Tin Quân Sự - Blog tin tức Quân sự Việt Nam: viet nam

Paracel Islands & Spratly Islands Belong to Viet Nam !

Quần Đảo Hoàng Sa - Quần Đảo Trường Sa Thuộc Về Việt Nam !

Hiển thị các bài đăng có nhãn viet nam. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn viet nam. Hiển thị tất cả bài đăng

Chủ Nhật, 5 tháng 6, 2011

>> Nga: Trung Quốc sẽ tấn công Nga trong vài năm tới



Sự tăng trưởng về chất lượng sức mạnh quân sự của Trung Quốc là mối đe dọa chính đối với Nga trong thập kỷ tới, và khả năng Trung Quốc tấn công nước Nga chỉ còn là vấn đề thời gian...





Trong thập kỷ vừa qua học thuyết quân sự của Trung Quốc đã hoàn toàn thay đổi: từ chiến thuật phòng thủ nay học thuyết quân sự của Trung Quốc đã mang định hướng tấn công bằng các quân đoàn có khả năng cơ động cao hơn trong các cuộc chiến tranh cục bộ. Quá trình trang bị lại của Quân đội Trung Quốc đang được triển khai mạnh mẽ, 80% trang bị là vũ khí của Nga. Mục tiêu chủ yếu của cuộc cải cách quân đội Trung Quốc là nhằm nâng cao khả năng chiến đấu và hiện đại hóa trang bị vũ khí.

So với Quân đội Nga Quân đội Trung Quốc đã có những ưu thế đáng kể: khả năng chiến đấu cao, số lượng đông, và được trang bị tốt hơn bằng chính vũ khí do Nga sản xuất. Điều này đã được các quan chức Nga chính thức thừa nhận, bởi vì Trung Quốc đã mua hầu hết tất cả các loại vũ khí mới nhất của Nga với số tiền, theo số liệu chính thức, là 30 tỷ USD hàng năm; còn theo số liệu không chính thức là 40-45 tỷ USD.

So với các nước láng giềng, sức mạnh quân sự của Trung Quốc được tăng cường mạnh mẽ đến mức đã làm cho nhiều nước phải lo ngại. Quốc hội Nhật Bản - đối thủ địa chính trị truyền thống của Trung Quốc ở vùng Viễn Đông - năm ngoái đã sửa đổi Hiến pháp để cho phép tăng cường khả năng xây dựng quốc phòng của Nhật Bản trước mối đe dọa gia tăng từ Trung Quốc.

Trung Quốc có tranh chấp lãnh thổ dọc theo toàn bộ biên giới của mình và thực hiện chính sách bành trướng một cách đa dạng. Nếu đối với Đài Loan về mặt lãnh thổ chính sách của lãnh đạo Trung Quốc không thay đổi trong suốt 40 năm nay (luôn coi Đài Loan là lãnh thổ của Trung Quốc), thì đối các khu vực lãnh thổ tranh chấp khác trung Quốc lại sử dụng các chiến thuật khác nhau về cách thức và mức độ gây hấn. Như ở Nepal các nhóm bạo loạn theo chủ nghĩa Mao đã không ít lần đưa đất nước Nepal đến bờ vực của nội chiến. Còn Mông Cổ, tuy không gây ra bất kỳ mối đe dọa nào đối với Trung Quốc, nhưng đất nước này có thể trở thành bàn đạp để Trung Quốc triển khai các cuộc tấn công vào vùng Đông Siberia và vùng Viễn Đông của Nga.

Sự tăng trưởng về chất lượng sức mạnh quân sự của Trung Quốc là mối đe dọa chính đối với Nga trong thập kỷ tới. Sau khi giải quyết xong các vấn đề về lãnh thổ dọc biên giới, việc Trung Quốc tấn công nước Nga chỉ còn là vấn đề thời gian. Trung Quốc sẽ không dừng tấn công ngay cả khi Nga đe dọa sử dụng vũ khí hạt nhân, bởi vì nhiều lần quân đội Trung Quốc đã từng xâm nhập chống lại Liên Xô khi Liên Xô đã có vũ khí hạt nhân; hơn nữa hiện nay Trung Quốc cũng đã có một số lượng lớn đầu đạn hạt nhân.

Hơn thế nữa, tham vọng của Trung Quốc đối với vùng Viễn Đông Nga có lý do không đơn giản từ trong quá khứ. Vùng đất gốc rễ của nước Nga này chỉ thật sự trở thành của Nga trong thời kỳ diễn ra cuộc chiến tranh thuốc phiện thứ hai từ 1856 đến1860, khi đó Anh và Pháp đã đánh bại Trung Quốc, còn nước Nga của Sa hoàng đã khôn khéo tham gia vào việc phân chia thành quả cuộc chiến để có được vùng lãnh thổ Viễn Đông rộng lớn. Ngay năm sau (1861) nước Nga đã xây dựng cảng biển Vladivostok.

Trung Quốc thường xuyên gây ra các cuộc xung đột biên giới gần như với tất cả các nước láng giềng. Năm 1969 giữa Liên Xô và Trung Quốc đã xảy ra xung đột trên đảo Damansky (trên sông Ussuri) và ở vùng Hồ Zhalanashkol thuộc Kazakhstan ngày nay. Vào những năm 70 của thế kỷ trước Trung Quốc đã gây ra các cuộc chiến tranh biên giới với Ấn Độ và Việt Nam. Các sự kiện này cho thấy Trung Quốc là nước hiếu chiến và nguy hiểm đối với các nước láng giềng.

Vào năm 2005, cuộc diễn tập quân sự Nga-Trung Quốc tại bán đảo Sơn Đông là lý do tạo ra sự lạc quan trên các phương tiện truyền thông của chính phủ Nga. Mặc dù kịch bản của cuộc diễn tập quân sự mang tính chất chống khủng bố, nhưng rõ ràng về thực chất đối với phía Trung Quốc đó là cuộc diễn tập cho việc chiếm lại đảo Đài Loan. Trung Quốc muốn tìm hiểu sức mạnh và khả năng của vũ khí Nga trước khi mua. Những lời nói rằng Trung Quốc là đối tác và đồng minh của Nga thật là nực cười, bởi vì chỉ có những kẻ thiển cận mới không thấy mối quan hệ này là bất bình đẳng, mới không thấy nước Nga đang đứng trước một nước láng giềng hiếu chiến. Nước Nga chỉ có một vài năm để trang bị lại và huấn luyện quân đội, và nếu chúng ta không làm điều đó thì chỉ sau một vài năm tới có thể mất tới một phần ba lãnh thổ!

Trong lịch sử thế giới có rất nhiều bài học khi cuộc tập trận chung được một bên coi là sự phối hợp giữa các đồng minh, còn một bên lại coi là cơ hội để tìm hiểu và đánh giá đối phương. Một ví dụ kinh điển là cuộc tập trận giữa Liên Xô và nước Đức phát xít trước Cuộc đại chiến thế giới lần thứ hai đã giúp cho nước Đức biết được vũ khí và khả năng tác chiến của Quân đội Liên Xô.

Lời bình của chuyên gia quân sự Anatoly Tsyganok Dmitrievich - giáo sư, Viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học quân sự, giám đốc Trung tâm dự báo quân sự trực thuộc Viện Phân tích Chính trị và quân sự:

Sau 15 năm nữa, thậm chí có thể sớm hơn. Trung Quốc sẽ trở thành một đối thủ quân sự nguy hiểm của nước Nga. Trong trường hợp Trung Quốc sụp đổ, giống như Liên Xô trước đây, nhiều vùng của Trung Quốc có thể tuyên bố trở thành các quốc gia độc lập, như từng đã xảy ra nhiều lần trong lịch sử sóng gió của Trung Quốc, và các quốc gia này sẽ đòi hỏi mở rộng lãnh thổ sang các nước láng giềng.

Tập trận chung với Trung Quốc (lại còn phô diễn khả năng lực lượng máy bay ném bom chiến lược của chúng ta) là đi ngược lại với lợi ích quốc gia và an ninh của nước Nga.

Trung Quốc đã thông qua chương trình bành trướng dần sang lãnh thổ Nga – theo cách của Khổng Tử: nếu không bằng vũ lực, thì bằng sự khôn ngoan và trí thông minh. Điều này chúng ta thấy rõ ở vùng Viễn Đông, nơi hiện nay số lượng dân di cư Trung Quốc đang tăng lên một cách đáng sợ.

Trong cuộc diễn tập năm 2005 tại bán đảo Sơn Đông các chuyên gia quân sự Nga đã ngẫu nhiên nhìn thấy bản đồ tác chiến của phía Trung Quốc. Trên bản đồ màu vàng được phủ kín toàn bộ vùng Siberia, Kazakhstan và Trung Á. Trung Quốc coi các khu vực này bị nước Nga xâm chiếm hơn 300 năm trước đây.
[Vitinfo news]


Thứ Bảy, 21 tháng 5, 2011

>> Việt Nam-Indonesia chia sẻ quan điểm hợp tác quốc phòng



Ngày 18/5, tại cuộc hội đàm song phương với Bộ trưởng Quốc phòng Indonesia Purnomo Yusgiantoro trong khuôn khổ chuyến thăm chính thức nước này và tham dự Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN lần thứ năm (ADMM-5), Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam, Đại tướng Phùng Quang Thanh và người đồng cấp nước chủ nhà đã trao đổi một số vấn đề khu vực cùng quan tâm và nhất trí các biện pháp tăng cường quan hệ hợp tác quốc phòng-an ninh giữa hai nước.

Chào mừng Đại tướng Phùng Quang Thanh và Đoàn đại biểu quân sự cấp cao Việt Nam, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Indonesia Purnomo Yusgiantoro bày tỏ hy vọng ADMM-5 sẽ có kết quả tốt đẹp để phát huy những thành quả về hợp tác an ninh-quốc phòng mà các nước ASEAN đã đạt được trong năm 2010 khi Việt Nam đảm nhiệm cương vị Chủ tịch ASEAN.

Đại tướng Phùng Quang Thanh đánh giá cao công tác chuẩn bị ADMM-5 và sự đón tiếp trọng thị, tình cảm hữu nghị chân thành mà phía Indonesia dành cho đoàn Việt Nam. Đại tướng Phùng Quang Thanh khẳng định Bộ Quốc phòng Việt Nam sẽ đóng góp tích cực và tin tưởng chắc chắn ADMM-5 sẽ thành công tốt đẹp.

Tại cuộc hội đàm, hai Bộ trưởng thống nhất cần sớm thúc đẩy việc triển khai thực hiện Bản ghi nhớ về hợp tác quốc phòng song phương mà Bộ Quốc phòng hai nước ký tháng 10/2010, tạo cơ sở pháp lý để thúc đẩy quan hệ quốc phòng giữa hai nước.

Đại tướng Phùng Quang Thanh cho rằng hai bên cần sớm lập nhóm làm việc để trao đổi biện pháp triển khai tất cả các lĩnh vực trong Bản ghi nhớ; nhấn mạnh Việt Nam mong muốn lĩnh vực hải quân sẽ đi đầu trong hợp tác quốc phòng giữa hai nước, muốn mời nhóm chuyên viên của Hải quân Indonesia sang thăm và làm việc với Hải quân Việt Nam để thảo luận việc thực hiện tuần tra chung và thiết lập kênh thông tin liên lạc giữa hải quân hai nước; bày tỏ hy vọng Tư lệnh Hải quân hai bên sẽ ký kết thỏa thuận này trong năm nay.

Nhất trí với ý kiến của Đại tướng Phùng Quang Thanh, Bộ trưởng Purnomo Yusgiantoro khẳng định Indonesia sẽ sớm lập nhóm công tác và cử Phó Tư lệnh Hải quân Indonesia sang thăm và làm việc với Hải quân Việt Nam.


Về hợp tác trên các diễn đàn đa phương, Đại tướng Phùng Quang Thanh khẳng định Việt Nam luôn ủng hộ Indonesia đảm nhiệm thành công cương vị Chủ tịch ASEAN; nhấn mạnh thành công của Indonesia là thành công chung của cả ASEAN, trong đó có Việt Nam.

Về vấn đề xung đột biên giới giữa Campuchia và Thái Lan, hai bên nhất trí cho rằng đây là điều đáng tiếc cho tiến trình xây dựng Cộng đồng chính trị - an ninh ASEAN, ảnh hưởng tới liên kết nội khối và tình đoàn kết của các nước ASEAN.

Đại tướng Phùng Quang Thanh nêu rõ là nước láng giềng của cả Thái Lan và Campuchia, và cùng là thành viên của ASEAN, Việt Nam hoan nghênh hai bên đã đạt được thỏa thuận ngừng bắn, mong muốn hai bên không để tái diễn xung đột và tiếp tục thực hiện cam kết tại cuộc họp không chính thức các Ngoại trưởng ASEAN tại Jakarta ngày 22/2.

Việt Nam ủng hộ vai trò của ASEAN hỗ trợ hai bên giải quyết hòa bình các tranh chấp, ủng hộ Indonesia với tư cách là Chủ tịch ASEAN tiếp tục các nỗ lực hỗ trợ trên cơ sở đảm bảo tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương ASEAN, nhất là tham vấn và đồng thuận.

Việt Nam mong muốn Indonesia, với cương vị Chủ tịch ASEAN 2011, sớm cử quan sát viên tới giúp giải quyết vấn đề xung đột biên giới giữa Thái Lan và Campuchia, và tiếp tục đóng góp tích cực vào tiến trình này.

Bộ trưởng Purnomo Yusgiantoro cho biết trên cương vị Chủ tịch ASEAN, Indonesia đang nỗ lực góp phần giải quyết vấn đề xung đột biên giới giữa Thái Lan và Campuchia. Indonesia sẵn sàng cử quan sát viên tới khu vực tranh chấp khi được hai bên đồng ý. Bộ trưởng Purnomo Yusgiantoro nhất trí rằng công việc của ASEAN phải được giải quyết theo các nguyên tắc của ASEAN, trên cơ sở Hiến chương ASEAN.

Về vấn đề Biển Đông, Đại tướng Phùng Quang Thanh đánh giá nhìn chung hiện nay vẫn giữ được ổn định. Đại tướng Phùng Quang Thanh cho rằng các nước dù đang tranh chấp chủ quyền, ở ven bờ và cả trong khu vực đều có lợi ích và nguyện vọng chung là duy trì hòa bình, ổn định để hợp tác cùng phát triển.

Đại tướng Phùng Quang Thanh nêu rõ: “Quan điểm của Việt Nam là các tranh chấp phải được giải quyết bằng biện pháp hòa bình, dựa trên cơ sở luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982. Các nước ASEAN và Trung Quốc cần thực hiện đầy đủ Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), được ký giữa ASEAN và Trung Quốc năm 2002 tại Campuchia. ASEAN và Trung Quốc tiến tới soạn thảo Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC).”

Bộ trưởng Purnomo Yusgiantoro khẳng định Indonesia muốn Biển Đông là một khu vực ổn định, an ninh và tự do hàng hải được đảm bảo. Bộ trưởng thông báo Indonesia đã đưa vấn đề này vào dự thảo Tuyên bố chung của ADMM-5, nêu rõ Indonesia chia sẻ mong muốn các bên liên quan sẽ đạt được COC trong tương lai gần.

Cùng ngày, Đoàn đại biểu quân sự cấp cao Việt Nam đã đến chào xã giao Phó Tổng thống Indonesia Boediono./.
[Vitinfo news]


Thứ Sáu, 20 tháng 5, 2011

>> Việt Nam: Ứng viên số 1 cho tiêm kích thế hệ 5 T-50



Theo dự báo của chuyên gia quân sự Nga Konstantin Makienko, trong tương lai Việt Nam có thể mua 24-36 máy bay tiêm kích thế hệ 5 PAK FA T-50.

Sự kiện chính của công nghiệp hàng không Nga năm 2010 là việc bắt đầu bay thử nghiệm mẫu chế thử tiêm kích thế hệ 5. Tuy nhiên, thành tựu kỹ thuật tuyệt vời này của các công trình sư, kỹ sư và công nhân Nga bản thân nó không bảo đảm sự thành công của chương trình.



Bộ Quốc phòng Nga đã công bố ý định mua khoảng 50-70 tiêm kích thế hệ 5 trong giai đoạn đến năm 2020. Có lẽ, trong tương lai, số lượng này sẽ tăng lên và con số 150 hay thậm chí 200 chiếc. Nhưng việc mua sắm một số lượng tương đối ít Т-50 không lý giải thỏa đáng cho những khoản đầu tư hàng tỷ của nhà nước và công ty sản xuất vào công tác nghiên cứu phát triển, hiện đại hóa công nghệ và chuẩn bị sản xuất loạt máy bay này. Và vấn đề ở đây không chỉ là ở quan điểm của giới quân sự, vốn ưa thích các giải pháp rẻ tối đa.

Hạn chế cơ bản đối với việc mua sắm cho quân đội Nga là quy mô khiêm tốn của nền kinh tế Nga. Vì thế, yếu tố có tầm cực kỳ quan trọng để phát triển dự án là tìm kiếm một đối tác quốc tế, có đối tác đó sẽ cho phép chia xẻ gánh nặng tài chính của việc phát triển máy bay và tăng khối lượng hợp đồng chắc chắn. Ngoài ra, việc xúc tiến xuất khẩu máy bay T-50 cũng có tầm quan trọng lớn.

Ấn Độ

Yếu tố đảm bảo không thể đảo ngược chương trình Т-50 là việc Ấn Độ, đối tác kỹ thuật quân sự và công nghiệp quốc phòng chiến lược của Nga tham gia chương trình. Ngày 21.12.2010, trong chuyến thăm Ấn Độ của TT Nga Dmitri Medvedev, hai bên đã ký hợp đồng trị giá 295 triệu USD để thiết kế phác thảo biến thể máy bay tiêm kích thế hệ 5 dành cho Ấn Độ. Sự kiện này có thể coi là dấu hiệu chính thức về sự tham gia dự án của Ấn Độ. Ý nghĩa của nó có thể thậm chí còn lớn hơn chuyến bay ra mắt vào tháng 1.2010 của T-50. Nếu ngày 29.1 là bằng chứng thuyết phục về sự chín muồi về kỹ thuật của chương trình thì ngày 21.12 bảo đảm tương lai thương mại và công nghiệp của nó.

Tồn tại sự phụ thuộc giữa sức mạnh kinh tế của một nước và khả năng của quốc gia đó thực hiện một dự án tiêm kích thế hệ 5. Hiện nay, đang thực hiện các chương trình này có Mỹ với GDP 14,3 ngàn tỷ USD, Trung Quốc (8 ngàn tỷ USD), Nhật Bản (4,4 ngàn tỷ USD) và Nga (2,3 ngàn tỷ USD). Ngoài ra, Hàn Quốc cũng tuyên bố tiến hành dự án chế tạo tiêm kích thế hệ 5, hơn nữa còn có tin Indonesia cũng tham gia chương trình của Hàn Quốc. Tổng GDP của hai nước này là 2,3-2,4 ngàn tỷ USD.

Điều rất đáng chú ý là Pháp (GDP 2,1 ngàn tỷ USD) và Thụy Điển (300 tỷ USD), những nước có các trường phái chế tạo máy bay mạnh và độc đáo, cũng như các tiêm kích thế hệ 4 tuyệt vời lại từ bỏ tham vọng chế tạo máy bay thế hệ 5, điều sẽ dẫn tới việc hai đấu thủ này rời khỏi thị trường trong 15-120 năm tới. Dĩ nhiên, điều đó được lý giải một phần ở việc không có nguy cơ quân sự-chính trị, nhưng nguyên nhân chủ yếu việc từ bỏ tham vọng chế tạo máy bay thế hệ 5 là những hạn chế về tài chính và kinh tế. Nói một cách thẳng thắn thì quy mô nền kinh tế hai nước này không đủ lớn để thực hiện những dự án tốn kém đến thế.

Vị thế chính trị-quân sự của Nga đòi hỏi phải có hệ thống máy bay chiến đấu thế hệ 5 của mình. Cần lưu ý là ở Viễn Đông, Nga tiếp giáp với các nước có yêu sách lãnh thổ chính thức (Nhật Bản) hay tiềm ẩn (Trung Quốc) đối với Nga, hơn nữa cả Trung Quốc và Nhật Bản chắc chắn sẽ có tiêm kích thế hệ 5, có thể cả loại hạng nặng. Ở hướng Tây và Nam, một số nước như Ba Lan hay Gruzia đang thi hành chính sách đối ngoại bài Nga, hoàn toàn có thể sẽ được Mỹ cung cấp tiêm kích thế hệ 5 F-35.

Tuy nhiên trong khi có những đòi hỏi bắt buộc về quân sự rõ ràng để chế tạo Т-50, quy mô GDP của Nga lại đang ở ngưỡng thấp nhất cần thiết được xác định để làm việc đó. Quy mô nền kinh tế Nga xét về sức mua hầu như bằng GDP của Pháp, nước vốn gặp rất nhiều khó khăn khi mua sắm ngay cả tiêm kích thế hệ 4 và hơn nữa là không đặt ra nhiệm vụ chế tạo máy bay thế hệ 5. Điều đó thực tế có nghĩa là đơn thương độc mã Nga chắc chắn có khả năng phát triển tiêm kích thế hệ 5, song chưa chắc có thể mua sắm một số lượng đáng kể máy bay này.

Trong khi đó, tổng GDP của Nga và Ấn Độ là gần 6 ngàn tỷ USD và trên nền tảng kinh tế đó thì việc thực hiện dự án chẳng còn khiến ai phải nghi ngờ. Tham vọng quân sự của Ấn Độ tăng thậm chí nhanh hơn khả năng kinh tế và tài chính của họ. Ngay đánh giá bảo thủ nhất về nhu cầu tiêm kích thế hệ 5 của Không quân Ấn Độ cũng là 300 chiếc. Nhưng chắc chắn, số lượng mua sắm thực tế sẽ vượt đáng kể con số này. Xét tới nhu cầu duy trì ưu thế đối với không quân Pakistan và tạo lập sự cân bằng dù là tối thiểu với không quân Trung Quốc, cũng như việc mua sắm biến thể trên hạm của tiêm kích thế hệ 5 FGFA, tổng số các máy bay này trong Không quân và Hải quân Ấn Độ trong suốt vòng đời của chương trình sẽ lên tới 400-450 chiếc.

Các yếu tố thị trường cơ bản

Т-50/FGFA sẽ được đưa ra thị trường không sớm hơn năm 2018-2020. Điều đó có nghĩa là mọi dự báo về triển vọng xuất khẩu máy bay này sang các nước thứ ba, ngoài Nga và Ấn Độ chắc chắn sẽ không chính xác do không thể tiên lượng thế giới lúc đó sẽ ra sao. Nhưng ngay hôm nay đã hoàn toàn có thể nêu ra những yếu tố then chốt quyết định tiềm năng xuất khẩu Т-50/FGFA.

Những yếu tố quan trọng nhất trong số đó sẽ là:

• giá cả của máy bay tiêm kích thế hệ 5 của Nga-Ấn Độ;

• tiến triển của dự án tiêm kích thế hệ 5 của Trung Quốc;

• tiến triển của các hệ thống máy bay không người lái;

• các yếu tố cơ bản đối với thị trường vũ khí nói chung, như mức độ xung đột và trạng thái của nền kinh tế thế giới.

Giá cả của máy bay tiêm kích sẽ quyết định khả năng của các nước tương đối nhỏ mua sắm các máy bay này. Hiện nay, dự kiến theo thời giá năm 2010, đơn giá của Т-50 sẽ là 80-100 triệu USD. Trong trường hợp này, máy bay tiêm kích sẽ vừa túi tiền của tất cả các khách hàng hiện nay mua Su-30, sẽ có ưu thế về giá so với F-35 của Mỹ và vẫn có khả năng cạnh tranh đối với máy bay giả định của Trung Quốc. Điều có ý nghĩa nguyên tắc là phải kiểm soát sự tăng giá không tránh khỏi, đây rõ ràng là sẽ là một trong những thách thức chính đối với các nhà thiết kế máy bay. Xét tới yếu tố trang thiết bị điện tử, cụ thể là hệ thống vô tuyến điện tử đa năng tích hợp, sẽ chiếm phần lớn giá cả của máy bay, nên một trong những phương cách giảm giá có thể là chào bán ra thị trường một biến thể tiêm kích với hệ thống avionics giản lược. Ví dụ như một biến thể với một radar ở mũi, không có các anten lưới ở sườn và cánh.

Khối lượng xuất khẩu Т-50 cũng sẽ phụ thuộc vào tiến độ chế tạo tiêm kích thế hệ 5 của Trung Quốc. Máy bay của Trung Quốc có khả năng sẽ trở thành đối thủ cạnh tranh thậm chí nguy hiểm hơn là F-35 của Mỹ. Vũ khí Nga chủ yếu đang bán cho các nước có đường lối đối ngoại và quốc phòng độc lập, những nước thường thích mua vũ khí trang bị không phải của Mỹ. Chừng nào Trung Quốc không có các máy bay đáng nể chào bán thì trên thị trường các quốc gia đó, Nga sẽ vẫn có thế gần như độc quyền hoặc chỉ cạnh tranh với châu Âu. Điều dễ hiểu là sự xuất hiện của máy bay thế hệ 5 của Trung Quốc sẽ dẫn tới sự cạnh tranh trực tiếp, thẳng thừng giữa Т-50 và máy bay tương lai của Trung Quốc.

Cuối cùng, quy mô thị trường sẽ được quy định bởi những xu hướng công nghệ mới mà việc phát triển chúng có thể sẽ làm mất vai trò của máy bay chiến đấu có người lái. Hiện nay, rủi ro chủ yếu kiểu này là sự tiến bộ trong lĩnh vực các hệ thống máy bay tiến công không người lái. Hy vọng là đến năm 2020, yếu tố này sẽ không kịp gây ảnh hưởng tiêu cực đối với thị trường tiêm kích có người lái.

Những khách hàng mua sắm Т-50 nhiều khả năng nhất là các nước sở hữu các tiêm kích hạng nặng Su-27/30 của Nga (hiển nhiên là loại trừ Trung Quốc). Nhưng một tin xấu là khi thay thế Su-30, các nước đó sẽ mua Т-50 chắc chắn không phải với tỷ lệ 1 đổi 1 mà may lắm là 1 đổi 1,5.

Các thị trường triển vọng nhất là các nước Đông Nam Á, những quốc gia mà vì lý do chính trị sẽ không thể xem xét mua sắm máy bay Trung Quốc. Trước hết đó là Việt Nam, cũng như Malaysia và Indonesia. Ngoài ra, trên thị trường Malaysia vẫn có khả năng có cạnh tranh với Mỹ, còn Indonesia ngoài khả năng mua sắm máy bay Mỹ còn có kế hoạch tham gia dự án tiêm kích thế hệ 5 của Hàn Quốc. Bất chấp những rủi ro đó, xác suất mua máy bay Nga-Ấn của cả hai nước này vẫn rất cao.

Với độ chắc chắn cao, có thể dự đoán rằng, cả Algeria cũng sẽ trung thành với máy bay Nga. Liên quan đến một khách hàng truyền thống của vũ khí Liên Xô là Libya thì có sự bất định liên quan đến triển vọng định hướng chính trị không rõ ràng của nước này. Do rủi ro cao về thay đổi chế độ chính trị và hủy bỏ dự án cách mạng Bolivar của TT đương nhiệm Hugo Chavez của Venezuela, cũng rất khó dự báo các đơn đặt hàng của nước này sau năm 2020. Trong trường hợp duy trì chính phủ cánh tả ở nước này, Nga sẽ đụng đầu với công nghiệp hàng không Trung Quốc vốn đã giành nhiều thắng lợi ở đây. Cuối cùng, có thể hy vọng rằng, thị trường tự nhiên đối với máy bay Nga sẽ là một số nước cộng hòa hậu Xô-viết, trước hết là Kazakhstan và Belarus.

Các thị trường tiềm năng của Nga như iran và Sirya nhiều khả năng sẽ bị Trung Quốc chi phối. Đáng tiếc là ban lãnh đạo chính trị Nga sau khi hủy bỏ các hợp đồng bán tên lửa chiến dịch-chiến thuật Iskander-E cho Sirya và hệ thống tên lửa phòng không S-300PMU2 cho Iran lại đang tích cực tiếp tay cho kịch bản đó.

Mặt khác, có thể có những thị trường hôm nay xem ra không thể sẽ mở ra cho Nga sau 10-20 năm nữa. Thái Lan từng suýt nữa mua Su-30. Sau 20-30 năm nữa, tiềm lực kinh tế khổng lồ đang ngủ yên của Myanmar có thể sẽ thức dậy. Đối với Argentina thì việc mua sắm Т-50 sẽ là giải pháp đối phó phi đối xứng tuyệt vời đối với kế hoạch của Brazil mua sắm 36 và trong tương lai là 120 chiếc Rafale của Pháp. Có thể phỏng đoán mãi như thế. Hiện nay, có một điều rõ ràng là liên minh Nga-Ấn nhất định sẽ là một trong 3 đối thủ trên thị trường máy bay tiêm kích thế hệ 5 của thế giới. Điều đó có nghĩa là Nga bảo đảm được vị thế cường quốc công nghiệp hàng không thế giới trong suốt nửa cuối thế kỷ XXI.




[Vietnamdefence news]


Thứ Ba, 17 tháng 5, 2011

>> Hệ thống huấn luyện Gepard, Kilo sắp về Việt Nam



Công ty R.E.T Kronshtadt (thuộc nhóm công ty Tranzas) đang hoàn tất lắp đặt hệ thống Laguna-11661.


Hệ thống này dùng để huấn luyện các thủy thủ đoàn, kíp chiến đấu trên các khinh hạm Gepard tại Việt Nam, Tổng giám đốc R.E.T Kronshtadt Yevgeny Komrakov cho hay. Trước đó, công ty này đã sản xuất cho Việt Nam hệ thống huấn luyện mô phỏng tổng hợp tàu tên lửa Molnya.




Dự kiến, năm 2012 hệ thống huấn luyện tàu ngầm Projekt 636 Kilo cho Việt Nam sẽ hoàn thành. Trong dự án này, R.E.T Kronshtadt tham gia với tư cách nhà thầu phụ của công ty Avrora, ông Komrakov tiết lộ.

Sắp tới, R.E.T Kronshtadt sẽ sản xuất hệ thống huấn luyện tổng hợp cho Hải quân Turkmenia, nước này đã đặt mua của Nga 2 tàu tên lửa Molnya và dự định đặt mua thêm 2 chiếc nữa.

Hãng Rosoboronoexport đã thống nhất với Turkmenia về hợp đồng mua bán hệ thống huấn luyện sẽ có hiệu lực trong vòng 6 tháng. Sau đó, R.E.T Kronshtadt sẽ hoàn thành công việc trong vòng 1 năm.

Hệ thống huấn luyện tổng hợp là hệ thống rất đắt tiền và tinh vi, đòi hỏi phỏng tạo được 100% vũ khí, trang thiết bị kỹ thuật trên tàu. “Chẳng hạn, hệ thống huấn luyện mà chúng tôi đang lắp đặt tại Việt Nam có 56 vị trí làm việc, 7 bộ phận tác chiến làm việc ở 3 chế độ”, - ông Yevgeny Komrakov cho hay.
[BDV news]


Thứ Năm, 12 tháng 5, 2011

>> Không quân hiện đại của Việt Nam luyện tập



Nếu bạn đứng giữa một sân bay quân sự trong ngày huấn luyện thì mới cảm nhận hết những âm thanh tổng hợp của ngành kỹ thuật hàng không.

Đơn vị C35, B70 làm nhiệm vụ canh trời phương Nam. Những ngày này, cán bộ, chiến sĩ đơn vị đang tích cực ra quân huấn luyện. Tất cả như một đại công trường với những phần việc đảm bảo về kỹ thuật để những chú "chim sắt" có thể cất cánh thực hiện các bài tập trên không.

Ở đây có những quy định nghiêm ngặt đến "nghẹt thở," bởi kỹ thuật hàng không là ngành đòi hỏi cực kỳ khắt khe, một sai lầm nhỏ có thể dẫn đến những hậu quả lớn.

Trong những năm qua, Đoàn Không quân C35, B70 luôn hoàn thành chỉ tiêu huấn luyện của trên giao và bảo đảm an toàn tuyệt đối.


Cảnh các phi công và thợ máy Đoàn Không quân C35 trên các máy bay Su-30 tập luyện.



Máy bay đã được các thành phần kỹ thuật chuyên ngành của Đoàn Không quân C35 kiểm tra kỹ lưỡng, sẵn sàng chờ tiếp thu.


Phi công Đoàn Không quân C35 nhận bàn giao máy bay từ thợ máy.



Sau khi lên khoang lái, phi công sẽ dành một khoảng thời gian để làm công tác chuẩn bị. Thợ máy sẽ giúp họ đóng nắp khoang lái.




Đã yên vị trong khoang lái. Phía trên đầu hai phi công có một chú chim, loài động vật biết bay này là "kẻ thù không đội trời chung" theo cả nghĩa đen và nghĩa bóng với những chiếc máy bay. Một chú chim nhỏ bị hút vào động cơ khi máy bay đang hoạt động trên không sẽ gây hậu quả lớn.



Thợ máy rút thang lên buồng lái và những phụ kiện khác để máy bay có thể lăn ra đường băng.



Chiếc Su-30 đang trên đường lăn dẫn ra đường băng để cất cánh.



Biên đội bay trong bình minh.



Những chiếc máy bay đang tham gia huấn luyện trên không sẽ được quản lý và nhận lệnh trực tiếp từ đài chỉ huy cũng như các đài dẫn đường đóng ở các vị trí khác nhau.



Phi công Đoàn C35 trở về sau chuyến bay với nụ cười trên môi.

[BDV news]


Thứ Ba, 3 tháng 5, 2011

>> Thủ tướng Ôn Gia Bảo 'trấn an' Đông Nam Á



Malaysia và Indonesia là điểm đến trong chuyến thăm Đông Nam Á bốn ngày của Thủ tướng Ôn Gia Bảo. Đó có phải là dấu hiệu cho thấy Trung Quốc chọn hai nước làm đột phá khẩu, trấn an và mở rộng ảnh hưởng xuống Đông Nam Á?



Thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo ngày 27/4 lên đường thăm chính thức Malaysia và Indonesia. Đây là chuyến thăm Malaysia lần thứ 2 và là chuyến thăm Indonesia đầu tiên của Thủ tướng Ôn Gia Bảo.

Sưởi ấm quan hệ sau 6 năm “xa cách” với Malaysia
Là một trong những quốc gia Đông Nam Á sớm thiết lập quan hệ ngoại giao với Trung Quốc, Malaysia là trạm dừng chân đầu tiên trong chuyến thăm hữu nghị lần này của Thủ tướng Ôn Gia Bảo.

Trung Quốc và Malaysia vốn có mối quan hệ ngoại giao tốt đẹp. Thủ tướng Malaysia Najib Tun Razak cũng từng thăm hữu nghị Cộng hòa dân chủ nhân dân Trung Hoa hai năm trước.





Thủ tướng Ôn Gia Bảo (trái) trong cuộc hội đàm thân mật với người đồng nhiệm nước chủ nhà Malaysia Najib Tun Razak tối ngày 27/4.


Trong cuộc hội đàm thân mật giữa lãnh đạo cấp cao hai nước, Thủ tướng Ôn Gia Bảo tặng người đồng nhiệm nước chủ nhà bức ảnh chụp chung của Chủ tịch Chu Ân Lai và cố Thủ tướng Razak (phụ thân của Thủ tướng đương nhiệm Najib), ghi giấu thời khắc hai quốc gia chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao song phương.

Món quà ý nghĩa này của Thủ tướng Ôn Gia Bảo được đánh giá là một hành động “khôn khéo”, góp phần “sưởi ấm” mối quan hệ ngoại giao với quốc gia Đông Nam Á này kể từ chuyến thăm hữu nghị tới Malaysia 6 năm trước.

Trợ lý Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc, ông Hồ Chính Dược khẳng định, mục đích chuyến thăm Malaysia lần này của Thủ tướng Ôn Gia Bảo là nhằm: “Tăng cường quan hệ hữu nghị truyền thống, củng cố lòng tin chiến lược, thúc đẩy hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư, cơ sở hạ tầng, tài chính, khoa học kỹ thuật, tăng cường giao lưu thanh niên hai nước”.

Theo Tân hoa xã, sau hội đàm, Thủ tướng hai nước chính thức ký kết một số văn kiện hợp tác cấp Chính phủ và doanh nghiệp về các lĩnh vực tài chính, thương mại, đầu tư, năng lượng, truyền thông.

Thủ tướng Malaysia Najib Tun Razak cho rằng, những văn kiện hợp tác này là một bước đệm quan trọng để mở rộng hợp tác, đầu tư trên lĩnh vực kinh tế, thương mại giữa hai quốc gia.

Thủ tướng Ôn Gia Bảo cũng nhấn mạnh, Malaysia là đối tác thương mại lớn nhất trong khu vực Đông Nam Á của Trung Quốc. Chính phủ nước này thông qua đề nghị đặt trụ sở đại diện của Ngân hàng nhà nước Malaysia tại Bắc Kinh, nhằm tăng cường giao dịch tiền tệ giữa hai nước.

Giới truyền thông Mỹ nhận định, các thỏa thuận hợp tác song phương đạt được sau chuyến thăm lần này góp phần thúc đẩy chiến lược vươn tầm ảnh hưởng của Trung Quốc tới khu vực Đông Nam Á dần trở thành hiện thực.

Còn theo Jane's Defence của Anh, chuyến thăm hữu nghị lần này của Thủ tướng Ôn Gia Bảo là “nước cờ chiến lược”, nhằm củng cố niềm tin rằng Trung Quốc sẽ không trở thành một mối đe dọa trực tiếp cho các quốc gia Đông Nam Á.

Indonesia – mắt xích quan trọng trong chiến lược đối ngoại với ASEAN
Sau chuyến thăm hữu nghị Malaysia, Thủ tướng Ôn Gia Bảo tiếp tục chuyến công du hai ngày (từ ngày 29-30/4) tới đất nước Indonesia xinh đẹp, hội đàm với Tổng thống Susilo Bambang Yudhoyono tại Thủ đô Jakarta.

Thủ tướng Ôn Gia Bảo khẳng định: “Trung Quốc có ấn tượng rất tốt đối với Indonesia”. Ông cho biết, chuyến thăm lần này sẽ tập trung vào việc duy trì trao đổi cấp cao, mở rộng hợp tác kinh tế, thương mại đầu tư, tăng cường hợp tác quốc phòng và trên biển, củng cố nền tảng hợp tác hữu nghị Trung Quốc-Indonesia.


Tổng thống Indonesia Susilo Bambang Yudhoyono (trái) và Thủ tướng Ôn Gia Bảo tại ASEM năm 2008.


Thủ tướng Ôn đặc biệt nhấn mạnh mục đích tăng cường phối hợp trong các vấn đề quốc tế, khu vực; bảo vệ lợi ích chung giữa hai nước. Hai bên sẽ ra tuyên bố chung và ký một loạt văn kiện hợp tác trên các lĩnh vực kinh tế, thương mại và đầu tư. Ngoài ra, lãnh đạo hai nước cũng sẽ tham dự Đối thoại thương mại Trung Quốc-Indonesia.

Đây là chuyến thăm hữu nghị đầu tiên của Ôn Gia Bảo trên cương vị Thủ tướng tới Indonesia. Đại sứ Trung Quốc tại Indonesia nhấn mạnh, mục đích chuyến thăm lần này nhằm chính thức thiết lập quan hệ đối tác chiến lược, mở ra cục diện hợp tác mới, đôi bên cùng có lợi.

Theo Tân hoa xã, với tiềm lực kinh tế lớn mạnh và ưu thế nổi bật trong vai trò Chủ tịch ASEAN năm nay, Indonesia sẽ là mắt xích quan trọng trong chiến lược tăng cường hợp tác và vươn rộng tầm ảnh hưởng của Trung Quốc tại khu vực Đông Nam Á.

Còn theo Jane's Defence của Anh, chuyến thăm Indonesia lần này của Thủ tướng Ôn Gia Bảo còn nhằm mục đích tăng cường hợp tác song phương trong vấn đề buôn bán vũ khí quân sự.

Tuần báo này nhận định, mức độ ảnh hưởng về thương mại vũ khí của Trung Quốc tại khu vực Đông Nam Á nói chung và Indonesia, Malaysia nói riêng còn khá mờ nhạt. Quân đội Indonesia chỉ chính thức đặt mua của Trung Quốc tên lửa chống hạm C-802 (tầm bắn 180 km); Malaysia đặt mua 16 hệ thống tên lửa phòng không vác vai FN -6 vào tháng 6/2009, tên lửa phòng không vác vai QW1 (hiện nay được trang bị cho Lục quân Malaysia) và tên lửa chống tăng HJ-8F.

Malaysia và Indonesia vốn là hai nước phụ thuộc lớn vào vũ khí nhập khẩu từ Mỹ và Nga. Tuy những năm gần đây, hai nước này cũng bắt đầu “để mắt” tới nguồn cung vũ khí của Trung Quốc, song tâm lý lo ngại sẽ vấp phải những phản ứng gay gắt của phương Tây vẫn còn tồn tại.

Jane's Defence tiết lộ, tuy không công khai trước truyền thông, song chuyến thăm chiến lược hai nước Đông Nam Á lần này ngoài những mục tiêu hợp tác kinh tế, thương mại; còn là bước đệm quan trọng để Bắc Kinh tăng cường uy tín và mở rộng thị trường vũ khí tới hai nước này, nhằm tạo ra một phản ứng dây chuyền trong toàn khu vực Đông Nam Á.


[BDV news]


Thứ Hai, 2 tháng 5, 2011

>> Biển Đông dưới góc độ pháp luật quốc tế



Hiển nhiên là Biển Đông có sự đan xen rất chặt chẽ lợi ích của nhiều nước với các mức độ khác nhau. Hòa bình và ổn định ở Biển Đông ảnh hưởng trực tiếp đến hòa bình và ổn định của khu vực và thế giới.



Ngày 23/3, Tân Hoa Xã, hãng tin chính thức của Trung Quốc, đã phát bài viết “ Tranh chấp Nam Hải dưới góc độ của luật biển quốc tế ” của hai học giả Hạ Giám và Uông Cao, Đại học Tương Đàm, trong đó không những khẳng định cái gọi là “ chủ quyền ” của Trung Quốc mà còn vu cáo Việt Nam và các nước Đông Nam Á khác, “ bẻ cong ” Công ước Luật Biển năm 1982 của Liên hợp quốc và “ tranh giành chủ quyền của Trung Quốc ” ở Biển Đông.




Bài viết “Vấn đề Biển Đông dưới ánh sáng của pháp luật quốc tế” của tác giả Hải Biên, nhà nghiên cứu về Biển Đông của Việt Nam, đăng trên TTXVN, nhằm làm rõ vấn đề Biển Đông dưới ánh sáng của pháp luật quốc tế, đặc biệt là Công ước Luật Biển năm 1982 của Liên hợp quốc.

1. Khái quát về Biển Đông

Biển Đông là một biển nửa kín ở khu vực Thái Bình Dương với diện tích hơn 3,5 triệu km2. Có 9 quốc gia ven Biển Đông là Việt Nam, Trung Quốc, Philippines, Malaysia, Bruney, Indonesia, Thái Lan, Campuchia và Singapore. Trữ lượng tài nguyên thiên nhiên ở Biển Đông lớn, đặc biệt là dầu, khí và hải sản. Gần đây, nhiều thông tin cho biết Biển Đông có trữ lượng khá lớn về băng cháy.

Biển Đông là tuyến hàng hải nhộn nhịp thứ hai trên thế giới, sau tuyến Địa Trung Hải. Mỗi ngày có khoảng 150 - 200 tàu trọng tài lớn đi qua Biển Đông. Hàng hóa xuất nhập khẩu thiết yếu đối với các nền kinh tế lớn như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Công phụ thuộc rất nhiều vào tuyến đường biển này. Từ góc độ quân sự, Biển Đông là địa bàn hoạt động của hạm đội hải quân của nhiều nước trong và ngoài khu vực. Tất cả những yếu tố này dẫn đến một hệ quả tất yếu và hiển nhiên là ở Biển Đông có sự đan xen rất chặt chẽ lợi ích của nhiều nước với các mức độ khác nhau. Hòa bình và ổn định ở Biển Đông ảnh hưởng trực tiếp đến hòa bình và ổn định của khu vực và thế giới.

2. Các vùng biển của các quốc gia ven Biển Đông theo luật biển quốc tế

Hội nghị Luật Biển lần thứ III của Liên hợp quốc (1967- 1982) đã thông qua Công ước Luật Biển năm 1982 với 320 điều khoản và 9 Phụ lục. Là thành quả của một cuộc thương lượng lâu dài giữa các nhóm nước khác nhau, Công ước là một giải pháp cả gói công bằng và đỉnh cao trong quá trình pháp điển hóa và phát triển tiến bộ ngành luật biển quốc tế. Công ước xác lập rõ ràng quy chế pháp lý của các vùng biển khác nhau thuộc chủ quyền và quyền chủ quyền của các quốc gia ven biển, quy định quyền và nghĩa vụ của các quốc gia khi tiến hành các hoạt động liên quan đến biển và thành lập một loạt cơ chế quốc tế quan trọng liên quan đến thực hiện Công ước và giải quyết tranh chấp biển như Tòa án Luật Biển quốc tế, Hội nghị các quốc gia thành viên của Công ước, Cơ quan Quyền lực quốc tế về Đáy Đại dương và Ủy ban Thềm lục địa. Tính đến nay, đã có 161 quốc gia và tổ chức quốc tế tham gia Công ước Luật Biển năm 1982, trong đó có 7 quốc gia ven Biển Đông là Việt Nam, Trung Quốc, Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore, Bruney.

Áp dụng Công ước Luật Biển năm 1982 của Liên hợp quốc vào điều kiện cụ thể của Biển Đông chúng ta thấy mấy điểm cơ bản sau đây.

Một là , các quốc gia ven Biển Đông có chủ quyền đối với nội thủy và lãnh hải 12 hải lý kể từ đường cơ sở của mình. Đáng lưu ý là theo luật biển quốc tế những năm 40 - 50 của thế kỷ trước, vùng lãnh hải của các quốc gia ven Biển Đông chỉ có 3 hải lý và toàn bộ phía ngoài 3 hải lý đó là vùng biển quốc tế. Như vậy, Công ước đã mở rộng phạm vi vùng lãnh hải của các quốc gia ven Biển Đông thêm 9 hải lý.

Hai là, mỗi quốc gia ven Biển Đông có quyền chủ quyền đối với vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý và thềm lục địa tối thiếu 200 hải lý của mình. Chiều rộng của hai vùng biển này đều được đo từ đường cơ sở dùng để tính lãnh hải. Trong trường hợp thềm lục địa thực tế lớn hơn 200 hải lý thì quốc gia ven Biển Đông có thể mở rộng thềm lục địa của mình đến 350 hải lý với điều kiện tuân thủ đúng các quy định và thủ tục nêu trong Công ước.

Mỗi quốc gia ven Biển Đông có toàn quyền thăm dò, khai thác các tài nguyên trong các vùng biển của mình, đặc biệt là trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, để phục vụ đời sống nhân dân và phát triển đất nước. Mỗi quốc gia ven Biển Đông có toàn quyền quyết định cho phép hay không cho phép các quốc gia khác khai thác tài nguyên trong các vùng biển của mình. Mỗi quốc gia ven Biển Đông có nghĩa vụ tôn trọng các quyền chủ quyền đó của các quốc gia láng giềng khác ven Biển Đông. Đồng thời, phù hợp các quy định của Công ước Luật Biển năm 1982, các quốc gia ven Biển Đông có nghĩa vụ tôn trọng quyền của các quốc gia khác được tự do hàng hải, tự do hàng không ở trong vùng đặc quyền kinh tế và ở vùng trời trên vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của quốc gia ven biển.

Ba là , xuất phát từ Công ước Luật Biển năm 1982 thì sự kiện Trung Quốc ký hợp đồng với Công ty Creston năm 1992 ở bãi Tư Chính của Việt Nam và chính thức đưa yêu sách “đường lưỡi bò ” ra Liên hợp quốc vào tháng 5 năm 2009 cần được nhìn nhận thế nào? Khu vực bãi Tư Chính hoàn toàn nằm trong phạm vi thềm lục địa 200 hải lý của Việt Nam và đã được Việt Nam phân lô thăm dò dầu khí. Việc Công ty Dầu khí quốc gia Trung Quốc vào năm 1992 ký với Công ty Creston của Mỹ hợp đồng thăm dò dầu khí tại khu vực bãi Tư Chính trong thềm lục địa 200 hải lý của Việt Nam (mà họ đặt tên là Vạn An Bắc) là sự vi phạm trắng trợn quyền chủ quyền của Việt Nam theo Công ước Luật Biển năm 1982.

Còn về yêu sách “đường lưỡi bò” hay “đường 9 đoạn”, thì các học giả Trung Quốc đều biết rõ là tại Hội thảo quốc tế về Biển Đông ở Hà Nội (2009) và thành phố Hồ Chí Minh (2010) cũng như các Hội thảo quốc tế khác, các học giả Pháp, Bỉ, Mỹ và nhiều học giả quốc tế khác đã nêu rõ yêu sách “đường lưỡi bò” mơ hồ, không có cơ sở và cho rằng Trung Quốc cần giải thích rõ bản chất pháp lý của các vùng biển trong “đường lưỡi bò” đó. Nhưng cho đến nay, cả chính giới lẫn học giả Trung Quốc đều không thể đưa ra các câu trả lời thỏa đáng.

Dùng các quy định của Công ước Luật Biển năm 1982 mà Trung Quốc cũng là một bên tham gia để đối chiếu thì ai cũng thấy rằng yêu sách này hoàn toàn trái với các quy định của Công ước. Không một quy định nào của Công ước có thể biện minh cho yêu sách “đường lưỡi bò” . Đơn giản bởi vì vùng biển mà “đường lưỡi bò” ngoạm vào không thể nào là lãnh hải hoặc vùng đặc quyền kinh tế hoặc là thềm lục địa của Trung Quốc. Đó chính là vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam , Philippines, Malaysia, Indonesia và Bruney.

Yêu sách “đường lưỡi bò” phi lý nói trên đã vi phạm nghiêm trọng quyền chủ quyền của 5 nước ASEAN đối với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của mình. Chính vì vậy, mà Việt Nam , Malaysia, Indonesia và Philippines lần lượt gửi công hàm đến Tổng Thư ký Liên hợp quốc bác bỏ yêu sách này.

Việc đưa yêu sách phi lý nói trên ra Liên hợp quốc và tiến hành các việc làm gần đây ở trên thực địa nhằm theo đuổi yêu sách này đang làm cho tình hình Biển Đông trở nên phức tạp hơn, gây lo ngại thực sự cho cộng đồng thế giới và buộc dư luận phải lên tiếng. Không chỉ các quốc gia liên quan tranh chấp ở Biển Đông mà dư luận của nhiều quốc gia khác cũng đã bày tỏ ý kiến bất bình trước yêu sách này.

3. Các tranh chấp ở Biển Đông hiện nay dưới ánh sáng của pháp luật quốc tế

Ở Biển Đông có hai loại tranh chấp, gồm tranh chấp về các vùng thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế chồng lấn và tranh chấp về chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

a. Do chiều rộng của một số khu vực ở Biển Đông (như Vịnh Bắc Bộ và Vịnh Thái Lan) hẹp hơn 400 hải lý, nên một phần vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của các quốc gia láng giềng chồng lấn lên nhau. Từ đó nảy sinh một số tranh chấp giữa các quốc gia ven Biển Đông về ranh giới vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.

Liên quan Việt Nam, ở phía Bắc chúng ta có vùng chồng lấn thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế với Trung Quốc trong Vịnh Bắc Bộ và khu vực nhỏ phía ngoài cửa Vịnh, còn ở phía Nam có vùng chồng lấn với Campuchia, Thái Lan, Malaysia trong Vịnh Thái Lan và vùng chồng lấn với Indonesia ở nam Biển Đông. Các nước ven Biển Đông khác cũng có một số vùng chồng lấn thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế với nhau, như giữa Malaysia và Thái-Lan, giữa Thái Lan và Campuchia, giữa Indonesia và Malaysia. Các khu vực chồng lấn này đã và đang từng bước được Việt Nam và các nước hữu quan giải quyết thỏa đáng theo các quy định của Công ước Luật Biển năm 1982.

b. Quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa gồm nhiều đảo đá san hô rất nhỏ ở giữa Biển Đông. Hiện nay, hai quần đảo đang là tâm điểm tranh chấp phức tạp giữa một số nước ven Biển Đông. Tranh chấp về chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa liên quan Việt Nam và Trung Quốc, còn tranh chấp về chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa liên quan 5 nước, 6 bên là Việt Nam, Trung Quốc, Philippines, Malaysia, Bruney (Bruney không yêu sách về chủ quyền các đảo) và Đài Loan (Trung Quốc).

Đối với việc giải quyết tranh chấp chủ quyền đối với lãnh thổ, pháp luật quốc tế đã hình thành nguyên tắc xác lập chủ quyền là nguyên tắc chiếm hữu thật sự và thực hiện quyền lực Nhà nước một cách thật sự, liên tục và hòa bình. Nguyên tắc này đã được các nước và các cơ quan tài phán quốc tế áp dụng để giải quyết nhiều vụ tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ ở trên thế giới. Trong số đó, các vụ kinh điển thường được viện dẫn nhiều là vụ tranh chấp đảo Palmas giữa Mỹ và Hà Lan, vụ Minquiers và Ecréhous giữa Anh và Pháp, vụ đảo Clipperton giữa Mexico và Pháp, vụ Greenland giữa Na Uy và Đan Mạch v.v…

Áp dụng nguyên tắc nói trên của pháp luật quốc tế vào trường hợp hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, mọi ngưòi đều thấy rằng Nhà nước Việt Nam đã chiếm hữu thật sự hai quần đảo này hàng trăm năm nay. Nói chính xác là nhà nước ta đã thực hiện chủ quyền ở đây ít ra từ thế kỷ XVII khi hai quần đảo chưa hề thuộc chủ quyền của bất cứ nước nào. Từ đó Việt Nam đã thực hiện thật sự chủ quyền của mình đối với hai quần đảo một cách liên tục và hòa bình.

Các bằng chứng mà Việt Nam đã thu thập được rất phong phú. Một là, các bản đồ Việt Nam thế kỷ XVII đã gọi hai quần đảo bằng cái tên Bãi Cát Vàng và ghi vào địa hạt huyện Bình Sơn, phủ Quảng Ngãi. Hai là, nhiều sách cổ của Việt Nam như Toàn Tập Thiên Nam Tứ chí Lộ Đồ Thư (thế kỷ XVII), Phủ Biên Tạp Lục (1776), Đại Nam Thực Lục Tiền Biên và Chính Biên (1844 - 1848) v.v… đều nói về việc nhà nước cử đội Hoàng Sa ra khai thác quần đảo này. Hai là, nhiều sách cổ, bản đồ cổ của nước ngoài cũng thể hiện các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam . Ba là, Nhà nước phong kiến Việt Nam đã tổ chức các đội Hoàng Sa, Bắc Hải để tiến hành khai thác hai quần đảo (mỗi đội Hoàng Sa gồm 70 người, ra Hoàng Sa 6 tháng đánh bắt hải sản như đồi mồi, hải sâm, ốc qúy‎ và thu lượm hàng hóa trên các tàu bị đắm).

Các thể lệ tuyển chọn người, chế độ khen thưởng, đãi ngộ đối với các đội đều được nhà nước quy định rõ ràng. Các đội này được duy trì và hoạt động liên tục từ thời chúa Nguyễn (1558-1783), đến nhà Tây Sơn (1786-1802) và nhà Nguyễn. Triều đình Nhà Nguyễn đã cử các tướng Phạm Quang Ảnh (năm 1815), Trương Phúc Sĩ, Phạm Văn Nguyên, Phạm Hữu Nhật (các năm 1834, 1835, 1836) ra Hoàng Sa khảo sát, đo đạc các đảo, khảo sát, vẽ bản đồ, xây miếu, dựng bia. Năm 2009, gia tộc họ Đặng ở đảo Lý Sơn, Quảng Ngãi vừa mới hiến tặng Nhà nước một sắc lệnh trong gia phả của dòng họ khẳng định chủ quyền của Việt Nam.

Sau khi đô hộ Đông Dương, Pháp nhân danh Việt Nam tiếp tục quản lý hai quần đảo qua việc cử tàu chiến tuần tiễu để đảm bảo an ninh, ngăn chặn buôn lậu, cho phép người Nhật khai thác phân chim trên đảo, cử tàu De Lanessan ra nghiên cứu hải dương, địa chất, sinh vật, v.v…Từ năm 1930 đến 1932, các tàu chiến Inconstant, Alerte, La Malicieuse và De Lanessan của hải quân Pháp liên tiếp ra quần đảo Hoàng Sa. Đầu những năm 30 của thế kỷ 20, Pháp cho quân đóng ở các đảo chính thuộc quần đảo Trường Sa (Trường Sa, An Bang, Ba Bình, nhóm Song Tử, Loại Ta và Thị Tứ).

Các hoạt động này đã được công bố trong Công báo của Cộng hòa Pháp ngày 26 - 7 - 1933. Năm 1933, Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định quy thuộc quần đảo Trường Sa vào tỉnh Bà Rịa. Pháp cũng tách quần đảo Hoàng Sa ra khỏi tỉnh Nam Nghĩa và đặt vào tỉnh Thừa Thiên và cho một đơn vị đóng quân ở đó. Sau khi trở lại Đông Dương, Pháp đã yêu cầu quân Trung Hoa Dân Quốc rút khỏi các đảo mà họ đã chiếm đóng trái phép năm 1946 và Pháp đã cho quân thay thế quân Trung Quốc, xây dựng lại trạm khí tượng, đài vô tuyến.

Vào năm 1951, tại Hội nghị San Francisco có một đề nghị bổ sung bản dự thảo Hòa ước yêu cầu trao trả cho Trung Quốc hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Nhưng Hội nghị đã bác bỏ đề nghị này với số phiếu áp đảo là 46 phiếu thuận, 3 phiếu chống và 1 phiếu trắng. Tại Hội nghị Trưởng đoàn quốc gia Việt Nam đã tuyên bố khẳng định chủ quyền lâu đời của Nhà nước Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà không gặp sự phản đối hay bảo lưu của nước nào.

Năm 1956 Pháp chuyển giao lãnh thổ miền Nam Việt Nam cho chính quyền Sài Gòn và nhà cầm quyền Sài Gòn đã cho quân ra tiếp quản, tổ chức hai quần đảo về mặt hành chính (lập ở mỗi quần đảo một xã thuộc một huyện ở đất liền), xây các bia chủ quyền, duy trì các trạm khí tượng.

Từ những năm 50 của thế kỷ 20 tình hình hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trở nên phức tạp hơn. Đó là, lợi dụng việc Pháp rút khỏi Đông Dương theo Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954, Trung Quốc đã chiếm nhóm đảo phía Đông của quần đảo Hoàng Sa vào năm 1956. Chính quyền Sài Gòn kịch liệt phản đối. Năm 1959 quân Trung Quốc giả làm ngư dân đổ bộ lên nhóm đảo phía Tây quần đảo Hoàng Sa. Quân đội của chính quyền Sài Gòn đã đánh trả thắng lợi và bắt 82 “ngư dân” Trung Quốc.

Đối với nhóm đảo phía Tây của quần đảo Hoàng Sa, chính quyền Sài Gòn tiếp tục quản lý cho đến năm 1974. Năm 1974, lợi dụng việc quân đội Sài Gòn phải đối phó với cuộc tiến công của quân cách mạng, Trung Quốc dùng không quân, hải quân chiếm luôn phần phía Tây của quần đảo Hoàng Sa. Chính quyền Sài Gòn và Chính phủ Cách mạng lâm thời miền Nam đã phản đối. Năm 1975, chính quyền Sài Gòn sụp đổ, Nhà nước Việt Nam tiếp quản các đảo ở Trường Sa và lập các huyện đảo Hoàng Sa và huyện đảo Trường Sa.

Một sự thật hiển nhiên là cho đến năm 1988 chưa hề có bất kỳ sự hiện diện của Trung Quốc ở quần đảo Trường Sa. Ngày 14 - 3 - 1988, Trung Quân bắt đầu dùng vũ lực chiếm đóng một số đảo đá ở quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Trong trận chiến không cân sức năm đó, 64 người con yêu quý của Tổ quốc Việt Nam đã ngã xuống để bảo vệ chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Trường Sa. Tóm lại, dưới ánh sáng của pháp luật quốc tế, Việt Nam có đầy đủ chứng cứ lịch sử và cơ sở pháp lý khẳng định chủ quyền của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Sự thật lịch sử là Trung Quốc bắt đầu chiếm đóng nửa phía Đông quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam từ những năm 50 của thế kỷ trước và đến năm 1974 dùng vũ lực chiếm luôn phần phía Tây của quần đảo này. Còn ngày 14-3-1988 là ngày Trung Quốc dùng vũ lực để chiếm một số đảo đá thuộc quần đảo Trường Sa của chúng ta.

4. Giải pháp cho các vấn đề liên quan Biển Đông

a. Các vấn đề liên quan Biển Đông rất phức tạp, hệ trọng và nhạy cảm đối với nhiều quốc gia liên quan. Các nguồn lợi trong các vùng biển ở Biển Đông rất quan trọng đối với kế sinh nhai và đời sống hàng ngày của hàng trăm triệu con người của 9 quốc gia ven Biển Đông. Các tài nguyên thiên nhiên ở đây là một điều kiện cần thiết cho sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế của các nước liên quan. Các nước ven Biển Đông đang đẩy mạnh các hoạt động thực hiện chủ quyền biển, đảo của mình. Đồng thời các hoạt động khác liên quan đến Biển Đông cũng hết sức đa dạng, phong phú (tự do, an toàn hàng hải, chống tội phạm trên biển..) và gắn với lợi ích của nhiều quốc gia khác nhau (cả trong và ngoài khu vực).

b. Từ đó, một yêu cầu hết sức khách quan đặt ra cho tất cả các nước có hoạt động liên quan Biển Đông là phải tuân thủ luật chơi chung mà cộng đồng quốc tế, trong đó có các quốc gia ven Biển Đông, đã dày công xây dựng - Công ước Luật Biển năm 1982 của Liên hợp quốc. Khi vận dụng Công ước để thực thi chủ quyền và quyền chủ quyền đối với nội thủy, lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của mình như được quy định trong Công ước, quốc gia ven Biển Đông có nghĩa vụ tôn trọng chủ quyền và quyền chủ quyền của các nước khác ven Biển Đông đối với lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của họ. Đó là nghĩa vụ của quốc gia thành viên Liên hợp quốc. Đó là nghĩa vụ theo Công ước Luật Biển năm 1982. Đó là nghĩa vụ theo Công ước Viên năm 1969 về Luật điều ước.

Sẽ là rất không công bằng và phi lý khi một quốc gia ven Biển Đông tùy tiện vẽ ra một đường yêu sách mơ hồ, trái với Công ước Luật Biển năm 1982, vi phạm các vùng biển của các quốc gia láng giềng, tạo ra “vùng tranh chấp” trong vùng biển của quốc gia láng giềng , để rồi đòi các quốc gia láng giềng bị nạn “gác tranh chấp, cùng khai thác” trên chính thềm lục địa của họ. Tương tự, việc một quốc gia ven Biển Đông tự ý quy định cấm đánh bắt cá trong vùng đặc quyền kinh tế của các quốc gia láng giềng khác cũng là việc làm trái với quy định của Công ước Luật Biển năm 1982. Cách hành xử như vậy, rõ ràng là những sự vi phạm cam kết quốc tế của một nước thành viên Liên hợp quốc theo Hiến chương của tổ chức này.

c. Sự tồn tại các tranh chấp chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cũng như tranh chấp về các vùng thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế chồng lấn là một thực tế khách quan. Việc giải quyết các tranh chấp này, đặc biệt là tranh chấp chủ quyền đối với hai quần đảo, là một công việc khó khăn, phức tạp, nhưng không phải là không thể giải quyết được. Như đã nêu trên, giữa Việt Nam và Trung Quốc, Thái Lan, In-đô-nê-xia, Ma-lai-xia và Cam-pu-chia có các khu vực chồng lấn thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế ở Vịnh Bắc Bộ và Vịnh Thái Lan. Thời gian qua, căn cứ vào Công ước Luật Biển năm 1982 và với tinh thần hữu nghị, láng giềng, tôn trọng lợi ích chính đáng của nhau, Việt Nam đã phân định ranh giới các vùng biển với Thái Lan, ranh giới các vùng biển với Trung Quốc trong Vịnh Bắc Bộ và ranh giới thềm lục địa với In-đô-nê-xia ở phía Nam Biển Đông. Các nước khác ven Biển Đông cũng đã giải quyết được một số tranh chấp trên biển với nhau bằng nỗ lực chung và trên cơ sở pháp luật quốc tế. Gần đây nhất, tranh chấp về chủ quyền đối với một số đảo nhỏ giữa Ma-lai-xia và Xinh-ga-po, giữa In-đô-nê-xia và Ma-lai-xia cũng đã được giải quyết bằng các phán quyết của Tòa án quốc tế La Hay (ICJ).

Kinh nghiệm đó chỉ ra rằng các tranh chấp về chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cũng như các tranh chấp về các vùng biển chồng lấn giữa các nước ven Biển Đông sẽ được giải quyết ổn thỏa khi pháp luật quốc tế, trong đó có Công ước Luật Biển năm 1982, được tôn trọng và khi các biện pháp hòa bình giải quyết tranh chấp nêu trong Hiến chương Liên hợp quốc được áp dụng. Đe dọa vũ lực, đe dọa sử dụng vũ lực đã bị pháp luật quốc tế cấm. Đe dọa vũ lực, đe dọa sử dụng vũ lực sẽ không phải là cách thức đúng đắn để giải quyết các tranh chấp ở Biển Đông.

d . Các tranh chấp liên quan đến Biển Đông dĩ nhiên là phức tạp. Con đường đi đến giải pháp cuối cùng cho các tranh chấp mà các bên liên quan đều chấp nhận được sẽ không bằng phẳng và còn dài. Thực tế đó đòi hỏi các bên tranh chấp ở Biển Đông tăng cường nhiều nỗ lực hơn nữa. Trong quá trình tìm kiếm giải pháp cơ bản lâu dài cho các tranh chấp, các bên cần tuân thủ các cam kết đã được nêu trong Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) ký giữa ASEAN và Trung Quốc năm 2002, đặc biệt là cam kết không có bất cứ hành động nào làm phức tạp thêm tình hình ở Biển Đông. Các quốc gia thành viên ASEAN và Trung Quốc cũng cần tăng cường các nỗ lực, cùng nhau phấn đấu để xây dựng một văn kiện có tính pháp lý cao hơn, có tính ràng buộc cao hơn là Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông. Về hình thức văn kiện này có thể có thể dưới dạng một Hiệp ước, hoặc một Hiệp định, hoặc một Thỏa thuận, hoặc cũng có thể là một MOU giữa ASEAN và Trung Quốc được các đại diện có thẩm quyền của ASEAN và Trung Quốc ký, sau đó được các cơ quan có thẩm quyền của ASEAN và Trung Quốc phê duyệt.

Tôn trọng các nguyên tắc cơ bản (các nguyên tắc just cogent) của pháp luật quốc tế, tôn trọng Hiến chương Liên hợp quốc, tôn trọng các quy định của Công ước Luật Biển năm 1982, giải quyết tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình, thực hiện đầy đủ các cam kết trong DOC, tiến tới xây dựng Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông, cùng chung sức theo hướng biến Biển Đông thành vùng biển hòa bình, hữu nghị và hợp tác chính là chìa khóa cho các vấn đề phức tạp ở Biển Đông hiện nay.


[Vietnamdefence news]


Thứ Tư, 6 tháng 4, 2011

>> Công bố tài liệu về chủ quyền của Việt Nam với Hoàng Sa, Trường Sa



[Vnexpress news] Nhiều sách địa lý và bản đồ cổ của Việt Nam ghi chép rõ Bãi Cát Vàng, Hoàng Sa, Vạn lý Hoàng Sa, Đại Trường Sa hoặc Vạn lý Trường Sa từ lâu đã là lãnh thổ Việt Nam.

>> Download !


Trích đoạn: ... "Hoàng Sa và Trường Sa là hai quần đảo ở ngoài khơi Việt Nam: quần đảo Hoàng Sa chỗ gần nhất cách đảo Ré, một đảo ven bờ của Việt Nam, khoảng 120 hải lý; cách Đà Nẵng khoảng 120 hải lý về phía Đông; quần đảo Trường Sa chỗ gần nhất cách Vịnh Cam Ranh khoảng 250 hải lý về phía Đông.

Nhận thức của các nhà hàng hải thời xưa về Hoàng Sa và Trường Sa lúc đầu mơ hồ; họ chỉ biết có một khu vực rộng lớn rất nguy hiểm cho tàu thuyền vì có những bãi đá ngầm. Ngày xưa người Việt Nam gọi là Bãi Cát Vàng, Hoàng Sa, Vạn lý Hoàng Sa, Đại Trường Sa hoặc Vạn lý Trường Sa như các sách và bản đồ cổ của Việt Nam đã chứng tỏ. Hầu như tất cả các bản đồ của các nhà hàng hải phương Tây từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII đều vẽ chung quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa làm một dưới cái tên Pracel, Parcel hay Paracels.

Về sau, với những tiến bộ của khoa học và hàng hải, người ta đã phân biệt có hai quần đảo: quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. Mãi cho đến năm 1787 - 1788, cách đây hai trăm năm, đoàn khảo sát Kergariou-Locmaria mới xác định được rõ ràng và chính xác vị trí của quần đảo Hoàng Sa (Paracel) như hiện nay, từ đó phân biệt quần đảo này với quần đảo Trường Sa ở phía Nam.

Các bản đồ trên nói chung đều xác định vị trí khu vực Pracel (tức là cả Hoàng Sa và Trường Sa) là ở giữa Biển Đông, phía đông Việt Nam, bên ngoài những đảo ven bờ của Việt Nam.

Hai quần đảo mà các bản đồ hàng hải quốc tế ngày nay ghi là Paracels và Spratley hoặc Spratly chính là quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa của Việt Nam.

Chủ quyền lịch sử của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa:

Từ lâu nhân dân Việt Nam đã phát hiện quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, Nhà nước Việt Nam đã chiếm hữu và thực hiện chủ quyền của mình đối với hai quần đảo đó một cách thật sự, liên tục và hoà bình.

Nhiều sách địa lý và bản đồ cổ của Việt Nam ghi chép rõ Bãi Cát Vàng, Hoàng Sa, Vạn lý Hoàng Sa, Đại Trường Sa hoặc Vạn lý Trường Sa từ lâu đã là lãnh thổ Việt Nam.



Toàn tập Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư


Toàn tập Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư, tập bản đồ Việt Nam do Đỗ Bá, tên chữ là Công Đạo, soạn vẽ vào thế kỷ XVII, ghi rõ trong lời chú giải bản đồ vùng Phủ Quảng Ngãi, xứ Quảng Nam: "giữa biển có một bãi cát dài, gọi là Bãi Cát Vàng", "Họ Nguyễn mỗi năm vào tháng cuối mùa Đông đưa mười tám chiếc thuyền đến lấy hoá vật, được phần nhiều là vàng bạc, tiền tệ, súng đạn".

Trong Giáp Ngọ bình nam đồ, bản đồ xứ Đàng Trong do Đoán quận công Bùi Thế Đạt vẽ năm 1774, Bãi Cát Vàng cũng được vẽ là một bộ phận của lãnh thổ Việt Nam.

Phủ biên tạp lục, cuốn sách của nhà bác học Lê Quý Đôn (1726-1784) biên soạn năm 1776, viết về lịch sử, địa lý, hành chính xứ Đàng Trong dưới thời chúa Nguyễn (1558-1775) khi ông được triều đình bổ nhiệm phục vụ tại miền Nam, chép rõ đảo Đại Trường Sa (tức Hoàng Sa và Trường Sa) thuộc phủ Quảng Ngãi.

"Xã An Vĩnh, huyện Bình Sơn, Phủ Quảng Nghĩa, ở ngoài cửa biển có núi gọi là Cù lao Ré, rộng hơn 30 dặm, có phường Tứ Chính, dân cư trồng đậu, ra biển bốn canh thì đến, phía ngoài nữa lại có đảo Đại Trường Sa. Trước kia có nhiều hải vật và hoá vật của tầu, lập đội Hoàng Sa để lấy, đi ba ngày đêm mới đến, là chỗ gần xứ Bắc Hải".


Đại Nam Nhất thống Toàn đồ.


... Phủ Quảng Ngãi, huyện Bình Sơn có xã An Vĩnh, ở gần biển, ngoài biển về phía Đông Bắc có nhiều cù lao, các núi linh tinh hơn 130 ngọn, cách nhau bằng biển, từ hòn này sang hòn kia hoặc đi một ngày hoặc vài canh thì đến. Trên núi có chỗ có suối nước ngọt. Trong đảo có bãi cát vàng, dài ước hơn 30 dặm, bằng phẳng rộng lớn, nước trong suốt đáy. Trên đảo có vô số yến sào; các thứ chim có hàng nghìn, hàng vạn, thấy người thì đậu vòng quanh không tránh. Trên bãi vật lạ rất nhiều. Ốc vân thì có ốc tai voi to như chiếc chiếu, bụng có hạt to bằng đầu ngón tay, sắc đục, không như ngọc trai, cái vỏ có thể đẽo làm tấm bài được, lại có thể nung vôi xây nhà; có ốc xà cừ, để khảm đồ dùng; lại có ốc hương. Các thứ ốc đều có thể muối và nấu ăn được. Đồi mồi thì rất lớn. Có con hải ba, tục gọi là Trắng bông, giống đồi mồi, nhưng nhỏ hơn, vỏ mỏng có thể khảm đồ dùng, trứng bằng đầu ngón tay cái, muối ăn được. Có hải sâm tục gọi là con đột đột, bơi lội ở bến bãi, lấy về dùng vôi sát qua, bỏ ruột phơi khô, lúc ăn thì ngâm nước cua đồng, cạo sạch đi, nấu với tôm và thịt lợn càng tốt.

Các thuyền ngoại phiên bị bão thường đậu ở đảo này. Trước họ Nguyễn đặt đội Hoàng Sa 70 suất, lấy người xã An Vĩnh sung vào, cắt phiên mỗi năm cứ tháng ba nhận giấy sai đi, mang lương đủ ăn sáu tháng, đi bằng 5 chiếc thuyền câu nhỏ, ra biển 3 ngày 3 đêm thì đến đảo ấy. Ở đấy tha hồ bắt chim bắt cá mà ăn. Lấy được hoá vật của tầu, như là gươm ngựa, hoa bạc, tiền bạc, vòng sứ, đồ chiên, cùng là kiếm lượm vỏ đồi mồi, vỏ hải ba, hải sâm, hột ốc vân rất nhiều. Đến kỳ tháng tám thì về, vào cửa Eo, đến thành Phú Xuân để nộp, cân và định hạng xong mới cho đem bán riêng các thứ ốc vân, hải ba, hải sâm, rồi lĩnh bằng trở về. Lượm được nhiều ít không nhất định, cũng có khi về người không. Tôi đã xem số của cai đội cũ là Thuyên Đức Hầu biên rằng: năm Nhâm Ngọ lượm được 30 hốt bạc; năm Giáp Thân được 5.100 cân thiếc; năm Ất Dậu được 126 hốt bạc; từ năm Kỷ Sửu đến năm Quý Tỵ năm năm ấy mỗi năm chỉ được mấy tấm đồi mồi, hải ba. Cũng có năm được thiếc khối, bát sứ và hai khẩu súng đồng mà thôi.

Họ Nguyễn lại đặt đội Bắc Hải, không định bao nhiêu suất, hoặc người thôn Thứ Chính ở Bình Thuận, hoặc người xã Cảnh Dương, ai tình nguyện đi thì cấp giấy sai đi, miễn cho tiền sưu cùng các tiền tuần đò, cho đi thuyền câu nhỏ ra các xứ Bắc Hải, cù lao Côn Lôn và các đảo ở Hà Tiên, tìm lượm vật của tầu và các thứ đồi mồi, hải ba, bào ngư, hải sâm, cũng sai cai đội Hoàng Sa kiêm quản. Chẳng qua là lấy các thứ hải vật, còn vàng bạc của quý ít khi lấy được”. ...


Thứ Sáu, 1 tháng 4, 2011

>> Ngày Cá tháng Tư



Những người hay đùa và hài hước tại nhiều nước giờ đây đang háo hức chuẩn bị các “chiêu” để đánh lừa bạn bè và người thân vào ngày Cá tháng Tư (1/4). Nhưng không ai biết chính xác truyền thống này có từ khi nào, tại sao và ở đâu.

Những trò nói dối vui vẻ có vẻ như trùng với thời điểm mùa xuân đến từ thời La Mã cổ đại và người Xen-tơ, vốn có truyền thống mừng ngày hội gây bất hòa. Những ghi chép đầu tiên về ngày Cá tháng Tư xuất hiện tại châu Âu trong thời Trung Cổ (khoảng năm 1.100-400 sau Công nguyên).

Có vài dấu vết về ngày Cá tháng Tư trong thần thoại La Mã, đặc biệt là câu chuyện về Nữ thần Ceres mùa màng và con gái bà, nàng Proserpina.

Theo thần thoại La Mã, thần cai quản địa ngục Pluto đã bắt cóc nàng Proserpina và đưa nàng tới sống cùng ông ở địa ngục. Cô gái đã gọi mẹ nhưng nữ thần Ceres chỉ nghe thấy âm vang giọng nói của con gái và đi tìm kiếm cô trong tuyệt vọng.

Những cuộc tìm kiếm vô vọng đó, hay các cuộc rượt đuổi ngỗng trời, đã trở thành chuyện cười phổ biến tại châu Âu trong các thế kỷ trước.

Giả thuyết phổ biến nhất về nguồn gốc ngày Cá tháng Tư xuất phát từ việc chuyển đổi lịch Julian cũ sang lịch Gregorian - hệ thống lịch do Giáo hoàng Gregory XIII (1502-1582) đưa ra vào cuối thế kỷ 16 và cũng là hệ thống lịch mà thế giới ngày nay vẫn dùng.

Theo lịch Julian, năm mới được tổ chức trong khoảng thời gian từ 25/3 đến 1/4 nhưng theo lịch Gregorian, năm mới đến vào ngày 1/1. Những người không được thông báo về sự thay đổi này, hoặc kiên quyết giữ truyền thống cũ, thường bị chế giễu. Từ đó nảy sinh những câu chuyện cười nhằm vào họ vào thời điểm năm mới theo lịch cũ.

Tại Pháp, những người hay đùa thường dính cá vào những người theo truyền thống cũ, nên mới có tên gọi là “Poisson d\'Avril” hay Cá tháng Tư. Nhưng giả thuyết này cũng không lý giải được tại sao ngày hội nói dối lại lan sang nhiều nước khác ở châu Âu vốn không sử dụng lịch Gregorian cho tới tận sau này.

Tại Scotland, ngày Cá tháng Tư có tên gọi là April “Gowks” - tên khác của một loài chim cúc cu. Nguồn gốc của tấm biển “Đá tôi” cũng có thể xuất phát lễ kỷ niệm ngày April “Gowks” của người Scotland.

Những năm gần đây, các đài phát thanh, chương trình truyền hình và các trang web trên khắp thế giới thường nói đùa bạn đọc và người nghe vào ngày Cá tháng Tư. Một trong những lời nói dối nổi tiếng nhất là năm 1957 khi đài BBC của Anh phát bộ phim tài liệu về mùa thu hoạch mì ống thường niên tại Thụy Sỹ. Phim quay cảnh một gia đình đang lượm những sợi mì từ “các cây mì spaghetti”. Món mì Italia rất được ưa chuộng tại Anh thời điểm đó và nhiều người Anh đã "ngây thơ" tin vào trò lừa của BBC tới nỗi họ muốn tìm hiểu xem làm thế nào để có thể tự trồng được các cây spaghetti!

Vào ngày Cá tháng Tư năm 2007, công cụ tìm kiếm trên internet Google đã thông báo cung cấp dịch vụ mới Gmail Paper, nơi người sử dụng dịch vụ thư miễn phí có thể lưu giữ email vào kho lưu trữ giấy mà Google sẽ in ra và rồi gửi cho họ miễn phí. Năm 2008, Google đã mời mọi người tham gia dự án thám hiểm sao Hoả.

Vì thế, khi lướt web hoặc xem tivi hôm nay, bạn hãy cảnh giác về những gì nhìn thấy và đọc được, nếu không bạn có thể bị mắc lừa trong ngày Cá tháng Tư.




Nguồn gốc của ngày Cá tháng Tư (1/4)
Cá tháng Tư là ngày đầu tiên của tháng 4, ngày mà mọi người trên thế giới có thể nói khoác với nhau cho vui mà không sợ bị người kia giận dữ. Trong ngày này, mọi người đi nói khoác với nhau càng nhiều càng tốt và ở một số nơi thì việc nói khoác này sẽ kết thúc vào buổi trưa. Nếu sau buổi trưa còn ai tiếp tục nói khoác thì vận đen sẽ ập tới với người đó.

Cho tới bây giờ nguồn gốc chính xác của ngày Cá tháng Tư vẫn chưa được lộ rõ. Tại sao lại là ngày đầu tháng 4 và tại sao lại nói khoác với nhau? Một giả thuyết cho rằng đó là ngày đánh dấu mùa xuân tới (ở phương Tây) trong khi giả thuyết khác cho rằng đây là ngày kết thúc Đại Hồng Thủy và kết thúc chuỗi ngày lênh đênh trên biển của Noah, người đã được Chúa chỉ bảo để đóng thuyền.

Giả thuyết được chấp nhận rộng rãi nhất bắt nguồn từ cuối thế kỷ XVI khi mà lịch Julian (lấy tên từ Julius Caesar) được thay thế bởi lịch Gregorian. Trong lịch Julian cũ, năm mới bắt đầu từ 25 tháng 3 và ngày lễ kỷ niệm năm mới thường được tổ chức sau đó 1 tuần (tức là rơi vào khoảng 1/4) vì tuần có ngày 25/3 lại vướng vào Holy Week. Do vậy sau khi đã đổi lịch sang lịch mới và kỷ niệm năm mới vào ngày 1/1, một vài người vẫn muốn ăn Tết lần thứ hai bằng cách lừa mọi người nhớ lại rằng 1/4 mới là ngày lễ kỷ niệm năm mới. Trong ngày đó, người đi lừa thường mời người bị lừa tới các bữa tiệc mừng năm mới không tồn tại trên thực tế.

Ngày nay, ở Anh người ta gọi những người bị lừa trong dịp 1/4 là “April Fool”, ở Scotland thì được gọi là “gowk” cũng có nghĩa là fool – kẻ ngốc. Người Pháp thì gọi những người bị lừa là Poissons D’Avirl có nghĩa là “những con cá tháng Tư” và có lẽ do ảnh hưởng của người Pháp nên ở Việt Nam chúng ta cũng gọi ngày này là ngày Cá tháng Tư.

Tản mạn: NÓI DỐI
Mỗi ngày đều có ý nghĩa lịch sử và ngày ấy để lại dấu ấn nào đó trong lòng người. Ngày Cá tháng Tư mặc dầu không có lịch sử rõ ràng nhưng ít nhiều gì con người cũng nghe đến ngày này và thi thoảng vẫn "nhắc nhau" ngày này bằng cách nói dối chuyện gì đó cho vui chứ không làm hại đến người khác. Mỗi nền văn hoá có lịch sử kỷ niệm ngày Nói Dối khác nhau nhưng thường vào ngày đầu tiên của mùa Xuân.

Người ta cho rằng, quê hương của cá tháng tư là ở nước Pháp. Ngày cá tháng tư được "khai sinh" từ thế kỷ 16. Theo cách giải thích này, vào thời kỳ đó, năm mới ở Pháp được tổ chức từ ngày 25/3 đến 1/4. Đến năm 1562, công lịch mới được giáo hoàng Gregory đưa ra với ngày đầu tiên của năm mới là 1/1 và 2 năm sau công lịch này được hoàng đế Henry IX thông qua. Tuy nhiên, có một số người không biết lịch mới mà vẫn tiếp tục tổ chức đón mừng tất niên vào ngày 1/4. Những người này bị bạn bè trêu đùa bằng cách gửi những món quà nghịch ngợm, nói dối họ và thuyết phục họ tin vào những chuyện đó. Những người bị lừa trở thành "April fool" (Kẻ ngốc tháng 4 - Cá tháng tư). Ở Việt Nam, khoảng hơn 10 năm trở lại đây, ngày cá tháng tư đã được chấp nhận và nhanh chóng trở thành cơ hội để mọi người cùng chia sẻ các bất ngờ thú vị.



Nói dối là hành vi cố tình cung cấp thông tin sai sự thật về vấn đề nào đó để người nói dối đạt được mục đích mà họ mong muốn - thường là không chính đáng. Người nói dối luôn tạo môi trường giống như thật, tạo mọi cử chỉ, hành động để đối tượng tin vào những gì họ đang nói. Còn với người bị nói dối thì họ thường để lộ những cảm xúc tiêu cực, không ít người nhận thấy mình bị đem ra làm trò đùa. Trong trường hợp họ bị nói dối mà không phát hiện ra thực tế phũ phàng, thì họ rất quan tâm đến hậu quả của sự nói dối sẽ xảy ra ra sao.

Vậy là khi người thông tin mong muốn người khác hiểu lệch lạc về một vấn đề, sự kiện, hoặc mong muốn đạt được điều gì đó (thường là quyền lợi vật chất, vị trí công tác, biện minh cho việc làm xấu cho của mình, cạnh tranh không lành mạnh trong kinh doanh...) nhờ thông tin sai sự thật, bịa chuyện thì nói dối xuất hiện. Người nói dối nhiều lần, không quan tâm hoặc bất chấp hậu quả xấu có thể xảy ra cho nhiều người khác thì thường được gọi là trí trá. Xã hội, cộng đồng thường tỏ ý khinh ghét, xa lánh những người nói dối kiểu này.

Không ngờ, với phương Tây, người ta kỷ niệm cái ngày này và trêu nhau một chút cho vui còn với người Việt thì ngược lại. Chuyện đùa vui ở Tây Phương lại trở thành căn bệnh trầm kha của một số người Việt. Người Tây Phương họ thường rất thẳng thắn, đâu ra đó và họ không hề sợ mất lòng khi nói thẳng, nói thật. Người Việt thì bị cái vỏ bọc bên ngoài che chắn quá lớn để rồi khi ai nào đó nói thẳng, nói thật, góp ý với mình thì mình xừng cồ lên với sự góp ý đó. Từ cái chuyện không dám nói thẳng nói thật đâm sinh ra cái tật xấu nữa là nói xấu nhau.

Người ta vẫn thường đùa với nhau:

Thật thà thẳng thắn thường thua thiệt,

Lọc lừa lươn lẹo lại lên lương.

Đùa nhưng mà đúng đấy ! Thử hỏi trong xã hội hiện nay những người sống thẳng, sống thật xem hậu quả sẽ như thế nào ? Còn với những người lọc lừa lươn lẹo ấy thì ngày lại ngày cứ thăng quan tiến chức !

Với lối sống ích kỷ và giả tạo để rồi người ta không còn ngần ngại hứa lèo, hứa lần, hứa hồi và nói dối trở thành thói quen trong cuộc sống.

Lớn nói dối theo lớn, nhỏ nói dối theo nhỏ. Không biết có quá đáng chăng bây giờ đi tìm người nói thật khó quá ! Vì lẽ nói thật, nói thẳng thường hay bị ganh ghét, đố kỵ. "Thuốc đắng dã tật, sự thật mất lòng" ! Vì sợ mất lòng nên nhiều người đã sợ làm mất lòng người khác nên đành né đi bằng cách nói dối để làm hài lòng đối phương. Mà cũng khổ, biết nói dối là điều xấu, là điều không ai thích nhưng dần dần chuyện nói dối xảy ra quá nhiều trong xã hội nên nói dối đâm ra là "chuyện thường ngày ở huyện".

Cách đây không lâu, có việc xuống Cần Thơ. Dân "Hai Lúa" lâu lâu mới có dịp ngồi trên xe "tốc hành", "Hai Lúa" vào bến xe Miền Tây, hỏi và mua được chiếc vé đi Cần Thơ của hãng xe KL. Nhân viên bán vé bảo 16 giờ 00 xe xuất bến nhưng chờ mãi đến 17 g 15 xe chưa xuất bến. Thế là đành mất 80.000 cho vé xe KL để chuyển qua xe ML vì có khách đi xe ML bỏ chỗ ! Lần sau có cho thêm tiền chẳng bao giờ tôi đi xe KL nữa.

Đi xe khách bị trễ thì còn thông cảm được, đàng này đi máy bay mà cứ bị trễ hoài. Báo chí vẫn nói lên tiếng nói của người dân về hãng X trễ hẹn. Mới đây thôi, chuyến bay từ Vinh vào Sài Gòn bị trễ mà đến phút chót hành khách mới được thông báo, hơn 20 đứa trẻ lây lất trong sân bay để chờ chuyến bay "đến hẹn lại trễ" của hãng hàng không X. Trễ hẹn hoài nên đâm ra chuyện hứa lèo, chuyện nói dối của hãng hàng không ấy cũng chẳng còn lạ gì với hành khách.



Nói chi xa, đơn giản nhất là việc thi công đường sá, đoạn đường từ Bình Khánh về Cần Giờ đã chậm với dự định thời gian không đến mức tưởng tượng nữa. Hết hẹn ngày này đến hẹn ngày khác, hết hẹn năm này đến hẹn năm khác. Mới nghe thông tin là nhà thầu phải thuê 7 công ty để đẩy nhanh tiến độ thi công đến cuối năm 2009 hoàn tất công trình. Nghe thì nghe vậy chứ khi nào nó hoàn thành mới biết được chứ cũng đã biết bao nhiêu năm nay người dân nghe con đường Rừng Sác ấy hoàn thành năm 2006, rồi đợi đến 2007. Nay đến 2009 mà cỏ ở bên mặt đường thi công cao hơn cả đầu người. Cỏ cao hơn cả đầu người thì thử hỏi đến bao giờ mới hoàn thành được vậy mà người ta lại hứa đến cuối 2009. Hãy đợi đấy !

Những đoạn đường đang vướng mắc lô-cốt được mấy con đường hoàn thành đúng tiến độ ...

Còn biết bao nhiêu và biết bao nhiêu chuyện nói dối xảy ra trong cuộc đời, trong xã hội.

Lúc đầu, người ta con tin tưởng vào lời hứa nhưng dần dần người ta có một cái kinh nghiệm là chẳng bao giờ lời hứa ấy được thực hiện. Tất cả những lời hứa ấy đều chờ đợi một câu: Hãy đợi đấy ! Người dân đợi hoài, đợi mãi riết rồi cũng thành thói quen. Kêu chi cho mệt, gào chi cho khổ ! Thôi thì cứ nhắm mắt chờ. Ngày nào nó xong thì biết nó xong chứ chờ đợi chi vào "lời nói dối như cuội" ấy !

Nhiều và nhiều việc khác chắc không cần nói ra thì ai ai cũng biết cả. "Thượng bất chính - hạ tất loạn" là hậu qủa bình thường của những người có trách nhiệm mà hứa lèo, hứa cụi. Người cầm quyền, người có trách nhiệm mà nói dối thì ở dưới làm sao không nói dối được.

Thẳng thắn - thật thà thường vẫn thường thua thiệt so với người nói dối, người lươn lẹo. Thật thà - dối trá vẫn là hai mặt của đồng tiền, hai mặt của vấn đề mãi mãi tồn tại trong xã hội. Thật thà - dối trá vẫn luôn là lựa chọn dành cho con người. Chớ gì thấy được hậu quả của lối sống dối trá, của những người nói dối đã gây biết bao nhiêu thiệt hại cho anh chị em đồng loại để ngày mỗi ngày con người sống thật với nhau hơn, sống chân thành với nhau hơn.
                                                                                                                                                                                                                                          [vietbao.vn]


Thứ Tư, 30 tháng 3, 2011

>> Mây phóng xạ là gì?



[Vnexpress news] Thuật ngữ "mây phóng xạ" xuất hiện trên các phương tiện truyền thông tại Việt Nam và thế giới trong nhiều ngày qua, tuy nhiên không phải ai cũng biết khái niệm cụ thể về nó.



Mô hình di chuyển của mây phóng xạ từ nhà máy điện hạt nhân Fukushima I hôm 18/3. (Ảnh: paranoidnews.org)


Bộ Quốc phòng Mỹ và Liên minh quân sự Bắc Đại Tây Dương (NATO) dùng thuật ngữ "mây phóng xạ" để chỉ khí nóng, hơi nước, khói, bụi và các sản phẩm của phản ứng phân hạch hạt nhân được tạo ra sau vụ nổ bom nguyên tử. Thuật ngữ này cũng được dùng cho các sự cố trong nhà máy điện hạt nhân, mặc dù các lò phản ứng không phát nổ giống như bom nguyên tử. Trên thực tế tỷ lệ các chất đồng vị phóng xạ trong đám vật chất phát sinh từ vụ nổ của bom hạt nhân hoàn toàn khác với vụ nổ của lò phản ứng.
Thông tin từ Tổ công tác xử lý thông tin sự cố Nhà máy điện hạt nhân Fukushima 1 của Bộ Khoa học và Công nghệ chiều 28/3 cho biết trạm quan trắc của Viện Khoa học và Kỹ thuật hạt nhân thuộc Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam đã phát hiện đồng vị phóng xạ I-131 trong không khí, nhưng hàm lượng rất nhỏ, không ảnh hưởng đến sức khỏe con người.

 Đối phó với tình hình ô nhiễm phóng xạ từ Nhật Bản sắp ảnh hưởng tới Việt Nam, 3 bệnh viện đã được chuẩn bị để điều trị nhiễm phóng xạ đó là Bệnh viện Bạch Mai, Bệnh viện TƯ Huế và Bệnh viện Chợ Rẫy.

Trường hợp nếu có biểu hiện nghi vấn sẽ được chuyển tiếp đến các cơ sở y tế như: Bệnh viện Bạch Mai, Bệnh viện TƯ Huế, Bệnh viện Chợ Rẫy, Bệnh viện TƯ Quận đội 108, Viện Y học phóng xạ quân đội… kiểm tra nhiễm xạ trong.

Theo từ điển Khoa học và Công nghệ McGraw-Hill, mây phóng xạ là thuật ngữ dùng để chỉ một lượng không khí và hơi nước mang theo các chất phóng xạ từ vụ nổ hoặc sự cố hạt nhân.

Các nguyên tố hóa học có thể có một hoặc nhiều đồng vị. Các đồng vị có số nguyên tử và số proton trong hạt nhân nguyên tử giống nhau song số neutron của chúng khác nhau nên số khối cũng khác. Chúng được gọi là "đồng vị" vì nằm cùng vị trí trong bảng tuần hoàn hóa học.

Hạt nhân nguyên tử gồm hai loại: ổn định và không ổn định. Phân rã phóng xạ hay phân rã hạt nhân là hiện tượng hạt nhân nguyên tử không ổn định tự biến đổi và phát ra các bức xạ hạt nhân để đạt tới trạng thái ổn định. Các nguyên tử có tính phóng xạ (không ổn định) được gọi là các đồng vị phóng xạ, còn các đồng vị không có tính phóng xạ được gọi là đồng vị bền. Chẳng hạn, nguyên tố Carbon (C) có hai đồng vị phóng xạ là C-12 và C-13, một đồng vị phóng xạ là C-14.

Tia phóng xạ là các dòng hạt chuyển động nhanh phát ra từ các chất phóng xạ trong quá trình phân rã hạt nhân. Chúng có thế là chùm các hạt mang điện dương (như hạt alpha, hạt proton) hay mang điện âm (như electron) hay không mang điện (như hạt neutron, hạt gamma, hạt neutrino).

Một số người cũng chưa hiểu tại sao người dân Trung Quốc đổ xô đi mua muối chứa i-ốt do lo ngại mây phóng xạ từ nhà máy điện hạt nhân Fukushima I, trong khi báo chí Nhật Bản đưa tin các chuyên gia phát hiện đồng vị phóng xạ i-ốt bên ngoài nhà máy. Tại sao người dân Trung Quốc muốn đưa muối i-ốt vào cơ thể họ trong khi nguyên tố này cũng có thể tồn tại trong mây phóng xạ?

Nguyên tố i-ốt có tới 37 đồng vị, trong đó chỉ có I-127 là đồng vị ổn định. Muối chứa I-127 và những viên nén i-ốt kali (KI) có thể được dùng để rửa trôi đồng vị phóng xạ I-131, một sản phẩm phụ của phản ứng phân hạch hạt nhân, trong cơ thể người. Như vậy có nghĩa là người ta dùng đồng vị bền duy nhất của i-ốt để ngăn chặn tác động của đồng vị phóng xạ i-ốt.


Thứ Năm, 24 tháng 3, 2011

>> Philippines đua sức mạnh quân sự với Trung Quốc và Malaysia ở Biển Đông


[Vitinfo news] Quân đội Philippines đang tụt hậu so với Trung Quốc, Việt Nam và Malaysia, trong việc phát triển khả năng phòng thủ tại quần đảo Trường Sa của Việt Nam hiện đang có tranh chấp.



Bia chủ quyền trên quần đảo Trường Sa.


Theo nguồn tin, Quân đội Philippines cho biết các nước có tuyên bố chủ quyền - ngoại trừ Đài Loan và Brunei - đã tăng cường khả năng phòng thủ tại các đảo nhỏ và bãi cát ngầm trong quần đảo Trường Sa của Việt Nam.

Trước hết là Malaysia
Từ một đảo nhỏ bắt đầu chiếm đóng vào năm 1984, Quân đội Malaysia hiện đã triển khai các binh sĩ trên 5 hòn đảo.

Được biết, tại bãi cạn Swallow (bãi Hoa Lau) do Malaysia chiếm đóng, hiện đang có một đường băng dài 1.200 mét cùng với một căn cứ hải quân nhỏ trên hòn đảo được gọi là Layang-Layang, vốn đã được quy hoạch thành khu du lịch lặn cho du khách.

Theo các nguồn tin cho biết, đường băng có thể phục vụ các máy bay vận tải dân sự và quân sự hạng nặng. Sân bay này chỉ mất một giờ bay từ Kota Kinabalu và được xem là rất quan trọng để bảo vệ các tuyên bố chủ quyền của của Malaysia.

“Các căn cứ không quân của Malaysia đặt tại Kota Kinabalu và Labuan có thể được sử dụng để tiến hành xuất kích các máy bay hiện đại F-18 của Mỹ và MIG-29 Fulcrum của Nga. Tuy nhiên, các căn cứ này không đề cập đến việc triển khai các tàu khu trục mang tên lửa tầm trung và tầm xa của Malaysia,” theo báo cáo của Bộ Quốc phòng Philipppines cho hay.

Đồng thời, báo cáo của Bộ Quốc phòng Philipppines cũng trích dẫn kế hoạch của Malaysia về việc mua sắm máy bay Sukhoi SU-35 mới từ Nga.

Tiếp đó là Trung Quốc

Ngoài ra, báo cáo cũng cho biết các bức ảnh chụp trong quá trình thực hiện tuần tra định kỳ quần đảo Trường Sa của Việt Nam, phía Philippines gọi là quần đảo Kalayaan, cho thấy Bắc Kinh đã tăng cường xây dựng lực lượng quân sự trong khu vực bất chấp đã tham gia ký kết Tuyên bố ứng xử Biển Đông năm 2002.

Theo đó, các bức ảnh trinh sát mới nhất chụp trong năm 2010 cho thấy Trung Quốc đã triển khai nhiều súng máy khác nhau và lắp đặt các thiết bị ăng-ten thông tin liên lạc, cũng như triển khai các tàu hải quân neo tại bãi đá Chigua (bãi đá Gạc Ma).

Chưa hết, Trung Quốc còn tiến hành phát triển khả năng giám sát quân sự ở bãi Cuarteron (bãi Châu Viên), trong khi xây dựng bãi Fiery Cross (bãi Chữ Thập) trở thành trung tâm thông tin liên lạc và nghiên cứu hải dương học.

“Trung Quốc cũng tăng cường các hoạt động quân sự nhằm xây dựng khả năng phòng thủ tại khu vực đảo tranh chấp,” báo cáo cho biết.

Hành động của Philippines
Hiện tại, Bộ Tư lệnh Miền Tây Philippines(Wescom) được yêu cầu khẩn trương sửa chữa đường băng trên đảo Pag-Asa (đảo Thị Tứ), hòn đảo lớn nhất trong số các đảo có binh sĩ quân đội Philippines đồn trú. Kể từ khi xây dựng sân bay trên đảo Thị Tứ từ những năm 1970, sân bay này chưa bao giờ được tiến hành sửa chữa lớn.

Các quan chức thuộc Bộ Tư lệnh Miền Tây Philipppines (Wescom) cho biết, công việc sửa chữa và phục hồi hoạt động của sân bay Rancudo phải được thực hiện càng sớm càng tốt, để không cho phép làm xói mòn đất gây thiệt hại hơn nữa cho đường băng.

“Sau khi sửa chữa, sân bay phải cho phép phục vụ các máy bay vận tải hạng nặng và máy bay chiến đấu, giống như đảo Trường Sa Lớn của Việt Nam (Philippines gọi là đảo Lagos) và bãi Swallow (bãi Hoa Lau) của Malaysia,” một quan chức cấp cao của Wescom tiết lộ trong điều kiện giấu tên.

Copyright 2012 Tin Tức Quân Sự - Blog tin tức Quân Sự Việt Nam
 
Lên đầu trang
Xuống cuối trang