Tin Quân Sự - Blog tin tức Quân sự Việt Nam: Điệp viên Liên Xô

Paracel Islands & Spratly Islands Belong to Viet Nam !

Quần Đảo Hoàng Sa - Quần Đảo Trường Sa Thuộc Về Việt Nam !

Hiển thị các bài đăng có nhãn Điệp viên Liên Xô. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Điệp viên Liên Xô. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Sáu, 2 tháng 9, 2011

>> Hồ sơ điệp viên nguyên tử (kỳ 2)



Cả nhân loại vẫn còn sống trong kinh hoàng của vụ nổ nguyên tử ở hai thành phố Nhật Bản, mặc dù bóng ma chiến tranh đã lùi xa,...

>> Hồ sơ điệp viên nguyên tử (kỳ 1)

... nhưng dư âm của hai vụ nổ cứ lởn vởn mãi trong tâm niệm những người đương thời.

Vì sau hai vụ nổ đó, thế giới bùng lên những cuộc tranh chấp bất đồng quan điểm - những quan điểm không dung hòa nằm ngay trong lòng nước Mỹ, quốc gia sử dụng bom nguyên tử đầu tiên. Cuộc tranh luận về lương tâm nhà khoa học cũn mạnh mẽ hơn nhiều: ai đúng, ai sai?

Một số cá nhân và tổ chức chỉ trích việc ném bom, nhiều người trong số họ cho rằng đó là tội ác chiến tranh hoặc tội ác chống lại loài người. Hai nhân vật tiêu biểu là Albert Einstein vĩ đại và Leo Szilard,- nhà vật lý người Hungary,- họ là những người trước đó đã cùng ký tên vào bức thư gửi Tổng thống Roosevelt, cổ vũ công việc nghiên cứu, phát triển bom nguyên tử năm 1939. Leo Szilard, - người đó tham gia tích cực trong Dự án Manhattan, - lý luận để bảo vệ quan điểm lạm dụng bom nguyên tử nhằm phô trương sức mạnh. Ông nói:

"Hãy để tôi đề cập chủ yếu về vấn đều đạo đức: Giả sử nước Đức phát triển thành công hai quả bom nguyên tử trước chúng ta. Và giả sử nước Đức thả hai qua bom đó, ví dụ, xuống Rochester và Buffalo (hai quận nhỏ ở tiểu bang New York, Hoa Kỳ), rồi sau đó họ bại trận. Liệu có ai băn khoăn không khi chúng ta cho đó là tội ác chiến tranh và sẽ kết tội người Đức về hành vi đó trước rồi treo cổ họ?"

Một số nhà khoa học làm việc cho Dự ỏn Nguyên tử cùng cùng quan điểm với Einstein và Szilard chống lại việc sử dụng bom để hủy diệt. Bảy nhà khoa học, đứng đầu là Tiến sĩ James Franck, đệ trình một bản báo cáo lên Ủy ban Nội chính của Tổng thống Truman tháng 5/1945, rằng: "Nếu Hoa Kỳ là quốc gia đầu tiên sử dụng những vũ khí hủy diệt bừa bãi này, nó sẽ đánh mất sự ủng hộ của công chúng trên toàn thế giới, khích động chạy đua vũ trang và ngăn cản khả năng đạt được thỏa thuận quốc tế về kiểm soát loại vũ khí này trong tương lai."

Cũng Lise Meitner,- “Bà mẹ đẻ ra trái bom nguyên tử” về mặt nguyên lý,- đó không nói lên một lời nào khi các phóng viên đến phỏng vấn, và bà là nhà bác học duy nhất ở phe Đồng minh thuộc các quốc gia châu Âu đó từ chối tham gia Dự án Nguyên tử Mỹ.

“Enola Gay” và vụ nổ nguyên tử

Trên hòn đảo nhỏ Tinian nằm ở phía tây Thái Bình Dương chiếc máy bay ném bom B-29 có tên gọi là “Enola Gay” - gọi theo tên bà mẹ của viên phi công người Mỹ- đang gầm rú trên đường băng của sân bay phía bắc. Chiếc máy bay bốn động cơ nhanh chóng rời khỏi đường bay và bắt đầu lao vút lên cao ẩn mình vào bầu trời đêm. Lần này thay thế vào những trái bom bình thường nó chỉ chở theo mình mỗi một trái bom uranium với trọng lượng là 4.090kg và được các nhà chế tạo đặt tên là “Chú bé’(“Little boy”). Nhưng nó chẳng hề bé một chút gì, nó là sự công khai mở đầu của một kỷ nguyên mới của nhân loại: kỷ nguyên nguyên tử.

Đó là ngày 6/8/1945, lúc 2 giờ 45 phút đêm và chiếc máy bay lên đường thực hiện nhiệm vụ mà người phi công và phi hành đoàn đã chuẩn bị hơn một năm trời dòng dã. Chiếc “Enola Gay” còn được hai chiếc máy bay B-29 khác hộ tống.

Chiếc B-29 "The Great Artist" (Nghệ sĩ vĩ đại) mang theo những máy ghi địa chấn, còn chiếc kia, sau đó được đặt là "Necessary Evil" (Điều miễn cưỡng) chở theo máy quay phim và máy ảnh, tất cả cùng nhằm về phía bắc Nhật Bản. tiếng còi báo động vang lên, nhưng người ta cho rằng đây là một cuộc do thám chứ không phải cú đột kích bằng không quân.

Trên độ cao 1.430 mét, đại úy William S. Parson, người chịu trách nhiệm về trái bom thận trọng bò vào khoang chứa bom để đưa trái bom vào đúng vị trí dành riêng cho “Chú bé” (“Little boy”). Giả sử như trong khi cất cánh chiếc máy bay có trái bom nguyên tử gặp nạn, thì cả nửa hòn đảo Tinian sẽ bay lên không trung.

Sau một ít phút, đại tá Pol W.Tibets, quay người lại nói với phi hành đoàn gồm 11 người: “Chuyến bay của chúng ta sẽ đi vào lịch sử, vậy các bạn nên để ý đến lời ăn tiếng nói của mình. Chúng ta đang bay cùng với trái bom nguyên tử đầu tiên”. Sau đó, Tibets điều khiển cho máy bay lên độ cao 2.800 mét và tiếp tục bay như vậy cho đến gần không phận Nhật Bản.

Lúc 7giờ 25 phút, chiếc Enola Gay nhận được thông tin đã mã hóa báo về thời tiết do chiếc máy bay chuyên dụng thông tin, nó bay ở phía trước, vừa để thám không về điều kiện thời tiết các thành phố Nhật Bản, vừa làm nhiệm vụ hộ tống. Bầu trời Hiroshima rất trong sáng. Sau đó đại tá cho máy bay vươn tới độ cao 9.630 mét và nhằm thẳng hướng về Hiroshima.

Đó mới là lúc sáng sớm, nên ít người chú ý đến tiếng ồn của những chiếc máy bay đang bay ngang qua: dân chúng của thành phố cảng đã quá quen với những chuyến bay thường xuyên của các máy bay thám không Hoa Kỳ. Vào lúc 8 giờ 06 phút, người ta nhận ra ba chiếc máy bay B-29, thì những tín hiệu báo động vang lên rất muộn.

Trên bầu trời trong sáng, khi đã im bặt tiếng pháo cao xạ, chiếc Enola Gay đã bay đến gần Hiroshima. Lúc 8 giờ 15 phút, trong tầm nhìn của viên sĩ quan phụ trách việc ném bom, thiếu tá Thomas W.Fereby nhìn thấy rõ cây cầu Aioi bắc ngang qua dòng Ota.

Đúng 17 giây sau Fereby bấm nút cho trái bom nguyên tử rơi. Cũng ngay lúc đó chiếc B-29 “Necessary Evil” cho tung ra 3 chiếc dù ghi chấn động bởi vì cần ghi lại thứ tự của quá trình nổ nguyên tử. Sau khi được giải phóng khỏi 4 tấn trọng lượng mang theo, chiếc Enola Gay lao vút ngay lên độ cao và Tibets nhanh chóng quay ngoặt thân máy bay đến 1550 sang bên phải, hơi hạ thấp độ cao hơn đôi chút - chính điều này ông vẫn thường hay thực hiện khi bay tập, cốt tránh thoát khỏi vùng chết khi có tiếng nổ.

Tiếng nổ của “Chú bé” vang lên tới độ cao 565 mét trên bầu trời của thành phố này. Trái bom nguyên tử đầu tiên gieo rắc cái chết tạo ra một tiếng nổ kèm theo ánh sáng chói lòa màu xanh lam nhạt, hàng ngàn người chỉ trong một giây lát đã biến thành khí, bởi vì nhiệt độ tại điểm nổ lên tới 9.0000 C. Tiếng nổ mạnh đến nỗi một số thi thể chỉ còn là hình bóng hiện lên tường như những vết cháy xém trên những khối bê tông. Còn các nạn nhân khác, cách xa trung tâm tiếng nổ nguyên tử đến 3 km cũng bị bỏng nặng.

Một nhân chứng còn giữ được mạng sống đến năm 2010, thọ 93 tuổi, là ông già Tsutomu Yamaguchi, người vô tình đã chịu đựng cả hai quả bom thả xuống Hiroshima và Nagasaki kể lại nỗi khủng khiếp kinh hoàng đó:

“Tôi thấy tiếng máy bay kêu trên đầu khi nó lượn vòng, tôi nghĩ chả có chuyện gì xảy ra cả, vì Hiroshima là một cơ sở công nghiệp quan trọng thời chiến, mọi người đã quá quen với tiếng ầm ì của máy bay trên đầu rồi. Nhưng chỉ vài giây sau tôi bị ngã sấp xuống vì tiếng nổ kinh hoàng, chói lòa của trái bom, mà sau này tôi được biết là bom “ Chú bé”.

Hai ngày sau, ngày 8 tháng 8 năm 1945, sau khi sống sót do cách trung tâm nổ của trái bom đầu tiên khoảng 3km, ông Tsutomu Yamaguchi trở về thành phố Nagasaki nơi mình ở và làm việc cho hãng Mishubishi. Khi đang kể lại cho sếp của mình là đã thoát chết ở Hiroshima như thế nào, ông lại chứng kiến ánh chớp chói loà như vậy sáng rực cả căn phòng làm việc, lúc ấy ông chỉ thấy thoáng trong đầu: “Tôi nghĩ là đám mây hình nấm đó đã bay theo tôi từ Hiroshima về đây”.

Ông lại thoát chết một lần nữa vì cũng ở cách trung tâm vụ nổ 3 km!

Ngoài ra, tiếng sóng của khí nổ cũng tạo ra một luồng gió thổi với tốc độ tương đương 800km/ giờ và nó cuốn đi tất cả những gì có trên bề mặt trong vòng bán kính 3 km. Có những số liệu khác nhau về số người thiệt mạng: họ cho rằng trong thời gian chết ngay tại chỗ vì cháy bỏng và vì những tiếng nổ như những đợt sóng liên tục đã làm ít nhất 78.000 người bị thiệt mạng.

Cả thành phố sôi lên sùng sục như một trận cuồng phong lửa hoành hành. Tất cả những tòa nhà trên một diện tích 13km2 đều bị hủy diệt. Ngoài ra, khi bom nổ đã tạo ra một đám mây hình nấm gồm những mảnh vỡ và khói bụi bay cao tới 15km. Đại tá Tibets nhìn đám mây từ độ cao 10.000 mét và đã mô tả như sau:” Đám mây liên tục chuyển động sang phía bên phải, trong đám mây đó mọi thứ đều ngùn ngụt cuộn lên và xoáy tít như chong chóng. Bề mặt của nó màu đen và cuồn cuộn xoáy như một chiếc chảo đang sôi…

Những đám bụi màu đen bắt đầu rơi xuống thành phố: nó mang theo những hạt bụi phóng xạ mà sau này người ta đã xác định được là các hạt bụi này còn cuốn đi hàng bao nhiêu sinh mạng nữa. Theo những con số thống kê của Nhật Bản vào năm 1968 thì số thiệt hại là 250.000 người dân Hiroshima đã chết ngay tại chỗ có tiếng nổ hoặc vì tia phóng xạ có liên quan đến những bệnh tật gây chết người xảy ra trong vòng 5 năm kế tiếp…

Chiếc Enola Gay an toàn bay trở về căn cứ trên đảo Tinian, nhưng toàn thể phi hành đoàn đều nhìn lại phía sau, thấy rõ hình đám mây độc do tiếng nổ gây ra mà họ là những người “tạo hình” khi đã cách Hiroshima đến 580km.

Đoạn trích dưới đây là lời kể của bà Kikue Miyamoto sống tại thành phố Kita-Kyushu. Hai trong số 3 người con của bà đó qua đời do hậu quả của chất phóng xạ nguyên tử ở Hiroshoma. Bà Kikue Miyamoto nói:

“Tháng 8 năm ấy - 1945 - tôi bước vào tuổi 20 và đó lập gia đình. Tôi về thăm mẹ đang sống với người em gái tại thành phố Hiroshima. Chúng tôi ở với mẹ đó tới ngày thứ sáu. Sáng hôm đó, còi báo động gióng lên inh ỏi. Tôi nghe tiếng phi cơ bay ầm ĩ trên trời. Tôi cứ ngỡ đó là chiếc B-29. Vào đúng lúc mẹ tôi đi vào nhà vệ sinh, tôi nghe một tiếng nổ chát chúa như thể một luồng chớp sột xuyờn qua, rồi thì, tất cả bên trong nhà trở nên trắng xóa. Phản ứng đầu tiên của tôi là ôm chặt đứa con gái nhỏ trong vòng tay. Chúng tôi bị hất bổng lên cao rồi rơi nằm bẹp dưới đất. Đang cố gắng đứng lên, tôi bỗng nhận ra là căn nhà của chúng tôi đó sụp đổ. Tôi tự nhủ: “Mình tiêu rồi!” Xong, tôi lịm đi không hay biết gì nữa.

Chính tiếng kêu của đứa con đó làm tôi tỉnh lại. Chúng tôi bị kẹt dưới cây đá bê tông bẹp trên sàn nhà. May mắn thay có chút lỗ hổng, nên có thể thở được. Tôi nghĩ rằng mình không thể nào thoát ra được. Nhưng khi gặp hoạn nạn, đôi lúc người ta tìm thấy một sinh lực khác thường.

Sau khi làm đủ mọi cách, tôi đó thoát ra được. Có một giọng đàn bà kêu tên đứa em gái tôi mấy lần. Đó là mẹ tôi. Tiếng nói là của mẹ. Nhưng khuôn mặt mẹ biến dạng đến nỗi tôi hỏi: “Có phải mẹ đó không?”. Mẹ tôi đáp: “ Chao ôi, con không nhận ra mẹ con nữa sao?”. Em gái tôi đen như dầu hắc ín. Em đứng đó, máu me chảy ra từ khuôn mặt và đôi tay. Cả bốn mẹ con chúng tôi tạm ẩn náu nơi một rạch sông đó cạn.

Dân chúng bắt đầu chạy thoát khỏi thành phố, nơi các ngọn lửa bốc cháy mù mịt. Mọi người hốt hoảng không biết chạy về đâu. Sau cùng, chúng tôi cũng theo đoàn người tỵ nạn chạy xuống gầm cầu. Nơi đây đó cú một đám đông người bị thương đang ngồi la liệt. Vào chính lúc ấy, thành phố bỗng trở nên tối om. Đêm đen như đổ ập xuống và một cơn mưa đen bắt đầu rơi.

Một người đàn bà ôm trong tay một cái gói gì đó phủ đầy máu. Tôi hỏi thì bà cho biết là nhà bà bị sập. Bà thoát được nhưng đứa con nhỏ của bà bị kẹt lại. Thấy lửa bốc cháy, bà tìm mọi cách để kéo con ra. Bà kéo mạnh đến nỗi đứa bé chỉ còn lại một thân thể rách nát, nhầy nhụa. Con bà đó chết. Nhưng bị thất thần vỡ quỏ đau đớn, bà vẫn tiếp tục ôm con vào lũng và đong đưa như ru con ngủ.

Một cảnh tượng kinh hoàng đang diễn ra trước mắt. Những người bị thương lộ ra một thân thể chương phềnh lên, khiến da bị nứt ra để lộ thịt bị cháy đỏ, giống như củ khoai bị nướng. Họ tìm ra bờ sông và dầm mình xuống nước. Ban chiều, tôi nghe tiếng một người đàn bà kêu than, lập đi lập lại: “Cho tôi nước! Xin làm ơn cho tôi uống nước!”. Đó là lời duy nhất bà có thể nói. Bà này cũng đó mất trí vì quá đau đớn và kinh hoàng. Tất cả những người bị phỏng nặng và như bị thiêu cháy sống cũng chỉ lập đi lập lại một câu nói duy nhất: “Cho tôi nước! Xin làm ơn cho tôi uống nước!”

Trời tháng 8 nóng như thiêu như đốt. Các vết thương mưng mủ và sinh giòi bọ nhanh chóng. Nhiều người bị thương nằm la liệt nơi các chòi được dựng lên cấp cứu, đều bị giòi ăn, trong số đó cũng có mẹ tôi. Riêng tôi và đứa con gái nhỏ 8 tháng cũng bị thương nhưng kém trầm trọng hơn những người khác.

Một thời gian ngắn sau đó, hai mẹ con tôi trở về nhà ở thành phố Kita-Kyushu. Tôi bị nằm liệt giường trong vũng một năm trời. Đứa con gái nhỏ của tôi qua đời 5 năm sau đó. Tôi cho ra chào đời hai đứa con trai nữa. Nhưng đứa con trai đầu lũng qua đời năm lên 4 tuổi vỡ bị tàn tật. Chỉ cú đứa trai út cũng sống đến ngày hôm nay.”

Thứ Bảy, 27 tháng 8, 2011

>> Hồ sơ điệp viên nguyên tử (kỳ 1)



"Khi năng lượng không thể giải phóng ra ngoài được thì nó không thể quan sát được”. (Albert Einstein)

Tháng 8/2011 đánh dấu kỷ niệm 66 năm lần đầu tiên năng lượng nguyên tử phục vụ mục tiêu bá quyền giương vuốt tử thần đe dọa nền văn minh nhân loại, đồng thời mở ra sau đó cuộc chạy đua không ngừng vừa để chinh phục thế giới hạt nhân bí ẩn, cũng là để kiềm chế nguồn năng lượng này không gây thêm tội ác.

Hành trình ấy có sự tác động không nhỏ của các điệp viên, mà mỗi người trong họ đều để lại những số phận và bài học đáng suy ngẫm. Để tưởng nhớ công lao cũng những con người này, nhóm biên soạn sách Lương Thế Vinh đã dựa theo các tài liệu bằng tiếng Việt, Anh, Nga đã được xuất bản ở một số quốc gia trên thế giới cho ra đời cuốn truyện "Băng qua chiến tuyến", được NXB Thời đại phát hành năm 2011.

Đất Việt xin trích đăng một số chương trong cuốn sách này, ngõ hầu giúp độc giả thêm thông tin về một cuộc đua âm thầm nhưng không kém phần li kỳ và khốc liệt từng diễn ra trong lịch sử nhân loại nửa cuối thế kỷ 20.

Dưới đây là nội dung chính trong cuốn sách:

Alex không đến chỗ hẹn

Buổi tối ngày 6/9/1945, một cuộc tiếp tân ngoại giao đã diễn ra trong dinh của Cao ủy Anh ở Canada. Buổi đại lễ được tổ chức nhân dịp Chiến tranh Thế giới lần thứ II kết thúc. Sau khi Nhật Bản ký hiệp ước đầu hàng lực lượng Đồng minh vô điều kiện, thế giới chuẩn bị thở phào nhẹ nhõm.

Đại diện chính thức của Nữ hoàng Anh, ông M.McDonald, trong bộ lễ phục được viền bằng chỉ vàng, đích thân ra đón những khách mời danh tiếng - những chính trị gia quan trọng, những Bộ trưởng của Chính phủ Canada, những doanh nhân cỡ bự. Hôm đó trời rất nóng nực và ở Ottawa thực sự ngột ngạt…

Thủ tướng Canada McKendi King cũng đến dự cuộc lễ tân đó. Theo sau ông là người đứng đầu các phái đoàn đại diện ngoại giao. Họ cứ lục tục kéo đến. Những nụ cười, những cái bắt tay, những vòng hạt xoàn kim cương long lanh trên cổ các vị đại sứ phu nhân khiến dinh thự chính thức của Cao ủy Anh quốc tràn đầy thứ ánh sáng lấp lánh của vẻ sang trọng và đầy đủ. Khó ai có thể tưởng tượng được khói thuốc súng vừa tan qua được ít thời gian trên toàn cầu.

Đúng một tháng trước, người Mỹ đã thả quả bom nguyên tử đầu tiên xuống thành phố Nhật Bản Hiroshima. Hơn hai trăm năm mươi nghìn người dân - gần tương đương với số dân sống ở Ottawa thời điểm đó- đã thiệt mạng mà không hay biết gì cả, (số người chết ngay sau khi bom nổ là 140.000); một số khá lớn người thiệt mạng đã không toàn thây, rất nhiều người trong số đó đã trở thành cát bụi thậm chí chỉ là làn khói trắng, xam xám gì đó, sau tiếng nổ nguyên tử khủng khiếp…. Nhưng lúc này đây chẳng mấy ai nhớ tới tấn thảm kịch lớn nhất của nhân loại ở thế kỷ XX. Mọi người đang say sưa qua ly rượu chiến thắng…

Cùng với các nhà ngoại giao khác, vị đại sứ Liên Xô Georgi Zarubin cùng với phu nhân, một phụ nữ tóc đen xinh đẹp cũng đến dự. Cạnh Zarubin là Bí thư thứ nhất Đại sứ quán Vitali Papov, người sử dụng tiếng Anh rất thạo và thực hiện nhiệm vụ phiên dịch riêng cho ngài Đạị sứ trong các hoạt động ngoại giao quan trọng.

Như mọi khi trong các dịp như vậy, các trưởng Phái đoàn đại diện lần lượt đến bên Ngài Cao ủy, cảm ơn vì lời mời, tán dương nhau thoải mái. Mac Donald đã dành cho mỗi nhà ngoại giao vài chục giây.

Khi đến lượt Đại sứ Liên Xô Zarubin, biết Ngài Cao ủy say sưa tiêu khiển với các chú chim hót, ông đã bất ngờ quan tâm:

- Liệu có chim non nào hôm qua đã thì thầm tiết lộ thông tin mật cho Ngài không?

Như mọi khi Ngài Cao ủy niềm nở trả lời phủ định câu hỏi của vị Đại sứ Liên Xô, và hỏi lại:

- Thế còn Ngài, thưa Ngài Đại sứ, Ngài có được may mắn trong buổi câu cá hôm qua không?

Zarubin cũng trả lời phủ định. Ông có vẻ mệt mỏi, nên không đi câu cá. Ông không còn tâm trạng nào để câu.

Đêm mùng 5, rạng ngày 6/9, mới vỡ lẽ ra rằng trong cơ quan Tùy viên Quân sự, nhân viên mật mã Igor Guzenko đã mất tích. Không ai biết anh ta đang ở đâu.

Nếu một mình anh ta mất tích, ông Đại sứ có thể giả thiết rằng tai nạn xảy ra và nhân viên cơ quan Tùy viên này sẽ được tìm thấy, còn sống hoặc đã chết, nhưng Guzenko biến mất cùng gia đình - người vợ đang có bầu và đứa con trai nhỏ.

Điều đó chứng tỏ anh ta đã đào tẩu sang phía đối phương - phía Canada. Ông Đại sứ được biết trong cơ quan Tùy viên, một số tài liệu mật cũng biến mất. Chỉ có kẻ đào tẩu mới lấy chúng đi.

Việc đào tẩu của một nhân viên mật mã là một tổn thất lớn đối với Đoàn Ngoại giao Liên Xô ở Canada. Guzenko biết rất nhiều. Giống như vết cắn của một con rắn độc, vụ đào tẩu của hắn có thể mang lại tổn thất nghiêm trọng cho một số ngành của Tình báo Quân sự.

Chẳng bao nữa con rắn độc sẽ lao tới và cắn đau.

Trong buổi tiếp tân chính thức, Zarubin không thể hỏi thẳng Ngài Cao ủy là liệu ông ta có biết Guzenko đang ở đâu.

Ngài đại diện của Nữ hoàng Anh trước buổi tiếp đã biết việc đào tẩu của một nhân viên cơ quan Tùy viên Quân sự Xô-viết. Tuy nhiên, trong buổi tiếp tân ngoại giao, ông không nói gì với vị Đại sứ Liên Xô. Ngài Cao ủy đang chờ chỉ thị của London.

Trong khi ấy kẻ đào tẩu cùng gia đình đang được chính quyền Canada bảo vệ nghiêm ngặt.

Vụ tai tiếng quốc tế đã chín muồi. McDonald và Zarubin hiểu điều đó. Là những người ngoại giao có kinh nghiệm, họ cảm thấy một mối đe dọa nghiêm trọng đang treo trên mối quan hệ ngoại giao Liên Xô - Canada, một quan hệ ngoại giao đã được thiết lập từ mùa hè năm 1942 và hiện đang được củng cố tốt. Nếu quan hệ ngoại giao Liên Xô - Canada bị phá hoại thì mối liên hệ của Anh và Mỹ với Liên Xô cũng không tránh khỏi xấu đi. Những Đồng minh trong chiến tranh chống Hitler có thể trở thành những kẻ thù.

Quan hệ Liên Xô - Canada vào năm 1945, vẫn chưa có độ bền vững và kinh nghiệm giải quyết những tình huống tế nhị hoặc xung đột phức tạp. Mối quan hệ này được thiết lập sau khi ký hiệp định về trao đổi các đại diện ngoại giao năm 1942 ở London.Tháng 6 năm 1943, Đại tá Zarubin đến Ottawa, là Trưởng đại diện của cơ quan Tùy viên Quân sự ở Canada. N. Zabotin lãnh đạo cơ quan GRU ( Tổng cục Tình báo Quân sự) ở đó. Nhóm tình báo này có tên là “Giatxint”(thủy tiên tây), giatxint là tên một loài hoa trong thiên nhiên, loại hoa này đứng đầu trong các loại thực vật dùng để chưng cất tinh dầu. Nếu trồng bằng củ vào đầu tháng 9 nó sẽ ra hoa vào dịp Lễ Giáng sinh. Cụm hoa giatxint gồm những bông hoa nhỏ hình ngôi sao xếp dầy đặc, chúng rất lâu tàn. Có lẽ ai đó trong nhóm lãnh đạo Tình báo Quân sự tin rằng mạng lưới điệp viên Giatxint sẽ không bao giờ héo tàn.

Cũng trong năm 1943, theo Hiệp ước Mỹ - Anh ký tại Quebec, Canada được tham gia vào quá trình chế tạo vũ khí nguyên tử. Nữ tình báo viên Sonya,- tức Ursula Kuczynski (người mà bạn đọc sẽ làm quen thêm trong các chương sau)- đã thông báo tin này từ London về Moxkva. Theo thỏa thuận mật tại Quebec, Canada trở thành nước tham gia Hiệp ước bí mật Mỹ - Anh, và điều đó đã làm thay đổi quan hệ với Canada. Người Nga cần biết rõ các nhà khoa học Anh đang nghiên cứu vấn đề gì ở Canada. Tình báo Liên Xô đang thắt chặt mối liên hệ với một số nhà khoa học quốc tịch Anh đang làm việc ở Canada…

Tháng 8/1945, các sĩ quan Xô-viết là Motinov, Rogov và Angelov đã đến Canada để hoạt động trong Tổ điệp báo ở đây. Trung úy Guzenko , người mà trong thư từ trao đổi với Trung tâm được ký dưới mật danh Clark là nhân viên mật mã của N. Zabotin. Clark là người đã mất tích cùng gia đình ngày 6/9/1945.

Kẻ đào tẩu đã tiết lộ cho cơ quan Tình báo Canada tên của các tình báo viên Quân sự Xô- viết, nhiệm vụ của Tổ Điệp báo và các số liệu về một số điệp viên vẫn cung cấp thông tin…

Guzenco (Clark) đã đánh cắp 29 bản mật mã, những hồ sơ cá nhân của ba điệp báo viên Bado, Bagley, Bacon và những tài liệu khác. Vết cắn của con rắn độc - kẻ đào tẩu Guzenco,- độc hơn bất kỳ một loại độc dược nào để giết người: đóa hoa “giatxint” héo tàn ngay lập tức.

Khi các tài liệu bị Clark đánh cắp rơi vào tay chính quyền Canada, Thủ tướng Mc Kendi King đã cấm đưa bất kỳ tin tức gì về kẻ đào tẩu cho báo chí thủ đô.

Khi bản dịch các tài liệu cơ bản do kẻ đào tẩu cung cấp đã được hoàn tất, M. King đáp máy bay sang London để thông báo cụ thể cho Thủ tướng Anh về những gì đã xảy ra ở Ottawa. Sau khi đàm phán ở London, ông bay sang Washington và thông báo cho Tổng thống mới Hoa Kỳ là Truman về sự kiện chính trị nổi bật khi cuộc chiến tranh nóng vừa kết thúc.

Chính quyền Canada sẽ bí mật điều tra và đến một lúc nào đó sẽ “khuấy động” dư luận bằng những tuyên bố giật gân.

Một ủy ban điều tra Hoàng gia được thành lập, trong đó có Chánh án Tòa án Tối cao Canada, cùng một số nhân viên điều tra giàu kinh nghiệm và các luật sư tài ba. ủy ban này có nhiệm vụ điều tra về “hoạt động gián điệp của Liên Xô”. Một bản báo cáo gồm 733 trang là kết quả làm việc của các thành viên thuộc ủy ban này. Không chỉ giới lãnh đạo Canada mà cả ủy ban điều tra các hoạt động chống Mỹ của hạ Nghị viên Mỹ cũng tham gia nghiên cứu tỷ mỷ báo cáo nói trên.

Ở Moskva, người ta hiểu rằng việc đào tẩu của Guzenco sẽ dẫn đến những hậu quả chính trị nghiêm trọng và tai hại. Cần phải đề ra những biện pháp khẩn trương và hiệu quả, khoanh vùng sự phản bội, bảo toàn các bí mật quân sự và bí mật quốc gia. Điều quan trọng là phải cảnh báo những phức tạp có thể nảy sinh trong mối quan hệ Liên Xô- Canada. Theo chỉ thị của G.Stalin, một ủy ban đặc biệt do G. Malencov làm Chủ tịch đã được thành lập. Thành phần của mó gồm có Bộ trưởng An ninh L.Beria, V.Abacumov, F.Kuznesov và V. Merculov.

Bánh xe lịch sử lăn trên con đường quan hệ quốc tế có nhiều ổ gà, và Ban lãnh đạo Liên Xô không thể sửa chữa được gì. Họ không có khả năng kiểm soát được những sự kiện diễn biến tiếp theo.

Ngày 16/2/1946, cảnh sát kỵ binh Canada bắt đầu bắt giữ các điệp viên Tình báo Quân sự ở Ottawa: 16 người bị bắt và 9 người trong số đó bị kết án nhiều năm tù.

Người Canada không thế xác định ai là người núp dưới bí danh Alex và chuyển giao những thông tin quan trọng về bom nguyên tử cho các điệp viên Xô- viết.

Trong một bức điện mà Guzenco (Kẻ đào tẩu) đánh cắp được có nói:

“Hãy soạn thảo và điện báo cho biết quy ước liên lạc giữa hai người chưa quen và mật khẩu liên lạc của Alex với người của chúng ta ở London. Cố gắng lấy dược ở ông ta thông tin cụ thể về tiến trình nghiên cứu vấn đề uranium trước khi ông ta lên đường. Hãy bàn với ông ta, liệu ông ấy có cho rằng ở lại (Canada) là hợp lý công việc của chúng ta hay là đi London là cần thiết và có lợi hơn cho ông ấy.”


http://nghiadx.blogspot.com
Allan Nunn May, nhà bác học nguyên tử người Anh, điệp viên tự nguyện của tình báo Liên Xô.


Qua nội dung của tài liệu các nhà phân tích của cơ quan phản gián Anh và Mỹ hiểu rằng Alex - một con người có thực, được phép tiếp cận tài liệu mật, và cơ bản nhất là ông đang định đáp máy bay đi London. Bản quy ước gặp gỡ ở London của Alex với tình báo Xô- viết cũng đã rơi vào tay FBI và cơ quan phản gián Anh MI-5. Người ta biết, Alex phải gặp người bắt liên lạc với mình vào 23 giờ địa phương ngày 7, 17 và 27 tháng 10 hoặc cũng vào những ngày đó của tháng kế tiếp. Nơi gặp gỡ là phía trước tòa nhà Viện Bảo tàng Anh quốc trên các ngã tư các phố Great Rassel và Museum Street.

Việc quan sát suốt ngày đêm ở vị trí này của 20 điệp viên thuộc cơ quan phản gián Anh đã được thiết lập. Người mang dấu hiệu nhận biết không xuất hiện tại nơi hẹn. Các nhân viên phản gián đã quan sát các phố thuộc ngã tư nói trên trong gần 6 tháng. Alex không xuất hiện ở đó. cả trong tháng 10, tháng 11 cũng không ai nghe thấy mật khẩu “ Ngài làm ơn cho biết con đường nào ngắn nhất để đến Strand?”Và điệp viên Alex phải trả lời:“ ồ, cứ đi thẳng, tôi cũng đi đến đó.” Nhưng khi bị bắt vào nhiều năm sau, Allan May kể rằng ông đã không đến chỗ hẹn vì đã được thông báo trước.

Các nhân viên phản gián MI-5 không biết rằng Trung tâm đã chỉ thị cho điệp viên Jack Chernyak của mình, người phải đến London để bắt liên lạc với Alex đã không bay đến nước Anh.

Thế là cơ quan phản gián Anh đã mất công toi “đón lừng” nhân viên tình báo Xô - viết.

Cũng vào thời gian đó ở Canada, cỗ máy của chiến dịch chống Liên Xô tiếp tục quay tít “hết công suất”. Ngày 15 tháng 2 năm 1946, Thủ tướng M. King phát biểu tại Nghị viện thông báo về cuộc điều tra hoạt động của tình báo Xô- viết ở Ottawa. Các thành viên của ủy ban Điều tra Hoàng gia đã thông báo kết quả điều tra ngày 2, 16 và 31/3/1946.

Các phương tiện thông tin đại chúng của Anh, Mỹ và Canada đầy ắp những tài liệu về hoạt động gián điệp nguyên tử của Liên Xô. Tất cả những điều ấy đều rất cần thiết cho ai đó.

Để cốt làm cho chiến dịch ồn ào chống Liên Xô có quy củ hơn, quy mô lớn hơn, cần bắt giữ Alex vào đúng lúc gặp gỡ với tình báo Xô-viết. Nhưng không ai đến bắt liên lạc với nhà khoa học, người liên lạc và cả nhà khoa học Alex nào đó hiện vẫn là kẻ giấu mặt với các nhân viên phản gián Anh, Mỹ và Canada. Alex là ai? Quốc tịch gì? Hiện đang là gì trong guồng máy chế tạo các vũ khí nguy hiểm?

Một trong các nhà khoa học đã nằm trong tầm ngắm của các nhân viên phản gián Anh: Tiến sĩ Allan Nunn May được mời đến Cục Năng lượng Nguyên tử. Khi ông đến nơi theo lời mời, nhân viên cơ quan An ninh, Trung tá Leonard Burt đến gặp ông . Người này là nhân viên phản gián thiên về tìm kiếm bằng chứng cụ thể, không có nhiều mẹo lắt léo và ít gây áp lực tâm lý.

Burt ngay từ đầu lần gặp đầu tiên đã “thông báo” cho May rằng một vụ rò rỉ thông tin lớn về bom nguyên tử vừa được phát hiện ở Canada. Ai đó trong số các nhà khoa học đã chuyển giao các thông tin cho người Nga. Khi nói những lời này, Burt nhìn chăm chú vào mắt Allan May. Nhưng không một cơ bắp trên khuân mặt nhà khoa học rung động. Ông bình tĩnh trả lời:

- Đó là một tin mới đối với tôi. Lần đầu tiên tôi nghe thấy điều này và nghĩ rằng không thể có chuyện đó được.

Burt quyết định tấn công tiếp, vừa chú ý qua sát thái độ của May, hắn vừa nói:

- Tôi có cơ sở để cho rằng ông đã duy trì liên lạc với một sĩ quan Nga mà cơ quan phản gián biết dưới cái tên là Baster.

- Tôi không hình dung được ông có ngụ ý gì và đang nói về cái gì ,- Allan May vẫn bình tĩnh đối đáp.

Trung tá Burt ngồi im lặng vài phút. Kế hoạch gây sức ép tâm lý tích cực của hắn lên người bị tình nghi đã thất bại. Hắn không biết làm cách nào để thoát khỏi tình huống bất lợi cho việc điều tra. Quyết định giữ nguyên những điều kiện ban đầu cho việc “ công tác tiếp theo” với người tình nghi và những khả năng cho cuộc đối đầu tâm lý sau này, nhà điều tra tiếp tục hỏi:

- Thưa Tiến sĩ May, ông hãy cho tôi biết liệu có thể có tình huống mà ông sẵn sàng giúp đỡ tôi điều tra không?

May trả lời không cần suy nghĩ:

- Không, nếu như thông tin mà ông hỏi sẽ được dùng không phải cho mục đích tốt đẹp.

Cuộc gặp đầu tiên của Trung tá L. Burt với Tiến sĩ A. May đã kết thúc ở đó. Tiếp theo là những cuộc gặp khác, nhưng cũng không thu được kết quả gì. Burt được phép lục soát căn hộ và phòng làm việc việc của May, nhưng cũng không mang lại điều gì.

Cơ quan phản gián thiết lập việc theo dõi ngoại tuyến. Nhưng việc theo dõi đó cũng không bổ sung thêm được cho những gì mà Burt đã biết. Thời gian cứ trôi…Sau này sau khi mọi bí mật đã được tiết lộ: cơ quan tình báo Anh đã nắm được rõ là Allan May chính là Alex nhưng họ muốn “cất một mẻ lưới lớn hơn nhiều”, họ đã chờ đợi…

Thứ Năm, 23 tháng 6, 2011

>> A-201 - Điệp viên siêu đẳng




>> Phạm Xuân Ẩn và huyền thoại nghề báo khiến Mỹ 'chết sặc'


Ông là điệp viên duy nhất của tình báo Liên Xô trong Gestapo và là người duy nhất báo tin chính xác ngày giờ Đức xâm lược Liên Xô.

Điệp viên Wilhem Lehmann 12 năm dài đơn độc đối mặt với phản gián Đức.

Tháng 6/2009, Cục Tình báo đối ngoại Liên bang Nga SVR giải mật hồ sơ, lần đầu tiên công bố tên tuổi điệp viên A-201/Breitenbach - Willi Lehmann, một trong những nguồn tin quý giá nhất của Liên Xô thời Thế chiến II ở Đức.

Trong suốt 12 năm, Lehmann đã mạo hiểm tính mạng báo cáo về Moskva những tin tức đặc biệt giá trị về sự phát triển và củng cố chế độ phát xít, quy mô chuẩn bị chiến tranh nhằm nô dịch thế giới, tăng cường tiềm lực quân sự và các công trình nghiên cứu kỹ thuật tối tân của nước Đức phát xít.


Điệp viên Wilhem Lehmann.


Nhờ có Lehmann, tình báo Liên Xô đã nắm được những thông tin quan trọng về cơ cấu tổ chức, nhân sự, phương thức hoạt động của các cơ quan đặc vụ Đức.

Tình nguyện hợp tác

Siêu điệp viên A-201, mật danh Breitenbach của tình báo Liên Xô tên thật là Wilhelm (Willy) Lehmann. Ông sinh năm 1884 trong gia đình nhà giáo nghèo ở ngoại ô Leipzig.

Năm 17 tuổi, ông tình nguyện gia nhập và phục vụ trong Hải quân Đức 12 năm. Năm 1913, Willy giải ngũ, quay về Berlin và với sự giúp đỡ của người bạn cũ Ernst Kour làm việc trong cảnh sát chính trị mật, ông vào làm việc cho cảnh sát Berlin. Năm 1914, ông chuyển sang phòng phản gián cho đến khi cách mạng nổ ra ở Đức năm 1918.

Tháng 4/1920, Đức tái lập cảnh sát chính trị mật, Lehmann được đề bạt làm phó phòng, thực chất là người lãnh đạo phòng phản gián của sở cảnh sát Berlin.

Năm 1927, Lehmann sang làm ở bộ phận hồ sơ, nơi tập trung toàn bộ tin tức về các nhân viên sứ quán nước ngoài lọt vào tầm mắt của sở cảnh sát Berlin.

Năm 1929, Lehmann tình nguyện hợp tác với tình báo Liên Xô vì động cơ vật chất (ông cần tiền chu cấp cho vợ Margaret, cô bồ Florentina trẻ hơn vài chục tuổi và mê đánh cá ngựa, bản thân Lehmann bị bệnh đái đường nặng), vì ông có thiện cảm với người Nga và sau này là vì động cơ chính trị. Ông bắt đầu hoạt động với bí số А-201 và mật danh Breitenbach

Những tin tức vô giá

Từ năm 1930, một trong các nhiệm vụ của Breitenbach tại phòng phản gián Berlin là điều tra các nhân viên của cơ quan đại diện Liên Xô và chống tình báo kinh tế Liên Xô tại Đức. Tin tức do Breitenbach cung cấp đã cho phép tình báo Liên Xô nắm được các kế hoạch của phản gián Đức và áp dụng các biện pháp phòng ngừa bảo vệ các tình báo viên Liên Xô và các nguồn tin của họ.

Khi tình hình ngày càng phức tạp, bọn quốc xã chuẩn bị lên nắm quyền ở Đức, Breitenbach đã bắt quen với những tên đầu sỏ của đảng quốc xã, trong đó có Ernst Julius Röhm, chỉ huy các đơn vị xung kích quốc xã SA.

Sau khi Hitler lên nắm quyền vào tháng 2/1933, Breitenbach theo giới thiệu nhân vật số 2 của chế độ quốc xã trùm phát xít Hermann Goering, khi đó là thủ tướng Phổ, được chuyển sang Gestapo làm việc ngay từ khi cơ quan này được thành lập vào tháng 4/1933.

Tháng 5/1934, ông tình nguyện gia nhập SS và trở thành đảng viên quốc xã năm 1937. Ngày 30/6/1934, ông giúp Goering tổ chức thực hiện chiến dịch đẫm máu “Đêm của những con dao dài” thủ tiêu Ernst Röhm, các thủ lĩnh khác của SA vì thế ông được bọn quốc xã đầu sỏ rất tín nhiệm.

Thậm chí, nhân dịp năm mới 1937, ông cùng với 3 nhân viên Gestapo khác được tặng thưởng bức chân dung Adolf Hitler đóng khung bằng bạc có chữ ký của trùm phát xít.

Breitenbach đã trở thành lá chắn bảo vệ an toàn cho tình báo Liên Xô ở Đức. Ông đã kịp thời báo trước về tất cả các hành động của Gestapo, các vụ bắt giữ và khiêu khích có thể thực hiện đối với các đại diện, các tình báo viên vỏ bọc công khai và bất hợp pháp Liên Xô nên tình báo Liên Xô trong suốt thời gian này không hề biết đến đổ vỡ là gì.

Ông thường xuyên báo cho tình báo viên Liên Xô trực tiếp chỉ đạo ông là Vasily Zarubin về tất cả những thay đổi tình hình an ninh nội địa Đức, các hành động chính trị dự kiến, cuộc đấu tranh ngầm trong nhóm đầu sỏ phát xít.

Qua quan hệ với các nhân vật hàng đầu Gestapo, Breitenbach đã thu thập và báo cáo hồ sơ cá nhân chi tiết của các nhân vật phát xít đầu sỏ như Heinrich Muller, Walter Schellenberg, Heinrich Himmler, Reinhard Heydrich và các chỉ huy tình báo Đức khác.

A-201 đã cung cấp những tin tức đặc biệt giá trị về cơ cấu tổ chức, nhân sự của Gestapo (Cục IV, Tổng cục An ninh đế chế RSHA), hoạt động của Gestapo và tình báo quân sự Abwehr, hoạt động xây dựng quân đội Đức, các kế hoạch và ý đồ của Hitler đối với các nước láng giềng, khóa mã các mật điện liên lạc trong nội địa và hải ngoại của Gestapo. Nhờ vậy, tình báo Liên Xô có thể đọc được nội dung liên lạc nội bộ của Gestapo.

Hoạt động tình báo của Lehmann chuyển sang giai đoạn mới khi ông được chuyển sang phòng phản gián Gestapo phụ trách phản gián cho công nghiệp quốc phòng và xây dựng quân đội Đức.

Thời gian này, Đức đã chế tạo và bắt đầu thử nghiệm các loại tên lửa của nhà khoa học lừng danh Werner von Braun vào năm 1934 ở gần Berlin. Nhờ có Lehmann, Liên Xô đã nắm được thông tin về các tên lửa Max và Moritz, sau này dựa vào đó Đức chế tạo các tên lửa lừng danh FAW-1 và FAW-2.

Cuối năm 1935, Breitenbach đích thân tham dự thử nghiệm tên lửa đầu tiên của Đức sử dụng nhiên liệu lỏng FAW-1 tại trường thử ở Penemunde.

Năm 1940, các tên lửa này đã oanh tạc nước Anh. Breitenbach đã báo cáo chi tiết về các vụ thử tên lửa và thông tin mật về tên lửa này. Trên cơ sở đó, tình báo Liên Xô ngày 17/12/1935 đã soạn và gửi Stalin và ủy viên dân ủy quốc phòng Voroshilov báo cáo phân tích tình trạng ngành chế tạo tên lửa của Đức.

Trong giai đoạn này, Breitenbach còn cung cấp thông tin về các chương trình đóng tàu ngầm, chế tạo xe ô tô bọc thép, sản xuất các mặt nạ phòng độc mới, các nghiên cứu về xăng tổng hợp, cao su nhân tạo.

Hè năm 1936, Breitenbach được giao phụ trách phản gián cho nhiều hướng công nghiệp quốc phòng mới. Điệp viên bắt đầu cung cấp những tin tức quan trọng về sự phát triển công nghiệp quốc phòng Đức như việc bắt đầu đóng cùng lúc hơn 70 tàu ngầm và xây dựng nhà máy bí mật sản xuất chất độc quân sự thế hệ mới.

Điệp viên đã giao cho Zarubin bản sao chỉ thị mật liệt kê 14 loại vũ khí tối tân đang sản xuất hoặc thiết kế. Ông cũng lấy được bản sao báo cáo mật “Về tổ chức quốc phòng Đức năm 1937”. Tất cả các tài liệu này đã cho phép lãnh đạo Liên Xô đánh giá khách quan sức mạnh tấn công của quân đội Đức.

Ông cũng cung cấp tin về hoạt động của bọn quốc xã ở Áo, dự thảo hiệp ước hợp tác quân sự Đức-Nhật; mùa xuân 1941, ông báo tin Đức sắp xâm chiếm Nam Tư.

"Chiến tranh bắt đầu lúc 3 giờ sáng"

Cuối những năm 1930, tình hình ngày một căng thẳng khi Hitler đang chuẩn bị thôn tính các nước châu Âu và chuẩn bị chiến tranh thế giới mới. Thời gian này, ông hợp tác với Liên Xô chủ yếu vì động cơ lý tưởng, chứ ít quan tâm đến khía cạnh vật chất, dù với tính cách Đức, ông không từ chối các khoản thù lao.

Trong giai đoạn lịch sử khẩn thiết như vậy, ông hầu như mất liên lạc với tình báo Liên Xô. Năm 1937, Zarubin, sĩ quan tình báo đến Đức từ tháng 12/1933 để chỉ đạo ông, phải ngừng liên lạc với Breitenbach vì bị triệu hồi về nước.

Chiến dịch thanh trừng đối với tình báo Liên Xô đã bắt đầu. Tổ tình báo Berlin lúc đó chỉ còn lại duy nhất một cán bộ là Aleksandr Agayants.

Cuối tháng 11/1938, Agayants liên lạc lần cuối cùng với Breitenbach. Đầu tháng 12, Agayants phải nằm viện và không lâu sau thì qua đời. Ông mất liên lạc cho đến tháng 9/1940 khi ông gặp được Aleksandr Korotkov mới đến Berlin làm phó chỉ huy tình báo NKVD.



Đức mở màn xâm lược Liên Xô bằng chiến dịch Barbarossa.


Ngày 9/9/1940, tổ tình báo nhận được chỉ thị từ đích thân Ủy viên dân ủy Beria, trong đó nhấn mạnh: “Không được giao bất kỳ nhiệm vụ đặc biệt nào cho Breitenbach. Tạm thời phải lấy hết những gì nằm trong khả năng trực tiếp của anh ta và ngoài ra là tất cả những gì anh ta viết về hoạt động chống Liên Xô của các cơ quan tình báo, ở dạng tài liệu và báo cáo riêng của nguồn tin”.

Người chỉ đạo trực tiếp A-201 là Boris Nikolayevich Zhuravlev, một cán bộ tình báo trẻ vừa mới đến Berlin sau khi tốt nghiệp trường tình báo.

Breitenbach bắt đầu cung cấp một số lượng lớn tài liệu cho thấy Đức đang chuẩn bị cho cuộc chiến chống Liên Xô. Tháng 3/1941, ông báo cáo rằng, “Tổng đội III - Berlin”, đơn vị phụ trách hoạt động tình báo chống Liên Xô của tình báo quân sự Đức Abwehr đã được mở rộng khẩn cấp.

Trong phiên liên lạc ngày 28/5, A-201 báo cáo với Zhuravlev rằng, ông được lệnh khẩn cấp lên lịch trực suốt ngày đêm cho đơn vị mình.

Ngày 19/6, Lehmann gọi gặp khẩn cấp Zhuravlev và báo cáo: “Chiến tranh rồi. Tất cả đã được quyết định, không thể thay đổi được nữa. Chủ nhật, ngày 22. Ngay từ sáng sớm, lúc 3 giờ sáng. Trên toàn tuyến biên giới, từ nam lên bắc. Tuyên chiến sẽ chỉ là hình thức, cùng với quả bom đầu tiên”, sau đó xiết chặt tay Zhuravlev nói: “Vĩnh biệt đồng chí” rồi bước đi.

Ông Zhuravlev kể lại phiên liên lạc cuối cùng với Lehmann: “Tôi đã gặp Lehmann ở Berlin ngày 19/6/1941. Lần này, anh ấy rất lo lắng và ngay sau khi chào hỏi đã nói ngay là Gestapo đã nhận được mệnh lệnh nói rằng, ngày 22/6, lúc 3 giờ sáng, Đức sẽ khai chiến chống Liên Xô. Tôi cũng rất lo lắng khi tiếp nhận tin này, hai chân tôi thậm chí khuỵu xuống. Sau đó, chúng tôi chia tay, tôi lao về sứ quán, sau khi xử lý, tin này được gửi về Moskva”.

Đáng tiếc là khi nhận được bức điện này, Stalin đã viết bằng mực xanh lên báo cáo tình báo của Lehmann mấy chữ “thông tin giả”.

Sáng 22/6/1941, tòa nhà đại sứ quán Liên Xô trên phố Unter den Linden ở trung tâm Berlin đã bị nhân viên Gestapo vây kín. Tình báo Liên Xô mãi mãi mất liên lạc với Wilhelm Lehmann.

Cái chết bi tráng

Ngay sau khi chiến tranh kết thúc, chỉ huy tổ tình báo NKVD ở Đức Aleksandr Korotkov được giao nhiệm vụ tìm hiểu số phận của các điệp viên giá trị của NKVD bị mất liên lạc trong thời gian chiến tranh ác liệt, trong số đó có Breitenbach và các thành viên của “Dàn hợp xướng đỏ”.

Giữa tháng 6/1945, khi Berlin hoang tàn vẫn còn nghi ngút khói lửa, Korotkov tìm đến căn hộ của Margaret Lehmann và được bà cho biết, Willy Lehmann chồng bà đã mất tháng 12/1942, chỉ còn lại bình tro cốt và vật dụng cá nhân của ông. Bà không biết chi tiết gì về cái chết của chồng.

Tình báo Liên Xô, khi sục tìm các tài liệu trong trụ sở đổ nát của Gestapo tại số 8, phố Prinz Albrechtstrasse, đã phát hiện một phiếu hồ sơ cháy xém đề tên Wilhelm Lehmann, trên có ghi chú ông đã bị Gestapo bắt vào tháng 12/1942, nhưng không nêu nguyên nhân bắt giữ.

Dựa vào phiếu hồ sơ này cùng với các tài liệu thu được khác, Trung ương tình báo ở Moskva nhanh chóng xác định được nhân viên Gestapo bị xử tử chính là điệp viên Breitenbach.

Qua điều tra, tình báo đối ngoại Liên Xô đã biết được hoàn cảnh cái chết của A-201. Tháng 5/1942, điệp viên Beck (đảng viên cộng sản Đức Robert Bart, tự đầu hàng Hồng quân) của tình báo Liên Xô được tung vào Berlin để nối lại liên lạc và tiếp tục làm việc với Breitenbach. Nhưng Gestapo nhanh chóng lần ra tung tích và bắt giữ Beck. Không chịu nổi đòn tra, Beck đã khai ra quy ước liên lạc và những thông tin nhận diện điệp viên Breitenbach.

Gestapo lập tức báo cáo việc phát hiện điệp viên Liên Xô cho Heinrich Muller. Nhưng cả Himmler và Muller đã không dám báo cáo với Hitler việc một thanh tra hình sự kỳ cựu, đại úy SS chui sâu hoạt động cho Liên Xô hàng chục năm trời ngay trong lòng Gestapo.

Ngay trước lễ Giáng sinh năm 1942, Breitenbach bị triệu khẩn cấp tới cơ quan và mãi mãi không trở về. Ông đã bị Gestapo bí mật bắt giữ và thủ tiêu để tránh gây ra scandal ầm ĩ.

Trong bản tin nội bộ của Gestapo ngày 29/1/1943 có đăng thông báo “thanh tra hình sự Wilhelm Lehmann đã cống hiến đời mình cho quốc trưởng và đế chế vào tháng 12/1942”.

Một trong những điệp viên xuất sắc nhất của tình báo Liên Xô đã hy sinh bi thảm như thế. Wilhelm Lehmann không phải là người cộng sản, nhưng ông có cảm tình với nước Nga và nhân dân Nga. Cuộc đời, công lao đóng góp của ông vào chiến thắng chung trước chủ nghĩa phát xít xứng đáng sự thừa nhận và tưởng nhớ biết ơn.

Năm 1969, bà Margaret Lehmann, vợ của điệp viên A-201 đã được trao tặng tại Moskva chiếc đồng hồ vàng với dòng chữ “Kỷ niệm từ những người bạn Xô-viết”.

Năm 2010, nhân dịp kỷ niệm 65 năm ngày Chiến thắng Vĩ đại, ở Nga đã xuất bản cuốn sách “Điệp viên siêu đẳng” của sử gia tình báo Teodor Gladkov viết về điệp viên A-201/Breitenbach.

Và năm nay, đúng ngày Chiến thắng 9/5/2011, truyền hình Nga đã phát bộ phim truyền hình “Điệp viên A-201 - người của chúng ta trong Gestapo”.


[BDV news]


Copyright 2012 Tin Tức Quân Sự - Blog tin tức Quân Sự Việt Nam
 
Lên đầu trang
Xuống cuối trang