Tin Quân Sự - Blog tin tức Quân sự Việt Nam: 17 tháng 3 2013

Paracel Islands & Spratly Islands Belong to Viet Nam !

Quần Đảo Hoàng Sa - Quần Đảo Trường Sa Thuộc Về Việt Nam !

Thứ Bảy, 23 tháng 3, 2013

>> Tàu ngầm Kilo 636 của Việt Nam sẽ sở hữu tên lửa Klub-S

Các tàu ngầm Kilo 636 của Hải quân Việt Nam sẽ được trang bị tên lửa hành trình chống tàu siêu thanh Klub-S.

>> Tàu ngầm Kilo Việt Nam mạnh hơn tàu Kilo Trung Quốc
>> Tàu ngầm SMX-26 : Sự bổ sung hoàn hảo cho Kilo 636 Việt Nam


Theo dữ liệu từ Viện Nghiên cứu Hòa bình Quốc tế Stockholm (SIPRI), năm 2009, Việt Nam đã ký hợp đồng với Nga mua 40 tên lửa hành trình chống tàu siêu thanh 3M-54 Klub-S. Số tên lửa này sẽ được trang bị cho tàu ngầm tấn công Kilo Project 636.

Tuy nhiên, SIPRI không đưa ra thời hạn chuyển giao. Nhiều khả năng, tên lửa được giao trong năm 2013 hoặc 2014 khi Việt Nam bắt đầu nhận tàu ngầm Kilo.

Klub là tên hệ thống tên lửa tấn công đa năng do Cục thiết kế Novator (Nga) nghiên cứu phát triển sử dụng cho nhiệm vụ tấn công tiêu diệt tàu chiến mặt nước (kể cả tàu sân bay), tàu ngầm và mục tiêu mặt đất. Trong đó, Klub-S là biến thể của hệ thống được thiết kế để lắp đặt trên tàu ngầm tấn công.


Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com

Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Tàu ngầm Kilo Việt Nam đang thử nghiệm tại Nga. Ảnh minh họa

Hệ thống Klub-S có thể sử dụng 5 loại đạn tên lửa tấn công nhiều mục tiêu trên bộ, trên biển. Tuy nhiên, khả năng lớn Việt Nam sẽ chỉ dùng loại đạn tên lửa hành trình chống tàu siêu thanh 3M-54E.

Kiểu đạn này dùng để tiêu diệt các loại tàu chiến mặt nước (tàu tuần tiễu, tàu khu trục, tàu đổ bộ, tàu hậu cần) hoạt động riêng lẻ cũng như hoạt động theo đội hình tàu trong các điều kiện bị chế áp điện tử.

Đạn 3M-54E dài 8,22m, đường kính thân 0,53m, trọng lượng phóng 2,3 tấn, lắp đầu đạn xuyên giáp nổ phân mảnh nặng 200kg. Tên lửa lắp động cơ khởi tốc nhiên liệu rắn và động cơ tuốc bin phản lực cho hành trình bay tăng tốc – tiếp cận mục tiêu cho phép đạt vận tốc gấp gần 3 lần vận tốc âm thanh (Mach 2,9), tầm bắn 200km.

Đạn 3M-54E lắp đầu tự dẫn radar chủ động ARGS-54 có tầm phát hiện mục tiêu gần 60km. Tức là khi cách mục tiêu tầm 60km, đạn tên lửa sẽ tự động phát hiện, bám bắt và khóa mục tiêu mà không cần sự can thiệp từ tàu phóng.

Với vận tốc vượt âm thanh, đạn 3M-54E được xem là một trong những sát thủ chống tàu chiến nguy hiểm nhất thế giới. Không những thế, quả đạn có quỹ đạo bay cực kỳ phức tạp, trong hành trình tiếp cận mục tiêu, cách 15km, quả đạn chỉ bay cách mặt nước 30m gây khó khăn cho biện pháp đánh chặn của tàu đối phương.

Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Đạn tên lửa hành trình chống tàu siêu thanh 3M-54E.

Ngoài loại đạn 3M-54E, Klub-S còn có khả năng bắn 4 loại đạn tên lửa khác gồm: đạn chống tàu cận âm 3M-54E (đạt tầm bắn 300km, đầu đạn nặng 400kg); đạn đối đất 3M-14E (tầm bắn 275km, đầu đạn nặng 400kg); đạn chống ngầm 91RE1 (tầm bắn 50km) hoặc 91RE2 (tầm bắn 40km).

Các đạn tên lửa của hệ thống Klub-S được bắn từ máy phóng ngư lôi cỡ 533mm trên tàu ngầm tấn công Kilo.

Theo thông tin mới nhất từ đại diện nhà máy Admiralteyski Verfi, phía Nga sẽ bàn giao chiếc tàu ngầm Kilo 636 đầu tiên cho Việt Nam vào cuối năm 2013. Và chiếc thứ 2 sẽ về vào cuối năm 2014.

Admiralteyski Verfi đang gấp rút thực hiện hợp đồng đóng 6 tàu ngầm Kilo cho Việt Nam theo hợp đồng trị giá 1,8-2 tỷ USD được ký năm 2009. Mới đây, nhà máy này đã khởi đóng chiếc tàu cuối cùng trong đơn đặt hàng. 

>> Triều Tiên đánh bại Hàn Quốc trong vòng 3 ngày

Triều Tiên đã đưa ra kịch bản mô tả cuộc tấn công chớp nhoáng vào Hàn Quốc chỉ trong vòng 3 ngày nhằm thống nhất hai miền.

>> Tiềm lực quân sự của CHDCND Triều Tiên
>> Hải quân Hàn Quốc: Khẳng định vị thế trên biển


Trang mạng tuyên truyền Triều Tiên Uriminzokkiri đăng clip mô tả kịch bản cuộc tấn công chớp nhoáng vào Hàn Quốc chỉ trong 3 ngày. Và mục tiêu của cuộc tấn công không gì khác là nhằm thống nhất hai miền.

Nội dung của clip kế hoạch tác chiến trong “cuộc chiến tranh thống nhất đất nước” chỉ trong 3 ngày là:

"Vào ngày đầu tiên, khi mệnh lệnh tấn công được ban hành, Quân đội Nhân dân Triều Tiên sẽ khai hỏa các giàn pháo phản lực phóng loạt cỡ 240mm. Ngoài ra còn có 250.000 tên lửa đạn đạo tầm trung và tầm xa và 1.000 tên lửa đất đối đất bắn trong 30 phút đầu tiên về phía Hàn Quốc và các căn cứ quân sự Mỹ. Cuộc tấn công như một cơn mưa đạn từ trên trời rơi xuống.


Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Các giàn pháo phản lực 240mm sẽ oanh tạc dữ dội Hàn Quốc trong ngày đầu cuộc chiến.

Hàn Quốc và các lực lượng không quân Mỹ sẽ hoảng hốt, sợ hãi và co cụm lại đến nỗi ngay cả một chiếc máy bay cũng không cất cánh nổi.

Sau đó, 50.000 bộ binh thuộc các lực lượng đặc biệt của Triều Tiên sẽ “triển khai tấn công bất ngờ vào Hàn Quốc và các căn cứ không quân, hải quân, tên lửa của Mỹ cũng như nhiều nhà máy điện khác”.

Tiếp theo, video tuyên truyền của Triều Tiên mô tả Tiều Tiên đã bắt giữ 150.000 người Mỹ đang sống tại Hàn Quốc như là “tù binh chiến tranh”.

Vào ngày thứ hai của “Cuộc chiến tranh thống nhất", 10.500 lính dù Triều Tiên đổ bộ xuống Seoul bằng máy bay.

Đồng thời, 4.600 xe tăng, 3.000 xe bọc thép của Triều Tiên cũng tấn công ồ ạt Seoul và quét sạch kẻ địch ra khỏi thành phố.

"Tất nhiên, ngay khi chiến tranh bắt đầu, chúng tôi sẽ tấn công các căn cứ quân sự của Mỹ ở Thái Bình Dương và quét sạch quân Mỹ ", người bình clip nói.

Vào ngày thứ ba, công dân ở Thủ đô Seoul cho tới các thành phố của Hàn Quốc sẽ bị bao vây trong “một đất nước hỗn loạn không có bất cứ nguồn cung cấp lương thực, thực phẩm, nước, mạng lưới truyền thông và mạng lưới giao thông nào".

Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Ảnh đồ họa lính Triều Tiên đổ bộ xuống Seoul.

Sau đó, các lực lượng Triều Tiên "sẽ chiếm Hàn Quốc” mà không cần tốn một viên đạn nào và tái ổn định các hoạt động cũng như khôi phục lại các nguồn cung cấp thiết yếu”.

"Như vậy, chúng ta có một kịch bản chiến tranh thống nhất kết thúc chỉ trong vẻn vẹn 3 ngày", clip tuyên truyền của Triều Tiên khẳng định.

Cuối cùng, video kết thúc với kết luận: "Dù cho Mỹ vẫn ngoan cố luyện tập xâm lược Triều Tiên trên hệ thống máy tính nhưng chúng luôn run sợ và không thể khởi động kịch bản chiến tranh trên thực tế".

Tất nhiên, đây chỉ clip kịch bản của trang mạng chuyên tuyên truyền cho Triều Tiên. Vì vậy, không lạ khi nó phóng đại quá mức về thông tin vũ khí Triều Tiên. Nước này không thể có một số lượng tên lửa đạn đạo tầm trung – xa lên tới 250.000 quả.

Các cuộc tấn công vượt qua vĩ tuyến 38 cũng không dễ dàng khi quân đội Hàn Quốc luôn duy trì lực lượng quân sự đông đảo tại đây.

Trên biển, các đội tàu chiến của Hàn Quốc đều là những loại tối tân, trang bị tên lửa đối không tầm cao và tên lửa đối đất tầm xa. Nước này đã phóng thử thành công tên lửa hành trình đối đất có tầm bắn xa tới 1.000km. Với loại vũ khí này, khi một cuộc chiến xảy ra, họ có thể dễ dàng oanh tạc Bình Nhưỡng. 

>> Tương lai của phòng thủ tên lửa Mỹ ở châu Á

Tên lửa đánh chặn SM-3 không cần dữ liệu từ các tàu chiến Aegis sẽ là tương lai của hệ thống phòng thủ tên lửa Mỹ tại châu Á?

>> Bí mật chiến lược Xây dựng hệ thống phòng thủ chống tên lửa của Mỹ (Kỳ 1)
>> Hàn-Mỹ xây dựng hệ thống phòng thủ tên lửa chung


Tập đoàn Raytheon vừa đạt một dấu mốc quan trọng khi thử nghiệm thành công tên lửa đánh chặn tên lửa đạn đạo RIM-161 Standard Missile 3 (SM-3), sử dụng kết nối dữ liệu non-Aegis (không cần dữ liệu điều khiển từ tàu phóng). Đây là một bước quan trọng trong nỗ lực trang bị thêm cho các tàu chiến toàn bộ tên lửa thuộc “đại gia đình” Standard Missile.

SM-3 cho tàu chiến “không” Aegis

SM-3 được xem là tên lửa đánh chặn hàng đầu thế giới hiện nay, xét về tầm bắn, các công nghệ được áp dụng khó có loại tên lửa nào trên thế giới có thể so sánh.

Tên lửa đánh chặn SM-3 Block IA sử dụng kết nối dữ liệu dải băng S có thể “bắt tay” với radar mạng pha AN/SPY-1 – “trái tim” hệ thống chiến đấu Aegis để cung cấp dữ liệu dẫn đường tới các mục tiêu bay tầm trung trong khí quyển. Tên lửa đánh chặn SM-3 Block IB, biến thể đang được phát triển thêm và mong đợi sẽ đi vào hoạt động trong năm 2015, cũng sử dụng cơ sở kết nối dữ liệu dạng dải băng S.

Tuy nhiên, nhận thức được việc hạn chế việc phụ thuộc vào liên kết dữ liệu tương thích dải băng S làm giảm doanh số bán tên lửa SM-3 và đặc biệt trong hợp tác phòng thủ tên lửa. Tức là, các tàu chiến không có hệ thống chiến đấu Aegis đồng nghĩa với việc họ không thể sử dụng SM-3.


Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Tên lửa đánh chặn tên lửa đạn đạo SM-3 rời bệ phóng.

Vì thế, từ năm 2010, Tập đoàn Raytheon đã bắt đầu phát triển hệ thống kết nối dữ liệu sẽ sử dụng liên kết dải băng tần kép. Hệ thống có khả năng hoạt động trên các tàu chiến sử dụng radar ở cả dải tần S và X để liên lạc với tên lửa đánh chặn SM-3 mà không cần trang bị hệ thống Aegis.

Trong thời gian đó, những nỗ lực này có vẻ tập trung vào hải quân ở châu Âu. Hơn một tuần sau vụ thử ngày 5/3/2013, giới truyền thông đã xôn xao rằng, Mỹ đang bàn bạc một kế hoạch để “đồng bộ” tên lửa SM-3 với tàu chiến Hải quân Hà Lan, Đức và Đan Mạch.

Mặc dù không quốc gia nào trong số ba nước kể trên có dấu hiệu cho thấy họ sẽ ngay lập tức tính đến việc mua các tên lửa SM-3. Nhưng, Hải quân Hà Lan tiết lộ rằng, họ tính đến phương án nâng cấp hệ thống radar mạng pha tiên tiến và trinh sát đường không (SMART-L/APAR) và hệ thống phụ khác để có thể cung cấp dữ liệu mục tiêu cho SM-3. Hiện tại, 7 tàu chiến của Đan Mạch và Đức và 3 tàu của Hà Lan đều trang bị hệ thống radar SMART-L/APAR băng X.

Tương lai phòng thủ tên lửa Mỹ ở châu Á?

Trong khi bàn bạc về tương lai chương trình SM-3 ở Châu Âu vẫn đang tiếp diễn, thì Hải quân Mỹ đồng thời tập trung vào việc kết hợp chặt chẽ với các nước đồng minh ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương.

Với những nguy cơ về tên lửa đạn đạo từ các nước Đông Á không ngừng tăng lên. Tháng 8/2012, Lầu Năm Góc đã công khai về việc triển khai hệ thống radar băng X thứ 2 ở Nhật Bản. Ngoài ra, Mỹ đang tính tới kế hoạch triển khai hệ thống radar thứ 3 (có thể ở Philippines) nhằm thiết lập một “lá chắn” chống lại các nguy cơ tên lửa từ Triều Tiên.

Mặc dù các kế hoạch trên đều tránh gây ấn tượng rằng đó là nhằm vào “mục tiêu Trung Quốc”. Nhưng các chương trình kể trên đều nhằm “phòng xa” trước số lượng tên lửa đang không ngừng tăng lên mà Trung Quốc có thể chĩa vào căn cứ Mỹ - Đài Loan.

Với khả năng phòng thủ trên không tầm trung và tầm xa, SM-3 được xem là một giải pháp “bọc lót” cho hệ thống phòng thủ trên đất liền PAC-3 và tăng thêm ưu thế di chuyển trong đánh chặn.

Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Tương lai phòng thủ tên lửa của Mỹ ở châu Á là sử dụng hệ thống SM-3 không cần Aegis.

Ở Đông Á, SM-3 Block IA đang được triển khai trên các tàu khu trục lớp Aegis của Hạm đội 7 (Mỹ) và Hải quân Nhật. Ngoài ra, Hải quân Hàn Quốc và Đài Loan cũng được trang vị rất nhiều biến thể tên lửa đối không tầm trung - xa SM-1 và SM-2.

Ngoài châu Âu, hải quân các nước trong khu vực châu Á với các hạm đội hiện đại hoàn toàn có khả năng trang bị tên lửa đánh chặn SM-3 như Đài Loan, Hàn Quốc và hàng loạt các nước trong khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương như Australia, Singapore và Ấn Độ.

Kể cả một hệ thống đồng bộ dữ liệu SM-3 với nhiều điểm giống với những gì đang bàn bạc ở Châu Âu cũng là một kịch bản hoàn toàn có thể xảy ra ở Châu Á. Mặc dù ở thời điểm này kế hoạch đó vẫn chưa có vẻ gì là sẽ được tính đến.

Hơn nữa, cho dù nếu các nền hải quân trong khu vực không mặn mà hoặc không đủ khả năng để trang bị công nghệ SM-3 trên các tàu chiến của mình. Sự phát triển của công nghệ dải băng tần kép S/X và khả năng thích ứng với các nền tảng hiện tại. Nó sẽ giúp cung cấp khả năng theo dõi di động, linh hoạt và rộng rãi hơn cho các tên lửa SM-3 được triển khai bởi Mỹ và Nhật.

Trước những thử thách từ hệ thống tên lửa đạn đạo của Trung Quốc và Triều Tiên, cộng thêm những tranh chấp lãnh thổ đang lan rộng khắp nơi. Yêu cầu trang bị tên lửa đánh chặn ở châu Á-Thái Bình Dương chính là một trong những nỗ lực của Mỹ nhằm tăng cường an ninh cho các đồng mình trong khu vực.

>> Tên lửa S-200 : Rồng lửa canh trời của Triều Tiên

Không quân Mỹ - Hàn có lý do phải e sợ trước “rồng sát thủ” – hệ thống tên lửa đối không tầm xa chiến lược S-200 của Triều Tiên.

>> Uy lực hệ thống tên lửa Pechora-2M Việt Nam mới nâng cấp
>> Lưới lửa phòng không của Nga


Nếu một cuộc xung đột lớn xảy ra trên bán đảo Triều Tiên, lực lượng Mỹ - Hàn có thể sử dụng ưu thế của mình với sức mạnh không quân hiện đại mở cuộc không kích ồ ạt vào Triều Tiên.

Nhưng họ sẽ không dễ dàng gì đột phá được mạng lưới phòng không đa tầng dày đặc của Triều Tiên. Đặc biệt nhất, không quân ném bom chiến lược mà Mỹ thường xuyên sử dụng trong các cuộc chiến tranh có lý do lo ngại trước S-200 – “át chủ bài” của phòng không Triều Tiên. Đây là loại tên lửa có khả năng bắn hạ máy bay ở tầm xa tới vài trăm km, độ cao hàng chục km.


Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
"Rồng sát thủ" S-200 rời bệ phóng.

Năm 1987, Triều Tiên đã nhận từ Liên Xô khoảng 4 tiểu đoàn S-200 (NATO định danh là SA-5). S-200 được chính quyền Triều Tiên bố trí gần khu phi quân sự (DMZ) và mở rộng về phía Bắc bao bọc thủ đô Bình Nhưỡng.

Hệ thống tên lửa đối không tầm xa S-200 do Liên Xô phát triển từ những năm 1960 được thiết kế nhằm bảo vệ các mục tiêu chiến lược khỏi máy bay ném bom của Mỹ và Phương Tây.

S-200 thường được biên chế theo cấp tiểu đoàn, trong đó có: 6 bệ phóng tên lửa, đài radar điều khiển hỏa lực cùng nhiều thành phần hỗ trợ khác.

Trên trận địa, đài radar điều khiển hỏa lực 5N62 có tầm hoạt động 270km sẽ được đặt ở giữa. Xung quanh bố trí 6 bệ phóng 5P27, mỗi bệ được hỗ trợ một đường ray 5Yu24 để kéo đạn lên bệ phóng.

Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Hình ảnh minh họa trận địa tên lửa S-200.

Hệ thống S-200 được trang bị đạn tên lửa 5V21 có kích cỡ rất lớn, nặng tới 7,1 tấn, dài 10,8m. Quả đạn được thiết kế với 4 động cơ rocket nhiên liệu rắn gắn ở phần đuôi và động cơ chính 5D67 nhiên liệu lỏng.

Khi bắn, 4 động cơ rocket phụ sẽ khởi động trước đưa tên lửa rời khỏi bệ phóng, cháy hết nhiên liệu (từ 3-5,1 giây) nó sẽ tự động tách khỏi thân tên lửa. Sau đó, động cơ chính được kích hoạt đưa tên lửa bay tới mục tiêu (thời gian cháy 51-150 giây).

Tên lửa sử dụng hệ chiếu vô tuyến pha giữa để hiệu chỉnh đường bay. Ở pha cuối dùng đầu tự dẫn radar bán chủ động tấn công mục tiêu. Mỗi quả đạn lắp đầu đạn nổ phân mảnh nặng 217kg (chứa bên trong 16.000 mảnh nhỏ loại 2g và 21.000 mảnh nhỏ 3,5g) cho bán kính sát thương rất lớn. Thậm chí, biến thể phục vụ trong quân đội Liên Xô còn trang bị đầu đạn hạt nhân 25 kiloton.

Ở các biến thể đời đầu, đạn tên lửa S-200 chỉ đạt tầm bắn 160km, biến thể sau này thì tầm bắn được tăng 250-300km. Tương tự, độ cao tiêu diệt mục tiêu ban đầu chỉ là 20km, sau tăng lên 29-40km. Hiện không rõ phòng không Triều Tiên sở hữu biến thể nào của hệ thống S-200.

Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Đạn tên lửa S-200 trong một cuộc duyệt binh của Quân đội Triều Tiên.

Theo một số đánh giá, S-200 tồn tại điểm yếu đó là chỉ có khả năng tiêu diệt mục tiêu ở tầm bắn tối thiểu 60km. Nghĩa là nếu mục tiêu lọt vào tầm nhỏ hơn 60km thì S-200 không có khả năng đánh chặn.

Ngoài ra, tuy có tầm bắn lớn nhưng S-200 chỉ có thể tiêu diệt mục tiêu không có tính cơ động cao (như máy bay ném bom chiến lược). Hệ thống radar điều khiển của S-200 được thiết kế từ những năm 1960 nên có khả năng kháng nhiễu điện tử thấp.

Tuy nhiên, trong chiến tranh thì không thể nói trước được điều gì. Trong chiến đấu, ngoài yếu tố vũ khí, thì con người mới là quyết định. Nếu Triều Tiên có một chiến thuật, cách đánh phù hợp họ hoàn toàn có thể dùng S-200 bắn hạ máy bay ném bom tối tân nhất của Mỹ.

Ngoài hệ thống S-200 kể trên còn phải nhắc tới những hệ thống tên lửa khác đang được biên chế trong quân đội Triều Tiên, có khả năng bắn hạ máy bay B-52 của Mỹ như hệ thống tên lửa S-75 Dvina, S-125 Pechora, và 2K11 Krug. Dưới đây xin giới thiệu 1 vài hình ảnh của những hệ thống tên lửa kể trên:

Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Hệ thống tên lửa phòng không tầm trung – cao 2K11 Krug (NATO định danh là SA-4)

Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Tên lửa phòng không S-75 Dvina (NATO định danh là SA-2)

Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Tên lửa S-125 Pechora (NATO định danh SA-3)

Mạng lưới phòng không Triều Tiên được bố trí dày đặc, từ tầm thấp tới tầm cao, từ tầm ngắn tới tầm xa. Trang bị chủ yếu các loại tên lửa, pháo đều do Liên Xô cung cấp từ trước những năm 1990. Và một phần nhỏ nước này tự chế tạo sau này.

Trong đó, lớp phòng không tầm cao trang bị: 240 bệ phóng tên lửa S-75 Dvina (tầm bắn 45km), 2K11 Krug (tầm bắn 55km), 24-40 bệ phóng S-200.

Lớp phòng không tầm trung gồm: 128 bệ phóng tên lửa S-125 Pechora (tầm bắn 35km), 2K12 Kub (tầm bắn 24km).

Lớp phòng không tầm thấp gồm: hệ thống tên lửa tầm thấp tự hành 9K35 Strela-10; hệ thống tên lửa vác vai đối không (9K32 Strela 2; 9K34 Strela 3; 9K38 Igla) và khoảng 11.000 pháo – súng máy phòng không đủ các loại cỡ nòng (từ cỡ 14,5mm, 23mm tới cỡ 100/130mm).



>> Triều Tiên có thể vít cổ B-52 như Việt Nam?

Chỉ có bản lĩnh, trí tuệ thôi, chưa đủ. Phải hòa trộn vào đó rất nhiều máu xương mà không phải bất kỳ dân tộc nào trên thế giới cũng chấp nhận trả giá mới có thể vít cổ được “pháo đài bay” của Hoa Kỳ.

>> Tên lửa S-200 : Rồng lửa canh trời của Triều Tiên


Sự hủy diệt khủng khiếp mang tên “pháo đài bay” B-52

B-52 do hãng Boeing chế tạo là loại máy bay ném bom hạng nặng, tầm xa được sử dụng từ năm 1955. B-52 có tầm bay không cần tiếp nhiên liệu xa hơn bất kỳ máy bay nào khác (khoảng 8.000 km) và có thể mang tới 30 tấn bom cùng các vũ khí khác. Tốc độ lớn nhất lên tới 1.000 km/h, bán kính chiến đấu 7.210 km, tầm bay tối đa 15.000 km và trần bay tối đa 17.000 m.

Trong một phi vụ oanh tạc máy bay B-52 thường đi thành nhóm ba chiếc theo đội hình mũi tên, trên độ cao 9–10 km và ném khoảng gần 100 tấn bom tương đương 138 quả bom, mỗi quả nặng 250kg với mật độ dày đặc xuống một khu vực khoảng 2,5 km².

Nếu mật độ bom rơi là khoảng 130 quả trên 1 km², tức là khoảng cách trung bình giữa hai hố bom cạnh nhau là khoảng 80 mét. Với mật độ ném bom dày như vậy xác suất huỷ diệt trong bãi bom B-52 sẽ là cực cao và thử hỏi có sinh vật nào có thể tồn tại trong khu vực đó?

Không quân Hoa Kỳ đã dùng B-52 để ném bom rải thảm dọn đường và B-52 đã thể hiện được sức mạnh tàn phá rất ghê gớm, đã gây ra các huỷ diệt rất lớn, gây cảm giác rất ghê sợ, hãi hùng trong hàng ngũ đối phương và những người đã từng trải qua các trận bom B-52.

Không nghe tiếng máy bay, chỉ phát hiện ra máy bay B-52 rải thảm khi tiếng rít đến kinh người của hàng trăm quả bom xé gió từ trên không trung lao xuống và mặt đất như bị chao đảo rung chuyển hơn các trận động đất lớn nhất nhất đã từng. Một khu vực chừng 2,5 km² đã thành bình địa, những hố bom chi chít như mặt trăng bị các thiên thạch bắn phá.

Mỹ là quốc gia khác với Trung Quốc hay khoe khoang, phô trương vũ khí, nhưng với B-52 thì ngoại lệ. Mỹ cho đó là “pháo đài bay bất khả xâm phạm” bởi tính năng kỹ chiến thuật của nó thể hiện tinh hoa khoa học hàng không của nước Mỹ không phải là chuyện chơi.


Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com

Mỹ có nhiều bài học kinh nghiệm sát thực từ nhiều cuộc chiến tranh và với một lối tư duy khoa học, thực tế thì không khó để Mỹ cải tiến, củng cố B-52 hoàn thiện, tối tân hơn. Nếu như so sánh B-52 hiện nay của Mỹ và H-6 của Trung Quốc (máy bay ném bom chiến lược tầm xa, thuộc bộ ba vũ khí chiến lược) thì một trời một vực.

Vì vậy, B-52 đã hơn 60 năm qua nó vẫn trường tồn, chưa có đối thủ thay thế đã chứng tỏ khả năng siêu việt của “pháo đài bay” B-52. “Pháo đài bay” B-52 của Mỹ giờ đây hiện đại hơn rất nhiều so với trước đây là điều không cần phải bàn, không ai nghi ngờ gì về điều đó.

Và, liệu người Triều Tiên, thậm chí cả người Trung Hoa hợp sức có “vít cổ” được “pháo đài bay” B-52 hay không?

Không bắn rơi "pháo đài bay" B-52 dù chỉ một chiếc khi chiến tranh thông thường giữa Bắc Triều Tiên với Mỹ - Hàn Quốc xảy ra thì coi như Bắc Triều Tiên bị xóa sổ hay trở về “thời kỳ đồ đá” là chắc chắn chỉ sau một tuần “rải thảm” và cũng là điều cảnh báo cho Trung Quốc.

Việc củng cố tinh thần bằng các tuyên bố mạnh bạo (có thể duy ý chí) sẽ có tác dụng ngược khi đụng đầu với B-52 mà không trừng trị được nó thì ý chí suy sụp, tan rã càng nhanh vì khi đó B-52 thực sự không phải là con ngáo ộp như đã tưởng. Phản ánh tâm lý này, người Trung Hoa có câu thật chí lý: “Chưa thấy quan tài chưa đổ lệ”.

Bắc Triều Tiên có trong tay nhiều loại tên lửa có thừa khả năng vươn tới và vượt tầm bay của B-52. Nhưng bắn rơi được B-52 lại không phụ thuộc vào điều đó mà quyết định chủ yếu bởi khả năng đối đầu với một cuộc chiến tranh áp chế điện tử của Mỹ có hiệu quả hay không. Nếu “pháo đài bay” bị rụng thì chắc chắn chiến thắng của Mỹ-Hàn Quốc không thể dễ dàng.

Trong suốt lịch sử tổn tại của mình cho đến ngày nay, B-52 đã đạt được không ít những chiến thắng quan trọng và có thể nói chỉ chiến thắng, ngoại trừ một lần thảm bại tại Việt Nam trên bầu trời của Hà Nội.

Cho dù thế, không những thế giới mà ngay cả Việt Nam cũng không một ai có thể nghi ngờ sức mạnh của mối đe dọa mang tên B-52. Những tướng lĩnh, cựu chiến binh Việt Nam đã từng đối đầu với B-52…đều không bao giờ coi thường, đánh giá thấp B-52 tuy đã đánh thắng chúng.

Đương nhiên, Việt Nam là quốc gia đầu tiên và duy nhất cho đến ngày nay vít cổ được “pháo đài bay” B-52 của Mỹ không đơn giản như những nguyên nhân đã công khai đại chúng trên báo chí…mà còn nhiều nguyên nhân về khoa học, nghệ thuật quân sự bí mật không thể công khai.

Đương nhiên, chiến thắng bằng bản lĩnh, trí tuệ thôi ư, chưa đủ. Hòa trộn trong đó là máu xương mà không phải dân tộc nào trên thế giới cũng dám chấp nhận trả giá.

Liệu sẽ có một danh từ mới trong thuật ngữ quân sự là: "Bình Nhưỡng-Điện Biên Phủ trên không" hay không? Vấn đề còn tùy thuộc trước hết vào “phong độ” của “pháo đài bay”, vì “đẳng cấp” của “pháo đài bay” đã là vĩnh viễn và sau cùng là Bắc Triều Tiên có giống Việt Nam hay không.

Mỹ, Nhật Bản “giật mình”, Trung Quốc “an phận” sau động thái của Bắc Triều Tiên

Trong chiến tranh hay chuẩn bị cho chiến tranh, hầu như quốc gia nào cũng không muốn mình phải đối phó với nhiều hướng. Đó là nguyên tắc tối thiểu trong hoạt động quân sự. Nhưng Bắc Triều Tiên lại khác, họ tuyên bố đánh phủ đầu VKHN không những với Mỹ mà còn vào cả Nhật Bản.

Điều đó có nghĩa Bắc Triều Tiên muốn một mình chọi lại 3 khi hoặc là quá mạnh để đủ sức đương đầu hoặc là có VKHN để răn đe cùng chết.

Sự khác thường này chứng tỏ, không có chiến tranh xảy ra bắt đầu từ Bắc Triều Tiên, nhưng tuyên bố của Bắc Triều Tiên đã làm cho khu vực Đông Bắc Á và Tây TBD rùng rùng chuyển động.

Đầu tiên, khiến Mỹ phải triển khai ở phía Tây của mình tại bang Alaska 14 hệ thống đánh chặn tên lửa với giá gần 1 tỷ USD dù rằng Mỹ “ngáp dài” khi nghe lời tuyên bố của Bắc Triều Tiên (ngạc nhiên chưa).

Còn Nhật Bản, tình hình căng thẳng ở Đông Bắc Á và Senkaku là chất xúc tác mạnh làm Nhật Bản thay đổi lớn như “lột xác”.

Thứ nhất là nhờ đó mà đảng dân chủ tự do (LDP) trở thành đảng cầm quyền đưa ông Shinzo Abe làm thủ tướng và chắc chắn cuộc bầu cử thượng viện Nhật Bản sắp tới đảng LDP sẽ chiếm đa số (trước đó hạ viện họ đã chiếm đa số).

Thứ hai là việc sửa đổi Hiến pháp Nhật Bản mà linh hồn là điều 9. Hiến pháp Nhật Bản muốn sửa đổi cần có 2 yếu tố, bên ngoài và bên trong.

Yếu tố bên trong là phải cần 2/3 hạ viên, thượng viện thông qua và sau đó trưng cầu dân ý với đa số cử tri tán thành. Vấn đề này, hiện nay chủ trương của đảng LDP và thủ tướng Shinzo Abe dưới tác động của Trung Quốc và Bắc Triều Tiên sẽ rất dễ dàng được toại nguyện.

Yếu tố bên ngoài, quan trọng nhất là Mỹ, nhưng Mỹ luôn ủng hộ, trong khi đó (trước đây) các nước láng giềng châu Á rất e ngại và phản đối thì bây giờ cũng rất đồng lòng (Trừ Trung Quốc, họ cực lực phản đối).

Như vậy, Nhật Bản sẽ trở thành một quốc gia bình thường, có một quân đội bình thường như Trung Quốc, như Việt Nam…là sự thật. “Nhật Bản đã xin lỗi đủ và đang ngẩng đầu hướng tới tương lai”.

Còn với Trung Quốc: tuyên bố, hành động của Bắc Triều Tiên làm cho tình hình an ninh của Trung Quốc bị ảnh hưởng là không thể chối cãi. Trung Quốc dù có ngấm ngầm giúp Bắc Triều Tiên bao nhiêu chăng nữa cũng buộc phải biểu quyết trừng phạt Bắc Triều Tiên vì nếu không thì điều gì sẽ xảy ra khi Hàn Quốc và đặc biệt là Nhật Bản cũng tuyên bố thay đổi Hiến pháp, sản xuất sở hữu VKHN để đối đầu với Bắc Triều Tiên? Hơn ai hết, Trung Quốc sẽ đánh giá rất chính xác động thái của đồng minh Bắc Triều Tiên đã thu được kết quả hay là hậu quả.

Điều đáng quan tâm là với Mỹ và Nhật Bản, Bắc Triều Tiên chả là gì mà đối tượng chính của họ là Trung Quốc, và, không có gì ngạc nhiên khi Mỹ không ký với Bắc Triều Tiên một hiệp ước hòa bình.



(Lê Ngọc Thống)

Thứ Năm, 21 tháng 3, 2013

>> Giải mật cuộc chiến biên giới Xô - Trung năm 1969

Nhiều năm về trước, cuộc xung đột biên giới giữa bộ đội biên phòng Xô viết và PLA (quân đội TQ), có nhiều điều ít được biết tới về cuộc xung đột này. Dưới đây là toàn cảnh một trận đánh ác liệt từ những chiến sĩ biên phòng – cách mà giới truyền thông quốc tế vẫn gọi là xung đột vũ trang biên giới.

>> Nhìn lại chiến tranh biên giới Việt - Trung 1979
>> Bí mật cuộc diễn tập quân sự lớn nhất của Liên Xô năm 1979


Lịch sử và địa lý của đảo Damanski

Damanski (Trân Bảo đảo theo cách gọi của người Trung Quốc) - hòn đảo nhỏ không có người ở trên sông Ussuri. Chiều dài khoảng 1500-1700 m, chiều rộng khoảng 500 m. hòn đảo nằm cách bờ là 47 mét tính từ phía Trung Quốc và 120 mét tính từ bờ bên Liên bang Xô viết. Tuy nhiên, theo thỏa thuận với Bắc Kinh vào năm 1860 và bản đồ được vẽ vào năm 1861, đường biên giới giữa hai nước đã chạy dài không phải trên đường trục tâm của dòng sông Ussuri mà chạy theo bờ sông bên Trung Quốc. Như vậy, hòn đảo trên thực tế lịch sử là một phần không thể tách rời của lãnh thổ Liên Xô.

Vào giữa năm 1968, những cái đầu nóng của Bộ tổng tham mưu PLA với mục đích tạo sức ép giải quyết vấn đề biên giới giữa CCCP và Trung Quốc đã vạch ra kế hoạch triển khai một đòn tấn công quân sự đủ mạnh trên khu vực biên giới Suifenhe. Tại khu vực này, các khu đồn trú của bộ đội biên phòng CCCP nằm gần với lãnh thổ Trung Quốc và việc đánh chiếm các đồn biên phòng này trên lý thuyết hoàn toàn không gặp khó khăn. Để giải quyết bài toán này, các đơn vị chiến đấu của quân đoàn 16 PLA được lệnh hành quân đến khu vực biên giới Suifenhe. Mục tiêu cần lấn chiếm đầu tiên được lựa trọn là là đảo Damaski. Theo khẳng định của một cán bộ thuộc Viện hàn lâm khoa học xã hội Trung Quốc ông Lý Dân Huệ, khu vực Damask được lựa chọn không phải là ngẫu nhiên.

Thứ nhất: Trong các cuộc đàm phán về đường biên giới, dường như Đảo Damaski có vẻ nghiêng về phía Trung Quốc, do đó, có thể phản ứng của Liên bang Xô Viết sẽ không quá gay gắt và quyết liệt. Thứ hai – Đảo Damaski nằm dưới quyền kiểm soát của quân đội Xô viết mới bắt đầu từ năm 1947, điều đó cho thấy, hiệu quả của các hoạt động lấn chiếm biên giới sẽ lớn hơn nhiều, so với các khu vực đang tranh chấp khác. Đồng thời, tại khu vực Damaski, Liên bang Xô viết chưa xây dựng được một khu vực phòng thủ biên giới đủ độ tin cậy về sức mạnh và cơ sở vật chất, điều cần thiết để tiến hành một đòn giáng trả dựa trên sức mạnh tổng hợp của các lực lượng.

25 Tháng 1 năm 1969, nhóm sĩ quan tham mưu của Quân khu Thẩm Dương đã hoàn thiện bản kế hoạch tác chiến mang tên "Trừng phạt". Để thực hiện được kế hoạch này, kiến nghị phải sử dụng lực lượng chủ công là 3 đại đội bộ binh và một số các đơn vị yểm trở và dự bị thê đội 2, bí mật triển khai trên khu vực đảo Damaski. Ngày 19 tháng 2 năm 1969, kế hoạch tác chiến mang tên “Trừng phạt” được phê chuẩn bởi Bộ tổng tham mưu PLA, thống nhất với Bộ Ngoại giao Trung quốc và nhận được sự đồng thuận của các nhà lãnh đạo cao cấp chính phủ.

Theo chỉ lệnh của Bộ tổng tham mưu PLA, lực lượng bộ đội biên phòng Trung Quốc được bổ xung thêm một trung đội tăng cường, tổ chức thành từ 2 – 3 nhóm tuần tiễu. Thành công của hành động quân sự dựa trên cơ sở của yếu tố bất ngờ. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, bước triển khai tiếp theo là đưa toàn bộ lực lượng tham chiến nhanh chóng thu dọn chiến trường, rút lui về tuyến phòng thủ đã chuẩn bị trước đồng thời khẳng định chủ quyền trên đảo bằng truyền thông.


Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Các quân nhân PLA với trước tác Mao Trạch Đông trên tay đang khẩu chiến với các sĩ quan biên phòng Liên xô trên biên giới.

Trong đó, đặc biệt quan trọng là lấy chứng cứ buộc tội quân đội Xô viết về các hành động xâm lấn “ vũ khí trang bị, các bức ảnh chụp”….

Sự kiện xung đột trên Damaski diễn ra như sau:

Vào đêm ngày mồng 1 rạng ngày mồng 2 tháng 3 năm 1969. Một lực lượng binh sĩ và sĩ quan lớn Trung Quốc bí mật tập hợp bên kia biên giới, bờ bên Trung Quốc của sông Ussri. Sau này đã xác định được, đó là một tiểu đoàn tăng cường của PLA, quân số gần 500 người biên chế thành 5 đại đội, hỏa lực chi viện gồm có 2 khẩu đội súng cối và 1 khẩu đội pháo. Hỏa lực đi cùng có pháo không giật, súng máy hạng nặng và súng máy hạng trung (thượng liên), súng phóng lựu chống tăng RPG-2 model Trung Quốc. Tiểu đoàn được biên chế trang bị đầy đủ cho chiến đấu. Theo các nguồn tin thu được sau này, các đơn vị này được huấn luyện đặc biệt nửa năm để tiến hành các hoạt động tác chiến trên đường biên. Cũng trong đêm đó 3 đại đội bộ binh quân số khoảng 300 người bí mật triển khai đội hình phòng thủ dọc theo đường bờ dốc tự nhiên. Tất cả các quân nhân Trung Quốc đều mặc áo choàng ngụy trang, vũ khí được chuẩn bị sao cho không gây tiếng động (buồng nòng được tưới pha-ra-phin, lưỡi lê được bọc bằng giấy, để không làm lóe sáng ban đêm).

Trận địa hỏa lực gồm có 2 khẩu đội súng cối 82-mm và một khẩu đội pháo binh (cỡ nòng -45 mm), kết hợp với súng đại liên cỡ nòng lớn, trận địa được bố trí sao cho có thể tiến hành phát huy hỏa lực vào vũ khí, phương tiện cũng như binh lực của quân đội Liên Xô bằng đường ngắm trực tiếp. Các trận địa súng cối (theo phân tích kết quả trận đánh) cũng được lấy tọa độ bắn rất chính xác từ trước. Trên toàn bộ hòn đảo, hỏa lực của tất cả các hỏa khí được tổ chức để có thể tạo ra một lưới lửa dầy đặc trên toàn bộ tiền duyên tiểu đoàn, có chiều sâu từ 200m đến 300 m.

2 tháng 3 vào lúc 10.20 (theo giờ địa phương ) từ trạm quan sát của Liên xô, ban chỉ huy biên phòng nhận được thông báo có hai nhóm quân nhân có quân số là 18 và 12 người, xuất phát từ trạm gác Hùng Sa. Hai nhóm quân nhân tiến về phía biên giới Xô viết với ý đồ thách thức rõ rệt.Đồn trưởng đồn biên phòng "Nhiznhie Mikhailovka" thượng úy Ivan Strelnikov nhận được mệnh lệnhngăn chặn và trục xuất những người Trung Quốc, cùng với một chiến sĩ lính biên phòng trên xe bộ binh cơ giới BTR-60PB (№ 04) và hai chiếc xe ô tô quân sự di chuyển cơ động về hướng những kẻ xâm phạm biên giới. Tính huống cũng được thông báo cho hai trạm trưởng hai trạm canh gác biên phòng hai bên sườn khu vực là B. Bubenin và Soroxov. Đồn trưởng đồn biên phòng "Kulebyakiny copki" nhận được mệnh lệnh yểm trợ cho phân đội của thượng úy Ivan Strelnikov.

Có thể nhận thấy rằng, mặc dù gần một tuần quân đội PLA cơ động binh lực số lượng lớn trong khu vực liền kề với khu vực biên giới, cùng với những hoạt động chuẩn bị đường hành quân cơ động về khu vực biên giới, nhưng từ Bộ tư lệnh quân khu Thái Bình dương hầu như không có một động thái tăng cường các hoạt động cảnh giới như tăng cường lực lượng cho các trạm biên phòng hoặc tiến hành các hoạt động điều nghiên, giám sát của các lực lượng trinh sát, tình báo quân đội. Hơn thế nữa, vào ngày Trung Quốc tấn công, biên chế của đồn "Nhiznhie Mikhailovka" chỉ có 1/2 quân số, cũng trong ngày đó theo biên chế có 3 sĩ quan chỉ huy, có mặt tại chỗ chỉ có Thượng úy Ivan Strelnikov, ở đồi biên phòng "Kulebyakiny sopki" quân số có mặt sẵn sàng chiến đấu có lớn hơn.

10.40 giờ, thượng úy I. Strelnikov tiến đến vị trí các quân nhân Trung Quốc xâm phạm biên giới chủ quyền, ra lệnh cho các chiến sĩ sẵn sàng, súng ở tư thế Mang và triển khai đội hình hàng ngang. Các chiến sĩ biên phòng chia ra thành hai tốp. Tốp thứ nhất do thượng úy I. Strelnikov chỉ huy, tốp thứ hai có 13 chiến sĩ do hạ sĩ Rabotri chỉ huy, có nhiệm vụ bảo vệ phía bên sườn của I. Strelnikov từ phía bờ sông phía Trung Quôc. Nhóm của I. Strelnikov trên khoảng cách 20 m tiến đến gần các quân nhân Trung Quốc. Thượng úy I. Strelnikov giải thích với bên quân nhân PLA về biên giới và yêu cầu họ quay trở về địa phận Trung Quốc.



Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Bức ảnh cuối cùng, được chụp bởi N. Petrov, Các quân nhân PLA tản ra các vị trí khác nhau và chỉ sau 1 phút, đã bắn thẳng vào các chiến sĩ biên phòng Xô viết. 2 tháng 2 năm 1969.

Đừng đằng sau chỉ huy trường là binh nhất N. Petrov, anh chụp ảnh và quay phim ghi lại các bằng chứng xâm phạm biên giới của các quân nhân PLA. Chụp một số các bức ảnh bằng máy ảnh Zorky – 4, sau đó bắt đầu quay phim. Đúng thời điểm đó một quân nhân PLA ra hiệu, hàng quân thứ nhất của PLA tản ra khỏi vị trí, hàng quân thứ hai hạ súng bắn thẳng vào đội hình của binh lính biên phòng Xô viết trên khoảng cách khoảng từ 1-2m. Tổ chiến sĩ biên phòng bao gồm Thượng úy J. Strelnikov, Thượng úy N.Buinevich thuộc Cục công tác đặc biệt, phòng số 57 lực lượng canh phòng biên giới., các binh sĩ N. Petrov, Vetrich, A. Jonas, V. Izotov, Alexander Shestakovhy sinh tại chỗ. Cùng lúc, từ phía hướng đảo Damaski, hỏa lực tập trung từ súng máy hạng nặng, tiểu liên, súng phóng lựu bắn thẳng vào tốp biên phòng xô viết còn lại. Một số chiến sĩ hy sinh tại chỗ, số còn lại phân tán và chiếm vị trí bắn trả. Nhưng do địa hình hoàn toàn trống trải, họ nhanh chóng bị bắn hạ, nhưng binh sĩ bị thương bị diệt bằng lưới lê. Cả hai tốp chiến sĩ biên phòng chỉ còn lại một chiến sĩ sống sót – binh nhất Gennady Serebrov. Anh bị thương ở tay, chân, lưng và bị đâm bằng lưỡi lê và bị ngất. Các chiến sĩ biên phòng - lính thủy của lữ đoàn tuần tiễu trên sông, khi đến chi viện cho phân đội của I. Strelnikov đã phát hiện ra và đưa về quân y viện.

Cũng vào thời điểm đó, phân đội của hạ sĩ Yu. Babanski tiếp cận trận địa, bị chậm lại so với phân đội của I. Strelnikov trên đường do xe bị trục trặc kỹ thuật. Lính biên phòng phân tán chiếm lĩnh vị trí chiến đấu và khai hỏa nhằm về phía binh sĩ của PLA. Đáp trả đợt phản công, binh lính PLA tập trung hỏa lực súng cối, súng máy hạng nặng và tiểu liên. Đặc biệt, các trận địa súng cối tập trung hỏa lực vào lớp băng xung quanh xe BTP và ô tô. Kết quả là một xe GAZ 69 bị bắn tan tành, một xe GAZ-66 bị hư hỏng nặng. Sau đó mấy phút, xe BTP№ 4 cùng kíp xe đến kịp chi viện cho Babanski. Hỏa lực dữ dội từ tháp pháo trên xe đè bẹp các điểm hỏa lực của đối phương, giúp cho năm chiến sĩ còn sống sót từ đội của Babanski thoát ra khỏi lưới lửa dày đặc.

Sau 10 – 15 phút chống trả dưới hỏa lực vượt trội nhiều lần của đối phương, tiếp cận trận địa là phân đội cơ giới của đội biên phòng số 1 thuộc đồn biên phòng "Kulebyakiny sopki" dưới quyền chỉ huy của thượng úy B. Bubenin.



Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Các chiến sĩ biên phòng đội số 1, tham gia chiến đấu trong các trận đánh ngày 02 và 15 tháng 3 trên đảo Damaski.1969.

Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Sơ đồ tác chiến ngày 2 tháng 2 năm 1969.

“Đổ bộ từ xe BTR, ẩn nấp ở sườn phía đông của bờ sông, chúng tôi triển khai đội hình chiến đấu hàng ngang và xông lên đảo - V. Bubenin kể lại - Khoảng 300m trước chúng tôi là nơi đã xảy ra thảm họa. Nhưng chúng tôi không biết điều đó. Chúng tôi có 23 người. Theo đội hình chiến đấu chúng tôi tiến về phía tiếng súng đang thưa thớt dần. Khi chúng tôi đi được khoảng 50 m, chúng tôi phát hiện, từ sườn dốc tự nhiên trên đảo, một trung đội binh sĩ PLA ồ ạt tấn công. Họ vừa la hét, vừa chạy và bắn. Khoảng cách giữa binh sĩ xô viết và PLA khoảng 150 – 200 m và nhanh chóng rút ngắn lại. Tôi không nghe thấy tiếng nổ, chỉ nhìn thấy từ nòng súng đối phương chớp lửa liên tục. Hiểu là bắt đầu trận đánh, nhưng lại cho rằng không phải sự thật, họ chỉ bắn đạn mã tử và dọa chúng tôi".

Hỏa lực phản kích của phân đội Bubenin thật dữ dội, đợt tấn công quyết liệt của PLA bị đẩy lùi ra phía sau sườn dốc che khuất tự nhiên trên đảo. Thượng úy Bubenin trúng thương, ra lệnh cho bộ đội lên xe, và quyết định đi vòng quanh đảo, tấn công từ phía sau đối phương.

"Lực lượng PLA rất đông – V. Bubenin thuật lại – họ ồ ạt nhẩy từ trên bờ sông dốc đứng xuống sông băng và xông thẳng lên đảo. Khoảng cách đến đối phương là 200 m. Tôi ra lệnh khai hỏa toàn bộ hỏa lực trên xe từ súng máy 14,5mm và 7,62mm. Sự xuất hiện của xe BTR ngay sau hậu phương khiến các binh sĩ PLA sững sờ, đến nối cả đám đông đang chạy đột ngột đứng sững lại, như vấp phải tường đá. Họ hoàn toàn bị choáng mất vài giây, đến nỗi không kịp cả bắn. Hỏa lực súng máy và súng bộ binh trên xe tạo thành một trận mưa đạn, khoảng cách giữa binh sĩ PLA và xe rút ngắn rất nhanh. Binh sĩ PLA vỡ trận, lớp bị đạn bắn gục, lớp quay trở lại bờ sông, cố gắng trèo lên rồi bị trượt xuống. Các sĩ quan PLA bắn thẳng vào những người lính rút lui để buộc họ lao vào trận đánh. Tình hình thật sự hỗn loạn, xe BTR và quân lính của PLA quấn lấy nhau trong một trận hỗn chiến giữa xe và người ở ngay bên bờ của đảo Damaski.

Mặc dù rất nhiều chiến sĩ biên phòng đã hy sinh, bản thân V. Buberin bị thương lần thứ 2, nhưng trận đánh vẫn diễn ra khốc liệt. Chuyển sang xe BTR thứ hai do xe số 1 bị hỏng, Buberin lại đánh tạt sườn đội hình tấn công của đối phương, đợt tấn công thứ hai bất ngờ đã tiêu diệt trạm chỉ huy tiền phương của tiểu đoàn PLA và sinh lực địch cũng bị tổn thất rất nhiều.

Trung tâm của trận địa là tiểu đội do Trung sĩ Ivan Larechkin chỉ huy, bình nhất Plekhanov Peter Kuzma Kalashnikov, Sergei Rudakov, Nicholas Smelov. Ở bên cánh phải, chỉ huy chiến đấu làTrung sĩ Alexei Pavlov. Trong bộ phận của anh có: Quản trị trưởng Victor Korzhukov, bình nhấtAlex Zmeev, Alex Sursev, Vladimir Izotov, Islamgali Nasretdinov, Ivan Vetrich, Alexander Yunhin, Vladimir Legotina, Peter Velichko và những quân nhân khác.

Đến 14.00 giờ cùng ngày, lực lượng biên phòng Xô viết đã chiếm lại đảo. Theo các bản tin chính thức, trong hơn hai giờ chiến đấu quyết liệt, bên PLA tổn thất 248 binh sĩ và sĩ quan, trong trận đánh này 31 chiến sĩ biên phòng đã hy sinh, hơn 20 người bị thương ở các cấp độ, quản trị trưởng Pavel Akylov bị bắt và bị bắn chết, xác bị ném trả cho lực lượng biên phòng.

Cuộc tấn công của quân đội Trung Quốc vào lực lượng biên phòng Liên xô đã gây lên phản ứng dữ dội trong chính quyền Liên bang Xô viết và các lãnh đạo Lực lượng vũ trang. 2 tháng 3 năm 1969. Chính quyền CCCP gửi công hàm cho chính quyền Trung Quốc, trong công hàm đã lên án quyết liệt hành động xâm phạm chủ quyền này. Trong đó có đoạn viết: “"Chính phủ Liên Xô dành cho mình quyền hành động quyết liệt nhằm ngăn chặn các hành động khiêu khích trên đường biên giới Liên Xô-Trung Quốc và cảnh báo chính phủ Trung Quốc rằng, mọi trách nhiệm đối với hậu quả của chính sách thiếu thận trọng với sự leo thang xung đột vũ trang trên biên giới giữa Trung Quốc và Liên Xô, thuộc về chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa" Nhưng phía Trung Quốc đã bỏ qua bức công hàm nghiêm khắc này.

Để ngăn chặn mọi hành động khiêu khích quân sự có thể tiếp tục leo thang, trong khu vực của các đồn biên phòng "Nhiznhi Mikhailovka" và "Kulebyakiny sopki" được điều đến từ lực lượng dự bị của quân khu biên giới Thái bình dương các đơn vị cơ giới ( hai đại đội bộ binh cơ giới, 2 trung đội xe tăng và khẩu đội cối 120 mm. Đơn vị bộ đội biên phòng số 57 được biên chế thêm một biên đội máy bay trực thăng Mi-4 thuộc phi đội máy bay biên phòng Ussuri. Vào đêm ngày 12 tháng 3 các đơn vị thuộc sư đoàn bộ binh cơ giới số 135 của Quân khu Viễn đông do tướng Nhesov chi huy bao gồm: trung đoàn BBCG số 199, trung đoàn pháo binh, tiểu đoàn xe tăng độc lấp 152, tiểu đoàn trinh sát độc lập số 131 và tiểu đoàn pháo phản lực Grad BM-21. Ở đây, bộ tư lệnh biên phòng quân khu Thái Bình dương đã ra lệnh thành lập cụm quân lực cấp chiến dịch và bổ nhiệm phó tư lệnh trưởng quân khu, đại tá G.Sechkinym.

Đồng thời cùng với những hoạt động tăng cường sức mạnh phòng thủ biên giới, đã tiến hành tích cực các hoạt động trinh sát thu thập thông tin. Theo những kết quả đạt được từ trinh sát, bao gồm cả trinh sát đường không và trinh sát vũ trụ, PLA tập trung vào khu vực đảo Damaski các lực lương rất lớn – chủ yếu là bộ binh và pháo binh. Ở chiều sâu 20 km so với đường biên đã xây dựng kho tàng quân sự, sở chỉ huy và điều hành tác chiến cùng với các công trình khác. Ngày 7 tháng 3 trên hướng Damaski và Kirkin đã xác định được lực lượng PLA tập trung đến 1 trung đoàn bộ binh cơ giới với các trang thiết bị tăng cường. Trong khoảng 10 – 15 km tính từ đường biên giới trinh sát phát hiện đến 10 khẩu đội pháo cỡ lớn. Ngày 15 tháng 3 phát hiện trên hướng Guberovski có một tiểu đoàn bộ binh, trên hướng Imacki – một trung đoàn cũng với xe tăng tăng cường, trên hướng Patenleymonov 2 tiểu đoàn tăng cường, trên hướng Pavlovo – fedorov một tiểu đoàn. Tổng số quân lực Trung Quốc tập trung trong khu vực tác chiến tuyến biên giới lên đến một sư đoàn cơ giới đi cùng với các phương tiện tác chiến tăng cường.

Trong những ngày này, phía PLA cũng tăng cường các hoạt động trinh sát mục tiêu, sử dụng cả các máy bay trinh sát. Phía Liên xô không triệt phá các hoạt động trinh sát của đối phương, cho rằng, nếu thấy được thực lực từ phía quân đội Xô viết. PLA sẽ chấm dứt các hoạt động khiêu khích. Nhưng điều đó đã không xảy ra.

Ngày 12 tháng 3 một cuộc gặp giữa đại diện của lực lượng biên phòng Xô viết và đại diện của lực lượng biên phòng Trung Quốc đã được thực hiện. Trong cuộc gặp, sĩ quan biên phòng Hutou của Trung Quốc, dựa vào trước tác Mao Trạch Đông, đã tuyên bố sẽ sử dụng vũ lực mạnh mẽ đối với lực lượng biên phòng đang canh giữ đảo Damaski của Liên xô để bảo vệ chủ quyền của Trung Quốc.

Ngày 14 tháng 3 vào hồi 11.15 các trạm quan sát xô viết phát hiện được một cụm binh lực PLA lớn đang cơ động về hướng đảo Damaski. Hỏa lực của súng máy đã ngăn chặn lực lượng này và toán quân buộc phải quay lại phía bờ của Trung Quốc.

Vào lúc 17.30 hai tốp lính PLA từ 10-15 người đã tiếp cận hòn đảo và bố trí các hỏa điểm trong đó có 4 súng máy và các vũ khí khác. 18.45, lực lượng PLA chiếm lĩnh bàn đạp tấn công ngay phía sau các hỏa điểm được củng cố vững chắc.

Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Sơ đồ tác chiến ngày 15 tháng 2 năm 1969.

Để ngăn chặn các đòn tấn công tiếp theo. 6.00 ngày 15 tháng 3 một lực lượng cơ động mạnh của đơn vị biên phòng dưới quyền chỉ huy của đại tá E. Yanshin (45 người được trang bị cả súng phóng lựu) trên 4 xe BTR-60pb. Yểm trợ cho lực lượng là thê đội dự bị bộ đội biên phòng – 80 người (thuộc trường Trung cấp Biên phòng của đơn vị biên phòng số 69 Quân khu biên giới Thái bình dương) trên 7 xe BTR-60pb cùng với súng phóng lựu đạn gaz hơi cay và súng máy hạng nặng.

10.05 cùng ngày, lực lượng PLA triển khai đánh chiếm đảo, hỏa lực của 3 khẩu đội súng cối dọn bãi bao trùm lên toàn bộ hòn đảo từ 3 hướng khác nhau, nhằm vào tất cả các khu vực của hòn đảo và bờ sông, nơi nghi ngờ binh sĩ biên phòng Xô viết có thể ẩn nấp.

Phân đội của E. Yanshina bắt đầu trận đánh:

"…trong xe chỉ huy ngột ngạt tiếng gầm rú của động cơ, tiếng nổ, khói xe và khói thuốc súng-Yanshin nhớ lại- Tôi nhìn ngang, Sylzenco (xạ thủ súng máy) vất cả áo lông, áo khoác, một tay nhấn cò súng, một tay cởi cúc cổ áo quân phục…anh chàng đứng phắt dậy, gạt bỏ ghế ngồi và đứng xả đạn vào đội hình tiến công của đối phương…..


Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Chỉ huy trưởng phân đội cơ động mạnh của đơn vị biên phòng số 57 đại tá E.I.Yanshin cùng với các chiến sĩ biên phòng của mình, 15 tháng 3 năm 1969.

“…Gần như không ngoái lại, xạ thủ Sulzenco giơ tay cho băng đạn mới. Xạ thủ số 2 Kruglov phải cố gắng lắm mới kịp nạp đạn. Tất cả đều im lặng, hiểu nhau qua hành động. Tôi ra lệnh – bình tĩnh, tiết kiệm đạn, đồng thời quay kính quan sát chiến trường, chỉ thị mục tiêu. Quân đội PLA, bất chấp lưới lửa dày đặc, tiếp tục đổ dồn lên tấn công. Hết đợt này đến đợt khác…Trong tiếng nổ, khói bụi của mìn và đạn pháo các xe bộ binh cơ giới khác hoàn toàn không thể nhìn thấy. Tôi ra lệnh không dùng mật khẩu: Tôi tiến công, Mankovsky và Klyge bắn che, yểm hộ sau lưng. Lái xe Smelov vào số và đạp gaz hết cỡ, xe chồm lên, vượt qua lưới lửa ngăn chặn, với tay lái điêu luyện, Smelov cơ động ngoằn ngoèo tránh các hố đạn pháo và đạn cối, xông thẳng vào đội hình tiến công của đối phương, tạo điều kiện cho hỏa lực trên xe. Đột ngột, súng máy im bặt, Sylzenco ngẩn người trong chốc lát. Nạp đạn, lên đạn và nhấn cò điện – chỉ phát một. Quân PLA ồ ạt xông đến. Sylzenco mở khóa nòng, sửa lại lẫy đẩy đạn. Đóng nắp hộp khóa nòng và nhấn cò. Hỏa lực của súng máy gần như trực diện vào đối phương. Tôi ra lệnh cho Smelov- Tiến-và đợt tấn công tiếp theo bị đẩy lùi.

Bị tổn thất một số chiến sĩ và mất 3 xe BTR, Yanshin buộc phải lùi lại bên bờ sông, đến 14.40 thay đổi biên chế và các xe BTR đã bị hỏng, bổ sung cơ số đạn đầy đủ, Yanshin lại tiếp tục tổ chức tấn công và đánh bật đối phương ra khỏi các vị trí địch chiếm được. Tăng cường thêm lực lượng dự bị, PLA tổ chức hỏa lực dữ dội của súng cối, pháo và súng máy hạng nặng vào các xe BTR. Kết quả là 1 xe BTR trúng một loạt đạn cối và pháo bắn trực diện, 7 chiến sĩ hy sinh tại chỗ. Sau mấy phút chiếc xe BTR thứ 2 bốc cháy. Thượng úy L. Mankovsky, bắn che cho đồng đội rút lui bằng súng máy trên xe, đã không thoát ra được và bị cháy cùng với xe. Trong vòng vây còn lại một xe BTR, trung úy Kluga chỉ huy. Xe kiên cường chiến đấu và cơ động linh hoạt, phải sau gần nửa giờ, phát hiện điểm yếu trong tuyến chiến đấu của đối phương, xe BTR đột phá rất mạnh, chọc thủng vòng vây và trở về đội hình chiến đấu. .

Trong thời gian cuộc chiến đấu diễn ra quyết liệt, một đại đội xe tăng 9 chiếc T-62 hành quân đến khu vực chiến sự. Ban chỉ huy trận đánh quyết định sử dụng phương án đòn đột kích từ phía sau đảo, sử dụng tình huống mà V. Bubenin đã thành công trong ngày 2 tháng 3. Trung đội xe T-62 do đại tá D.Leonov chỉ huy trưởng đơn vị bộ đội biên phòng Imansk. Nhưng đòn đột kích không thành công, lần này, lực lượng PLA đã sẵn sàng đón chờ tình huống. Khi các xe tăng xô viết tiến đến gần bờ sông phía Trung Quốc, hỏa lực dày đặc và tập trung của súng cối, pháo và súng chống tăng lập tức chùm lên các xe. Xe chỉ huy đầu tiên bị bắn vỡ hệ thống chuyển động và mất khả năng cơ động, hỏa lực lập tức đổ dồn lên xe bị trúng đạn. Các xe còn lại của trung đội vừa bắn vừa lùi về tuyến chiến đấu bên bờ bên này của biên giới. Mọi biện pháp cứu hộ và giải thoát cho xe bị hỏa lực súng bộ binh của PLA đẩy lùi. Đại tá D. Leonnov trúng thương vùng tim, hy sinh tại xe.

Mặc dù đã có những tổn thất nặng nề về binh lực, Matxcova vẫn chưa quyết định đưa lực lượng quân đội vào tham chiến. Quan điểm của Trung tâm rất rõ ràng. Khi trận đánh đang được tiến hành bởi lực lượng biên phòng, mọi vấn đề ngoại giao đều có thể đưa về Xung đột biên giới, dù có sử dụng vũ khí. Đưa lực lượng quân đội thường trực vào trận, sẽ làm tăng thêm cường độ xung đột, có thể trở thành xung đột vũ trang và chiến tranh nhỏ khu vực. Nếu xét đến những cái đầu nóng trong PLA, có thể xảy ra một cuộc chiến tranh lớn – giữa 2 nước có sở hữu vũ khí hạt nhân.

Tình hình chính trị đã quá rõ ràng với tất cả mọi người. Nhưng tình huống xảy ra, khi ngay bên cạnh mình các chiến si biên phòng hy sinh, còn các đơn vị chiến đấu thì khoanh tay bàng quang quan sát, cảm giác hoàn toàn không dễ chịu, sự không quyết liệt của lãnh đạo đất nước và quân đội đã gây lên sự bất bình và tức giận.

“Lực lượng quân đội kết nối vào mạng thông tin biên phòng, và tôi nghe thấy, các chỉ huy đơn vị kêu réo cấp trên của mình do không kiên quyết – Chủ nhiệm chính trị phân đội biên phòng Imanski trung tá A.D. Konstantinov nhớ lại – họ muốn lao vào trận đánh, nhưng bị trói buộc cả chân lẫn tay vì những chỉ lệnh bất động từ cấp trên. "

Khi từ vùng chiến sự có báo cáo về hai xe BTR của phân đội Yanshin bị bắn cháy, phó tham mưu trưởng ban tham mưu đội Grodekovski thiếu tá P. Kosinov quyết định tự mình nhận trách nhiệm cá nhân, trên 1 xe BTR xông vào trận tiếp ứng. Tiến đến sát 2 xe bị cháy, anh dùng xe của mình để che chắn cho kíp xe của các xe bị bắn cháy thoát khỏi vùng hỏa lực dày đặc. Nhưng khi rút lui, chính xe của Kosinov cũng bị bắn cháy, Kosinov bị thương cả vào hai chân và bị ngất. Các chiến sĩ biên phòng lôi được anh vào vùng an toàn, tưởng đã hy sinh nên đưa vào khu vườn, nơi tập trung tử sĩ. Rất may, khi bác sĩ quân y biên phòng kiểm tra thi thể liệt sĩ, phát hiện trong mắt anh đồng tử chưa bị rãn ra, xác định Kosinov vẫn sống, đã ra lệnh cho trực thăng cứu hộ đưa anh về Khabarovsk.

Matxcova vẫn im lặng, tư lệnh trưởng quân khu Viễn Đông, trung tướng O.Losik đã dũng cảm ra một quyết định duy nhất hỗ trợ lực lượng biên phòng. Lệnh cho Sư đoàn trưởng sư đoàn BBCG 135 chế áp binh lực đối phương bằng hỏa lực pháo binh sư đoàn, sau đó sử dụng tiểu đoàn 2 thuộc trung đoàn bộ binh cơ giới số 199 và các đơn vị của đoàn biên phòng số 57 đẩy lùi đối phương khỏi biên giới Liên bang Xô viết.

17.10 trung đoàn pháo binh và tiểu đoàn pháo phản lực Grad của sư đoàn BBCG 135 cùng với khẩu đội súng cối 120 mm của trung tá D. Krupeynikov khai hỏa. Trận tập kích hỏa lực kéo dài 10 phút. Đòn tấn công được tính vào chiều sâu đến 20 km. (theo một thông tin khác, vùng tập kích là khu vực có diện tích 10km chiều rộng và 7 km chiều sâu trên lãnh thổ Trung Quốc). Kết quả của đợt tập kích là toàn bộ lực lượng thê đội dự bị, kho tàng, trang thiết bị quân sự, các trạm cung cấp đạn và cơ sở vật chất cho tiền duyên cùng với binh lực của PLA bị tổn thất nặng nề, không có khả năng phục hồi. Cùng lúc, lực lượng chủ công bao gồm 5 xe tăng T-62, 12 xe BTR-60PB, đại đội 4 và đại đội 5 BBCG thuộc tiểu đoàn 2 trung đoàn BBCG số 135 (chỉ huy – đại tá A.Smirnov) phối hợp với một phân đội cơ giới mạnh của bộ đội biên phòng tấn công lên đảo. Binh sĩ PLA cố gắng chống trả, nhưng dưới hỏa lực dữ dội đành rút lui về phía biên giới.

Trong trận đánh ngày 15 tháng 3 năm 1969, đã hy sinh 21 chiến sĩ biên phòng, 7 chiến sĩ BBCG (lực lượng thường trực chiến đấu), 42 chiến sĩ biên phòng bị thương. PLA mất khoảng 600 người. Trong toàn bộ cuộc xung đột trên đảo Damaski Hồng quân mất 58 người. PLA tử thương gần 1000 binh sĩ. 50 quân nhân PLA bị bắn do đã bỏ chạy hoặc rút khỏi trận đánh. Hồng quân có 94 quân nhân bị thương, PLA khoảng vài trăm người.

Trận đánh kết thúc, 150 cán bộ chiến sĩ lực lượng biên phong được nhận các phần thưởng cao quý của nhà nước Xô viết. 5 quân nhân được nhân danh hiệu Anh hùng Liên bang Xô viết (Đại táD.V. Leonov – liệt sĩ, Thượng úy I.I Strelnikov – liệt sĩ, Thượng úy B. Bubenin, Hạ sĩ Yu.V.Babanski, tiểu đội trưởng tiểu đội hỏa lực thuộc trung đoàn BBCG số 199 Hạ sĩ V.V.Orekov). 3 người được nhận huân chương Lenin ((Đại tá A.D. Konstantinov, Trung sĩ V. Kanygin , Trung tá E. Yanshin) 10 người được nhận huân chương Cờ đỏ, 31 người nhận huân chương Sao đỏ, 10 người nhân Huân chương Vinh quang hạng III, 63 người – huy chương Vì lòng dũng cảm; 31 người – huy chương “ Vì thành tích trong chiến đấu”.

Trung Quốc tuyên bố dành thắng lợi trong xung đột biên giới vùng Damaski và thắng lợi thuộc về vũ khí trang bị PLA. 10 quân nhân PLA được tặng danh hiệu Anh hùng. Trong thông cáo chính thực của Bắc Kinh về sự kiện Damaski có nội dung như sau:

"2 tháng 3 năm 1969. Một nhóm quân nhân biên phòng Liên xô có số lượng khoảng 70 người, với 2 xe bộ binh cơ giới, một xe vận tải và một xe ô tô hạng nhẹ, đã xâm phạm đảo Trân Bảo thuộc Quận Hồ Lâm, Tỉnh Hắc Long Giang, tiêu diệt đội tuần tra biên giới của Trung Quốc, và tấn công gây tử vong nhiều chiến sĩ thuộc lực lượng biên phòng của ta. Hành động vô nhận đạo này đã buộc các chiến sĩ quân đội Trung hoa phải có hành động tự vệ.

15 tháng 3 năm 1969. Liên Xô, phớt lờ nhiều lần cảnh cáo của nhà nước Trung hoa, đã tiến hành các hoạt động tấn công, xâm chiếm đảo Trân Bảo với lực lượng lên tới 20 xe tăng, 30 xe bọc thép và 200 binh sĩ cùng với sự yểm trợ của không quân.

Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Yu.V. Babansky (bên phải) trong buổi lễ trao tặng huân chương tại điện Kremlin. Tháng 4 năm 1969.

Với lòng dũng cảm và ý chí quyết tâm cao, lực lượng quân đội và dân quân tự vệ đảo Trân Bảo đã đã đánh bại 3 đợt tấn công của quân đội Liên xô. Ngày 17 tháng 3 năm 1969, quân địch với lực lượng xe tăng, xe cứu kéo và bộ binh đã cố gắng lôi chiếc xe tăng bị quân ta bắn cháy về biên giới. Nhưng hỏa lực dữ dội của pháo binh Trung Quốc đã tiêu diệt một phần lớn lực lượng địch, số còn lại rút lui về phía bên kia biên giới Liên xô.

Sau trận xung đột vũ trang tại khu vực đảo Damaski, trên khu vực phòng thủ còn lại một tiểu đoàn bộ binh cơ giới, một tiểu đoàn xe tăng độc lập và tiểu đoàn pháo phản lực BM-21 “Grad”. Đến tháng 4 năm 1969, trong khu vực phòng thủ còn lại 1 tiểu đoàn BBCG và sau một thời gian ngắn cũng cơ động về nơi đóng quân cố định. Tất cả mọi con đường dẫn đến đảo Damaski từ phía Trung Quốc đều bị gài mìn phòng thủ dày đặc.

Trong thời gian này, chính phủ Liên bang Xô viết tiến hành những hoạt động nhằm điều chỉnh tình hinh bằng các giải pháp chính trị.

15 tháng 5 năm 1969, Nhà nước CCCP gửi cho phía Trung Quốc một bản tuyên bố, trong đó nghiêm khắc cảnh báo ngăn chặn các hoạt động khiêu khích trên tuyến biên giới hai nước. Trong công hàm có đoạn nêu rõ: “ nếu tiếp tục tiến hành các hoạt động xâm chiếm chủ quyền lãnh thổ thiêng liêng của đất nước Xô Viết, toàn thể Liên bang Xô viết và quần chúng nhân dân sẽ kiên quyết bảo vệ và giáng cho kẻ xâm lược những đòn quyết liệt".

Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Tang lễ thượng úy I.I Strelnikova tháng 3 năm 1969.

29 tháng 4 Chính quyền Xô viết tiếp tục đưa công hàm, nội dung có đề nghị phía Trung Quốc nối lại nhưng cuộc đàm phán về biên giới đã bị đứt đoạn từ năm 1964, đề nghị phía Trung Quốc kiềm chế các hoạt động khiêu khích trên tuyến biên giới, có thể gây thêm phức tạp cho tình hình đối ngoại chính trị giữa hai nước. Phía Trung Quốc không trả lời bức công hàm nói trên. Hơn nữa, Mao Trạch Đông, ngày 15 tháng 4 trong cuộc hội thảo với các đại biểu về những kết quả và thành tích đạt được của cuộc cách mạng văn hóa, đã nhắc lại những sự kiện xảy ra và kêu gọi chuẩn bị cho chiến tranh. Lâm Bưu trong báo cáo đọc tại Đại hội Đảng cộng sản toàn quốc lần thứ 9 (tháng 4 năm 1969) đã quy tội Liên xô liên tục xâm phạm biên giới Trung Quốc bằng vũ lực” Đồng thời cũng khẳng định định hướng Trường kỳ cách mạng và chuẩn bị chiến tranh.

Ngày 11 tháng 4 năm 1969 Bộ Ngoại giao Liên bang Xô viết gửi cho Bộ Ngoại giao Trung Quốc một công hàm, trong đó có đề nghị nối lại các cuộc đàm phán giữa các đại diện toàn quyền của cả hai nước CCCP và Trung Quốc, đồng thời tuyên bố sẵn sàng bắt đầu đàm phán vào bất cứ thời điểm nào, thuận lợi cho phía Trung Quốc.

14 tháng 4 trong công hàm trả lời, Bộ ngoại giao Trung Quốc thông báo rằng, những đề xuất của Bộ ngoại giao CCCP, liên quan đến việc giải quyết tình hình trên biên giới Trung Xô, sẽ được “nghiên cứu kỹ lưỡng và sẽ có trả lời trong thời gian tới".

Trong thời gian “nghiên cứu và trả lời” những xung đột vũ trang và khiêu khích quân sự vẫn tiếp tục diễn ra.

23 tháng 4 năm 1969 một đơn vị vũ trang của PLA xâm nhập biên giới của Liên bang Xô Viết, chiếm lĩnh đảo № 262 trên sông Amua, gần với khu dân cư Kalinovka. Đồng thời một lực lượng vũ trang khác được tập trung trên bờ sông Amua phía Trung Quốc.

2 tháng 5 năm 1969 trong khu vực của ngôi làng nhỏ Dulaty ở Kazakhstan lại xuất hiện một xung đột vũ trang biên giới. Nhưng lần nay các chiến sĩ biên phòng Xô viết đã sẵn sàng cho một cuộc xâm nhập và khiêu khích. Trước khi xảy ra khiêu khích, đơn vị biên phòng Makanchi đã được tăng cường lực lượng. Đến mồng 1 tháng 5 năm 1969 đơn vị biên phòng đã có 14 đội biên phòng cơ động, mỗi đội có 50 cán bộ chiến sĩ (Riêng đội biên phòng "Dulaty" - 70 người) và phân đội biên phòng cơ động mạnh (182 người) trên 17 xe BTR -60pb. Ngoài ra trên đoạn biên giới quản lý, khu vực đồn Macanchi tập trung một tiểu đoàn xe tăng độc lập của quân khu, theo kế hoạch liên kết phối hợp với các đơn vị quân đội, có thêm một đại đội BBCG và một đại đội Tăng, một trung đội súng cối chi viện hỏa lực thuộc đơn vị liên kết phối hợp lấy từ trung đoàn BBCG số 215 (đồn Vaxta) và một tiểu đoàn từ trung đoàn BBCG số 369 khu vực nông trường Druzba.

Các đơn vị tổ chức canh gác trên các điểm cao, lực lượng trinh sát tiền tiêu trên xa ô tô và kiểm tra, kiểm soát liên tục các tuyến đường, dải phân cách hai bên biên giới. Công lao chính của tinh thần cảnh giác cao độ của các đơn vị quân đội – biên phòng Xô viết thuộc về tư lệnh trưởng quân khu vùng biên giới phía Đông, trung tướng M.K.Merculov. Ông không những đã thực hiện các giải pháp nhằm tăng cường khả năng kiểm soát, ngăn chặn từ hướng Dylatin bằng các lực lượng của mình, mà còn đạt được yêu cầu tăng cường cảnh giác và liên kết phối hợp với bộ tư lệnh quân khu Turkestan.

Tình huống xảy ra như sau: Sáng ngày 2 tháng 5, phân đội tuần tra phát hiện một đàn cừu di chuyển qua biên giới Trung – Xô. Tiếp cận khu vực xảy ra tình huống, phân đội phát hiện một đội quân PLA quân số khoảng 60 người, Để ngăn chặn khả năng chắc chắn có chạm súng, phân đội biên phòng yêu cầu tăng cường thêm 3 phân đội bộ đội biên phòng từ các đội liền kề, đồng thời yêu cầu đại đội BBCG của trung đoàn BBCG số 369 cùng với một trung đội xe tăng và 2 phân đội biên phòng cơ động mạnh. Hoạt động triển khai ngăn chặn được sự yểm trợ ngay tức khắc của trung đoàn không quân cường kích ném bom, có căn cứ tại Ycharale, đồng thời báo động chiến đấu các đơn vị ở các khu vực gần là các trung đoàn bộ binh cơ giới và pháo binh, 2 tiểu đoàn pháo phản lực Grad và hai tiểu đoàn súng cối.

Để điều hành chuẩn xác các hoạt động sẵn sàng chiến đấu, ngay tức khắc được tổ chức cụm quân lực tác chiến liên hợp dưới quyền chỉ huy của Tham mưu trường quân khu biên giới Viễn đông, thiếu tướng Kolodyazhny , đóng tại đồn biên phòng Dylata. Đồng thời cũng là sở chỉ huy tiền phương của quân khu, dưới quyền chỉ huy của thiếu tướng G.N. Kutki.

16.30 Bộ đội biên phòng Xô viết bắt đầu tăng áp lực đẩy đối phương, cũng được tăng cường lực lượng hỗ trợ ra khỏi biên giới CCCP. Quân đội PLA, nhận thấy khả năng sẵn sàng chiến đấu và hỏa lực vượt trội nhiều lần từ phía đối phương, buộc phải lùi bước dần ra khỏi biên giới Liên xô. Tình huống được giải quyết cuối cùng bằng con đường ngoại giao từ ngày 18 tháng 5 năm 1969.

Ngày 10 tháng 6 tại khu vực sông Tasty trong vùng Semipalatinsk, một nhóm quân nhân PLA đột nhập sâu vào lãnh thổ Liên xô đến 400 m và khai hỏa từ súng tiểu liên vào lực lượng biên phòng. Lực lượng biên phòng xô viết lấp tức đáp trả, sau khi đấu súng các quân nhân PLA quay về biên giới phía Trung Quốc.

Ngày 8 tháng 7 năm 1969 một nhóm quân nhân Trung Quốc vượt biên giới, nấp trên đảoGoldinsky thuộc lãnh thổ Liên bang trên sông Amua và tấn công bằng súng tiểu liên và lựu đạn vào nhóm công nhân đường sông xô viết, cập đảo để sửa chữa các biển báo, kết quả một người chết, ba người bị thương.

Các tình huống xung đột trên đảo Damaski cũng liên tục diễn ra. Theo lời kể lại của chính V.Bubenin, vào những tháng cuối của mùa hè sau sự kiện xung đột vũ trang, có tới hơn 300 trường hợp buộc phải sử dụng vũ khí để chống lại các hoạt động khiêu khích. Tình huống tương tự như trong chiến tranh. Cho đến tận thời điểm, vào trung tuần tháng 6 năm 1969 tại khu vực Damaski lần thứ hai xuất hiện hệ thống pháo phản lực Grad dành cho thử nghiệm đến từ Baikonur (Đoàn trắc thủ thuộc đơn vị 44245, chỉ huy – thiếu tá A.A. Shumilin).

Trong đội trắc thủ pháo phản lực ngoài các quân nhân lực lượng pháo binh, còn có các chuyên gia về không gian vũ trụ của các chương trình tác chiến trên khoảng không thượng tầng khí quyển. Trong đó có: JK Razumovsky, chỉ đạo kỹ thuật tổ hợp chuyên gia về Mặt Trăng, Papazian- chủ nhiệm kỹ thuật tổ hợp chuyên gia kỹ thuật tên lửa, A. Tasha- chỉ huy trưởng kỹ thuật chế tạo tổ hợp radar Vega, LeonidKuchma – sau này là tổng thống nước cộng hòa Ucraina, lúc đó là chuyên gia kỹ thuật của cục nghiên cứu thử nghiệm, Kozlov- chuyên gia đo xa bằng sóng vô tuyến,.I A. Soldatov – kỹ sư thử nghiệm tên lửa và các chuyên gia kỹ thuật hàng không vũ trụ và tên lửa khác. Thử nghiệm pháo phản lực Grad được kiểm soát bởi ủy ban chuyên trách cao cấp của nhà nước, đứng đầu là tư lệnh trưởng các lực lượng tên lửa Kamanin.

Khả năng, các thử nghiệm pháo phản lực của thiếu tá A.A. Shumilin được thực hiện với mục đích thúc đẩy phía Trung Quốc bắt đầu các cuộc đàm phán hòa bình nhằm giải quyết những vấn đề tranh chấp. Dù sao đi nữa, ngày 11 tháng 9 năm 1969 trong thời gian thực hiện các cuộc đàm phán bí mật giữa thủ tướng chính phủ liên bang Xô viết ông A. Kosygin với thủ tướng Chu Ân Lai tại Bắc Kinh, đã đạt được thỏa thuận tiến hành các cuộc đàm phán chính thức về các vấn đề biên giới Liên xô – Trung Quốc, các cuộc đàm phán này bắt đầu vào ngày 20 tháng 10 năm 1969.

Nhưng một tháng trước khi có cuộc gặp cấp cao giữa hai nhà nước đã xảy ra một cuộc xung đột lớn trên đường biên giới và cướp đi hàng chục mạng quân nhân.

>> Bí mật cuộc diễn tập quân sự lớn nhất của Liên Xô năm 1979

Vào năm 1979, Liên Xô đã khẳng định kiên quyết với những thế lực đầy tham vọng: Quân đội và nhân dân Xô Viết sẵn sàng sử dụng các giải pháp cuối cùng để thực hiện nghĩa vụ quốc tế của mình với Việt Nam.

>> Nhìn lại chiến tranh biên giới Việt - Trung 1979



Trong rất nhiều trường hợp khác nhau, các nước phải tiến hành nhưng hoạt động quân sự nhằm giải quyết những vấn đề xung đột chính trị mà các biện pháp ngoại giao thông thường không thể giải quyết vấn đề. Nhưng trong lịch sử đấu tranh, có rất nhiều những tình huống mà những xung đột căng thẳng giữa các nước trên thế giới có thể được giải quyết bằng phương pháp phô diễn sức mạnh quân sự và khả năng sẵn sàng sử dụng sức mạnh đó.

Hơn một lần Liên bang Xô Viết đã sử dụng khả năng biểu dương sức mạnh quân sự để ngăn chặn những thảm họa chiến tranh. Một trong những tình huống đó là năm 1979, Kremlin đã có những hành động quyết liệt biểu dương sức mạnh của các lực lượng vũ trang và khả năng sẵn sàng sử dụng sức mạnh đó để giải quyết những mâu thuẫn chính trị. Và chính sự quyết liệt đó đã ngăn chặn một cuộc chiến tranh lớn ở khu vực Đông Nam Á.

Diễn tập bắn đạn thật – là những hoạt động huấn luyện chiến đấu của các lực lượng vũ trang các nước với mục đích làm tăng khả năng sẵn sàng chiến đấu, khả năng điều hành tác chiến và liên kết phối hợp, đồng thời cũng kiểm tra thử nghiệm vũ khí trang bị phương tiện chiến tranh trên chiến trường. Nhưng trên thực tế diễn tập có bắn đạn thật là biểu dương sức mạnh quân sự nhằm mục đích răn đe, ngăn chặn hoặc thể hiện khả năng sẵn sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang. Đồng thời, diễn tập cũng là phương thức nhằm đưa các đơn vị quân đội vào trạng thái sẵn sàng tiến hành một cuộc chiến tranh.

Một trong những yếu tố nhanh chóng làm tỉnh lại những nhà chính khách đã mê muội bởi tham vọng chính trị, với sự tự tin thái quá về khả năng của mình, đó là cho họ thấy được sức mạnh quân sự mà trong trường hợp họ vẫn không tự nhìn nhận lại tình huống, họ sẽ phải đối đầu trực diện. Thực hiện được điều đó thì phô diễn sức mạnh quân sự phải thật sự hiệu quả.

Kinh nghiệm phô diễn sức mạnh quân sự nhằm đạt được mục đích chính trị, thông thường nước Mỹ hay nghiên cứu và áp dụng vào thực tiễn. Nhưng trong thực tế đấu tranh trên thế giới, Liên bang Xô viết vào năm 1979 đã triển khai sức mạnh quân sự của mình một cách quyết liệt và hiệu quả, khiến cho một cường quốc trên thế giới như Trung Quốc buộc phải chùn tay, còn cả thế giới nín thở với sự khủng khiếp chờ đợi ngày “D”.

Xung đột biên giới năm 1979

Sau khi quân tình nguyện Việt Nam cùng với các lực lượng yêu nước Campuchia tiến hành các chiến dịch quân sự chống lại lực lượng quân sự Khơ me Đỏ và chính quyền Pol Pot. Sức ép mọi mặt lên nhà nước Việt Nam ngày càng tăng cả về ngoại giao, kinh tế, quân sự...

Trên tuyến biên giới phía bắc Việt Nam, lực lượng đối phương đã triển khai một tập đoàn quân: Thê đội một 15 sư đoàn bộ binh, thê đội 2 – 6 sư đoàn dã chiến. Dự bị chiến dịch có 3 sư đoàn. Tổng thể cụm quân lực triển khai các hoạt động tác chiến trên biên giới có thể tăng cường đến 29 sư đoàn. Rạng sáng ngày 17 tháng 2, đội quân khổng lồ này ồ ạt tấn công trên toàn tuyến...

Cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc năm 1979 (theo cách gọi của người Việt Nam) chính thức nổ ra...

Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Năm 1979. Các trung đoàn máy bay chiến đấu từ lãnh thổ của Ucraina và Belarussia cơ động di chuyển đến sân bay của Mông cổ. Ảnh: Cơ sở dữ liệu “VKO” Matxcova

Liên bang Xô Viết quyết định thực hiện sứ mệnh vô cùng khó khăn trong điều kiện tình huống phức tạp và nguy cơ bùng nổ chiến tranh trên diện rộng – thiết lập lại sự công bằng và hòa bình trên bán đảo Đông Dương bằng phương pháp biểu dương sức mạnh quân sự. Nhưng với những cái đầu nóng, thực hiện giải pháp nửa vời và không quyết liệt là không thể, mà còn thúc đẩy quốc gia mang tư tưởng nước lớn muốn 'dạy một bài học' cho nước khác tiến hành cuộc chiến tranh ác liệt hơn. Matxcơva đã quyết định hành động rất cứng rắn và quyết liệt ngay từ ban đầu.

Cuộc diễn tập lớn nhất trong lịch sử quân sự thế giới

Các hoạt động biểu dương sức mạnh và ý chí được quyết định vào đầu tháng 3 năm 1979. Trong giai đoạn từ ngày 12 đến ngày 26 tháng 3 ( với mục đích tạo áp lực quân sự lên Trung Quốc do những hành động gây chiến chống lại nước láng giềng) theo quyết định của Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Liên xô, trên tất cả các quân khu vùng biên giới phía Đông, trên lãnh thổ Mông Cổ và trên biển Thái bình dương tiến hành cuộc diễn tập hiệp đồng quân binh chủng và diễn tập hải quân có sử dụng đạn thật.

Trong cuộc diễn tập lớn nhất trong lịch sử quân sự có sử dụng lực lượng của 20 sư đoàn binh chủng hợp thành và không quân. Quân số tham gia diễn tập lên đến 200 nghìn quân nhân, 2600 xe tăng, 900 máy bay và 80 chiến hạm. Cuộc diễn tập bắt đầu từ thời điểm động viên lực lượng và đưa các đơn vị thường trực chiến đấu từ thường xuyên lên toàn bộ. Từ lực lượng dự bị động viên điều động 52 nghìn quân nhân dự bị động viên hạng 1, động viên từ các cở sở thuộc ngành Nông nghiệp hơn 5 nghìn xe ô tô các loại.

Những đợt diễn tập lớn nhất được thực hiện tại Mông Cổ, trong diễn tập có sự tham gia của 6 sư đoàn BBCG và Tăng thiết giáp, 3 trong số các đơn vị được điều động từ Siberia và Zabaikalia. Ngoài ra trên lãnh thổ Mông Cổ tham gia diễn tập có 2 lữ đoàn, 3 sư đoàn không quân chiến trường, các đơn vị và phân đội đặc chủng tăng cường.

Ngoài ra, cũng trong giai đoạn đó, đồng thời tiến hành các hoạt động diễn tập thực binh của các lực lượng trên vùng Viến đông và Đông Kazakhstan, có sự tham gia của các đơn vị binh chủng hợp thành và các đơn vị không quân, phối hợp với lực lượng Biên phòng.

Trong tiến trình diễn tập đã thực hiện nội dung liên kết phối hợp giữa các lực lượng. Các đơn vị và phân đội trong điều kiện khí hậu và môi trường khắc nghiệt đã tiến hành cơ động trên khoảng cách rộng lớn, từ Siberia đến Mông Cổ (hơn 2000 km).

Các đơn vị được tổ chức biên chế thành đơn vị chiến đấu ngay trên tầu hỏa, được vận chuyển bằng đường không. Cụ thể, sư đoàn ĐBĐK từ Tula được vận chuyển vào khu vực Chita trên quãng đường dài 5,5 nghìn km bằng máy bay vận tải quân sự một đợt bay trong thời gian 2 ngày. Các trung đoàn máy bay chiến đấu từ lãnh thổ của Ucraina và Belarusia được cơ động trực tiếp đường không đến các sân bay của Mông cổ.

Trên những khu vực biên giới với Trung Quốc, các đơn vị phòng thủ biên giới triển khai phác thảo các kế hoạch tổ chức phòng ngự, đánh chặn các đòn tấn công xâm phạm khu vực biên giới, kế hoạch phản kích các đòn tấn công và kế hoạch phản công.

Trên các vùng biển phía Đông và Nam Trung Quốc có gần 50 chiến hạm của hạm đội Thái Bình dương, trong đó có 6 tầu ngầm, tiến hành các hoạt động sẵn sàng chiến đấu và đồng loạt triển khai diễn tập các hoạt động tác chiến nhằm tiêu diệt lực lượng hải quân đối phương. Riêng vùng biển Primorie tiến hành diễn tập đổ bộ đường biển.



Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Trên các vùng biển phía Đông và Nam Trung Quốc có gần 50 chiến hạm của hạm đội Thái Bình dương, trong đó có 6 tầu ngầm đang thực hiện nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu.

Một trong những mối quan tâm đặc biệt là kinh nghiệm triển khai các cụm quân công kích chủ lực của Lực lượng Không quân trên biên giới với Trung Quốc, do đặc thù có ưu thế vượt trội về không quân, như một phương tiện tác chiến tầm xa, “phi tiếp xúc”. Trong giai đoạn ngày nay sẽ là yếu tố quan trọng làm nguội đi những cái đầu nóng của người láng giềng đầy tham vọng mà không tự lượng sức mình.

Theo các kế hoạch diễn tập, đã tiến hành tổ chức biên chế các cụm chủ lực hàng không công kích của các trung đoàn không quân trên các quân khu gần biên giới Trung Quốc. Các tập đoàn máy bay chiến đấu chuyển sang vị trí đóng quân cố định trong khu vực miền Đông, không chỉ là từ các quân khu lân cận, mà cả từ Pricarpathian trên quãng đường bay dài tới 7000km trong vòng hai ngày.

Vấn đề không phải là vài chục chiếc máy bay chiến đấu, được rút ra từ các phân đội bay sẵn sàng chiến đấu thường xuyên, mà là các trung đoàn bay đầy đủ theo biên chế. Cùng với các máy bay chiến đấu, các máy bay vận tải vận chuyển luôn cả các đơn vị hậu cần kỹ thuật, các trang thiết bị, kỹ thuật dự trữ và cơ sở vật chất dự phòng theo biên chế.

Có những thời điểm trên không trung cùng lúc bay hàng chục trung đoàn không quân chiến trường. Ngay sau khi các đơn vị không quân hạ cánh, các đơn vị và phân đội không quân lập tức nhận nhiệm vụ và triển khai tham gia huấn luyện diễn tập. Trong quá trình tiến hành các hoạt động chuyển quân và diễn tập chiến đấu tiến công, các kíp lái đã cơ động hơn 5000h, sử dụng hơn 1000 quả bom và tên lửa.

Một khối lượng khổng lồ vũ khí trang bị, phương tiện chiến đấu, cơ sở vật chất, vận chuyển từ Liên bang Xô viết, đã giải quyết toàn bộ vấn đề về trinh sát đường không của địch trên lãnh thổ Việt Nam. Một bộ phận không quân đảm bảo vận tải trên lãnh thổ Việt Nam. Thành quả và khối lượng không thể tưởng tượng được của hàng không vận tải quân sự đã thực hiện trên cầu hàng không được thiết lập giữa CCCP và Việt Nam.

Trong khuôn khổ chương trình diễn tập và vận chuyển khí tài chiến đấu trong không đầy một tháng đã tiến hành cơ động 20 nghìn quân nhân của lực lượng vũ trang Việt Nam, hơn 1000 đơn vị (unit) trang thiết bị chiến đấu, 20 máy bay quân sự và máy bay trực thăng, hơn 3 nghìn tấn vũ khí trang bị, đạn và cơ sở vật chất phục vụ chiến tranh.

Liên bang Xô Viết đã thực hiện sứ mệnh cao cả của mình, bằng sự giúp đỡ của tinh thần đồng chí, tăng cường sức mạnh quân sự cho quân đội nhân dân Việt Nam bằng giải pháp cung cấp khí tài quân sự. Trong giai đoạn đầu tiên của cuộc xung đột vũ trang đến tháng 3 năm 1979 theo đường vận tải biển đã chuyển đến Việt Nam hơn 400 xe tăng và xe thiết giáp, xe bộ binh cơ giới, 400 khẩu pháo và súng cối, 50 tổ hợp pháo phản lực Grad BM-21, hơn 100 khẩu pháo phòng không, 400 tổ hợp tên lửa phòng không vác vai và hàng nghìn tên lửa, 800 súng chống tăng RPG-7, 20 máy bay tiêm kích.

Ngoài vũ khí trang bị, Liên bang Xô Viết còn cung cấp các hệ thống trang thiết bị đặc chủng và các dây truyền sửa chữa xe máy công trình phục vụ bảo dưỡng và sửa chữa trang thiết bị, phương tiện chiến tranh. Tất cả các trang thiết bị, phương tiện chiến tranh và hệ thống sửa chữa, bảo hành trang thiết bị đi cùng đó đều được chuyển đến trong vòng một tháng. Vũ khí, trang thiết bị kỹ thuật đều trong trạng thái sẵn sàng chiến đấu và có thể đưa vào chiến đấu được ngay. Toàn bộ trang bị kỹ thuật, phương tiện chiến tranh được kiểm tra bởi các đoàn kiểm tra kỹ thuật nghiêm khắc nhất, để chuẩn bị đã điều động các chuyên gia, trong thực tế đã khai thác sử dụng triệt để các trang thiết bị đó và có kinh nghiệm sâu sắc về khai thác sử dụng.

Như vậy, các phương tiện chiến đấu, từ các phương tiện vận tải, không cần có sự chuẩn bị bổ sung, có thể đưa thẳng vào chiến trường. Đây thật sự là một kỳ tích của hệ thống hậu cần, kỹ thuật, vận tải của quân đội Xô viết cả về tốc độ cung cấp và vận tải trang bị, số lượng vũ khí trang bị, khả năng sẵn sàng chiến đấu của vũ khí trang bị khi cơ động trên hàng chục ngàn km đường biển.

Trong thời gian diễn ra cuộc tập trận tổng lực của quân đội Vô Viết, người Trung Quốc căng thẳng theo dõi mọi diễn biến và có thể đánh giá được, thật sự họ đang ở trong một tình huống nghiêm trọng như thế nào? Đến mức họ không dám đưa lực lượng quân đội của họ từ vị trí đóng quân ra biên giới Xô – Trung.

Ngoài biên giới, các phương tiện thông tin đại chúng tập trung toàn bộ sự chú ý, theo dõi và đưa ra những phỏng đoán về cuộc diễn tập quân sự, lớn nhất trong lịch sử chiến tranh hiện đại, diễn ra trong khu vực châu Á. Các hoạt động diễn ra rất quyết liệt, theo đúng thực tế chiến trường chứ không hề có cảm giác “tình huống giả định, một bước tiến – hai bước lùi”. Và áp lực chiến tranh nặng nề đè lên thế lực hiếu chiến, buộc họ phải suy nghĩ tỉnh táo và kiềm chế tối đa..


Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Trữ lượng dầu, tiêu hao trong thời gian thực hiện các hoạt động diễn tập và giúp đỡ Việt nam, Bộ quốc phòng Liên bang Nga phải phục hồi lại dự trữ trong vòng hai năm.

Không đạt được những mục tiêu chính trị, tổn thất nặng nề về binh lực, ngày 5 tháng 3 năm 1979, Bộ máy lãnh đạo nước lớn ở châu Á quyết định rút quân khỏi lãnh thổ láng giềng. Quyết định đó bị thúc đẩy bởi hàng loạt các yếu tố chính trị và quân sự, bất ngờ và choáng váng trước sự kiên cường và sức mạnh của Việt Nam và một phần có thêm sự ủng hộ kiên quyết của Matxcơva đối với Hà Nội.

Liên Xô yêu cầu ngay lập tức chấm dứt hành động xâm lược vô nhân đạo, khả năng sẵn sàng tiến hành các hoạt động quân sự mạnh nhất trên khu vực phía Đông; những mâu thuẫn và bất đồng chính kiến ngay trong nội bộ nhà cầm quyền nước lớn kia; sự phản ứng mạnh mẽ của thế giới tiến bộ và yêu chuộng hòa bình; sự xuất hiện rõ nét những điểm yếu trong công tác huấn luyện và tiến hành các chiến dịch, thực hành các trận đánh của lực lượng sĩ quan chỉ huy quân đội PLA; trong biên chế các loại vũ khí, trang thiết bị hiện đại, phương tiện chiến tranh, khó khăn nghiêm trọng trong công tác vận tải cơ sở vật chất, hậu cần kỹ thuật.

Các cuộc tấn công chấm dứt từ ngày 20 tháng 3 bắt đầu rút quân trên toàn bộ các hướng chủ yếu. Cuộc rút lui được che chắn bởi hỏa lực dữ dội của pháo binh và các cuộc tấn công nghi binh. Trong quá trình rút quân, PLA sử dụng triệt để hỏa lực ngăn chặn của pháo binh, súng cối, gài mìn trên các tuyến đường, phá hoại cầu cống, hủy diệt các khu nông trại, hợp tác xã, làng mạc và khu dân cư.

Cuối tháng 3, Trung Quốc công khai tuyên bố đã rút hoàn toàn quân đội nhưng cuộc đấu tranh giằng co giữa đôi bên còn kéo dài đến tận năm 1989 mới chấm dứt.

Các hành động chính trị quân sự quyết liệt của Liên xô, được thực hiện dưới hình thức chuẩn bị quân sự toàn diện cho cuộc tấn công vào lãnh thổ Trung Quốc, đã đạt được những kết quả mong muốn về chính trị.

Cuộc diễn tập đã đạt được những mục tiêu quân sự cần thiết. Sức mạnh quân sự của Liên bang Xô Viết phô diễn trong cuộc tập trận bắn đạn thật quy mô lớn là một yếu tố đã góp phần chấm dứt những mưu toan nước lớn, những ý đồ trong vai trò “anh cả” và tham vọng điều khiển châu lục, buộc Trung Quốc nhìn lại ngay chính lực lượng quân sự của mình và những tham vọng của một "đại quốc".

Việt Nam đã tăng cường đáng kể sức mạnh quân sự, đủ để bảo vệ đất nước và đường lối chính trị độc lập của mình trên trường thế giới.

Quân đội Liên bang Xô Viết đã chứng minh được khả năng sẵn sàng chiến đấu cao nhất, đáp ứng được những yêu cầu tác chiến hiện đại và sẵn sàng hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và thực hiện nghĩa vụ quốc tế.

(Tổng hợp Internet)

Thứ Tư, 20 tháng 3, 2013

>> Kế hoạch hiện đại hóa Hải quân Việt Nam (Kỳ 1)

Chuyên gia về hải quân người Nga Yu.V. Vedernikov phân tích về vấn đề hiện đại hóa Hải quân Việt Nam hiện nay.

(*)Yu.V. Vedernikov : chuyên gia về hải quân, người đã từng viết một số cuốn sách về hải quân Trung Quốc đương đại, để quý độc giả tham khảo. Bài viết được đăng trên trang của Viện Hàn lâm Khoa học Quân sự Liên bang Nga.


>> Viễn cảnh mới cho Không quân Việt Nam

>> Cách Việt Nam giữ Trường Sa ?


Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com

Phần 1: Tham vọng và trở ngại

Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một đất nước nông nghiệp, nằm ở bờ đông bán đảo Đông Dương và có dân số 90,5 triệu người. Theo số liệu năm 2011, GDP chính thức của Việt Nam là 122,7 tỷ USD, tăng 5,9% năm so với cùng kỳ năm trước. Ngân sách của Việt Nam bị thâm hụt với mức thu 32,8 tỷ USD và mức chi 35,7 tỷ USD. Nợ nhà nước chiếm 57,3% GDP, dự trữ vàng-ngoại tệ là 17,67 tỷ USD [ 1 ] Giữ vai trò đầu tàu của nền kinh tế là các vùng công nghiệp Hà Nội (ở phía bắc) và thành phố Hồ Chí Minh (ở phía nam).

Xuất khẩu các sản phẩm trong nước có vai trò chiến lược trong sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam. Năm 2011, khối lượng xuất khẩu là 95,32 tỷ USD, bằng 77,7% GDP. Các mặt hàng xuất khẩu truyền thống là tài nguyên thiên nhiên, nông sản và hải sản, quần áo và giày dép, đồ điện tử gia dụng (và không phức tạp). Các quốc gia đối tác hàng đầu là Mỹ - 18%, Trung Quốc - 11% và Nhật Bản - 11%. Bên cạnh đó, nhập khẩu (năm 2011 là 97,83 tỷ USD) cho phép Việt Nam có được sản phẩm chế tạo máy, cấu kiện kim loại, thiết bị công nghiệp nhẹ. Các quốc gia cung cấp chính là: Trung Quốc - 22,0%, Hàn Quốc - 13,2%, Nhật Bản - 10,4%, Đài Loan - 8,6%, Thái Lan - 6,4% và Singapore - 6,4%.

Về mặt truyền thống, Việt Nam không được coi là cường quốc biển.

Tuy nhiên, theo số liệu của Review of Maritime Transport [ 2 ] tại thời điểm đầu năm 2011, Việt Nam có 1.451 tàu với tổng trọng tải [ 3 ] 3.704.000 GT, trong đó trọng tải của 104 tàu dầu là 933.000 GT, của 130 tàu chở hàng rời - 1.079.000 GT, của 949 tàu chở hàng khô - 1.367.000 GT, của 21 tàu chở container - 131.000 GT và của 42 tàu khác - 194.000 GT. So sánh những số liệu này, có thể kết luận rằng, hạm đội thương thuyền Việt Nam có các tàu tương đối nhỏ về kích thước, được dùng chủ yếu cho nhu cầu vận chuyển hàng hóa nội địa và khu vực [ 4 ]. Sách tra cứu “World Port Index” có đăng thông tin về 16 cảng và bến cảng của Việt Nam, trong đó lớn nhất là Hải Phòng, Đà Nẵng và Thành phố Hồ Chí Minh nằm tương ứng ở miền bắc, miền trung và miền nam đất nước. Được biết [ 5 ], năm 2009, lượng container lưu chuyển của các cảng Việt Nam là 4.840.6000 TEU, còn năm 2010 là 5.454.500 TEU, tức là mức tăng trưởng hàng năm là 13,1%, trong khi chỉ số trung bình thế giới là 13,3%.

Về truyền thống, Việt Nam không được coi là cường quốc hải quân.

Và về mặt lịch sử, điều đó là có cơ sở. Thoát hẳn khỏi ách thực dân vào năm 1954, đất nước bị lôi cuốn vào hàng loạt cuộc chiến tranh, trong đó hải quân được dành cho vai trò hạng ba, thực tế là không quan trọng. Hạm đội được trang bị một số lượng nhỏ xuồng (tàu nhỏ) chiến đấu các loại hoạt động ven biển và trên sông. Việc bảo vệ từ hướng biển định kỳ do Hải quân Liên Xô đảm nhiệm, các tàu chiến, tàu ngầm Liên Xô bằng sự hiện diện của mình đã kiềm chế cuộc xâm lược tiềm tàng của Mỹ. Khi các hiện tượng khủng hoảng gia tăng ở Liên Xô, sự yểm trợ bằng sức mạnh quân sự này dần chấm dứt.

Những biển đổi địa-chính trị của thế giới vào đầu thập niên 1990 và cuộc cải cách kinh tế-xã hội theo hướng tự do của Việt Nam vào nửa đầu thập kỷ này đã không đưa vào nghị trình vấn đề hiện đại hóa tận gốc lực lượng hải quân quốc gia. Hạm đội vẫn chỉ là hạm đội ven bờ với nòng cốt là mấy tàu tuần tra và đổ bộ, tàu quét lôi và xuồng tên lửa ở trình độ kỹ thuật những năm 1960 do Liên Xô cung cấp.

Trong khi đó, sự tái cấu trúc chính trị không gian thế giới đã làm gay gắt vấn đề tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông. Nói đúng ra, vấn đề phi quân sự hóa vùng biển này đã xuất hiện khá lâu, trong những năm 1950-1960, với sự xuất hiện của các quốc gia có chủ quyền mới ở Đông Nam Á. Trong bối cảnh một thế giới lưỡng cực, nó mang tính khu vực hẹp và “chậm chạp”, và thực tế đã được giải quyết bởi các nước tranh chấp theo nguyên tắc “fait accompli” (sự đã rồi), nghĩa là xác lập chủ quyền bằng sức mạnh khi sử dụng lực lượng hải quân có năng lực như luận cứ chủ yếu.

Thời đại mới đã tạo ra những điều chỉnh đối với vấn đề này khi làm cho “tranh chấp tài nguyên” do trữ lượng tiềm năng hydrocarbon lớn ở khu vực quần đảo Trường Sa [ 6 ] mà ngoài Việt Nam, còn có Trung Quốc, Đài Loan, Malaysia, Brunei và Philippines tuyên bố chủ quyền trở nên bức thiết. Lợi ích của Việt Nam ở vùng biển này là rất lớn. Cần lưu ý là Việt Nam đang nắm giữ 21 trong 44 đảo nhỏ và rạn đá ngầm lớn nhất của quần đảo này.


Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Hai chiến hạm uy lực nhất HQ-011 Đinh Tiên Hoàng và HQ-012 Lý Thái Tổ của Hải quân Việt Nam hiện nay

Một xu hướng mới khác là “sự xâm nhập” vào khu vực này của Đông Nam Á của “các quốc gia ngoài khu vực”. Có liên minh quân sự-chính trị với Đài Loan và Nhật Bản, cũng như sự hiện diện quân sự ở Philippines, Mỹ thường xuyên duy trì tại khu vực này một lực lượng tàu chiến [ 7 ]. Theo đuổi những mục tiêu đối ngoại của mình, năm 2011, Ấn Độ đã bắt đầu hợp tác thăm dò ở thềm lục địa Việt Nam, còn sau đó thì tuyên bố ý định thiết lập sự hiện diện hải quân thường xuyên ở vùng biển này. Tất cả những điều đó đi kèm với sự mở rộng quan hệ ngoại giao và các cuộc tập trận chung hải quân truyền thống [ 8 ], như những thành tố của ngoại giao quân sự. Tuy nhiên, sự thiếu văng, dù là một hạm đội cho dù không lớn nhưng có năng lực hoạt động đang đặt Việt Nam vào thế phụ thuộc vào “ý muốn” của các quốc gia này, làm cho họ phải “trông chừng cộng đồng quốc tế” trong các hành động [ 9 ].

Tất cả những điều đó cộng lại đã làm cho vấn đề hiện đại hóa Hải quân Việt Nam trở nên cấp thiết.

Hải quân Việt Nam đương đại là một quân chủng độc lập của lực lượng vũ trang, về tổ chức chia thành 4 vùng hải quân, 9 lữ đoàn tàu chiến và tàu bổ trợ, 1 lữ đoàn đặc công, 2 lữ đoàn hải quân đánh bộ và 2 lữ đoàn phòng thủ bờ biển. Quân số là 33.800 người [ 10 ].

Theo số liệu Jane’s năm 2008, trong biên chế Hải quân Việt Nam có 2 tàu ngầm mini do Bắc Triều Tiên đóng, 5 tàu tuần tra cũ lớp Projekt 159, 4 corvette tên lửa lớp 1241RE trang bị tên lửa chống hạm P-15, 2 corvette tên lửa lớp Projekt BSP-500 và 2 corvette tên lửa lớp Projekt 1241.8 trang bị tên lửa chống hạm Kh-35, 4 corvette tuần tra lớp Projekt 1041 và các tàu chiến nhỏ cũ gồm: 8 tàu tên lửa lớp Projekt 205 và 2 tàu phóng lôi lớp Projekt 206М và 206Т. Các tàu quét lôi gồm 4 tàu quét lôi căn cứ và 2 tàu quét lôi ven bờ, lực lượng tàu đổ bộ gồm 3 tàu đổ bộ hãng trung do Liên Xô đóng và 3 tàu đổ bộ tăng do Mỹ đóng. Trong biên chế hạm đội còn có một số lượng lớn tàu nhỏ ven bờ và tàu sông các loại.

Báo chí công khai không nêu thông tin về chiến lược hải quân của Việt Nam. Nhưng dựa vào suy nghĩ lành mạnh, chúng tôi giả định các nhiệm vụ sau đây đang đặt ra cho Hải quân Việt Nam (không xác định rõ mức độ ưu tiên của chúng):

- Bảo vệ lợi ích quốc gia ở Biển Đông, bảo đảm sức mạnh quân sự cho các lực lượng đồn trú ở quần đảo Trường Sa, bảo vệ hoạt động giao thông hàng hải, đánh cá và thăm dò trên biển trong vùng đặc quyền kinh tế, đấu tranh chống cướp biển, buôn lậu ma túy và các mối đe dọa tương tự;

- Kiềm chế một cuộc xâm lược tiềm tàng từ hướng biển một cách độc lập hoặc phối hợp với các quân binh chủng khác của quân đội, khi có liên minh với các nước ngoài hoặc không có sự liên minh đó;

- Tác chiến trên biển độc lập hay phối hợp với Không quân, chi viện cho Lục quân trong phòng thủ đất nước trên các hướng ven biển.

Sự đổi mới thực tế đội tàu chiến của Hải quân Việt Nam bắt đầu vào nửa cuối thập niên 1990 bằng việc mua sắm 4 corvette tên lửa Projekt 1241 của Nga. Về thực chất, có thể nói đến sự đổi mới kỹ thuật: trong biên chế hạm đội Việt Nam đã xuất hiện các tàu tên lửa mới, với dự trữ kỹ thuật và tiềm năng hiện đại hóa lớn, nhưng được trang bị các tên lửa hành trình cũ P-15 (SS-N-2D Styx) [ 11 ].

Trong những năm sau đó, Việt Nam đã mua sắm các corvette tên lửa tương tự, nhưng đã được trang bị tên lửa chống hạm hiện đại Kh-35 Uran-E (SS-N-25). Điều đó tự nó tạo ra xu hướng đổi mới chất lượng mức chiến dịch-chiến thuật Hải quân Việt Nam. Theo số liệu của Jane’s 2008, trong biên chế hạm đội Việt Nam hiện có và sẽ có tổng cộng 12 corvette tên lửa với tổng tiềm lực chiến đấu là 176 tên lửa chống hạm Kh-35. Được biết, năm 2004-2008, Việt Nam đã mua sắm 120 tên lửa này, còn tháng 10/2010 đã ký hiệp định Nga-Việt về việc phát triển tên lửa Uran-EV thích ứng cho nhu cầu của hạm đội Việt Nam [ 12 ].

Không còn nghi ngờ, điểm yếu của các tàu này là tiềm lực phòng không yếu, với sự hiện diện của 2 ụ pháo hiệu quả thấp АК-630 trên mỗi tàu. Tuy vậy, nhược điểm này đã được tính đến từ thời Liên Xô: năm 1986, để thử nghiệm, trên một tàu cùng lớp đã lắp hệ thống tên lửa-pháo phòng không Kortik, cũng như trù tính khả năng cải tạo nhanh để lắp các loại vũ khí trang bị mới [ 13 ].

Việc tiếp nhận 2 frigate lớp Gepard (Projekt 11661E) vào năm 2011 là sự tăng cường chất lượng cho hạm đội Việt Nam. Với lượng giãn nước toàn phần 2.100 tấn, frigate lớp này có cự ly hành trình 3.500 hải lý (ở tốc độ 14 hải lý/h), thời gian hoạt động độc lập đế 20 ngày đêm, được trang bị 8 tên lửa chống hạm Kh-35, 1 hệ thống tên lửa-pháo phòng không Kortik và 2 ụ pháo АК-630, vũ khí chống ngầm và có một sân đỗ để triển khai tạm thời 1 trực thăng.

Các tàu Gepard có tiềm năng hiện đại hóa lớn. Được biết, các tàu lớp này của Hải quân Nga đã tiến hành thành công các đợt bắn thử tên lửa chống hạm 3М54 Club-N, hãng thiết kế đã xem xét khả năng lắp ụ pháo 100 mm tối tân nhất АК-190 cho các tàu này [ 14 ]. Chúng tôi cho rằng, hiện tại, các nước ở khu vực Biển Đông không có các tàu cùng loại có khả năng chiến đấu sánh với các tàu chiến Gepard của Việt Nam [ 15 ].

Biên chế lực lượng tàu tuần tra dự định bổ sung bằng các tàu corvette lớp Projekt 1041.2 Svetlyak mà trong tương lai, số lượng sẽ tăng lên đến 10 chiếc. Các tàu chiến này của Việt Nam là biến thể chống ngầm được phát triển từ lớp tàu tên lửa cỡ nhỏ lớp Projekt 1241 và khác với chúng ở chỗ được trang bị hệ thống động lực chính là các động cơ diesel. Kinh nghiệm của Hải quân Liên Xô đã cho thấy rằng, để thực hiện các nhiệm vụ được giao, các tàu Svetlyak là đắt đỏ cả khi đóng lẫn trong khai thác [ 16 ]. Việc mua sắm các tàu có tiềm năng săn-chống ngầm trực tiếp và thực tế là không có vũ khí tấn công (chống hạm) này, theo chúng tôi, là sự lãng phí tiền bạc [ 17 ].

Ngoài ra, báo chí cũng đưa tin về khả năng Việt Nam mua của Hà Lan 4 frigae lớp SIGMA. Ngoài ra, Ấn Độ cũng đã bày tỏ sẵn sàng giúp Việt Nam tăng cường sức mạnh hải quân bằng phương thức đóng tàu và đào tạo thủy binh [ 18 ]. Tuy nhiên, hiện tại (tháng 12/2012), việc này chưa được xác nhận [ 19 ].


(Bài viết được tham khảo từ nguồn Vietnamdefence)
Copyright 2012 Tin Tức Quân Sự - Blog tin tức Quân Sự Việt Nam
 
Lên đầu trang
Xuống cuối trang