Tên lửa được phóng từ tàu ngầm D5 Trident II của hải quân Mỹ là sản phẩm mới nhất của chuỗi các tên lửa loại này và được đánh giá có sức mạnh như cây đinh ba của thần biển cả Poseidon. >> Khám phá siêu tên lửa thế hệ 5 của Nga
Điểm nhấn của Trident II là khả năng mang đa đầu đạn và sai số trượt mục tiêu (CEP) thấp để đảm bảo tấn công phủ đầu chính xác các mục tiêu thông thường, cũng như kiên cố (được thiết kế để chống lại các vụ nổ hạt nhân). Dòng SLBM này cũng được biết đến với độ tin cậy cao (kể từ năm 1989, đã có 143 vụ phóng thử Trident II được ghi nhận là thành công). Với nhiều ưu điểm, Trident II không chỉ nằm trong biên chế lực lượng tàu ngầm hạt nhân chiến lược Mỹ, mà còn cả trong lực lượng tên lửa chiến lược Anh. Phiên bản phóng to của SLBM C4 với nhiều cải tiến Xuất phát từ yêu cầu răn đe hạt nhân hải quân với Liên Xô, ngay từ năm 1956, Mỹ đã bắt tay vào phát triển vũ khí tiến công chiến lược hải quân (FBM) với sự ra mắt của các dòng SLBM Polaris (A1), Polaris (A2), Polaris (A3), Poseidon (C3) và Trident I (C4). Từ yêu cầu đáp ứng chiến lược với SLBM Sineva, hải quân Mỹ từ đầu những năm 1990 đã bắt đầu tái trang bị bằng SLBM thế hệ 6 D5 Trident II hay UGM-133 với nhiều yêu cầu kỹ-chiến thuật tiên tiến. Trong thực tế, SLBM Trident II là phiên bản nâng cấp mang tính cách mạng của Trident I với việc nâng tầm bắn lên tới 7.360 km, nhưng lại có sức mạnh vượt trội (tương đương với SLBM Poseidon). Ngoài ra, những cải tiến mạnh về kết cấu động cơ phóng, trong đó có việc trang bị hệ thống thay đổi véc-tơ lực đẩy cho phép cải thiện đáng kể hiệu suất động cơ và cải thiện CEP khi tận dụng khả năng hồi đáp với hệ thống dẫn đường quán tính trang bị trên tên lửa. Điểm khác biệt nữa là Trident II áp dụng sâu công nghệ vật liệu composite (graphite/epoxy) trong chế tạo. Việc này tuy làm đội giá thành, nhưng lại giúp giảm trọng lượng tên lửa. Ngoài ra, việc tăng kích thước tên lửa của D5 cũng giúp dòng SLBM này có thể mang theo các dòng đầu đạn tự dẫn thế hệ mới (MRV) MK5 có khả năng sống sót cao hơn trước lá chắn tên lửa của đối phương.
Sức mạnh của “vũ khí trong tay thần Poseidon” Chính thức được phát triển từ năm 1983 và bắt đầu phóng thử nghiệm từ tháng 1-1987, SLBM D5 đã vượt qua 15 vụ phóng thử (tới tháng 9-1988) với 12 lần phóng được ghi nhận là thành công. Sau khi được thiết kế để sửa đổi các thiếu sót, D5 chính thức được trang bị trên tàu ngầm hạt nhân USS Tennessee (SSBN 734) lớp Ohio từ năm 1990. Tương tự như SLBM C4, D5 cũng có kết cấu 3 tầng sử dụng nhiên liệu rắn và hệ thống dẫn đường quán tính kết hợp đạo hàng hình sao có hiệu chỉnh FBM. Có thông tin về việc D5 còn có thể được trang bị hệ thống định vị vệ tinh GPS, nhưng không được kiểm chứng. Sai số CEP công khai của D5 được xác định là 90-120 m rất phù hợp để tấn công phủ đầu “phẫu thuật” vào các mục tiêu kiên cố. Tầm bắn của D5 cũng được cải thiện nhờ kết cấu ống phụt động cơ mới đem lại hiệu năng hoạt động tăng 50% so với SLBM C4. Tầm bắn của D5 vào khoảng 4.600 hải lý, tương đương hơn 7.000 km. Đây cũng là con số hợp lý đối với các SLBM do thực tế hoạt động của tàu ngầm cơ động hơn nhiều so với bệ phóng cố định hay di động. Tàu ngầm chiến lược hoàn toàn có thể chọn vị trí phóng hợp lý nhất trên các đại dương nên không cần các dòng SLBM có tầm bắn quá lớn làm hạn chế về kích thước và trọng lượng tên lửa triển khai trên tàu. Những cải tiến về vật liệu và thiết kế cho SLBM D5 nhẹ hơn, cấu trúc bền vững hơn để có thể mang nhiều đầu đạn hơn. Ở thiết kế cơ bản, D5 có thể mang được tới 12 đầu đạn W88 có sức công phá 475 Kiloton hoặc W76 (100 Kiloton), nhưng do yêu cầu của Hiệp ước cắt giảm vũ khí tiến công chiến lược (START-1) với Nga, số lượng đầu đạn của D5 được giới hạn là 8. Theo Hiệp ước START Mới, số lượng này tiếp tục cắt xuống còn 4-5 đầu đạn. Ở điều kiện tác chiến, D5 dài 13,41m, đường kính thân là 1,85m và trọng lượng khoảng 58,5 tấn. Tuy nhiên, hạn chế của D5 so với đối thủ cùng lớp SLBM Bulava của Nga là việc vẫn sử dụng ống phóng dạng thẳng đứng nên khi phóng, tàu ngầm vận chuyển phải đứng im ở độ sâu phù hợp (thường là 50m). Khi phóng, hệ thống đẩy thủy lực trong ống phóng giúp đẩy tên lửa lên mặt nước rồi mới kích hoạt động cơ chính. Nguyên tắc hoạt động của D5 cũng tương tự như các dòng tên lửa đạn đạo liên lục địa (ICBM), SBLM nhiên liệu rắn, nhưng có cải tiến ở việc điều chỉnh được mức độ cháy của thỏi nhiên liệu giúp tên lửa hiệu chỉnh hướng tốt hơn.
Hiện tại, D5 đang được trang bị trên 14 tàu ngầm nguyên tử lớp Ohio của hải quân Mỹ và 4 tàu ngầm lớp Vanguard của hải quân Anh. Do chưa có kế hoạch thay thế, Mỹ và Anh đang hợp tác kéo dài niên hạn sử dụng D5 tới năm 2042 với chương trình D5LE. Đầu đạn hạt nhân nhiệt hạch là gì? Phản ứng nhiệt hạch lợi dụng đặc tính ở nhiệt độ cao ở các hạt nhân của đồng vị deuterium cũng như tritium có thể dễ dàng hợp nhất thành đồng vị hydrogen và giải phóng một lượng lớn năng lượng trong quá trình này. Loại vũ khí sử dụng nguyên lý này được gọi là bom nhiệt hạch hay bom H. Về bản chất, deuterium và tritium là hai loại khí và rất khó lưu giữ ở dạng tinh chất. Ngoài ra, chúng còn rất hiếm và không ổn định. Để phản ứng nhiệt hạch xảy ra cần cung cấp một lượng nhiệt rất lớn. Trong thực tế, nhiên liệu của bom H là hợp chất lithium deuteride (thể rắn, trơ ở nhiệt độ thường). Bên trong một quả bom nhiệt hạch gồm một lõi phân hạch nhỏ dùng U-238 để tạo nhiệt lượng mồi phản ứng cho các khối nhiên liệu lithium deuteride . Khi được kích hoạt, khối lõi sẽ phản ứng phân hạch cung cấp nhiệt lượng để lithium phân hạch thành tritium và đồng thời phản ứng phân hạch này cũng tạo điều kiện cần thiết cho sự kết hợp giữa deuterium và tritium giải phóng nhiệt lượng tương đương với bề mặt của mặt trời. Với nguyên lý này, con người có thể chế tạo ra những qua bom có sức công phá hơn lớn hàng trăm nghìn Kiloton, thậm chí là tới cả trăm Megaton (triệu tấn thuốc nổ TNT). Trong thực thế, Nga đã từng cho nổ thử bom nhiệt hạch Tsas với sức công phá dự kiến là 100 Megaton, nhưng sau giảm xuống còn 50 Megaton đã tạo ra sóng chấn động chạy xung quanh trái đất 14 vòng, tạo ra nhiệt độ nung chảy mọi vật trong tầm ảnh hưởng. Hầu hết các dòng vũ khí hạt nhân chiến lược hiện nay trên thế giới đều sử dụng cơ cấu đầu đạn nhiệt hạch. |
Hiển thị các bài đăng có nhãn thế hệ 5. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn thế hệ 5. Hiển thị tất cả bài đăng
Chủ Nhật, 8 tháng 9, 2013
Tên lửa Trident - "vũ khí của thần biển"
Thứ Bảy, 22 tháng 1, 2011
>> Việt Nam có thể mua tiêm kích thế hệ 5 năm 2018
Tiêm kích thế hệ 5 T-50 PAK FA của Nga bay thử Việt Nam là ứng cử viên sáng giá nhất mua tiêm kích thế hệ 5 T-50/FGFA khi máy bay này được xuất khẩu. |
Thứ Ba, 18 tháng 1, 2011
>> Khám phá siêu tên lửa thế hệ 5 của Nga
Thay thế cho các tên lửa đường đạn khủng khiếp nhất thế giới R-36М2 Voyevoda mà phương Tây đặt biệt danh là “Quỷ sa tăng” (Satan) sẽ là các siêu tên lửa thế hệ 5. Tên lửa đường đạn xuyên lục địa (ICBM) hạng nặng, bố trí trong giếng phóng mới đang được một trong những liên hiệp công nghiệp quốc phòng lớn nhất của Nga ở Podmoskovie (khu vực ngoại ô Moskva) phát triển. Trong lịch sử của liên hiệp này đã có những dự án tên lửa có tính đột phá nhất. Có thể tin tưởng, họ sẽ chế tạo được loại tên lửa đường đạn hạng nặng xứng đáng thay thế Voyevoda. Thời Liên Xô, từ khi nhận nhiệm vụ kỹ thuật về loại tên lửa mới cho đến khi đưa nó vào giếng phóng để trực chiến mất 8 năm. Khi được cấp kinh phí tốt và tăng cường độ nghiên cứu, tên lửa mới có thể xuất hiện trong giếng phóng giống như thời trước là sau 8 năm. Các chuyên gia NPO nhấn mạnh, các vấn đề như đã xảy ra khi chế tạo tên lửa phóng từ tàu ngầm Bulava là không thể có về nguyên tắc. Đương thời, các công trình sư Liên Xô/Nga vượt mọi đối thủ thế giới tuyệt đối về mọi mặt. Không một tên lửa chiến lược tối tân nào của Mỹ có được khả năng chiến đấu dù cho là gần gần với biến thể sơ khai đầu tiên của tên lửa hạng nặng R-36. Các giếng phóng tên lửa đường đạn hạng nặng của Nga được coi là tốt nhất thế giới. Chúng có thể bảo vệ chống mọi loại sóng xung kích và bức xạ (bức xạ và điện tử). Các tên lửa mới sẽ được che giấu tin cậy (AP). Việc phát triển loại tên lửa đường đạn mạnh nhất thế giới R-36, còn có ký hiệu 15PA14, bắt đầu vào năm 1969. Năm 1975, nó đã được nhận vào trang bị. Tiếp đó, đã thực hiện nhiều cải tiến quan trọng. Kết quả là 3 biến thể đã được đưa vào trang bị. Trong Hiệp ước START, các hệ thống tên lửa này sử dụng các tên lửa RS-20А, RS-20B, RS-20V. Theo hệ thống định danh NATO, tên lửa SS-18 Satan có 6 biến thể. Người Mỹ tính đến những cải tiến dù là nhỏ, còn Liên Xô chỉ tính những cải tiến lớn. Cái tên Satan được Mỹ đặt cho tên lửa đầu tiên R-36 (RS-20А). Người ta nói rằng, tên đó được đặt là do màu sơn đen của thân tên lửa. Tên lửa R-36 thuộc thế hệ 3. Cũng giống như R-36М, nó chỉ có ký hiệu hỗn hợp chữ-số. Chỉ có R-36М2 đưa vào trang bị cho Bộ đội Tên lửa chiến lược Liên Xô/Nga RVSN năm 1988 là được gọi tên là Voyevoda. R-36M2 đã là tên lửa thế hệ 4, mặc dù đây chỉ là biến thể hiện đại hóa rất sâu của tên lửa đầu tiên R-36. Tham gia làm việc cho dự án là cả Liên Xô, nhưng trách nhiệm chính là Ukraine, trước hết là Viện thiết kế (KB) Yuzhnoie, ở Dnepropetrovsk. Các công trình sư trưởng lần lượt là Mikhail Yangel và Vladimir Utkin. Việc chế tạo tên lửa rất khó khăn. Trong 43 lần phóng thử của lô đầu chỉ có 36 lần thành công (83,7%). Lần phóng thử đầu tiên của Voyvoda mùa xuân năm 1986 kết thúc bằng một thảm họa nghiêm trọng. Tên lửa bị nổ trên bệ, phá hủy hoàn toàn giếng phóng. Nhưng rất may là không có thiệt hại về người. Cuối cùng, Voyevoda đã trở thành tên lửa tin cậy nhất thế giới. Hạn sử dụng của tên lửa hiện được chính thức kéo dài lên đến 20, thậm chí có thể tăng hạn lên đến 25 năm. Đây là trường hợp hiếm có. Bởi vì, tên lửa thường xuyên được nạp các thành phần nhiên liệu lỏng hoạt tính mạnh và chất oxy hóa. Thế hệ mới của Voeyvoda về tính năng sẽ vượt tất cả các loại trước đó hiện có đang trực chiến. Tên lửa được bố trí trong các giếng phóng gần như bất khả xâm phạm. Chỉ có thể tiêu diệt chúng khi tên lửa hạt nhân đối phương bắn trúng chính xác trực tiếp. Còn nếu nổ cách giếng phóng Voyevoda vài trăm mét thì không có vấn đề gì. Tên lửa có thể xuất phát kể cả khi có bão bụi lửa đi kèm vụ nổ hạt nhân. Tên lửa cũng không ngán ngại bức xạ Roentgen dữ dội và các dòng neutron. Tên lửa có thể với tới hầu như mọi mục tiêu trên trái đất, với tầm bắn 11.000-16000 km tùy thuộc trọng lượng đầu đạn. Trọng lượng tối đa của phần chiến đấu tên lửa thế hệ 4 là 8.730 kg. Trong khi đó, các ICBM bố trí trong giếng phóng Minuteman III của Mỹ có tầm bắn đến 13.000 km, nhưng phần chiến đấu nặng có 1.150 kg. Kể cả ICBM mạnh nhất của Mỹ là tên lửa Trident phóng từ tàu ngầm thuộc các biến thể cuối cũng chỉ đưa đầu đạn nặng 2,8 tấn đi xa 11.000 km. Tất cả các tham số kỹ-chiến thuật của tên lửa đang thiết kế được bảo mật gắt gao, chỉ biết rằng, chúng vượt khả năng của các tên lửa Voyevoda hiện tại. So sánh tính năng 3 ICBM hàng đầu thế giới: Liên Xô đã chế tạo các loại đầu đạn khác nhau cho các biến thể và loại tên lửa Satan. Đầu đạn khủng khiếp nhất có đương lượng nổ 25 MT (1MT tương đương 1 triệu tấn TNT). Hiện nay, trực chiến chỉ có các tên lửa mang 10 đầu đạn hạt nhân, mỗi đầu đạn có đương lượng nổ 0,75 MT. Tức là đương lượng nổ tổng cộng là 7,5 MT, quá đủ để gây tổn thất không thể khắc phục cho đối phương tại khu vực bị tấn công. Module đầu tên lửa chứa các đầu đạn có vỏ giáp bảo vệ vững chắc. Ngoài ra, nó còn mang theo nhiều mục tiêu giả để tạo cảm giác một cuộc tấn công siêu ồ ạt cho các radar của các hệ thống phòng thủ tên lửa của đối phương. Theo các chuyên gia NATO, trong điều kiện đó thì không thể phân biệt các đầu đạn thật. Ngày nay, tất cả các tên lửa đường đạn hạt nhân đều mang các mục tiêu giả. Nhưng ở tên lửa Voyevoda, người ta đã làm được mục tiêu giả có các trường vật lý giống hoàn toàn đầu đạn thật. Lực lượng RVSN thời Liên Xô đã triển khai 308 hệ thống Satan trong biên chế 5 sư đoàn tên lửa. Hiện nay, Nga còn duy trì 74 bệ phóng với tên lửa Voyevoda. Ngay cả sau khi “về hưu”, các tên lửa này vẫn tiếp tục phục vụ trong ngành dân sự. Các tên lửa R-36М rút khỏi trực chiến đã được cải hoán thành tên lửa đẩy vũ trụ thương mại Dnepr. Bằng loại tên lửa này, đã đưa lên quỹ đạo gần 40 vệ tinh nước ngoài có chức năng khác nhau. Đã có một trường hợp tên lửa vẫn hoạt động tốt sau khi trực chiến 24 năm. Năm 1991, KB Yuzhmah đã phát triển thiết kế hệ thống tên lửa thế hệ 5 R-36М3 Ikar, nhưng cuối cùng bế tắc. Hiện nay, các tên lửa hạng nặng thế hệ 5 thật sự, chứ không phải là tên lửa cải tiến tiếp, đang được Nga nghiên cứu chế tạo. Tên lửa này sẽ ứng dụng những thành tựu khoa học công nghệ mới nhất. Song cần phải nhanh chân vì từ năm 2014, các tên lửa Voyevoda dù là tin cậy những đã cũ sẽ bắt buộc phải loại biên. PM (theo RG) |
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)
Chuyên mục Quân Sự
Hải quân Trung Quốc
(263)
Hải quân Mỹ
(174)
Hải quân Việt Nam
(171)
Hải quân Nga
(113)
Không quân Mỹ
(94)
Phân tích quân sự
(91)
Không quân Nga
(83)
Hải quân Ấn Độ
(54)
Không quân Trung Quốc
(53)
Xung đột biển Đông
(50)
Không quân Việt Nam
(44)
tàu ngầm
(42)
Hải quân Nhật
(33)
Không quân Ấn Độ
(16)
Tàu ngầm hạt nhân
(15)
Hải quân Singapore
(12)
Xung đột Iran - Israel
(12)
Không quân Đài Loan
(9)
Siêu tên lửa
(8)
Quy tắc ứng xử ở Biển Đông
(7)
Tranh chấp biển Đông
(7)
Xung đột Trung - Mỹ
(4)
Xung đột Việt-Trung
(2)