Trung Quốc đã vay mượn, mua lại các mẫu vũ khí, trang thiết bị điện tử, nhập khẩu các công nghệ thiết kế và đóng tầu hiện đại, thuê mướn và mời các chuyên gia đóng tầu từ khắp nơi trên thế giới. >> Hải quân Trung Quốc: Tham vọng và thực lực (kỳ 1) >> Cụm tàu sân bay TQ cần 4 tàu khu trục loại 052D Kết quả là người Trung Quốc đã có được những thiết kế phiên bản made in China cho các chiến hạm. Trước khi chúng ta bắt đầu xem xét các nhóm các tầu khu trục hiện đại của hải quân Trung Quốc, cần phải xem xét một dự án đóng tầu, là đứa con đầu lòng của ngành đóng tầu quân sự hiện đại Trung Quốc, là cơ sở căn bản và cũng là nền tảng cho các dự án khu trục hạm hiện đại sau này. Vào những năm 1990-x các loại tầu khu trục của Trung Quốc tiếp tục phát triển theo phương án tầu khu trục lớp Luhai mã hiệu của NATO là DDG “Luhai-class” dự án 051B, các tầu được thiết kế với các nguyên tắc và giải pháp nhằm thực hiện các nội hàm của lớp tầu này. Khởi đầu của seria lớp Luhai không rõ ràng, nhưng đến năm 1999, chỉ có một tầu "Thâm Quyến" (số trên thân tầu.№ 167) được đưa vào biên chế trong lực lượng Hải quân PLA. Theo một số các nguồn thông tin, trên dự án tầu Thẩm Quyến, các kỹ sư đóng tầu dự kiến lắp các ống phóng tên lửa thẳng đứng và hệ thống điều khiển đa hàm đa nhiệm, nhưng rõ ràng những yêu cầu kỹ thuật mới này, thiết kế của dự án 051 không đáp ứng được. Hệ thống vũ khí và trang thiết bị chỉ được dùng cho các khu trục hạm thuộc dự án 052. ( Xem sơ đồ và ảnh của các tầu khu trục thuộc dự án 051 và 052). Tầu khu trục dự án 052 ( tàu chỉ huy đầu tiên mang tên "Cáp Nhĩ Tân.") Tầu được đóng tại nhà máy đóng tàu ở Thượng Hải. Lượng giãn nước tiêu chuẩn là 4800 tấn, đủ tải trọng là 5700 tấn. tầu có chiều dài 148m, rộng 16, mớn nước là 4,3m. Công suất động lực trạm nguồn của động cơ tuốc bin diesel là 72200 sức ngựa, tốc độ hải trình là 31,5 knots. Vũ khí trang bị bao gồm 8 ống phóng tên lửa SAM HQ-7 (Trung Quốc sao chép bản SAM "Nawal Crotal"), 8 ống phóng tên lửa chống tầu C-802 , 1 ụ pháo hạm 100 mm và 4 ụ súng 37-mm, 2 bệ 3 ống phóng ngư lôi324-mm chống ngầm, được biên chế 2 máy bay trực thăng Z-9. Trong 1993-1996. Đã đóng được 2 tầu : "Cáp Nhĩ Tân" và "Thanh Đảo"). 1 - 1х2 100-mm pháo hạm «type 79»; 2 - 1х8 ống phóng tên lửa phòng không SAM «HQ-7»; 3 – Đài radar phát hiện các mục tiêu mặt nước và trên không «type 360»; 4 – Hệ thống điều khiển hỏa lực «type 347G»; 5 – Bệ phóng ngư lôi chống ngầm 1х3 324-mm; 6 – Đài sonar chống ngầm ; 7 - 4х4 dàn phóng tên lửa chống tầu «YJ-82»; 8 – Radar phát hiện mục tiêu trên không và trên biển; 9 –Radar cảnh báo sớm và phát hiện mục tiêu tầm xa «type 517»; 10 - 2х37-mm súng phòng không «type 76А» Tầu khu trục tên lửa dự án 051. Lượng giãn nước: Tiêu chuẩn : 6100 tấn Đủ tải trọng: 6600 tấn Chiều dài: 153 m Rộng: 16,5 m Mức ngấn nước: 6 m Động lực trạm nguồn (Loại х công suất): 2 động cơ tuốc bin diesel х 24300 mã lực. + 2 động cơ phát điện. MTU 12V1163TB83 x 4420 mã lực. Tốc độ hải trình max: 29 knots Tầm hải hành xa nhất (với tốc độ): 14000 hải lý (15 knots) Thủy thủ đoàn (sĩ quan hải quân): 250 (42) người. Vũ khí trang bị: Công kích: 4х4 Tên lửa chống tầu C-803/J-8-3 Tên lửa phòng không: 1x8 Tên lửa phòng không HQ-7 (32) Pháo hạm: Một ụ pháo 2 nòng 1x2 100 mm type 79A; 4 ụ pháo phòng không 2 nòng 37mm Type 76A Ngư lôi chống tầu: 2 bệ phóng ngư lôi 3 ống phóng 324 mm ТА (Mk46 Mod.1 / YU-7) Máy bay trực thăng: 2 KA-28 Trang thiết bị điện tử truyền thông Các đài radars: Radar TYPE 517H-1 (Trinh sát trên không); Radar TYPE 360S / DRBV-15 SEA TIGER (Quan sát phát hiện các mục tiêu trên không, trên biển); Radar TYPE 381A (Trinh sát các mục tiêu trên không, trên biển) Hệ thống điều khiển vũ khí: 2 Radars TYPE 347G (37mm pháo phòng không); Radar TYPE 343G (Pháo hạm và tên lửa chống tầu); Radars TYPE 345 / CASTOR II (Tên lửa phòng không); 2 Hệ thống thiết bị điều khiển tích hợp thông tin OFD-630 Hệ thống trinh sát và tác chiến điện tử: 2 dàn phóng х15 ống phóng đạn gây nhiễu TYPE 946; SIGNAAL RAPIDS SRW210A; RAMSES Các đài phát sonars: DUBV-23; DUBV-43 (trinh sát bọt nước lằn tầu) Hệ thống thông tin điều hành tác chiến : TAVITAC; SATCOM Những kết quả đạt được theo thân tầu được sử dụng trong các thiết kế sau này, và kết quả là trong biên chế của lực lượng Hải quân Trung Quốc xuất hiện các khu trục hạm dự án 052C, Tầu đã trở thành định hướng thiết kế các tầu khu trục tên lửa hiện đại vào giữa những năm 1960-x, hình thành những liên đội tầu khu trục và tầu hộ vệ tên lửa, được trang bị các tên lửa phòng không tầm trung, tương tự như các tầu của Pháp "Suffren" và Mỹ "Farragat". Hai tầu khu trục "Thẩm Dương", mã số chiến thuật 115, và "Thạch Gia Trang”, 116 được biên chế vào lực lượng từ năm 2006 – 2007, có lượng giãn nước 7000/8630 tấn, theo các thông số về kích thước, cấu trúc thiết kế, động lực trạm nguồn tương tự như tầu Thẩm Quyến, nhưng đã được hoàn thiện hơn, có chất lượng kỹ chiến thuật cao hơn do đã áp dụng hệ thống phòng không 8 ống phóng thẳng đứng “ S-300F”, mẫu xuất khẩu là "Rif-M" và ụ súng phòng không loại AK 730, các loại vũ khí này đã tăng cường rất cao khả năng tác chiến phòng không. Tầu khu trục "Thạch Gia Trang" ("tầu thứ hai", dự án 051C), đi vào hoạt động trong năm 2007. Có thể thấy được rõ ràng: Hệ thống tên lửa phòng không SAM "Reef-M" (ăng-ten được lắp đặt"phân tán") trên cấu trúc thượng tầng boong phía sau, 6 ống phóng SAM "Rif-M" ( mũi tầu - hai ống phóng, và đuôi tầu có bốn ống phóng tên lửa). Rất tiếc là, để giải quyết vấn đề lắp đặt tên lửa S-300 tăng cường khả năng phòng không, Tầu khu trục đã mất đi khả năng chuyên chở máy bay trực thăng, mặc dù sân bay cất hạ cánh có, nhưng máy bay trực thăng không có hầm chứa. Tầu khu trục "Thạch Gia Trang" ("tầu thứ hai", dự án 051C), đi vào hoạt động trong năm 2007. Một trong những hướng phát triển của ngành đóng tầu quân sự Trung Quốc đang hướng tới là những tầu khu trục thuộc dự án 052В và 052С – mã hiệu NATO là DDG “Luyang class” và “Luyang-II class” . Được thiết kế cùng một mẫu thân tầu và động lực trạm nguồn, các khu trục hạm được trang bị các loại vũ khí khác nhau ( mặc dù dự án vẫn là 052, như tầu khu trục Lyuyhu, mã hiệu của NATO là DDG “Luhu-class” các tầu gần như không giống nhau, thông thường là lớn hơn. 1 – Pháo hạm 1х1 100-mm pháo «Creusot-Loire T100C»; 2–1 ống phóng tên lửa phòng không х1Shtil-M” . 3 – 6 Ống phóng tên lửa х 6 đạn “HQ-9”; 4 – Pháo tự động АК “type 730”; 5 – 2 bệ х18 ống phóng đạn gây nhiễu; 6 – 1 bệ phóng ngư lôi х3 ống phóng 324-mm ; 7 – Radar phòng không "Frigate-ME” ; 8 – Radar mảng pha; 9 – 4 bệ phóng tên lửa chống tầu х4 ống phóng «YJ-83»: 10 – 2 bệ phóng tên lửa chống tầu х 4 ống phóng “YJ-62”; 11 – Đài radar tầm xa và cảnh báo sớm “type 517”. Cũng là các tầu khu trục đã nêu: DDG "Quảng Châu", loại 052B Lượng giãn nước 6500/7500 tấn.; Chiều dài/rộng/ngấn nước 164/17,2/9,5m; Động lực trạm nguồn 2 động cơ tuốc bin diesel х36300 mã lực + 2 động cơ diese phát điện х 4900 mã lực.; Vận tốc trung bình là 32 knots; Trang bị 4 bệ phóng х 4 ống phóng tên lửa chống tầu J-8-3; 2 bệ phóng tên lửa х1 tên lửa SHTIL 1 (48); pháo hạm 100-mm tự động; 2 bệ súng tự động x 7 nòng súng 30-mm; 2 bệ phóng х3 ống phóng ngư lôi chống ngầm; 2 bệ phóng đạn gây nhiễu х12 ống phóng đạn gây nhiễu; Máy bay trực thăng KA-28. Các tầu khu trục PLA được trang bị hệ thống xử lý thông tin, điều hành tác chiến ZKJ-7, Hệ thống đường truyền số hóa tự động truyền dữ liệu HN-900 (tương tự như thiết bị Link-11), Hệ thống liên lạc vê tinh SNTI-240, Radar tọa độ 3-D phát hiện các mục tiêu trên không "Fregat-M2EM" (Top Plate, E band: tầm xa phát hiện mục tiêu – 230 km, phát hiện tên lửa chống tầu là – 50 km), 4 radar điều khiển hỏa lực của tên lửa phòng không МР-90 (Front Dome), 2 radars điều khiển hỏa lực pháo binh phòng không Type 347G (EFR-1), radars điều khiển hỏa lực tên lửa chống tầu và hỏa lực pháo binh Type 344 (Band Stand, I/J band). Trong seria này, người Trung Quốc đã đóng hai tàu khu trục: "Quảng Châu" mã số chiến thuật 168, và "Vũ Hán", mã số 169 (được bắt đầu vào năm 2000-2004). Dự án đóng các tầu này được trang bị vũ khí và trang thiết bị cho phép các tầu có năng lực tác chiến tương đương, cũng như khả năng phòng không và khả năng chống ngầm. Nếu so với các lực lượng hải quân nước ngoài, có thể nói là dự án khá thành công, các tầu khu trục này tương đương với các tầu khu trục Ấn Độ lớp "Delhi". Tầu khu trục DDG "Lan Châu" loại 052C. Lượng giãn nước là 7000 tấn; dài/rộng/ngấn nước 155/17/6 м.; Động cơ tuốc bin diesel x 48600 mã lực. + động cơ diesel trạm nguồn.x 8840 mã lực; tốc độ hải hành 29 knots.; dự trữ hải trình 4500 hải lý. ( tốc độ tiết kiệm 15 knots.); thủy thủ đoàn 280 (40 sĩ quan) người; 2 bệ phóng x4 ống phóng tên lửa chống tầu YJ12; 8 bệ phóng x 6 ống phóng tên lửa phòng không thẳng đứng ЗРК HQ-9 hoặc RIF-M; 1 pháo hạm 100-mm; 2 ụ súng tự động х 7 nòng 30-mm АК; 2 bệ phóng х 3 ống phóng ngư lôi chống ngầm; trực thăng KA-28. Các khu trục hạm được trang bị hệ thống thông tin điều hành tác chiến H/ZBJ-1, hệ thống truyền số liệu HN-900 (tương tự như Link-11), thiết bị truyền thông liên lạc vệ tinh SNTI-240, Radar Type 438 (S-band, tầm xa phát hiện mục tiêu – 450 км) với 4 antena mảng pha, được phát triển bởi Viện nghiên cứu điện tử Nam Kinh(Nanjing Research Institute of Electronic Technology) (trước đây là viên nghiên cứu 14), 2 radar xác định tọa độ mục tiêu trên không Type 571Н-1 Knife Rest, radar điều khiển hỏa lực của các tổ hợp tên lửa chống tầu và tổ hợp pháo binh МР-331 "Mineral-ME" (Nga), Radar điều khiển hỏa lực hệ thống súng máy phòng không 7 nòng 30mm Type 347G Rice Lamp (EFR-1), thiết bị phát hiện tầu ngầm sonar thả SJD8/9 ( thiết bị hoàn thiện từ DUBV-23) thiết bị sonar chống ngầm kéo theo tầu ESS-1 (hoàn thiện của DUBV-43). Các thiết bị quan sát quang học – điện tử OFC-3 optronic directors. Thiết bị gây nhiễu mục tiêu : 4 giá x18-ống phóng Type 726-4 decoy RL. Các tầu khu trục của dự án có khả năng phòng không mạnh, do được trang bị các tên lửa hải đối không hiện đại, trên tầu lắp đặt 8 ống phóng tên lửa phòng không ( 6 ống ở phía mũi tầu và 2 ống ở phía đuôi) loại 6 đạn của tổ hợp phòng không HQ-9, Trung Quốc đã mua giấy phép và bản công nghệ nâng cấp loại tên lửa SAM "Rif-M" có khả năng phòng thủ được khu vực vùng biển (đây cũng là một nghi vấn rất lớn về HQ-9) và 2 ụ súng tự động siêu tốc 30mm xoay 7 nòng (Type 730). Khả năng chống ngầm của các tầu khu trục lớp 052C tương đương với các tầu khu trục dự án 052B, nhưng năng lực công kích trên biển đã giảm xuống tới hai lần, chỉ có 8 tên lửa chống tầu “YJ-62” nhưng có khả năng công kích mạnh hơn do tầm bắn xa hơn và đầu đạn có sức công phá lớn hơn, như “YJ-82”. Trong seria tầu khu trục này có 2 tầu "Lan Châu", mã số chiến thuật trên thân là 170, đưa vào hoạt động năm 2004, và "Haikou", 171, đưa vào biên chế năm 2005. Trong lịch sử phát triển các tầu khu trục PLA có một số lượng lớn những công nghệ vay mượn từ nước ngoài. Khi các chuyên gia Trung Quốc được giao nhiệm vụ đặc biệt: chế tạo ra những khu trục hạm có khả năng phòng không cao, đã xuất hiện ý tưởng muốn chế tạo một hệ thống kiểu "Aegis made in China". Đồng thời với ý tưởng đó là những thông tin tư liệu về radars mảng pha. Để có được những thông tin khoa học công nghệ về radars, đầu tiên người Trung Quốc đã mua các tài liệu cho hệ thống "Mars-Passat", sau khi nghiên cứu kỹ càng, họ hiểu rằng không thể áp dụng hệ thống này vào các mẫu thiết kế theo dự án. >> Khu trục hiện đại nhất hải quân Trung Quốc Song song với việc mua công nghệ, các chuyên gia tình báo công nghiệp Trung Quốc đã sao chép thông tin từ những nhà chế tạo (thông thường thì bắt đầu từ con số không, lần lượt người Trung Quốc đã từng bước tìm kiếm, phát hiện ra những thông tin cần thiết, theo cách gọi của các phương tiện thông tin đại chúng là “China gate”, nhưng rõ ràng những chuyên gia Trung Quốc không thể tự mình tìm hiểu được những giải pháp công nghệ, do đó họ buộc phải mời các chuyên gia, các nhà khoa học từ tập đoàn Kvant của liên bang Nga. Kết quả là, hệ thống phát hiện mục tiêu và cảnh báo sớm tương tự như Aegis đã được thực hiện với những giải pháp kỹ thuật tối ưu nhất. Đã chế tạo thành công Radar type 348, có khả năng phát hiện được mục tiêu trên khoảng cách đến 450 km. Cũng thật thú vị nếu đem so sánh với các loại Aegis đang lắp đặt trên các tầu chiến Mỹ, và cũng thật sự thấy được quyết tâm vươn ra đại dương của người Trung Quốc trong trường hợp này. Một hướng phát triển mới các Hải quân PLA là các tầu khu trục hạm do các nhà đóng tầu Nga thực hiện theo đơn đặt hàng theo dự án 956 E ("Dương Châu" 136 và "Fu Zhou" 137, đưa vào phục vụ trong lực lượng Hải quân năm 2000 và 2001.). Dự án 956EM ("Taizhou" 138 và Ningbo "139, đưa vào phục vụ năm 2005 và 2006). Những chiếc khu trục hạm đầu tiên hoàn toàn không khác khu trục hạm loại “Sovremennui” của Hải quân Liên bang Nga, trên hai khu trục hạm được lắp pháo 130 mm ở phần đuôi tầu, nhưng theo những tính toán của Hải quân PLA, để tăng cường khả năng phòng không của khu trục hạm, đã thay thế 4 tổ hợp “АК-630М” bằng các tổ hợp phòng không loại “Kastan”. Các tầu khu trục hạm trong các liên đội tầu dự án 956E (hình trên) và 956EM – biên chế chung và đặc thù : 1-130-2x1 mm pháo hạm AK-130: 2 - 1x1 – tên lửa phòng không SAM" Shtil "(24 tên lửa), 3 - 2x4 ống phóng tên lửa chống tầu " 3M-80E ";4 - radar phát hiện mục tiêu trên không“Mineral-E “, 5 - A radar "Frigate - ME", 6 - 30 mm pháo phòng không "AK-630", 7 – tổ hợp pháo, tên lửa phòng không "Kastan ". Trong giai đoạn hiện này, loại tầu khu trục dự án 956E hình thành một lực lương riêng biệt của kiểu “Nga” của Hải quân Trung quốc, một lực lượng công kích chủ lực và cụm tầu có tiềm năng tác chiến mạnh, được trang bị tới 32 tên lửa chống tầu và 192 tên lửa phòng không, có khả năng tác chiến độc lập trên các vùng nước xa bờ. Một đoạn trích dẫn trên trang web "Atrina": ...Những chiếc khu trục hạm được đóng trên nhà máy đóng tầu Biển Bắc theo dự án 956-E đã chứng minh được năng lực tác chiến của khu trục hạm, chính vì vậy chính phủ Trung Quốc quyết định tiếp tục đóng các lớp tầu này. Nhưng hai chiếc khu trục hạm sau này được quyết định đóng theo phiên bản nâng cấp của dự án 965-EM, phát triển bởi Trung tâm nghiên cứu thiết kế của nhà máy đóng tầu biển Bắc do kỹ sư trưởng V.P. Mishin. Phát triển dự án 956-EM (xuất khẩu – nâng cấp) được bắt đầu vào đầu năm 2001. Theo ý kiến chung, tầu phải hoàn toàn khác hơn so với những tầu đã được đóng. Trên thiết kế dự án, dự kiến sẽ lắp đặt vũ khí trang thiết bị mới, hệ thống dẫn đường hàng hải, trang thiết bị radar, trang thiết bị điều khiển động lực – trạm nguồn. Những hoạt động thực hiện dự án được thúc đẩy mạnh mẽ bởi Hợp đồng ký năm 1997 về việc giao cho Hải quân PLA hai tầu khu trục theo dự án 956-E. Sau khi tiến hành các cuộc thương thảo, tập đoàn doanh nghiệp nhà nước một thành viên"Rosoboronexport" đã ký với Bộ quốc phòng Nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa một hợp đồng đóng tầu khu trục 956-E. Tổng giá trị của hợp đồng xuất khẩu chiến hạm theo đánh giá chung cỡ khoảng từ 1 đến 1,4 tỷ dollars. Tầu được giao vào khoảng giữa năm 2006. Lúc đó, Phó thủ tướng Liên bang Nga ông I.I. Klebanov ngay sau khi ký hợp đồng đã tuyên bố, đóng tầu khu trục, đây là một dự án rất quan trong, do đó sẽ triển khai đấu thầu cấp nhà nước. Nhưng Cơ quan quản lý công nghiệp đóng tầu hoàn toàn chưa sẵn sàng cho một dự án quá lớn như vậy. Cuối cùng, cuộc đấu thầu cạnh tranh dành vị trí nhà thầu của Trung Quốc được công bố, và rất nhanh chóng, hội đồng đã nhận được hồ sơ dự thầu của Nhà máy đóng tầu Baltic, Tổ hợp công nghiệp đóng tầu “ Biển Bắc” và nhà máy đóng tầu Yantar thuộc Kaliningrad. Ngày 19 tháng 1 năm 2002, trong cuộc họp chọn thầu của Ủy ban đấu thầu quốc gia, lợi thế đã nghiêng về phía của nhà máy đóng tầu Baltic. Do những yêu cầu về giá thành và chất lượng cũng như giải pháp kỹ thuật của nhà máy hơn hẳn các đối thủ cạnh tranh khác. Nhưng câu chuyện không kết thúc ở đó. Đến tháng 3 kết quả đấu thầu lại được đưa ra xem xét ại, quyết định của chính phủ Liên bang Nga là chuyển đơn đặt hàng các tầu khu trục Trung Quốc cho tổ hợp đóng tầu Biển Bắc, nhà máy đóng tầu Baltic chỉ cung cấp các trang thiết bị và các bộ phận thân tầu. Nhà máy đóng tầu Baltic đúng là nhà máy chuyên cung cấp các đường ống dẫn, chân vịt và các bộ phận truyền động trục chân vịt cho dự án 956-EM và cung cấp các trang thiết bị đó cho các tầu khu trục thuộc hợp đồng đóng các tầu 956-E cho Trung Quốc mà tổ hợp đóng tầu Biển Bắc thực hiện. Trong khuôn khổ của Hợp đồng tầm quốc gia này, Baltic đã cung cấp toàn bộ hệ thống động lực, trạm nguồn, các bộ phận phụ trợ, và các phụ kiện bên ngoài. Vào tháng 8 năm 2003, nhà máy đóng tầu Baltic đã chuyển giao cho Biển Bắc các nồi hơi dành cho các tầu khu trục thuộc dự án 956-EM. Theo những thông tin nhận được, các tầu khu trục thuộc dự án 956- EM có những điểm khác biệt so với các thế hệ tầu trước đây: tầm xa của tên lửa chống tầu được tăng lên đi kèm với hệ thống phòng không hoàn thiện hơn nhiều lần. Các tên lửa thế hệ mới "Mosquito -ME" được lắp đặt trên tầu có khả năng tấn công ở tầm xa đến 200 km. Hệ phóng phòng không được tăng cường do lắp đặt 2 module tên lửa – pháo phòng không tầm thấp “Kastan” model xuất khẩu là hệ thống có tên là “ Kortik” thay vì 4 ụ pháo phòng không 30mm AK- 630. Trên mỗi một module có súng máy tự động 6 nòng quay 30mm, hai dàn phóng với 4 tên lửa mỗi dàn kết hợp với radar dẫn bắn và hệ thống điều khiển. Để phát hiện mục tiêu trên không và chỉ thị mục tiêu trên boong phía sau của tầu có lắp đặt radar 3R86E1 (phiên bản xuất khẩu của đài radar "Positive") được đặt trong một chụp bảo vệ cho phép các sóng radio xuyên thấu. Trước khi chuyển giao cho Trung Quốc vào ngày 28 tháng 9 năm 2006. Như đã biết, một trong những điểm yếu cơ bản của các tầu dự án 956 và 956-E à không có hầm cho máy bay trực thăng đỗ, chỉ có một hầm kéo ra thu vào cơ động. Nhưng trên tầu khu trục mới, điểm yếu đó được loại trừ do đã bỏ đi khẩu pháo hạm 130mm đuôi tầu và chỉ còn lại một pháo hạm 130 mm trước mũi, ở vị trí đó được thay thế bằng hệ thống tên lửa phòng không Shtic, trong khoang boong tầu phía sau dưới cột chính của tầu đã bố trí khoang chứa máy bay trực thăng KA-28 và vũ khí trang bị cho máy bay. Chiều dài của tầu cũng lớn hơn đồng thời lượng giãn nước của khu trục hạm cũng lớn, nhưng hệ thống vũ khí chống ngầm của tầu khu trục không thay đổi so với thế hệ trước. Các tầu khu trục dự án 956-EM được đưa lên đà tầu từ tháng 7 đến tháng 10 năm 2002 tại Tập đoàn đóng tầu Biển Bắc tại St.Petersburg. Tháng 12 năm 2005, tầu khu trục với mã số trên thân tầu à 693 được đoàn đại biểu quân sự Trung Quốc tiếp nhận và chuyển giao cho Hải Quân của PLA, biên chế vào lực lượng Hải quân, tầu mang tên là Thái Châu với số hiệu thân tầu là 138. Chiếc khu trục hạm thứ 2 được long trọng hạ thủy vào ngày 23 tháng 6 năm 2004, được đưa vào ụ tầu cạnh bờ và tiếp tục hoàn thiện trên mặt nước. Một số các phương án biên chế vũ khí trang bị, phương tiện chiến tranh cho các tầu khu trục Trung Quốc Vũ khí tiến công chủ lực của các tầu khu trục Trung Quốc là các tên lửa chống tầu "Mosquito"với vận tốc siêu âm đến 3M và có thể cơ động với tải trọng hơn 10g, trở thành một mục tiêu rất khó tiêu diệt ngay cả đối với các tầu chiến được trang bị hệ thống "Aegis" và tên lửa SM-3 (mặc dù tổ hợp Aegis hiện này là tổ hợp có khả năng tiêu diệt tên lửa chống tầu cao nhất hiện nay). Khả năng đánh chặn được tên lửa của tổ hợp "Sea Sparrow" là một vấn đề còn nhiều nghi vấn. Ngoài ra, người Trung Quốc còn cho xuất xưởng một thế hệ tên lửa chống tầu mới YJ-82 (C-802) - YJ-83, có tầng tăng tốc với tốc độ siêu âm giai đoạn cuối đạt đến 1,5M. Chúng ta có thể nói thêm một chút về tên lửa chống tầu YJ-62. Tên lửa được phát triển bởi tổ hợp đóng tầu Trung Quốc China Aerospace Science and Industry Corporation (Viện hàn lâm khoa học vũ trụ số 3). Tên lửa được đưa vào biên chế cho Hải quân Trung Quốc vào năm 2004. Như các chuyên gia đã nhận định, khi phát triển tên lửa chống tầu YJ-62 có sử dụng những thành phần công nghệ của tên lửa Tomahawk, người Trung Quốc thu được từ Afganixtan và Iraq, đồng thời cũng thêm vào đó các thành tố công nghệ tên lửa X-55 Liên bang Xô Viết mà Trung Quốc mua lại được từ Ucraina. Thông số kỹ chiến thuật: Tầm bắn, km 40 - 400 (280 đối với C-602, phiên bản xuất khẩu); Tốc độ bay, М 0.6-0.9 Tầm cao bay trên mặt biển, m 7-10 Tầm cao bay trên đất liền, m 30 Kích thước: - Dài (không có động cơ tăng tốc) m 6.1; - Dài (với động cơ tăng tốc) m 7.0; - Đường kính, m 0.54 - Sải cánh, m 2.9 Khối lượng cất cánh, kg 1350 Khối lượng động cơ tăng tốc, kg 210 Khối lượng đầu nổ, kg 300 Hệ thống phòng không được thực hiện bằng các tên lửa phòng không ống phóng thẳng đứng tầm xa như Rif-M; HQ-9, các tổ hợp tên lửa phòng không tầm trung Shtil-1 và tổ hợp tên lửa phòng không Trung quốc sản xuất "Nawal Krotal" HQ-7 tầm gần. Một hệ thống đươc xác định là hiện đại hơn cả là tổ hợp Kastan, và tổ hợp súng tự động AK-630 hoặc type 730. Một câu hỏi được đặt ra: Tại sao Lực lượng Hải quân PLA, đưa vào biên chế các tầu khu trục dự án 052C với hệ thống phòng không tầm xa, các hệ thống radars mảng pha tương tự Aegis, lại biên chế các hệ thống tên lửa nhập khẩu từ Nga Rif-M. Có thể thấy rằng, các tầu khu trục của Hải quân PLA trong giai đoạn thập kỷ đầu thế kỷ 21 chỉ là các cụm tầu với seria chế tạo số lượng nhỏ, được tính là các mẫu nghiên cứu để phát triển các giải pháp công nghệ và chiến thuật sử dụng chiến hạm trên biển trong tương lai, khi hình thành các hạm đội tầu lớn, có khả năng tác chiến biển xa (các mẫu hạm đội). Cho đến ngày nay, các hạm đội tầu Trung quốc đã tương đối đầy đủ lực lượng và hạ tầng khoa học công nghệ, khi tăng cường thêm tầu sân bay (mẫu tầu Liêu Ninh hoặc Kiev), lực lượng hải quân PLA hoàn toàn có đủ lực lượng để biên chế tổ chức các cụm quân lực chủ công với đầy đủ vũ khí tấn công, phòng không và chống ngầm. Hải quân PLA cũng đã đặt ra những hướng phát triển mới cho các lớp tầu của Trung Quốc, trong tương lai gần sẽ hiện đại hóa các tầu khu trục theo dự án 52 đã lỗi thời ( NATO là Luhu-class). 1 – 1 pháo hạm х1- 100-mm «Creusot-Loire T100C» (pháo do Trung Quốc sản xuất "tương đương"); 2 – 2 dàn phóng tên lửa phòng không х 16 ống phóng thẳng dứng (Có thể sử dụng tên lửa Trung Quốc HQ-16); 3 – Súng phòng không tự động siêu tốc "type 730"; 4 – Trạm radar"Mineral - E" ; 5 - radar "Frigate-ME” »; 6 – Đài radars tầm xa phát hiện và cảnh báo sớm "Type517"; 7 – 2 dàn phòng х 4 ống phóng tên lửa “YJ-62” (có thể sử dụng tên lửa chống tầu loại JY-83, 2 hoặc 4 х 4 dàn phóng), 8 – 2 dàn phóng đạn gây nhiễu х 18 ống phóng đạn gây nhiễu. Phương án nâng cấp và lắp đặt vũ khí trang bị tương đối tốt so với một tầu khu trục thế hệ 052, tiềm lực hỏa lực của các khu trục hạm vẫn chưa tương đương với các khu trục hạm trong khu vực như Nhật Bản hoặc Hàn Quốc, hỏa lực phòng không còn hạn chế, mặc dù tầu khu trục được sản xuất vào những năm 90 – x. Một trong những phương án đóng tầu được quan tâm chú ý của Hải quân Trung Quốc, đó là hoàn thiện và nâng cấp loại tầu khu trục dự án 052B với thay đổi hệ thống tên lửa phòng không Shtil1 với các ống phóng tên lửa revolve bằng các tên lửa HQ-16 với ống phóng thẳng đứng, Các tên lửa HQ-16 được lắp đặt theo quy chuẩn trên các tầu hộ tống tên lửa theo dự án 054A. Những kế hoạch phát triển loại tầu frigate hạng nhẹ đang được Hải quân Trung Quốc phát triển mạnh mẽ nhằm đáp ứng yêu cầu tác chiến khu vực các vùng nước gần Trung Quốc. Giai đoạn gần đây nhất, xuất hiện xu hướng trang bị hệ thống "Aegis made in china" – các tầu khu trục tên lửa loại 052D với dự kiến cân bằng lực lượng với các khu trục hạm Nhật Bản và Hàn Quốc. Song hành cùng với phát triển vũ khí trang bị, Trung Quốc cũng có tham vọng nâng cao công suất của động cơ trạm nguồn nhằm tăng cường tốc độ cơ động, dự trữ hải trình và những vấn đề liên quan đến nguồn năng lượng phục vụ thân tầu khi lắp đặt các hệ thống tên lửa, hệ thống radars chống tên lửa. Đồng thời thay thế các hệ thống tên lửa dùng thùng phóng đạn như S-300 F thay cho các ống phóng tên lửa dạng revolver, và phóng đạn đặc chủng không đa đạn. Trong tương lai gần, sẽ sử dụng các tên lửa được phát triển từ các mẫu tên lửa S-300F như RAM -116. Với khát vọng vươn ra đại dương, giành những cái gọi là quyền lợi của chủ nghĩa dân tộc, các chiến hạm của Trung Quốc với phương án thiết kế chế tạo sao chép công nghệ, mua chuyên gia và tự mình nghiên cứu chế tạo, các lớp tầu khu trục tên lửa, tầu hộ tống đang dần cân bằng tiềm năng kỹ chiến thuật đối với các lực lượng Hải quân của các cường quốc biển. Trung Quốc hy vọng với những chiến hạm hiện đại tự nghiên cứu thiết kế, sẽ trở thành các kỳ hạm của hạm đội mà sức mạnh của nó có thể sánh ngang được với những kỳ hạm của Nga hoặc Mỹ. |
Thứ Hai, 25 tháng 3, 2013
>> Tham vọng về tàu khu trục của Hải Quân Trung Quốc
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Chuyên mục Quân Sự
Hải quân Trung Quốc
(263)
Hải quân Mỹ
(174)
Hải quân Việt Nam
(171)
Hải quân Nga
(113)
Không quân Mỹ
(94)
Phân tích quân sự
(91)
Không quân Nga
(83)
Hải quân Ấn Độ
(54)
Không quân Trung Quốc
(53)
Xung đột biển Đông
(50)
Không quân Việt Nam
(44)
tàu ngầm
(42)
Hải quân Nhật
(33)
Không quân Ấn Độ
(16)
Tàu ngầm hạt nhân
(15)
Hải quân Singapore
(12)
Xung đột Iran - Israel
(12)
Không quân Đài Loan
(9)
Siêu tên lửa
(8)
Quy tắc ứng xử ở Biển Đông
(7)
Tranh chấp biển Đông
(7)
Xung đột Trung - Mỹ
(4)
Xung đột Việt-Trung
(2)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét