Nếu như SM-3 là sự vươn tầm tác chiến ra ngoài bầu khí quyển, SM-6 chính là sự hoàn thiện cho năng lực tác chiến ở mọi góc độ, mọi cự ly của Mỹ.
>> Hồ sơ tên lửa Standard Missile (kỳ 1)
>> Hồ sơ tên lửa Standard Missile (kỳ 2) Đi tiên phong trong tất cả các lĩnh vực, đặc biệt là công nghệ quốc phòng luôn là ưu tiên hàng đầu của Mỹ. Bất chấp những khó khăn hiện tại về kinh tế, nước này vẫn không tiếc tiền trong việc đầu tư nghiên cứu phát triển các hệ thống vũ khí mới. Sự phát triển của tên lửa SM-3 chưa hoàn thiện song Mỹ đã bắt tay phát triển một thế hệ tên lửa đánh chặn mới để đối phó với mối đe dọa đến từ tên lửa chống hạm mới và máy bay bên trong bầu khí quyển. RIM-174 SM-6 Quá trình phát triển SM-3 đã mở ra khả năng đánh chặn ngoài tầng khí quyển, tuy nhiên, Mỹ cần một loại tên lửa mới để hóa giải những mối hiểm họa đến từ máy bay, UAV, tên lửa chống tàu, đặc biệt là các tên lửa chống tàu siêu âm hiện đại trong không gian. Đó là cơ sở cho sự ra đời của tên lửa SM-6 ERAM (Standard Extended Range Active Missile), mở rộng tiêu chuẩn hóa phạm vi hoạt động của tên lửa. Thực tế, tên lửa tiêu chuẩn SM-2 đang đảm đương nhiệm vụ hóa giải mối đe dọa từ máy bay, tên lửa chống tàu gặp nhiều hạn chế trong việc đối phó với những tên lửa chống tàu hiện đại. SM-2 không đủ tinh vi và cơ chế hoạt động của nó không đủ mạnh để hóa giải những mục tiêu nhanh nhẹn. Tên lửa SM-6 có hình dáng khí động học giống với tên lửa RIM-156B SM-2ER. Hải quân Mỹ đã xúc tiến chương trình phát triển ER-AAW (Extended Range- Anti-air Warface) hay còn gọi là mở rộng phạm vi chống tác chiến đường không. Kết quả của chương trình là sự ra đời của RIM-174 SM-6. Thực tế đây là một sự phát triển mở rộng tiếp theo của chương trình RIM-156B đã bị hủy bỏ trước đó. RIM-174 kết hợp tên lửa RIM-156B với radar chủ động của tên lửa không đối không AIM-120C-7AMRAAM. Việc bổ sung thêm radar chủ động giúp tên lửa đối phó hiệu quả hơn với những mục tiêu tốc độ cao ,vượt ra ngoài tầm chiếu xạ của radar điều khiển hỏa lực. Sự kết hợp tên lửa SM-2 với radar chủ động của AIM-120C, cùng với những nâng cấp trong công nghệ điều khiển mang lại năng lực tác chiến hoàn toàn mới. Với tên lửa SM-6 các tàu Aegis có thể tấn công các máy bay ở cự ly trên 300km, trước khi chúng có thể khởi động tên lửa chống tàu tấn công các tàu chiến của Mỹ. Cấu tạo cơ bản và cơ chế hoạt động Tên lửa SM-6 có cấu tạo khí động học giống với tên lửa SM-2 RIM-156B, sử dụng động cơ chính Mk-104 nhiên liệu rắn và động cơ đẩy phụ Mk-72 thuộc loại động cơ điều khiển vector lực đẩy, . SM-6 được trang bị radar chủ động tương tự như tên lửa không đối không AIM-120C-7, tuy nhiên radar của SM-6 có đường kính lớn hơn 342,9mm, so với 177,8mm của tên lửa AIM-120C-7. Tên lửa SM-6 được dẫn hướng thông qua 3 giai đoạn, giai đoạn đầu sau khi rời ống phóng Mk-41 bằng tầng đẩy phụ, tên lửa thiết lập các thông số liên lạc với tàu phóng, giai đoạn này tên lửa được dẫn hướng bằng quán tính. Sự ra đời của SM-6 đã hoàn thiện năng lực tác chiến ở mọi góc độ và mọi cự ly của Hải quân Mỹ (Ảnh minh họa) Giai đoạn thứ hai, tên lửa được dẫn hướng thông qua radar AN/SPY-1 của tàu Aegis, giai đoạn cuối tên lửa kích hoạt radar chủ động để tấn công mục tiêu. Tên lửa được trang bị đầu nổ phân mảnh Mk-125 cho phép đánh chặn hiệu quả các mục tiêu. SM-6 được thiết kế hoạt động theo nguyên tắc “bắn-quên”, cho phép tàu khu trục trang bị hệ thống Aegis tham chiến với nhiều mục tiêu cùng lúc. Ngoài ra, SM-6 cung cấp khả năng phòng thủ vượt ngoài giới hạn đường chân trời, radar chủ động cho phép tên lửa tiếp tục truy theo mục tiêu ngay cả khi mục tiêu đã vượt ra ngoài tầm chiếu xạ của radar điều khiển hỏa lực. Tên lửa SM-6 còn cung cấp khả năng chống tác chiến đường không cả trên biển lẫn trên đất liền. Ngoài ra, nó còn có khả năng cung cấp phòng thủ chống tên lửa đạn đạo tầm ngắn và tầm trung. Sản xuất Chương trình ERAM được giới thiệu vào năm 2004 và Raytheon đã nhận được hợp đồng kéo dài 7 năm để phát triển và chứng minh khả năng của chương trình. SM-6 có chuyến bay thử nghiệm đầu tiên vào cuối năm 2007. Tháng 5/2008, biến thể đầu tiên của SM-6 là RIM-174A đã đánh chặn thành công một máy bay không người lái. Raytheon đã nhận được hợp đồng trị giá 93 triệu USD để bắt đầu sản xuất quy mô thấp RIM-174A vào năm 2009. Tên lửa đạt được khả năng hoạt động ban đầu vào năm 2010, các tên lửa RIM-174A đầu tiên đã được giao hàng vào tháng 3/2011. Tháng 7/2010, Raytheon tiếp tục nhận được hợp đồng mới trị giá 368 triệu USD kéo dài trong 3 năm để tiếp tục sản xuất SM-6. SM-6 sẽ trở thành tên lửa tiêu chuẩn cho nhiệm vụ đối phó với mối đe dọa từ máy bay, UAV, tên lửa chống tàu của hệ thống Aegis, SM-6 cũng được dự định trang bị cho Hải quân Hoàng gia Australia. Thống số cơ bản: Dài 6,55 mét, sải cánh 1,57 mét, đường kính 340mm, 530mm với tầng đẩy phụ, trọng lượng 1500kg, tầm bắn trên 240km, tầm cao trên 33km, tốc độ Mach-3.5. Với 3 biến thể khác nhau, SM-2 tầm trung, SM-3 tầm cao và siêu cao, SM-6 tầm xa, Hải quân Mỹ đã xây dựng được một hệ thống phòng thủ chống máy bay, tên lửa chống hạm, tên lửa đạn đạo liên lục địa ở mọi góc độ và mọi cự ly. Điều đó cho phép Hải quân Mỹ tiếp tục duy trì thế thống trị trên mọi đại dương. |
Hiển thị các bài đăng có nhãn Tên lửa Standard Missile. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Tên lửa Standard Missile. Hiển thị tất cả bài đăng
Thứ Bảy, 10 tháng 3, 2012
>> Hồ sơ tên lửa Standard Missile (kỳ 3)
Thứ Năm, 8 tháng 12, 2011
>> Hồ sơ tên lửa Standard Missile (kỳ 2)
Nhằm hiện thực hóa cho chương trình phòng thủ tên lửa, SM-3 ra đời là nỗ lực để cụ thể hóa chương trình BMD của hệ thống chiến đấu Aegis. Để duy trì sức mạnh và lợi thế trước bất kỳ cuộc chiến nào, Mỹ nỗ lực xây dựng chương trình phòng thủ tên lửa xuyên quốc gia. Hệ thống chiến đấu Aegis chính là trái tim của chương trình phòng thủ tên lửa này. Các biến thể SM-2ER hiện tại không còn đáp ứng được kỳ vọng của chương trình BMD, nhà sản xuất Raytheon tiếp tục cho ra đời biến thể mới có tên gọi RIM-161 SM-3. SM-3 thực ra là một phát triển mở rộng tiếp theo của SM-2ER lô IV đã bị hủy bỏ trước đó. Về cơ bản SM-3 giống với SM-2ER lô IV. SM-3 sử dụng chung động cơ đẩy phụ Mk-72 như SM-2. Tuy nhiên, SM-3 được trang bị thêm một tầng đẩy thứ 3 Mk136, hay còn gọi là tầng đẩy tăng cường thay vì chỉ có 2 tầng đẩy như SM-2ER. Tầng đẩy tăng cường Mk136 được phát triển bởi công ty hàng không vũ trụ Alliant Techsystems Inc của Mỹ thường được gọi tắt là ATK. Tầng đẩy tăng cường giúp tên lửa SM-3 vượt ra ngoài tầng khí quyển. Cấu tạo của SM-3 bao gồm các thành phần sau, động cơ đẩy phụ kiểm soát lực đẩy vector Mk72, hệ thống lái, động cơ tên lửa nhiên liệu rắn lực đẩy kép Mk104, động cơ đẩy tăng cường Mk136, hệ thống đầu dò mục tiêu và cuối cùng là đầu đạn động năng KW. Cơ chế hoạt động Radar AN/SPY-1 của hệ thống chiến đấu Aegis sẽ phát hiện các mục tiêu tên lửa đạn đạo, hệ thống chiến đấu Aegis sẽ dựa vào các thông số cần thiết như, tốc độ của mục tiêu, quỹ đạo bay, nhằm tính toán một giải pháp đánh chặn. Đồ họa cơ chế tách tầng đẩy của tên lửa SM-3. Hệ thống sẽ kích hoạt tên lửa đánh chặn SM-3 để tiêu diệt mục tiêu, tên lửa SM-3 có tới 4 giai đoạn. Giai đoạn đầu tên lửa sẽ được đưa ra khỏi ống phóng Mk-41 bằng tầng đẩy phụ Mk72. Tên lửa thiết lập các thông số liên lạc với tàu Aegis. Giai đoạn này tên lửa được dẫn hướng bằng quán tính. Giai đoạn thứ 2 tên lửa tách bỏ tầng đẩy phụ Mk72 và kích hoạt động cơ tên lửa nhiên liệu rắn lực đẩy kép Mk104. Giai đoạn này tên lửa được dẫn hướng thông qua radar AN/SPY-1 của tàu phóng với sự hỗ trợ của hệ thống GPS. Giai đoạn thứ 3, tên lửa tách bỏ phần còn lại của động cơ đẩy và kích hoạt động cơ đẩy tăng cường Mk136. Động cơ đẩy tăng cường sẽ giúp tên lửa SM-3 vượt ra ngoài tầng khí quyển. Động cơ đẩy tăng cường Mk136 sẽ cung cấp lực đẩy cho tên lửa trong khoảng 30 giây trước khi tiếp cận mục tiêu. Giai đoạn thứ 4, tên lửa tách bỏ tầng đẩy tăng cường và kích hoạt hệ thống LEAP, một modun chuyên dụng để đánh chặn tên lửa bên ngoài bầu khí quyển. LEAP bao gồm một đầu đạn không thuốc nổ, được thiết kế với công nghệ “hit-to-kill” truy đuổi và tiêu diệt. Module đánh chặn chuyên dụng bên ngoài không gian LEAP. LEAP sẽ tự động tìm kiếm mục tiêu thông qua các dữ liệu được hệ thống Aegis của tàu phóng cung cấp. Để làm được điều này, LEAP sử dụng một cảm biến hồng ngoại FWIR cùng radar bán chủ động để xác định mục tiêu. LEAP được trang bị một đầu đạn Kinetic Warhead (KW) thuộc dạng đầu đạn động năng (dùng động lực để phá hủy mục tiêu thay vì sức nổ). Theo tính toán, động năng của vụ va chạm có thể đạt 130 Jun, tương đương với 31kg TNT. LEAP được ứng dụng các thuật toán so sánh tiên tiến, cho phép nó xác định mục tiêu của nó là đầu đạn tên lửa hay mảnh vụn tách ra từ tên lửa mục tiêu. SM-3 đã chứng minh khả năng phân biệt mục tiêu trong mớ hỗn độn này. Sự kết hợp của hệ thống cảm biến hồng ngoại FWIR và hệ thống radar AN/SPY1 của hệ thống Aegis đã nâng cao khả năng nhận biết mục tiêu của tên lửa SM-3. Các biến thể Tên lửa RIM-161A thử nghiệm lần đầu tiên vào tháng 9/1999, thử nghiệm tiếp theo diễn ra vào tháng 1/2000. Các thử nghiệm được đánh giá là thành công, việc kiểm soát tên lửa được thực hiện cho đến giai đoạn thứ 4 khi đầu đạn động năng được tách ra. Tuy nhiên, sự phát triển của SM-3 không hoàn toàn suôn sẻ, khả năng hứng chịu ứng suất trọng trường của tên lửa không tốt khi tên lửa đạt tốc độ 9600km/h. Các thử nghiệm nhiều lần bị trì hoãn, nhưng cuối cùng tên lửa cũng thử nghiệm thành công vào ngày 24/2/2005. Các biến thể đã và đang được sản xuất của tên lửa SM-3. Đến giữa năm 2006, các thử nghiệm tiếp theo diễn ra khá thành công, tên lửa SM-3 đã đánh chặn thành công mục tiêu giả định vào ngày 22/6/2006. Biến thể nâng cấp RIM-161B block IA được giới thiệu vào năm 2008, bao gồm cải tiến động cơ tên lửa, nâng cấp phần mềm điều khiển. Biến thể RIM-161C được giới thiệu vào năm 2009, với những cải tiến quan trọng như, cảm biến hồng ngoại FWIR hai màu sắc, hệ thống kiểm soát mới, hệ thống xữ lý tín hiệu tiên tiến. RIM-161D block II được giới thiệu vào năm 2010, bao gồm trang bị đầu đạn KW tốc độ cao, phần khí động học của tên lửa cũng được thiết kế lại. Đường kính của tên lửa lớn hơn 530mm so với 340mm của SM-3 block IA, vây ổn định và vây lái ngắn hơn, vây ổn định nằm sát xuống phía dưới của động cơ tên lửa chính thay vì nằm chính giữa động cơ như biến thể SM-3 block IA. Sự phát triển của SM-3 block IB và block II có sự tham gia của đối tác Nhật Bản, tên lửa được dự định hoàn thiện trong giai đoạn 2010-2012. Biến thể SM-3 block IIA được dự định hoàn thiện trong giai đoạn 2012-2014. SM-3 block IIB bao gồm một đầu đạn KW lớn hơn, cải thiện chế độ điều khiển đầu đạn ở tốc độ siêu thanh. Thông số kỹ thuật: Dài 6,55 m, đường kính 340mm với SM-3 block IA, 530mm với block IB/II/IIA/IIB, sải cánh 1,57 m với block IA, sải cánh của block IB/II/IIA/IIB chưa được công bố. Trọng lượng của tên lửa SM-3 vẫn chưa được công bố, SM-3 có tầm bắn lên đến 500km, tầm cao tối đa lên đến 160km, tốc độ tối đa của tên lửa khoảng 9600km/h, SM-3 được thiết kế để đánh chặn tên lửa đạn đạo liên lục địa có tầm bắn tới 12000 km. Ngoài nhiệm vụ chính là đánh chặn tên lửa đạn đạo liên lục địa, SM-3 có thể được sử dụng cho mục đích chống vệ tinh. Tên lửa SM-3 block IIA/IIB được dự định sẽ trở thành tên lửa tiêu chuẩn của hệ thống phòng thủ tên lửa đạn đạo xuyên quốc gia BMD và tương thích với chương trình phát triển hệ thống chiến đấu Aegis 4.01. SM-3 được xem là tên lửa đánh chặn hàng đầu thế giới hiện nay, xét về tầm bắn, các công nghệ được áp dụng khó có loại tên lửa nào trên thế giới có thể so sánh. Tuy nhiên, Mỹ vẫn chưa muốn dừng lại, tham vọng của họ là rất lớn, SM-3 chưa hoàn thiện hết các phiên bản, Mỹ đã bắt đầu rục rịch phát triển tiếp biến thể tiếp theo là RIM-174 hay còn gọi là SM-6ERAM. |
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)
Chuyên mục Quân Sự
Hải quân Trung Quốc
(263)
Hải quân Mỹ
(174)
Hải quân Việt Nam
(171)
Hải quân Nga
(113)
Không quân Mỹ
(94)
Phân tích quân sự
(91)
Không quân Nga
(83)
Hải quân Ấn Độ
(54)
Không quân Trung Quốc
(53)
Xung đột biển Đông
(50)
Không quân Việt Nam
(44)
tàu ngầm
(42)
Hải quân Nhật
(33)
Không quân Ấn Độ
(16)
Tàu ngầm hạt nhân
(15)
Hải quân Singapore
(12)
Xung đột Iran - Israel
(12)
Không quân Đài Loan
(9)
Siêu tên lửa
(8)
Quy tắc ứng xử ở Biển Đông
(7)
Tranh chấp biển Đông
(7)
Xung đột Trung - Mỹ
(4)
Xung đột Việt-Trung
(2)