửa lắp đặt cánh phụ, có chức năng thay đổi độ nghiêng của tên lửa. Tên lửa có thể đạt vận tốc gần 500m/giây chỉ trong vòng 4,5giây, sau đó động cơ RPD tăng tốc lên gấp đôi trong khoảng thời gian chỉ 30 giây.

Động cơ RPD sử dụng nhiên liệu rắn, thành phần gồm nitrat xenlulo, nitroglixerin, magie bột. Ôxy khí quyển được sử dụng như là một chất ôxy hóa.

Tên lửa phòng không có điều khiển được trang bị đầu đạn nổ mảnh (trọng lượng gần 60kg) với cự ly văng mảnh gần 20m. Việc kích nổ đầu đạn được tiến hành bởi đầu nổ xung hiệu ứng dopler vô tuyến hoặc tiếp xúc.

Trong tổ hợp Akash sử dụng phương pháp điều khiển hỗn hợp tên lửa có điều khiển: điều khiển bằng mệnh lệnh ở giai đoạn đầu và giai đoạn cuối quỹ đạo bay, điều khiển bằng radar bán chủ động ở giai đoạn cuối quỹ đạo bay (khoảng 3-4 giay trước khi gặp mục tiêu).

Tên lửa được trang bị bộ thu nhận tín hiệu điều khiển và máy phát. Anten của các thiết bị này được bố trí ở cánh đuôi.

Bệ phóng tự hành của tổ hợp có chức năng vận chuyển, bảo quản và phóng tên lửa Akash.

Với mục đích giảm trọng lượng, kết cấu các thành phần chính của bệ phóng được chế tạo từ hợp kim nhôm. Một máy phát tuabin khí chạy dòng điện xoay chiều 3 pha với tần số 400Hz (điện áp 200 và 115V) được sử dụng để bảo đảm bệ phóng hoạt động. Bệ phóng theo chiều dọc (8 - 60°) và chiều ngang (360°).

Bệ phóng được trang bị thiết bị điều khiển, liên kết trắc địa và định hướng, máy thu của hệ thống dẫn đường vô tuyến vũ trụ NAVSTAR. Thiết bị này được chế tạo dưới sự hỗ trợ của các chuyên gia Mỹ và được sản xuất ở bởi các nhà máy của Ấn Độ.



Trạm radar đa năng Rajendra.


Radar đa năng Rajendra bảo đảm sục sạo, đánh chặn và tự động bám các mục tiêu khí động học ở cự ly đến 60km, xác định nguồn gốc mục tiêu và dẫn hướng 4 trong số các tên lửa trong điều kiện bị đối phương chế áp vô tuyến mạnh.

Radar được tích hợp hệ thống kiểm soát hoạt động và xác định hỏng hóc.



Phóng thử nghiệm tên lửa Akash.


Trạm điều khiển điều phối hoạt động của tất cả các thành phần thuộc tổ hợp tên lửa phòng không; tiến hành thu thập, xử lý thông tin nhận được từ radar Rajendra và bệ pháo tự hành; bám đến 64 mục tiêu đồng thời; đánh giá mức độ nguy cơ; xử lý các dữ liệu bắn và điều khiển tên lửa…

Quá trình hoạt động tác chiến được tự động hóa tối đa nhờ vào việc sử dụng tổ hợp máy tính kỹ thuật số siêu nhanh, kết nối với các vị trí làm việc của chỉ huy và trắc thủ. Trạm điều khiển có thể làm việc độc lập hoặc trong chế độ tập trung.

Một đơn vị vận hành tổ hợp tên lửa phòng không Akash (cấp đại đội), được trang bị 4 bệ phóng, 1 trạm radar đa năng Rajendra và trạm điều khiển. Đại đội này có thể thuộc thành phần tiểu đoàn hoặc tác chiến độc lập.

Tiểu đoàn – đơn vị chiến thuật chính của tổ hợp, gồm 8 đại đội hỏa lực. Khi tác chiến độc lập, đại đội sẽ được bổ sung thêm radar 2 tọa độ quan sát trên không.

Các đặc tính kỹ - chiến thuật:

Cự ly bắn tối đa: 27km
Cự ly bắn tối thiểu: 3km
Vận tốc tối đa của mục tiêu: 700m/s
Số lượng các mục tiêu bắn đồng thời: 4
Thời gian phản ứng: 15 giây
Trọng lượng của tên lửa: 700kg

[BDV news]


Thứ Năm, 9 tháng 6, 2011

>> Ấn Độ và Pakistan chạy đua vũ trang trên không



Các chuyên gia quân sự cho rằng, kế hoạch hiện đại hoá Không quân của Ấn Độ và các chương trình phát triển vũ trang của Pakistan có thể làm cho Nam Á nóng lên từng ngày.


Mới đây, Ấn Độ cũng đã mua 82 máy bay chiến đấu Sukhoi-30MKI của Nga, hệ thống cảnh báo sớm máy bay A-50/Phalcon của Israel, hàng chục máy bay vận tải C-130J Super Hercules và máy bay tuần tra biển tầm xa P8I của Mỹ.

Dự kiến, Không quân Ấn Độ sẽ thay các máy bay tiêm kích cũ do Liên Xô và Pháp sản xuất bằng các máy bay tiêm kích hiện đại. Kế hoạch này cũng tương tự như kế hoạch của Pakistan - loại khỏi biên chế các máy bay tiêm kích cũ của Trung Quốc, được chế tạo trên cơ sở thiết kế của Liên Xô trước đây.



Máy bay chiến đấu Su-30MKI Ấn Độ mua của Nga


Trước những động thái này của Ấn Độ, Pakistan tuyên bố sắp tới sẽ sở hữu thêm 50 máy tiêm kích JF-17 Thunder. Việc sản xuất các máy bay này được tiến hành bởi một công ty liên doanh giữa Pakistan và Trung Quốc, có trụ sở cách Islamabad 50km. Theo một nguồn tin thân cận, JF-17 mới sẽ được trang bị các thiết bị hàng không do Italy sản xuất.

Nếu so sánh về chất lượng, các thiết bị hàng không của Italy có những ưu điểm vượt trội các thiết bị tương tự của Trung Quốc, được lắp đặt trên 30 máy bay đầu tiên được trang bị trong thành phần Không quân Pakistan. Chiếc tiêm kích đầu tiên đã được sản xuất vào tháng 11/2010. Đến năm 2015, Pakistan có thể sở hữu từ 250 đến 300 chiếc máy bay tiêm kích loại này.

Ngoài ra, Pakistan đang sở hữu các máy bay tiêm kích F-16 do Mỹ sản xuất, trong đó có 18 biến thể cải tiến Block 52. Việc cung cấp mới được 2 bên hoàn tất vào tháng 2/2011 qua. Đến nay, Pakistan đã tiến hành hiện đại hoá 26 chiếc F-16 biến thể cũ.



Máy bay F-16 của Không quân Pakistan


Bộ trưởng Quốc phòng Pakistan Ahmed Mukhtar cho biết, trên nguyên tắc, Trung Quốc đã nhất trí cung cấp cho Không quân Pakistan các máy bay tiêm kích J10 – máy bay tiêm kích nòng cốt của Không quân Trung Quốc.

Theo dự kiến ban đầu, Pakistan muốn mua 36 chiếc tiêm kích J10, nhưng hợp đồng trong thương vụ này còn phải phụ thuộc vào phía Bắc Kinh. Bắc Kinh đang quan ngại nếu cung cấp các công nghệ quân sự tiên tiến cho Pakistan có thể sẽ ảnh hưởng đến quan hệ thương mại với phương Tây.

Đánh giá của các chuyên gia

Cựu nhân viên khoa học thuộc Viện nghiên cứu các vấn đề hoà bình quốc tế Stockholm (SIPRI), ông Siemon Wezeman nói rằng, Ấn Độ muốn trở thành một cường quốc khu vực. Tham vọng này được biểu hiện rõ nhất trong việc Ấn Độ tích cực tăng cường tiềm lực quân sự nước mình.

Trong khi đó, Pakistan đang tìm mọi cách duy trì thế cân bằng có thể với người hàng xóm vốn có nhiều xích mích này.

Ông Siemon Wezeman cho biết thêm, Trung Quốc và Pakistan là mối đe doạ tiềm tàng đối với Ấn Độ. Chính vì vậy, Ấn Độ đã sẵn sàng làm tất cả để tăng cường khả năng quân sự của mình.



Đoàn quan chức quân sự Pakistan thăm Trung Quốc?

Các nhà phân tích quân sự và cựu ngoại giao cho rằng, việc Pakistan tăng cường sức mạnh cho không quân là đòn “đáp trả” trực tiếp trước kế hoạch của Ấn Độ trong việc mua 126 máy bay chiến đấu hiện đại từ phương Tây .

Theo quan điểm của các nhà phân tích Ấn Độ, việc Mỹ bán các biến thể mới nhất của F-16 cho Pakistan đã trở thành lí do quan trọng khiến cho các máy bay tiêm kích F/A-18E/F và F-16IN của Mỹ không trúng thầu trong thương vụ MMRCA (Ấn Độ) .

Với sự tương quan lực lượng như vậy, nhiều chuyên gia cho rằng trong thời gian tới, cuộc chạy đua vũ trang trên không giữa Ấn Độ và Pakistan sẽ còn quyết liệt hơn, nhất là trong bối cảnh hai nước vẫn bất đồng trong nhiều vấn đề như tranh chấp chủ quyền tại khu vực Kashmir, một số nhóm phiến quân chống Ấn Độ ấn náu tại Pakistan và hàng loạt các vấn đề khác.


[BDV news]



Thứ Tư, 25 tháng 5, 2011

>> Nga điều trực thăng Ka-52 tới vùng Viễn đông



Thông tin trên được Giám đốc Thông tin Không quân Nga ở Viễn Đông, ông Sergei Posa thông báo với hãng thông tấn Novosti.


Các chuyến bay đầu tiên của máy bay trực thăng “Alligator” của chương trình huấn luyện chiến đấu được bắt đầu vào ngày 14/6/2011.

Chuyến bay đầu tiên của tất cả các máy bay mới diễn ra ở sân bay Chergigovka đều do tổ lái của thiếu tá Andrei Volkov và hoa tiêu là thượng úy Sergei Kolesnikov thực hiện, một phát ngôn viên thông báo.



Trực thăng Ka-52.


Người này còn cho biết thêm, tới cuối năm 2012, căn cứ không quân Chergigovka sẽ nhận đầy đủ số trực thăng Ka-52 “Alligator”.

Chỉ huy đơn vị, Đại tá Dmitry Demiakov cho biết, phi công ở căn cứ có nhiều kinh nghiệm trong việc bay thử nghiệm các trực thăng chiến đấu trước kia như Mi-24 và Mi-8. Họ được huấn luyện để nắm rõ lý thuyết, thuần thục tính năng điều khiển của trực thăng ở trung tâm đào tạo chuyển loại.

Trực thăng Ka-52 vừa đưa đến căn cứ không quân ở Chernigovka được sản xuất từ nhà máy Tiến bộ, Thành phố Arseniev, thuộc vùng duyên hải.

Ka-52 “Alligator” là trực thăng chiến đấu đa năng được phát triển dựa trên trên nền tảng của trực thăng Ka-50.

Ka-52 được sử dụng cho nhiệm vụ chỉ huy phi đội, thực hiện nhiệm vụ trinh sát, chỉ dẫn và điều phối mục tiêu cho một nhóm trực thăng chiến đấu, có khả năng tiêu diệt các xe cơ giới có vũ trang của đối phương. Trực thăng có khả năng tác chiến cả ban ngày bay đêm.

Ka-52 sử dụng 2 động cơ nâng cấp VK-2500, có công suất 2.400 mã lực/chiếc, tốc độ tối đa là 350 km/giờ, tầm hoạt động đến 1.200 km, trần bay 5.500m, tốc độ bay lên cao -10 m/giây. Tổ lái gồm phi công và hoa tiêu.

Máy bay được sản xuất từ tháng 10/2008 với số lượng hạn chế.
[BDV news]


Thứ Bảy, 21 tháng 5, 2011

>> Triển vọng thị trường tiêm kích thế hệ 5



Từ năm 2025 trở đi, PAK FA và F-35 sẽ là các sản phẩm không thể thay thế trên thị trường tiêm kích đa năng thế giới, đánh giá của Trung tâm Phân tích mua bán vũ khí thế giới TsAMTO (Nga).


Đến lúc đó, tuyệt đại đa số các nước trên thế giới, những nước chú ý thích đáng đến việc phát triển không quân chiến đấu, sẽ thỏa mãn hoàn toàn nhu cầu mua sắm các tiêm kích thế hệ 4, 4+ và 4++, và đặt ra trước họ sẽ là vấn đề mua sắm máy bay thế hệ 5 để thay thế cá máy bay lạc hậu thế hệ 4 những đời đầu, được chuyển giao trong thập niên 1990.

F-22 Raptor hiện đại, đắt tiền, song không được phép xuất khẩu

F-22 Raptor là máy bay tiêm kích thế hệ 5 đầu tiên được nhận vào trang bị sau gần 20 năm phát triển. Chiếc F-22A đầu tiên được Không quân Mỹ (USAF) đưa vào trang bị vào năm 2004. Ban đầu, USAF định mua 381 chiếc F-22. Tháng 12.2004, theo quyết định của Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ, số lượng này giảm xuống còn 180 chiếc. Năm 2005, USAF đã xin tăng được lên 183 chiếc. Bất chấp những nỗ lực của lãnh đạo USAF nhằm tiếp tục mua sắm F-22, Bộ Quốc phòng Mỹ tháng 4.2009 đã quyết định dừng chương trình mua sắm F-22. Cuối năm 2009, sau cuộc thảo luận kéo dài ở Quốc hội Mỹ, chương trình mua sắm tiếp F-22 đã bị hủy bỏ do giá cao. Theo các hợp đồng đã ký trước đó, việc sản xuất F-22 sẽ kéo dài đến đầu năm 2012, sau đó, dây chuyền lắp ráp F-22 tại các nhà máy của Lockheed Martin sẽ bị đóng cửa.

Tuy nhiên, vẫn có cơ hội nhỏ để được phép xuất khẩu F-22 và giữ lại dây chuyền lắp ráp máy bay. Lúc đó, các khách hàng mua F-22 trước hết có thể là Israel, Nhật Bản, Hàn Quốc, Saudi Arabia. Tuy nhiên, phương án này xem ra cực kỳ khó xảy ra.



F-35 Lightning II sẽ là một trong hai loại tiêm kích thế hệ 5 thống trị thị trường thế giới sau năm 2025


F-35 Lightning II thay cho F-22 Raptor

Vì thế, sự cạnh tranh chủ yếu sau 2025 sẽ diễn ra giữa PAK FA của Nga và F-35 Lightning II của Mỹ.

Ưu thế của F-35 là xuất hiện trên thị trường sớm hơn máy bay Nga từ 5-7 năm. Mặt khác, ưu thế này lại mất giá trị khi mà nhiều nước hiện có lực lượng không quân tiêm kích đông đảo trong giai đoạn đến năm 2025 vẫn tiếp tục mua tiêm kích thế hệ 4+ và 4++, mà việc cung cấp F-35 trong giai đoạn đến năm 2025 vẫn chỉ bó hẹp cho những nước là thành viên tham gia chương trình F-35. Hơn nữa, không phải tất cả những quốc gia này sau đó sẽ mua F-35 hay sẽ mua F-35 ở số lượng được công bố ban đầu. Đó là vì chương trình bị đội giá lên, cũng như bị chậm nhiều so với tiến độ.

Tổng thầu chương trình F-35 là Lockheed Martin, ngoài ra còn hai nhà thầu phụ là Northrop Grumman và BAe Systems. Các đối tác của Mỹ trong chương trình F-35 ở giai đoạn phát triển và trình diễn hệ thống là 8 nước Anh, Hà Lan, Italia, Thổ Nhĩ Kỳ, Canada, Đan Mạch, Nauy và Australia. Singapore và Israel tham gia chương trình với tư cách thành viên không chia sẻ rủi ro.

Điểm yếu rõ ràng của chương trình F-35 là tất cả các nước muốn mua F-35 sẽ chỉ có thể mua máy bay thông qua cơ chế bán vũ khí cho nước ngoài theo chương trình FMS (Foreign Military Sales), vốn không có quy định về các hợp đồng đền bù hay huy động nền công nghiệp sở tại, điều này là cực kỳ bất lợi cho những nước đặt trọng tâm phát triển công nghiệp hàng không nội địa.

Người ta đưa ra tính toán ban đầu dựa trên việc các nước đối tác có thể mua 722 máy bay: Australia - đến 100 chiếc, Canada - 60, Đan Mạch - 48, Italia - 131, Hà Lan - 85, Nauy - 48, Thổ Nhĩ Kỳ - 100 và Anh - 150 (90 cho không quân và 60 cho hải quân). Nhu cầu của hai nước đối tác không chia sẻ rủi ro Singapore và Israel tương ứng là 100 và 75 chiếc. Tổng cộng là 897 chiếc, cộng với đơn đặt hàng của UsaF, Hải quân và Thủy quân lục chiến Mỹ là 3.340 chiếc.

Cộng với số lượng F-35 có thể bán cho các khách hàng khác, đến năm 2045-2050, tổng số F-35 sản xuất ra dự đoán là 4.500 chiếc. Tuy nhiên, ngay bây giờ, do giá cả tăng lên, lượng F-35 mua sắm đã bị điều chỉnh mạnh theo hướng giảm đi, trước hết là từ phía Mỹ.

Trong số các khách hàng tiềm năng không phải là thành viên chương trình F-35, cần lưu ý đến Tây Ban Nha, nước này đã bày tỏ ý định mua F-35B. Đài Loan cũng tỏ ra muốn mua F-35B trong tương lai.
Máy bay tiêm kích F-35 được xem như ứng viên tiềm năng giành thắng lợi trong các cuộc thầu của Không quân Nhật (đến 100 chiếc) và Hàn Quốc (60 chiếc).

Hiện tại, đó là toàn bộ danh sách các khách hàng có khả năng “dễ thấy nhất” mua F-35, mặc dù Lockheed Martin cũng đang đàm phán với nhiều nước khác, kể cả ở châu Á và Cận Đông.

F-15SE Silent Eagle và Su-35 - giải pháp thay thế tạm thời

Xét tới những vấn đề khó khăn có thể nảy sinh ở nhiều khách hàng tiềm năng của F-35, hãng Boeing đã phát triển mẫu chế thử tiêm kích F-15SE Silent Eagle có sử dụng các công nghệ của máy bay thế hệ 5, trong đó có lớp phủ làm giảm độ bộc lộ radar, bố trí thích ứng các hệ thống vũ khí, thiết bị avionics số, những như cánh đứng đuôi hình chữ V.

Boeing dự kiến thị trường tiềm năng của F-15SE là 190 chiếc. Máy bay đầu tiên có thể bàn giao cho khách hàng nước ngoài vào năm 2012.

F-15SE trước hết là dành cho thị trường xuất khẩu. Boeing dự định chào bán F-15SE cho không quân Nhật, Hàn Quốc, Singapore, Israel và Saudi Arabia, vốn là những nước hiện đang sử dụng F-15. Boeing cũng hy vọng rằng, không quân các nước đã dự định mua F-35 Lightning II, cũng sẽ quan tâm đến việc mua F-15SE do giá cả F-35 tăng quá cao nên không thể mua tiêm kích thế hệ 5 này.

Tuy nhiên, triển vọng của F-15SE bị hạn chế về mặt thời gian. Nó có thể cạnh tranh với các nhà sản xuất khác chỉ trong giai đoạn quá độ, tức là đến năm 2025, khi mà đa số các nước đã thỏa mãn hoàn toàn nhu cầu về tiêm kích thế hệ 4.

Ở giai đoạn quá độ này, công ty Sukhoi của Nga, theo chiến lược dài hạn đã hoạch định, chủ yếu trông cậy vào việc xúc tiến tiêm kích Su-35.

Su-35 là máy bay tiêm kích đa năng, siêu cơ động, hiện đại hóa sâu thế hệ 4++, có sử dụng các công nghệ của thế hệ 5, bảo đảm có ưu thế đối với các tiêm kích cùng loại.

Trong khi vẫn giữ diện mạo khí động đặc trưng cho họ máy bay Su-27/30, tiêm kích Su-35 là một máy bay mới về chất. Cụ thể, nó có độ bộc lộ radar thấp, hệ thống avionics mới dựa trên hệ thống thông tin-điều khiển, radar trên khoang mới với anten mạng pha có thể bám và bắn đồng thời nhiều mục tiêu hơn và phát hiện mục tiêu ở cự ly xa hơn.

Su-35 lắp động cơ 117S có điều khiển vector lực đẩy. Động cơ này được chế tạo trên cơ sở hiện đại hóa sâu động cơ AL-31F và có lực đẩy 14,5 tấn, lớn hơn 2 tấn so với động cơ cơ sở. Động cơ 117S là mẫu chế thử của động cơ máy bay thế hệ 5.

Su-35 là sự trông cậy của Sukhoi trong tương lai gần trên thị trường tiêm kích thế giới. Máy bay này sẽ chiếm lĩnh vị trí giữa tiêm kích đa năng Su-30МК và PAK FA thế hệ 5.

Su-35 sẽ cho phép Sukhoi duy trì khả năng cạnh tranh cho đến khi tiêm kích thế hệ 5 PAK FA ra thị trường. Lượng Su-35 xuất khẩu chủ yếu sẽ thực hiện trong giai đoạn 2012-2022.

Từ góc độ xúc tiến ra thị trường thì một yếu không kém phần quan trọng là khả năng cải tạo thích ứng Su-35 để sử dụng vũ khí phương Tây.

Su-35 dự kiến được xuất khẩu sang các nước Đông Nam Á, châu Phi, Cận Đông và Nam Mỹ. Trong số các khách hàng tiềm năng của Su-35 có Venezuela, Brazil, Sirya, Ai Cập và có thể cả Trung Quốc. Ngoài ra, bất chấp lệnh cấm vận vũ khí của Liên Hiệp Quốc đối với Libya, chiến dịch quân sự của NATO chống Tripoli, sự thay đổi lãnh đạo Libya sau đó đi kèm với việc thay đổi ưu tiên đối ngoại, hay thậm chí khả năng chia cắt nước này thành hai nhà nước thì Libya trong tương lai trung hạn vẫn nằm trong số các khách hàng tiềm năng mua máy bay Nga.

Không quân Nga dự định thành lập 2-3 trung đoàn Su-35. Chương trình Su-35 dự kiến có tổng sản lượng 200 chiếc, trong đó gần 140 chiếc là để xuất khẩu.

Đồng thời với việc dừng cung cấp Su-35 thì PAK FA bắt đầu xuất hiện trên thị trường (dự kiến từ năm 2020).



PAK FA T-50 sẽ quyết định vị thế cường quốc chế tạo máy bay chiến đấu của Nga


PAK FA T-50 đối thủ chủ yếu của F-35 Lightning II

Các tính năng kỹ thuật công bố của PAK FA tương đương với tiêm kích tối tân nhất hiện nay là F-22 có nhiệm vụ giành ưu thế trên không của Mỹ.

Biên dạng máy bay sẽ bảo đảm khả năng tàng hình của nó. Ngoài ra, việc sử dụng các lớp phủ đặc biệt và vật liệu hấp thụ chứ không phản xạ tín hiệu radar sẽ làm cho máy bay hầu như vô hình trước radar đối phương.

Các máy bay F-16C/E, F-15C/E và F/A-18A-F sẽ không thể đối kháng PAK FA. Còn F-35 thì ngay hiện thời đã gặp khó khăn trong đối kháng với Su-35 với bề mặt tán xạ hiệu dụng thấp của nó. Khi tính tàng hình tiếp tục tăng lên ở PAK FA thì F-35 sẽ còn gặp khó khăn nhiều hơn nữa.

Theo dự báo, trong khuôn khổ chương trình sản xuất tính toán cho toàn bộ chu trình sản xuất, tức là đến khoảng năm 2055, sẽ sản xuất không dưới 1.000 chiếc PAK FA. Lượng đặt hàng dự kiến của Không quân Nga sẽ là 200-250 máy bay.

Hiện tại, các quốc gia tham gia chương trình PAK FA là Nga và Ấn Độ. Đơn đặt hàng Ấn Độ ở giai đoạn đầu ước tính là 250 chiếc. Sau đó, chắc chắn đơn đặt hàng sẽ tăng lên ít nhất 1,5 lần. Chương trình mua sắm dự kiến sẽ kéo dài từ năm 2018-2045.

Số lượng PAK FA các nước khác dự kiến mua sắm như sau:




Lôi kéo Pháp tham gia chương trình PAK FA

Phạm vi địa lý xuất khẩu PAK FA có thể rộng hơn nhiều so với dự kiến ở trên nhờ sự tham gia của các nước SNG. Cũng không loại trừ khả năng, nhiều nước Tây Âu, trước hết là Pháp trong tương lai cũng sẽ mua PAK FA được cải tạo thích ứng theo yêu cầu của các nước phương Tây.

Xét tới yếu tố Pháp là nhà thầu phụ lớn nhất của công ty Sukhoi và RSK MiG trong việc trang bị các loại trang thiết bị cho các tiêm kích Su-30МК và MiG-29 xuất khẩu, trình độ hợp tác của hai nước trong lĩnh vực máy bay quân sự là rất cao. Điều đó cho phép xem Pháp như một ứng viên chính ở Tây Âu mua PAK FA.

Sự tham gia của Pháp vào chương trình phát triển tiêm kích thế hệ 5 của Nga là có thể xảy ra. Hơn nữa, hiện tại, phương án này tại thời điểm hiện tại là khả năng duy nhất để Pháp giữ được vị thế của mình trên thị trường máy bay quân sự thế giới sau năm 2020.

Pháp có thể tham gia chương trình giống như Ấn Độ với tư cách đối tác chia sẻ rủi ro trong việc phát triển biến thể PAK FA theo yêu cầu của Không quân Pháp dựa trên mẫu PAK FA cơ sở.

Pháp luôn có quan điểm “đặc biệt” khi hoàn toàn định hướng vào khả năng của công nghiệp hàng không của mình. Pháp không phải là khách hàng mua Eurofighter Typhoon của châu Âu lẫn F-35 của Mỹ. Hiện tại, Pháp chủ yếu dựa vào tiêm kích Rafale. Nhưng công try Dassault Aviation không có khả năng tự lực phát triển tiêm kích thế hệ 5.

Cần lưu ý là trong những điều kiện nhất định, không loại trừ cả phương án Đức có thể mua PAK FA. Khả năng Tây Ban Nha tham gia chương trình PAK FA là thấp vì Madrid nghiêng về hướng mua F-35.

Hiện tại, có thể thấy, các nước Tây Âu trong tương lai sẽ đứng trước sự lựa chọn giữa PAK FA và F-35, bởi vì thời gian để phát triển tiêm kích thế hệ 5 của châu Âu đã không còn nữa. Ví dụ, thời gian dành cho chương trình phát triển tiêm kích thế hệ 4 Eurofighter là hơn 20 năm (các nước tham gia là Anh, Đức, Italia và Tây Ban Nha, hai trong số đó là Anh и Italia đồng thời là khách hàng mua F-35).

Việc chương trình F-35 làn “chia rẽ” Tây Âu trong vấn đề xây dựng chương trình chế tạo tiêm kích thế hệ 5 tiêu chuẩn của châu Âu có thể xem như một “thắng lợi” lớn của Mỹ. Hơn nữa, nó còn ảnh hưởng tiêu cực đến giai đoạn 3, giai đoạn cuối của chương trình mua sắm Eurofighter bởi lẽ những nước đã lựa chọn mua F-35 vì lý do tài chính sẽ không thể thực hiện đầy đủ kế hoạch mua sắm Eurofighter, đồng thời phải tài trợ cho các đợt mua sắm F-35 đầu tiên (đó là Anh và Italia). Nghĩa là hiện tại thì khả năng dù là giả định chế tạo tiêm kích thế hệ 5 của Tây Âu đã bị loại bỏ hoàn toàn.

Trong khi đó, Nga sẽ hoàn toàn đủ sức, khi xét tới sự hợp tác đang phát triển trên tất cả các lĩnh vực với Pháp và Đức, tranh giành các thị trường này và thị trường nhiều nước Tây Âu và Đông Âu khác.

Một khi Pháp và Đức bắt tay tham gia chương trình PAK FA với Nga và Ấn Độ thì sẽ tạo ra một liên minh hùng mạnh, có thể bảo đảm một khả năng cạnh tranh xứng đáng với F-35 trên thị trường thế giới cho đến khi các cường quốc hàng đầu thế giới chuyển sang tiêm kích thế hệ 6 vốn sẽ là các loại không người lái vào năm 2060-2070.

Chương trình sản xuất F-35 sẽ kết thúc vào khoảng năm 2045-2050, PAK FA vào khoảng năm 2055. Từ đó cho đến hết thế kỷ ХXI, Mỹ và Nga sẽ tập trung vào việc bảo dưỡng các máy bay đã cung cấp. Đồng thời, trong giai đoạn này sẽ bắt đầu sự chuyển đối sang tiêm kích đa năng thế hệ 6 không người lái.

Tiêm kích thế 6 - Máy bay không người lái

Việc chuyển hoàn toàn sang các hệ thống máy bay không người lái là tất yếu, tuy nhiên nó sẽ chỉ thực sự bắt đầu không trước thập niên 2060 và sẽ chỉ liên quan đến các cường quốc thế giới hàng đầu. Việc chuyển dần sang máy bay không người lái vào nửa cuối thế kỷ XXI được tạo điều kiện bởi sự hoàn thiện kỹ thuật của các hệ thống máy bay, cũng như những hạn chế thuần túy sinh lý học của các phi công trong việc điều khiển máy bay tiêm kích. Ở các nước hàng đầu thế giới, các máy bay có người lái dự kiến sẽ được thay thế bằng máy bay không người lái vào gần cuối thế kỷ XXI, tức là vào thời điểm loại bỏ những tiêm kích thế hệ 5 cuối cùng vốn được chuyển giao vào năm 2050-2055.

[VietnamDefence news]


Copyright 2012 Tin Tức Quân Sự - Blog tin tức Quân Sự Việt Nam
 
Lên đầu trang
Xuống cuối trang