Tin Quân Sự - Blog tin tức Quân sự Việt Nam: Lực lượng Tác chiến điện tử

Paracel Islands & Spratly Islands Belong to Viet Nam !

Quần Đảo Hoàng Sa - Quần Đảo Trường Sa Thuộc Về Việt Nam !

Hiển thị các bài đăng có nhãn Lực lượng Tác chiến điện tử. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Lực lượng Tác chiến điện tử. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Sáu, 16 tháng 12, 2011

>> Lực lượng tác chiến điện tử Iran


Iran tuyên bố bắt sống RQ-170 Sentinel bằng tác chiến điện tử vậy năng lực tác chiến điện tử của quốc gia này đến đâu?


Tự phát triển các hệ thống tác chiến điện tử 


Trước ngày 8/12/2011, thế giới dường như chỉ quan tâm tới chương trình phát triển hạt nhân và các tên lửa đạn đạo của Iran. Thế nhưng sau vụ "ép hạ cánh" RQ-170 Sentinel, dư luận thêm một lý do nữa để nhìn quốc gia Hồi giáo này với con mắt tò mò. Đáng chú ý hơn cả, Iran tuyên bố, họ đã bắt chiếc Sentinel hạ cánh bằng tác chiến điện tử, điều mà thế giới còn nghi ngờ khả năng của nước này. Nếu đúng như vậy, những thiết bị nào trong biên chế lực lượng vũ trang Iran đã lập nên thành tích trên?



http://nghiadx.blogspot.com
Tư lệnh Lực lượng Không gian Vũ trụ Iran Amir-Ali Hajizadeh đang được các kỹ sư giới thiệu về hệ thống tác chiến điện tử do họ thiết kế. Ảnh:FARS
Theo thông tin mới nhất, Iran tự phát triển 3 hệ thống tác chiến điện tử khác nhau, bao gồm một hệ thống tác chiến điện tử EW, một hệ thống mô phỏng tín hiệu radar RST và một hệ thống gây nhiễu tín hiệu vệ tinh. Tất cả các thiết bị này đều được phát triển bởi các kỹ sư Iran.

Farzad Ismaili, người chỉ huy căn cứ quân sự Khatam-ol-Anbiya cho biết, tác chiến điện tử là một trong những lĩnh vực quan trọng nhất đối với hệ thống phòng không của Iran.

http://nghiadx.blogspot.com
Một nguồn tin quân sự gần đây cho biết, Nga đã chuyển giao cho Iran một hệ thống tác chiến điện tử di động 1L222 Avtobaza. Đây là một hệ thống gây nhiễu tự động trên nhiều loại tín hiệu phát xạ khác nhau.


1L222 Avtobaza có tầm hoạt động tối đa là 150km, độ cao tối đa là 30km, hệ thống có khả năng dò tìm tín hiệu trong dãi tần từ 8-17.5Mhz. Hệ thống có khả năng quản lý trên 60 mục tiêu.

Tuy nhiên, việc hệ thống 1L222 Avtobaza có thể “ép” Sentinel hạ cánh vẫn đặt ra dấu hỏi lớn. Bởi từ góc độ tác chiến và kháng nhiễu điện tử, Mỹ vẫn nghiễm nhiên được coi là quốc gia số một thế giới.

Hệ thống này có khả năng gây nhiễu tín hiệu vệ tinh, mô phỏng tín hiệu của các loại sóng radar từ trạm điều khiển mặt đất, gây nhiễu loạn hệ thống điều khiển và dẫn đường của đối phương.

Ngoài ra, hệ thống còn có khả năng chống lại các hệ thống tác chiến điện tử của đối phương, đảm bảo cho các khí tài của lực lượng vũ trang Iran hoạt động tốt trong môi trường tác chiến điện tử mạnh.

Hệ thống này cũng được triển khai trên một số tàu chiến của Hải quân Iran nhằm nâng cao sức mạnh chiến đấu và phòng thủ. Thông số kỹ thuật của các hệ thống này hầu như không được công bố, điều đó khiến năng lực của hệ thống này trở thanh một ẩn số lớn.

Nếu nhìn vào số trang bị khí tài cho nhiệm vụ tác chiến điện tử mà Iran đang sở hữu, việc “ép” RQ-170 hạ cánh bằng tác chiến điện tử xem chừng là điều không tưởng và chưa từng có tiền lệ trên thế giới.

Trong chiến tranh Iraq 2003, Quân đội của chế độ Sadam Hussien sử dụng khá nhiều thiết bị gây nhiễu GPS làm chệch hướng nhiều tên lửa của Mỹ.

Tuy nhiên, đối với một UAV cao cấp như RQ-170 Sentinel việc gây nhiễu là một công việc khó khăn đừng nói đến việc chiếm quyền điều khiển. Bởi theo công bố của nhà sản xuất Lockheed Martin, RQ-170 được thiết kế để hoạt động ở hai chế độ khác nhau, hoặc được điều khiển bằng tay từ trạm mặt đất, hoặc chế độ tự động. Ngoài ra, việc dò tìm tần số điều khiển của hệ thống UAV không hề đơn giản, các trường truyền tín hiệu an toàn của Mỹ luôn được mã hóa để tăng cường bảo mật.

http://nghiadx.blogspot.com
Những hệ thống tác chiến điện tử này có thể "ép" Sentinel hạ cánh? Ảnh: FARS
Điều này dẫn đến hai nhận định.

Thứ nhất, chiếc Sentinel đã gặp trục trặc kỹ thuật và hạ cánh trong lãnh thổ Iran, nghĩa là Iran đã hoàn toàn "ăn may".

Nhưng cũng cần nhớ rằng, Iran được Mỹ "vinh danh" là một trong số các quốc gia thực hiện tấn công mạng nhắm vào Mỹ nhiều nhất. Điều này có thể là cơ sở quan trọng cho việc thu thập các thông tin tình báo liên quan đến các hệ thống UAV của Mỹ cũng như cách xâm nhập hệ thống này. Do đó, nhận định thứ hai là Iran đã có khả năng can thiệp vào hệ thống điều khiển tự động của Sentinel và buộc nó phải "hạ cánh".

Mấu chốt của vấn đề ở khoảng thời gian thu hồi và trưng bày UAV. Nếu Iran điều khiển RQ-170 hạ cánh nguyên vẹn, họ sẽ biết nó ở khu vực nào và nhanh chóng "lôi" nó về nhưng phải mấy ngày sau các tuyên bố qua lại, Iran mới đưa chiếc Sentinel này lên truyền hình. Tại sao lại lâu đến vậy? Là do yếu tố tuyên truyền hay UAV này hạ cánh với những hư tổn nhất định, cần phải sửa chữa trước khi được trưng ra?

Tuy nhiên, có một điều rõ ràng là: Iran đã phát hiện sự xâm nhập của UAV tàng hình được cho là hiện đại và bí ẩn nhất của Quân đội Mỹ.

Nhận định của các chuyên gia Mỹ:

John E. Pike, giám đốc tạp chí GlobalSecurity nói với CNN rằng những hình ảnh mà ông nhìn thấy từ đoạn video do Iran công bố không phải là cách mà ông mong chờ để xem xét một vụ tai nạn.

Bill Sweetman, một chuyên gia hàng không quân sự nhận định, ông tin rằng chiếc UAV trong đoạn video là có thật. Tuy nhiên, ông loại trừ khả năng chiếc RQ-170 bị bắn hạ hay bị đột nhập vào hệ thống bởi lực lượng vũ trang Iran. Ông cho rằng, lỗi hệ thống chính là nguyên nhân dẫn đến chiếc Sentinel bị rơi.

Chiếc máy bay còn khá nguyên vẹn do nó đã cố hạ cánh theo lập trình từ trước, chiếc RQ-170 đã hạ cánh theo kiểu “chiếc lá rơi” kết quả là phần bụng máy bay sẽ bị thiệt hại nhiều nhất, các phần còn lại không bị ảnh hưởng nhiều. Lý lẽ này được củng cố bởi truyền hình Iran đã che chắn phần bụng UAV bằng những khẩu hiệu chống Mỹ.

Ngày 13/12, chủ tịch Ủy ban Hạ nghị sĩ Mỹ Mike Rogers tuyên bố, máy bay do thám của Mỹ không bị bắt bởi lực lượng vũ trang Iran, ông nói “Tôi hài lòng trong trường hợp này không có thế lực bên ngoài đã ép máy bay Mỹ rơi xuống. Tôi sẽ nói một cách không do dự rằng, máy bay rơi hoàn toàn là do lỗi kỹ thuật”

Tuy nhiên, ông cảnh báo rằng, dù Iran không thể ép Sentinel hạ cánh nhưng Mỹ cần phải cảnh giác về các cuộc tấn công trong không gian điều khiển học tương lai, cả trong tác chiến điện tử lẫn chiến tranh mạng. “Bất cứ lúc nào các quốc gia có ý đồ xấu đối với Mỹ mà sở hữu các công nghệ tiên tiến của chúng tôi, đó là một ngày tồi tệ đối với Mỹ”.

Thứ Tư, 14 tháng 12, 2011

>> Iran, máy bay do thám và cuộc chiến tình báo



Tờ Foreign Policy (Mỹ) cho rằng việc mất một chiếc máy bay do thám vào tay Iran không đáng phải làm rùm beng lên như thế. Cũng như chiếc U-2 từng mất ở Liên Xô cách đây 60 năm, tờ báo này bình luận để có được các thông tin tình báo thuộc loại ưu tiên hàng đầu về Iran, Mỹ không tiếc gì chiếc RQ-170 Sentinel, thậm chí cả những chiếc máy bay đời tối tân hơn thế.

http://nghiadx.blogspot.com
Chiếc may bay do thám của Mỹ RQ-170 Sentinel rơi vào tay Iran

Đôi khi, tất cả những gì thuộc về các cuộc chiến tình báo lại thu hút sự quan tâm của rất nhiều người.
Vào ngày 1/5/1960, một máy bay do thám của Mỹ là U-2 đã bị tên lửa đất đối không SA-2 của Liên Xô hạ gục tại vùng Sverdlovsk. Sứ mệnh của chiếc U-2 (với mật danh là Chiến dịch Gland Slam) là ghi lại hình ảnh các khu vực tên lửa đạn đạo của Liên Xô để lấp khoảng trống thông tin về tên lửa vốn đang gây tranh cãi nảy lửa tại Washington lúc đó.

Mặc dù Grand Slam là máy bay có năng lực thâm nhập sâu thế hệ thứ 24 của Mỹ có mặt trên đất Liên Xô trong suốt 4 năm, và các nhà phân tích của cơ quan tình báo Mỹ là CIA đã được cảnh báo về những cải tiến trong hệ thống rađa phòng không và tên lửa của Liên Xô, cú liều đó của Mỹ cũng đáng đồng tiền bát gạo.

Ngoại trưởng Mỹ lúc đó là Christian Herter đã biện hộ với Tổng thống Dwight Eisenhower để thu hồi lại các máy bay U-2 như sau: "Các mục tiêu tình báo có giá trị còn hơn cả nguy cơ bị tóm".

Phải chăng lịch sử đang lặp lại? Mới đây, đài truyền hình Iran đã phát cảnh hai người đàn ông trong trang phục quân sự đang sờ vào chiếc máy bay cánh cụp mà hãng này cho rằng đó là chiếc máy bay không người lái RQ-170 Sentinel.

Một quan chức Mỹ giấu tên đã nói với "tin tưởng cao độ" rằng chiếc máy bay do thám trong clip đó chính là chiếc Sentinel đã mất tích khi thâm nhập vào lãnh thổ Iran. (Chỉ vài ngày trước đó, một quan chức cấp cao đã tuyên bố: 'Người Iran chỉ có một đống sắt vụn và họ đang cố tìm hiểu những gì mà họ có').

Một số quan chức khác đều đã biết rằng chiếc máy bay do thám đó là dưới sự kiểm soát của CIA trong một sứ mệnh thu thập thông tin tình báo trên đất Iran.

Một điều dễ hiểu là một sự việc xảy ra, cùng với dòng tiêu đề bao gồm các từ khóa như "Iran", "máy bay do thám", và "hạt nhân" lại thu hút sự quan tâm lớn đến thế. Tuy nhiên, với tất cả dung lượng trên máy tính cũng như mực in trên báo giấy nhằm thảo luận về việc hạ chiếc Sentinel, điều này chẳng có gì đáng ngạc nhiên cũng như nói lên điều gì đặc biệt.

Cũng đúng như những gì xảy ra năm 1960, cái giá của việc do thám Iran còn lớn hơn nhiều so với việc chương trình này đang bị bại lộ, hoặc chỉ là việc mất một chiếc máy bay không người lái. Và nó cũng là những gì mà người Mỹ đã phải nghĩ đến từ khoản chi 55 tỉ USD vào năm ngoái cho chương trình tình báo quốc gia. Để hiểu tại sao việc hạ chiếc máy bay này lại là một sự việc "thường thôi", cần phải hiểu rõ quy trình hàng ngày của Cộng đồng Tình báo Mỹ (IC).


http://nghiadx.blogspot.com
RQ-170 Sentinel

Đây là cách thức hoạt động của bộ máy. Các nhà hoạch định chính sách cấp cao đưa ra hướng dẫn nhiệm vụ cho IC thông qua Khuôn khổ các Ưu tiên Thông tin Tình báo (NIPF) - "một cơ chế độc lập để thiết lập các ưu tiên tình báo quốc gia", theo chỉ đạo của Văn phòng Giám đốc Tình báo Quốc gia (ODNI). NIPF phối hợp với ODNI, và cho ra kết quả trong một ma trận các ưu tiên thông tin tình báo của các nhà hoạch định chính sách dựa trên các chủ đề tập hợp từ các cuộc họp của Hội đồng An ninh Quốc gia và các cuộc thảo luận với quan chức nội các.
NIPF được cập nhật 6 tháng một lần và do tổng thống ký phê duyệt. Ma trận này bao gồm khoảng hơn 30 vấn đề lo ngại để thu thập thông tin, xếp theo dải hàng ngang, chạy từ mức A (quan trọng nhất) sang mức C (ít quan trọng nhất) với khoảng 180 quốc gia và các nhóm phi quốc gia liệt kê theo hàng dọc. Cuối cùng, ma trận này được ký hiệu bằng màu dựa trên mức độ ưu tiên hiện thời. Sau khi xếp hạng, ma trận này được chuyển ngữ sang chỉ dẫn đặc biệt từ DNI sang các nhà quản lý cấp cao của IC để định rõ vị trí thu thập thông tin và các nguồn lực phân tích.

Mặc dù NIPF được xếp vào hạng "hạn chế phổ biến", nhưng có lẽ là không còn mục tiêu thông tin tình báo nào có ưu tiên cao hơn chương trình hạt nhân của Iran, các khu vực tên lửa đạn đạo, và hệ thống phòng không.

Dựa trên những gì mà Sentinel thực thi trong sứ mệnh của CIA, chắc chắn là có các bản ghi nhớ của tổng thống về việc thông báo cho phép hợp thức hóa việc bí mật thu thập thông tin tình báo về Iran. Hơn nữa, nhất định là các ủy ban tình báo của Thượng và Hạ viện đều được báo cáo thường xuyên và rõ ràng về việc CIA sử dụng Sentinel để do thám Iran.

Kể từ khi Iran trở thành ưu tiên thu thập thông tin tình báo quan trọng bậc nhất, điều đó chỉ khiến Mỹ thấy cần phải đưa vào sử dụng các tiềm lực tân tiến nhất của mình, cũng như là lúc họ sử dụng máy bay do thám U-2 nửa thế kỷ trước. Các phương tiện thông tin đưa tin về việc Mỹ đã sử dụng rất nhiều loại máy bay do thám với các nhiệm vụ khác nhau tại Iran từ tháng 4/2004. Iran từng tưởng nhiều máy bay đó là các vật thể không xác định ngoài trái đất.

Năm sau đó, Iran đã phản đối các máy bay do thám của Mỹ thông qua kênh ngoại giao là Thụy Sĩ, và qua thư từ cho Hội đồng Bảo An Liên Hợp Quốc, yêu cầu "chấm dứt các hoạt động phi pháp đó". Bản thân máy bay do thám RQ-170 Sentinel đã chụp lại những bức hình sau đó được công bố vào năm 2007. Theo hãng tin AP, RQ-170 Sentinel đã bay trên khắp không phận Afghanistan qua Iran "trong nhiều năm". (Iran cũng cử máy bay do thám tới Mỹ để theo dõi các cơ sở quân sự, như đã chứng minh trong video về tàu USS Ronald Reagan).

Chiếc RQ-170 Sentinel chỉ là một trong số rất nhiều máy bay do thám tại Iran đã rơi vào tay của người Iran, và việc này phía Mỹ cũng đã lường trước. Một cựu quan chức Mỹ bình luận: "Việc liệu có mất một chiếc máy bay do thám không thành vấn đề, mà vấn đề là khi nào".

Có thể thấy RQ-170 Sentinel có bốn ưu tiên thu thập thông tin như sau: 1) Địa điểm và các hoạt động của các khu vực hạt nhân đã biết hoặc đang tình nghi; 2) Địa điểm và hoạt động của các cơ sở sản xuất tên lửa đạn đạo và các thử nghiệm tầm xa; 3) Địa điểm và các trại huấn luyện các nhóm tình nghi; 4) Địa điểm và đặc điểm công nghệ của hệ thống phòng không kết hợp của Iran.

Về việc chiếc RQ-170 Sentinel rơi vào tay Iran, Mỹ lo ngại nhất là khả năng Iran sẽ chuyển lại chiếc máy bay này cho các nước khác. Hãng thông tấn Mehr đưa tin rằng "các quan chức Nga và Trung Quốc đã ngỏ ý muốn kiểm tra chiếc máy bay do thám của Mỹ". Viễn cảnh này có vẻ gần giống như vụ việc trước đó. Năm 1998, có tin cho rằng các quan chức Trung Quốc đã có chuyến thăm tới Khost (Afghanistan) để mua tên lửa đầu đạn hạt nhân tầm thấp còn nguyên si của Mỹ là Tomahawk. Tên lửa này đã không phát nổ trong một cuộc tấn công vào hang ổ của trùm khủng bố Osama bin Laden.

Khi chiếc U-2 yểu mệnh bị hạ trên đất Liên Xô, chiếc A-12 OXCART tối tân hơn đã ra đời để thay thế, do đó, U-2 không phải là thiệt hại quá lớn. Tương tự vậy, mất chiếc Sentinel chỉ là một bước lùi tạm thời. Như tạp chí Aviation Week đưa tin, hệ thống cảm biến của Sentinel đã bị cho là lỗi thời. Một hệ thống cảm biến mạnh hơn sẽ được trang bị cho các phiên bản tân tiến hơn của RQ-170 Sentinel. Khi nào mà những chiếc máy bay do thám tân tiến đó không may rơi trên đất Iran hoặc các đối thủ khác, mọi người hẳn sẽ ngạc nhiên và cũng không cần thiết phải cảnh báo rùm beng như thế.

(Vietnamnet)

Thứ Tư, 27 tháng 7, 2011

>> Lực lượng Tác chiến điện tử của Hải quân Nga



Các hệ thống tác chiến điện tử của Nga được phát triển mạnh từ những năm 1980 và được coi là các tổ hợp đa chức năng và hiệu quả.


Các hệ thống tác chiến điện tử có thể nhanh chóng đánh giá tình trạng của sóng điện từ trên chiến trường, gây nhiễu sóng trinh sát của đối phương, cũng như các hệ thống kiểm soát vũ khí và binh lính.

Xuất phát từ vị trí và vài trò của tác chiến điện tử, Bộ Quốc phòng Nga đã xếp lực lượng này quan trọng ngang hàng với các ưu tiên chính trị quân sự hàng đầu.

Trong những năm gần đây, Nga không ngừng tăng cường sức mạnh cho lực lượng tác chiến điện tử, trong đó tích cực sử dụng lực lượng tác chiến điện tử của Hải quân để thu thập các tin túc tình báo, đồng thời nghiên cứu chế tạo, biên chế các chủng loại vũ khí, kỹ thuật mới cho lực lượng Hải quân nước này.



Bộ Quốc phòng Nga đã xếp Lực lượng Tác chiến điện tử của Hải quân Nga quan trọng ngang hàng với các ưu tiên chính trị quân sự hàng đầu.

Cụ thể, Hải quân Nga tích cực sử dụng các hệ thống vệ tinh để thu tập các thông tin tình báo tác chiến điện tử. Hải quân Nga hiện nay thu thập các thông tin tình báo điện tử chủ yếu thông qua hệ thống vệ tinh, máy bay và các tàu hoạt động trên biển. Trong đó, hệ thống vệ tinh tình báo của Nga rất phong phú và đa dạng.

Sau khi Liên Xô tan rã năm 1991, Nga tiếp quản khoảng 300 vệ tinh để thu thập thông tin, 96% là vệ tinh dùng cho quân sự, các vệ tinh tinh này không chỉ có lượng lớn mà còn đầy đủ các tính năng và chất lượng nổi trội.

Các vệ tinh tình báo của Nga bao gồm có vệ tinh giám sát trên biển; vệ tinh thăm dò radar và vệ tinh trinh sát vô tuyến điện. Ngoài ra, Nga còn sở hữu công nghệ không gian thuộc dạng hiện đại nhất thế giới.

Nhờ những loại kỹ thuận hiện đại, Hải quân Nga có thể nhanh chóng triển khai hệ thống các vệ tinh tình báo điện tử trên biển để thu được thông tin tình báo điện tử quan trọng, nhằm đề ra những đối sách phù hợp trong những trường hợp có sự có xảy ra trên biển và có khả năng kiểm soát và phá huỷ các vệ tinh tình báo của địch.

Bên cạnh đó, Nga còn sử dụng hàng trăm chiếc máy bay trinh sát tình báo các loại và hàng chục chiếc tàu thuyền làm nhiệm vụ thu thập các thông tin tình báo trên biển, đến các vùng biển tương ứng, để thu thập các thông tin tình báo điện tử của các quốc gia có liên quan.

Trong phương diện thu thập thông tin tình báo điện tử, Hải quân Nga đang tiếp tục thu thập hoạt động tình báo đối với một số nước như Mỹ, Nhật,…




Máy bay vận tải AN-12 được cải tiến thành AN-12PP được bố trí bộ phận gây nhiễu đánh lừa có thể che phủ ít nhất 05 tầng sóng ngắn.


Thứ nhất, được cải tiến từ các máy bay vận tại cỡ lớn, dùng để chi viện gây nhiễu máy bay, như máy bay vận tải AN-12 được cải tiến thành AN-12PP; máy móc gây nhiễu được bố trí với công suất lớn và khá phức tạp, bộ phận gây nhiễu đánh lừa có thể che phủ ít nhất 5 tầng sóng ngắn, gây nhiễu radar và hệ thống thông tin liên lạc của địch.

Thứ hai, được cải tiến từ các máy bay chiến đấu, có nhiệm vụ đi theo đội hình và gây nhiễu đối phương, như máy bay Tu-16pp “badger – J ”, Tu-22E, các máy bay mang theo các trang thiết bị tác chiến điện tử như SPS-1, SPS2 và máy bay gây nhiễu kiểu mới SPS-44 có khả năng nhiễu sóng ra đa của đối phương ở giải tần từ 0~20Ghz.

Máy bay “con mắt – E” trang bị tác chiến điện tử chủ yếu là gây nhiễu hệ thống trinh sát điện tử Fasol, hiện Hải quân Nga có 60 chiếc như vậy.




Trực thăng Ka-27 có khả năng chặn tín hiệu và gây nhiễu trang thiết bị điện tử của đối phương.



Thứ ba, các máy bay trực thăng được cải tiến thành máy bay trực thăng tác chiến điện tử như Mi - 8J, có khả năng gây nhiễu ra đa và gây nhiễu hệ thống thông tin. Ngoài ra, Hải quân Nga còn khoảng 60 trực thăng Ka-27 chủ yếu trên các chiến hạm, có khả năng chặn tín hiệu và gây nhiễu trang thiết bị điện tử của đối phương.

Hiện nay các trang thiết bị được bố trí trên các máy bay tác chiến điện tử của Nga đang có được những ưu thế riêng và nhiều đặc tính nổi trội mà các quốc gia khác không thể so kịp như các trang thiết bị thăm dò của Nga có bước sóng dài 2-3cm và nhiều hơn phân nửa các chùm sóng mà các nước phương Tây sử dụng; có độ chính xác cao, độ chính xác trong đo lường đạt 2-3 độ; có những trang thiết bị đã được phát triển đến tần số sóng cực thấp, có khả năng uy hiếp ra đa ở tần số 18 - 40Ghz.

Song nhược điểm của máy bay tác chiến của Hải quân Nga là không có đủ các linh kiện phần cứng điều khiển tiên tiến cho các trang thiết bị tác chiến điện tử.
Tên lửa chống bức xạ

Tên lửa chống bức xạ (ARM) là loại vũ khí tầm xa tấn công bằng điện tử có hiệu quả sát thương cao nhất, thường được sử dụng trong tấn công hệ thống C3I của kẻ địch nơi phát động chiến tranh, nó trực tiếp phá hủy các radar, hệ thống thông tin liên lạc và các trang thiết bị gây nhiễu của kẻ địch.




Tên lửa chống bức xạ (ARM).


Hiện Nga phát triển ARM đến thế hệ thứ 3; Hải quân Nga sở hữu nhiều thế hệ tiên tiến nhất của ARM như KH-3, đây là hệ thống đã được Nga dùng trong chiến tranh Vùng Vịnh, có khả năng vượt trội so với tên lửa chống xạ thế hệ thứ 3 của Mỹ.

Nga đã biên chế KH—31 cho tàu “Admiral Kuznetsov”; KH-31 là loại tên lửa có hệ thống dẫn đường, nó không chỉ tấn công ra đa loại AN – MPQ - 53 mà còn có thể tấn công máy bay cảnh báo sớm như E-3A của Mỹ và các nước hiện có.

Hệ thống radar chiến hạm thăm dò đối phương

Hải quân Nga hiện sử dụng khoảng 30 loại trang thiết bị radar dùng trên chiến hạm để thăm dò đối phương. Trong đó, thiết bị radar trinh sát Brick là một trong những loại thiết bị được trang bị cho tàu ngầm.

Nga trang bị một loạt các thiết bị radar trinh sát trứ danh Clock cho các chiến hạm và radar gây nhiễu Side Ball. Hiện nay, Hải quân Nga đang sử dụng thiết bị radar trinh sát mới như Flat Road, Glass, radar gây nhiễu Bottle.




Một hệ thống radar cơ động thăm dò.


Thiết bị trinh sát Glass áp dụng cho kỹ thuật trinh sát trên không. Theo đánh giá, thiết bị gây nhiễu Bottle có tính năng ngang bằng so với thiết bị AN/ SLQ-32 được sử dụng trên các chiến hạm Mỹ.

Trình độ kỹ thuật thiết bị radar dò tìm trên chiến hạm của Nga có trình độ ngang bằng với các quốc gia châu Âu như Anh, Pháp,... Bên cạnh đó, nhờ việc học hỏi các kỹ thuật tiên tiến của phương Tây, đẩy mạnh phát triển máy tính, kỹ thuật số và các thiết bị radar dò tìm gắn trên chiến hạm của Nga có thể xử lý nhanh chóng, phân đoạn tín hiệu, thống nhất hóa năng lực trinh sát và gây nhiễu, cải thiện và nâng cao trình độ các thiết bị, rút ngắn khoảng cách với Mỹ.

Thiết bị quang điện đối kháng trên chiến hạm

Nga là nước đi đầu thế giới về lĩnh vực kỹ thuật quang điện đối kháng, thậm chí Nga còn sở hữu kỹ thuật đối kháng tia laser. Ưu thế loại kỹ thuật này chủ yếu hưởng lợi từ việc ra sức mở rộng truyền hình quân sự, thiết bị thăm dò bám theo tia hồng ngoại và laser dưới thời Liên Xô cũ trong những năm 1970.

Đồng thời những năm 1980, đầu tư nghiên cứu chiến lược và áp dụng vũ khí kỹ thuật laser. Lúc đó, Liên Xô bố trí hai loại vũ khí tia laser phản vệ tinh trên mặt đất, dùng phá hủy quỹ đạo vận hành trinh sát của Mỹ trên địa cầu.

Ngày nay, Nga tiếp tục gấp rút phát triển kỹ thuật điện quang đối kháng, nghiên cứu đề xuất thiết bị điện quang ứng dụng cho Hải quân như máy gây nhiễu hồng ngoại L1668IA, đây là máy được trang bị cho máy bay trực thăng trên chiến hạm, có thể gây nhiễu như là tên lửa không đối không Sidewinder và Falcon, tên lửa đất đối không Red Eye, Small Oak và tên lửa không đối không của Pháp Mica, các thiết bị gây nhiễu hồng ngoại này có tuổi thọ là 1.200 giờ.

Việc sử dụng thiết bị quang điện đối kháng mới làm cho chủng loại và chất lượng thiết bị quang điện đối kháng trên chiến hạm Nga phát sinh biến hóa và hiệu quả lớn hơn.

Hải quân Nga không chỉ có chiến hạm bắn tia hồng ngoại và đạn laser mồi nhử tiên tiến mà sử dụng cả thiết bị gây nhiễu và hệ thống cảnh báo laser của các quốc gia phương Tây như máy gây nhiễu hồng ngoại TSHU-17 và máy cảnh báo laser Spektr-F.

Thiết bị gây nhiễu hồng ngoại TSHU-17 có hình thức điều chỉnh đa dạng, đồng thời có thể đối phó được các loại tên lửa uy hiếp trên biển. Máy cảnh báo laser Spektr-F có thể cảnh báo 4 mục tiêu nguy hiểm bên cạnh tàu chiến hạm, với độ lệch chính xác ± 5 độ nên đưa ra số liệu góc ngắm và phương vị của mối nguy hiểm

Thiết bị gây nhiễu thụ động

Thiết bị gây nhiễu thụ động trên chiến hạm chủ yếu do kiểu bắn từ pháo cối và đạn gây nhiễu mồi nhử kết hợp tạo thành. Thiết bị gây nhiễu thụ động trên chiến hạm của hải quân Nga tương đối hiện đại.

Hiện nay hình thành hàng loạt trang bị được gắn với các loại chiến hạm lớn, vừa và nhỏ. Trong đó, có hai ống bắn xoay tròn Pk-2, 16 ống bắn cố định Pk-16, 10 ống bắn cố định Pk-10.

Những thiết bị bắn này thông qua chỗ tiếp nối lắp ráp và ra-đa trên chiến hạm; các thiết bị cảnh báo trinh sát và hồng ngoại kết hợp với nhau, có thể căn cứ thuộc tính của mục tiêu uy hiếp, tự động lựa chọn bắn đạn mồi nhử thích hợp. Với các đạn mồi nhử, Hải quân Nga có đạn TSP-47, TSP-60U, SR-60; đạn hồng ngoại TST-47, TST-60U; đạn laser hỗn hợp/ hồng ngoại tiên tiến như SOM-50 và đạn tổng hợp như Sk 50.SOM-50 với đường kính 120ml, dài 12.26 li, trọng lượng 26kg.

Kích thước, trọng lượng SK-50 giống SOM-50. Các tính năng như diện tích phản xạ của đạn mồi nhử, phạm vi tỏa ra, thời gian trên không, cường độ bức xạ, thời gian bốc cháy của Nga tương đối bằng kỹ thuật các quốc gia phát triển phương Tây và phù hợp yêu cầu tác chiến hiện đại trên biển.

Thiết bị đối kháng âm thanh dưới nước

Kỹ thuật đối kháng âm thanh dưới nước của Nga khá hiện đại. Trong phương diện phá hủy âm thanh dưới nước của vũ khí từ xa, các loại vũ khí mới đại diện phương pháp phi âm thanh của Hải quân Nga về kỹ thuật thăm dò phản xô na và tính chủ động xô na có ngư lôi và thủy lôi, trong đó có các loại ngư lôi như ngư lôi siêu trọng phản chiến hạm DST-92, ngư lôi thả dù chống tàu ngầm APR-2E, ngư lôi hạng nặng chống tàu ngầm TEST-96 và ngư lôi USET-95; thủy lôi gồm có thủy lôi tự chìm SMDM, hệ thống thủy lôi chống tàu ngầm PMK-1 và thủy lôi kiểu tên lửa MSHM.

Trong số đó, ngư lôi hạng nặng DST-92 được áp dụng kỹ thuật tiên tiến phi âm thanh - thăm dò phản sonar, là loại ngư lôi tự động tấn công tàu hàng sân bay, các âm thanh mồi nhử và khí tài gây nhiễu trong nước có tác dụng hỗ trợ, trừ khi các thủy thủ được huấn luyện ứng phó bên ngoài, không thì cho đến nay chưa có biện pháp đối phó hiệu quả phương thức trên.

Trong phương diện chống nhiễu sóng âm dưới nước và gây nhiễu âm thanh, Hải quân Nga không chỉ áp dụng phổ biến cho các tàu ngầm nhằm đối phó khả năng thăm dò và làm suy yếu ngư lôi của đối phương, mà sử dụng nhiều đạn tạo khí để chống nhiễu sóng.




Hải quân Nga không chỉ áp dụng phổ biến các thiết bị gây nhiễu cho các tàu ngầm mà còn cho cả tàu chiến.


Ngoài ra, Hải quân Nga còn sử dụng số lượng lớn tàu điều khiển gây nhiễu tiếng ồn và tự động gây nhiễu suy giảm thiết bị thăm dò của đối phương. Hải quân Nga có đạn âm thanh mồi nhử GPD-3 sau khi được bắn, nó có thể thăm dò tối đa ở cự ly 250m với vận tốc 15 hải lý/giờ.

GPD-3 rất hiện đại bởi nó có tiếng ồn gây nhiễu, gây nhiễu chọn lựa và có 3 phương thức mô phỏng âm thanh vọng lại; chúng do máy phát tiếng ồn xô na lắp đặt hiệu ứng băng từ nam châm tạo thành, dùng để mô phỏng tín hiệu đặc trưng đường đi của tàu ngầm, GDP-3 là có hai cách bắn tự động và có điều khiển. Trong đó, bắn tự động là để gây nhiễu ngư lôi địch, bắn điều khiển do người bắn dùng để khống chế thời gian bắn và đối phó với thiết bị truyền cảm xô na của tàu chiến đối phương.

[BDV news]


Copyright 2012 Tin Tức Quân Sự - Blog tin tức Quân Sự Việt Nam
 
Lên đầu trang
Xuống cuối trang