[VITINFO news] Sức mạnh của lực lượng hạt nhân chiến lược Trung quốc đang tăng lên nhanh chóng. Mặc dù còn khó đuổi kịp Mỹ, nhưng trong một tương lai gần việc đuổi kịp Nga là điều hoàn toàn có khả năng thực tế.
>> Nga: Nhìn nhận về lực lượng vũ trang Trung Quốc (P.1)
>> Nga: Nhìn nhận về lực lượng vũ trang Trung Quốc (P.2) Ban lãnh đạo Trung quốc coi LLHNCL (ở Trung quốc còn được gọi là Dàn pháo thứ hai) là lực lượng kiềm chế. LLHNCL của Trung quốc được xây dựng trên quan điểm “phòng vệ bằng phản đòn hạt nhân hạn chế”. Mặc dù Trung quốc chính thức tuyên bố rằng Trung Quốc sẽ không sử dụng vũ khí hạt nhân đầu tiên, nhưng theo một số nguồn tin, khả năng này có thể xảy ra trong trường hợp quân đội Trung quốc bị tổn thất nặng nề. Không những thế, sự hạn chế về về lực lượng nhiều khi đòi hỏi phải có cú đánh trước để gây tổn thất tối đa cho đối phương ngay trong những giây phút đầu tiên của cuộc chiến. Trung Quốc chế tạo cả tên lửa đạn đạo liên lục địa (TLĐĐLLĐ) loại cố định (phóng từ dưới hầm lên) và TLĐĐLLĐ loại cơ động (phóng từ các bệ phóng cơ động). TLĐĐLLĐ cơ động “Dongfeng-31” được chế tạo tại Trung Quốc trong những năm gần đây. Trong thời gian tới loại TLĐĐLLĐ này của Trung Quốc sẽ có khả năng mang nhiều đầu đạn (hiện nay chỉ có một đầu đạn). Trung quốc đang nghiên cứu chế tạo TLĐĐLLĐ “Dongfeng-41” và sẽ lắp 3 đầu đạn công suất (50-100) kilôton cho loại tên lửa này và tên lửa “Dongfeng-31” (theo một số nguồn thông tin khác thì hai loại tên lửa này có thể được lắp tới 6 đầu đạn). Trung quốc còn có khoảng 50 TLĐĐLLĐ “Dongfeng-5” (bản sao TLĐĐLLĐ P-7 của Liên Xô trước đây). TLĐĐLLĐ “Dongfeng-5” mang đầu đạn công suất (2-5) Megaton có thể bay tới bất kỳ điểm nào của nước Mỹ, chỉ trừ các vùng phía nam Florida. Các dữ liệu về kho vũ khí hạt nhân và TLĐĐLLĐ của Trung quốc được biết đến chỉ mang tính ước lượng. Phần lớn các tên lửa này được dấu kín trong hầm và hang động, giữ cho chúng không bị tiêu diệt khi đối phương tấn công bằng vũ khí hạt nhân cũng như vũ khí thông thường. Ngoài TLĐĐLLĐ Trung quốc còn có khoảng (20-30) tên lửa đạn đạo tầm trung “Dongfeng-4”, (50-90) tên lửa đạn đạo tầm trung “Dongfeng-3”, 50 tên lửa đạn đạo tầm trung “Dongfeng-21” (là loại tên lửa đạn đạo mới nhất của Trung quốc). Do giữa Nga và Trung Quốc có đường biên giới dài trên đất liền nên hầu hết các tên lửa đạn đạo của Trung Quốc đối với Nga đều mang tính chiến lược. Ngay loại tên lửa đạn đạo tầm trung “Dongfeng-4” mang đầu đạn công suất (2-5) Megaton đã có thể bay tới tận Moscow từ các vùng phía đông của Trung Quốc. Vì thế tên lửa này còn có tên gọi không chính thức là “tên lửa Moscow”. Theo một số nguồn dữ liệu thì tên lửa “Dongfeng-4” không phải là tên lửa đạn đạo tầm trung mà là TLĐĐLLĐ có cự ly hoạt động như tên lửa “Dongfeng-5”. Tên lửa đạn đạo tầm trung “Dongfeng-3”, mang đầu đạn công suất từ 700 кт đến 3 Megaton, từ vùng Urumtri của Trung quốc có thể bay tới Nizhny Novgorod của Nga. Cự ly hoạt động của loại tên lửa này khoảng 3 nghìn km. Loại tên lửa mới nhất “Dongfeng-21” mang đầu đạn công suất (200-300) кт cũng có khả năng tương tự. Các vùng Primorsky, Khabarovsk, Zabaikal và nước cộng hòa Altai của Nga nằm trong phạm vi hỏa lực của các loại tên lửa chiến thuật và chiến dịch của quân đội Trung quốc (“Dongfeng-11”, “Dongfeng-15”, M-7). Trung quốc có khoảng vài nghìn tên lửa chiến thuật và chiến dịch các loại này, trong số đó khoảng (400-700) tên lửa được bố trí hướng về phía Đài Loan. Quân đội Trung quốc có sáu quân đoàn tên lửa (từ 51 đến 56), bao gồm 17 lữ đoàn. Quân đoàn 52, gồm bốn lữ đoàn, đóng quân ở tỉnh An Huy, được trang bị các loại tên lửa đạn đạo tầm trung và tên lửa chiến dịch để đối phó với Đài loan. Năm quân đoàn còn lại, đóng quân ở các vùng khác nhau, được trang bị các loại TLĐĐLLĐ và tên lửa đạn đạo tầm trung. TLĐĐLLĐ JL-2 (là tên gọi TLĐĐLLĐ “Dongfeng-31” của lực lượng Hải quân Trung quốc) sẽ được lắp trên loại tàu ngầm hạt nhân 094. Năm 2006 chiếc tàu ngầm hạt nhân đầu tiên loại này đã được đưa vào sử dụng. Trung quốc dự kiến sẽ đóng (2-4) tàu 094, mỗi tàu được trang bị 16 tên lửa đạn đạo JL-2. Đến năm 2010 Trung quốc có khoảng 200 TLĐĐLLĐ (cả trên đất liền và trên biển). Tình báo Trung Quốc đã lấy được các bản vẽ thiết kế loại đầu đạn mới nhất W-88, là loại được lắp trên tên lửa đạn đạo “Trident-2” của Mỹ; và bản thiết kế chế tạo bom neutron; nhờ đó đã giúp cho Trung Quốc có được sự tiến bộ đáng kể trong việc chế tạo các hệ thống vũ khí của Trung quốc, tiết kiệm được hàng trăm tỷ đô la và rút ngắn được khoảng 10 năm về thời gian. Từ những năm 90 của thế kỷ trước, mỗi năm Trung Quốc đã sản xuất ít nhất là 140 đầu đạn hạt nhân. Hiện nay lực lượng hạt nhân chiến lược (LLHNCL) của Trung quốc vẫn còn nhỏ và các loại tên lửa đạn đạo của Trung quốc có độ chính xác chưa cao, vì vậy LLHNCL của Trung quốc chưa có đủ khả năng tấn công phủ đầu các nước có LLHNCL tương đương, và càng không thể tấn công phủ đầu các nước có LLHNCL mạnh hơn Trung quốc. Tuy nhiên, khả năng chiến đấu của LLHNCL Trung quốc đang tăng lên nhanh chóng. Mặc dù còn khó để đuổi kịp Mỹ, nhưng trong một tương lai gần việc đuổi kịp Nga về LLHNCL là điều hoàn toàn có khả năng thực tế. |
Hiển thị các bài đăng có nhãn Họ tên lửa SS-N-12. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Họ tên lửa SS-N-12. Hiển thị tất cả bài đăng
Thứ Sáu, 8 tháng 4, 2011
>> Nga: Nhìn nhận về lực lượng vũ trang Trung Quốc P.4
Nhãn:
Họ tên lửa SS-N-12,
Lực lượng hạt nhân chiến lược,
Nga - Trung,
PLAN,
Quân đội Nga,
Quân đội Trung Quốc,
Russia,
tên lửa,
tên lửa đường đạn hạt nhân (SSBN)
Thứ Năm, 31 tháng 3, 2011
>> Tên lửa chống hạm của Nga (kỳ 2)
[BDV news]Những thế hệ tên lửa chế tạo trong giai đoạn 1970 - 1980 của Nga, đến nay còn nguyên giá trị tác chiến.
>> Tên lửa chống hạm của Nga (kỳ 1) >> Tên lửa chống hạm của Nga (kỳ 3) Họ tên lửa SS-N-9 Họ tên lửa SS-N-9 (NATO gọi là Siren) là loại tên lửa chống hạm tầm trung, được trang bị cho các tàu chiến loại nhỏ và tàu ngầm. SS-N-9 có tên thiết kế là Malakhit P-120, 4K84, bắt đầu được trang bị trong quân đội Nga từ năm 1972, có tầm bắn lên tới 110 km. Cho tới thời điểm hiện nay, SS-N-9 vẫn còn được sử dụng trong quân đội Nga và nhiều nước khác trên thế giới. Tuy nhiên, phần lớn loại tên lửa này đã được Nga thay thế bằng loại tên lửa đời mới hơn SS-N-22 Sunburn. P-120 có tầm bắn 110km, được trang bị cho hải quân Nga và nhiều nước trên thế giới. SS-N-9 có kích thước 0,96x11,85 m, sải cánh rộng 2,1 m, hoạt động trong bán kính từ 90-110 km với vận tốc cực đại lên tới 1.100 km/h. SS-N-9 có trọng lượng khoảng 3.200 kg, đầu nổ có thể là đầu đạn thường hoặc đầu đạn hạt nhân với trọng lượng lên tới 500 kg, sử dụng động cơ đẩy phản lực, nhiên liệu rắn. Malakhit P-120 được trang bị lần đầu tiên cho hải quân Liên Xô vào tháng 3/1972 trên các tàu nổi hộ tống lớp nhỏ như Tarantul, Nanuchka. Vào năm 1997, loại tên lửa này được trang bị cho các tàu ngầm lớp PAPA, với cơ số 8 tên lửa trên một tàu ngầm, trong đó có thể có 2 tên lửa mang đầu đạn hạt nhân. Tuy nhiên, các tàu ngầm lớp này đã được cho "về hưu", thay thế bằng những lớp tàu ngầm mới hiện đại hơn nhiều. P-120 được trang bị cho các tàu chiến lớp Tarantul, Nanuchka. Ảnh đưa tên lửa lên tàu chiến lớp Tarantul. Kể từ khi chính thức được trang bị cho hải quân, đến nay đã có hơn 500 tên lửa được sản xuất. Loại tên lửa này từng sử dụng trong cuộc đụng độ giữa Nga và Gruzia. Malakhit P-120 được trang bị hai đầu dẫn đường, một đầu dẫn bằng radar chủ động và một đầu tự dẫn bằng hồng ngoại. Radar dẫn đường của P-120 được đặt phía dướng bụng tên lửa, hoạt động ở dải tần tương tự khiến cho việc phát hiện và đối phó khi bị tấn công trở nên vô cùng khó khăn. Hơn thế, hệ thống dẫn đường của P-120 còn cho phép các người điều khiển có thể lập trình mục tiêu trước khi tên lửa được phóng đi. Trong cuộc chiến với Gruzia tháng 8/2008, P-120 trang bị cho hạm đội Biển đen đã đánh chìm một tàu chiến của Gruzia. So với các loại tên lửa chống hạm thế hệ trước, P-120 có thể được phóng trên mặt nước hoặc khi tàu ngầm đang lặn ở độ sâu 50m. Khi tên lửa được phóng, tên lửa bay lên cao với vận tốc siêu âm, rồi từ từ chuyển xuống bay là là, cách mặt nước khoảng 40 m. Trên đường hành trình tìm mục tiêu, nhân viên điều khiển có thể lập trình thay đổi đường đi và mục tiêu để có thể tấn công mục tiêu một cách chính xác hơn hoặc thay đổi mục tiêu tấn công theo yêu cầu của chỉ huy. Họ tên lửa SS-N-12 SS-N-12 (NATO gọi là Sandbox) là loại tên lửa chống hạm tầm xa, sử dụng nhiên liệu lỏng, được trang bị cho tàu sân bay Kiev của Liên Xô, các tàu ngầm lớp Echo II và Juliett và sau đó còn được trang bị cho các tàu khu trục lớp Slava và một số loại tàu chiến khác. Sandbox có khả năng tác chiến trong phạm vi 550 km, được trang bị cho tàu sân bay, các tàu ngầm và tàu khu trục lớp Slava. SS-N-12 có tên thiết kế là Bazalt P-500, Bazalt 4k80, bắt đầu được trang bị trong quân đội Nga từ năm 1975 với mục tiêu thay thế lớp tên lửa Shaddock. P-500 có kích thước 11,7x1,544 m, sải cánh rộng 2,6m, hoạt động trong bán kính khoảng 550 km, có thể mang đầu đạn thường (từ 500 kg đến 1.000 kg) hoặc đầu đạn hạt nhân (350KT). Các ống phóng tên lửa Sandbox trên tàu khu trục lớp Slava. Tên lửa sử dụng hệ thống dẫn đường quán tính và radar hoạt động chế độ chủ động. Do tầm hoạt động xa, hệ thống dẫn đường của tên lửa được cập nhật thông quan một số loại máy bay như Tu-95, Ka-25 và Ka-27 Helix hoặc thông tin truyền dẫn qua vệ tinh. Điểm ưu việt của thế hệ P-500 là hệ thống gây nhiễu điện tử hiện đại, khiến cho hệ thống phòng thủ đối phương khó có thể phát hiện và tiêu diệt trước khi tên lửa lao đến mục tiêu. So với các thế hệ tên lửa trước đó, P-500 có tầm hoạt động xa hơn và bay thấp hơn khiến cho hệ thống phòng thủ của đối phương trở nên vô hiệu. Do có phạm vi tác chiến xa, Sandbox thường sử dụng hệ thống dẫn đường truyền dẫn qua một số loại máy bay như Tu-95, Ka-25 và Ka-27 Helix Họ tên lửa SS-N-19 Không thỏa mãn với khả năng tấn công của các thế hệ tên lửa trước đó, vào giữa thập kỷ 1970, Liên Xô tiếp tục yêu cầu các nhà thiết kế vũ khí nghiên cứu loại tên lửa chống hạm có tên SS-N-19 (NATO gọi là Shipwreck) với khả năng hỏa lực mạnh và xác định đây là vũ khí số một nhằm trang bị cho các tàu chiến cỡ lớp, các tàu sân bay và tàu ngầm tên lửa. Shipwreck được thiết kế nhằm chống lại các mục tiêu là các tàu sân bay, các hạm đội lớn của đối phương. SS-N-19 có tên thiết kế là Chelomey P-700 Granit, 3M45, kích thước 0,96x10,2 m, sải cánh rộng 3,2 m, hoạt động trong phạm vi 450 km với vận tốc tối đa lên tới 1,7M (gấp 1,7 lần vận tốc âm thanh). Thân tên lửa P-700 được thiết kế để có thể chịu được vận tốc siêu âm ở độ cao thấp. P-700 sử dụng động cơ tua bin phản lực nhiên liệu lỏng hoặc động cơ phản lực thẳng dòng. P-700 có trọng lượng lên tới 4.350 kg, có thể sử dụng đầu đạn thường, nặng 750 kg hoặc đầu đạn hạt nhân với sức công phá lên tới 500KT. Vị trí bố trí tên lửa Shipwreck trên tàu khu trục tên lửa lớp Kirov của Nga P-700 được trang bị hệ thống điều khiển bắn hiện đại với hàng loạt cải tiến. Hệ thống dẫn đường, kiểm soát mục tiêu hoạt động thông qua nhiều cảm biến, cho phép hệ thống có thể tự động lựa chọn các mục tiêu. Tính năng mới này nhằm mục đích thực hiện các cuộc tấn công vào các hải đội của đối phương và lựa chọn mục tiêu có giá trị nhất để tiêu diệt. Radar dẫn đường được đặt ở phía mũi của tên lửa. Trong quá trình hành trình tìm mục tiêu, radar của tên lửa hoạt động ở chế độ chủ động trên dải băng tần X. Khi tên lửa tiến gần đến mục tiêu, rada chủ động chuyển sang hoạt động ở dải băng tần Ku. Shipwreck được trang bị hàng loạt cho các tàu chiến lớp Oscar. Ảnh là một chiếc tàu chiến lớp Oscar. P-700 được trang bị hàng loạt cho các tàu ngầm thuộc lớp Oscar. Mỗi tàu ngầm có 20 ống phóng chứa tên lửa, được đặt nghiêng một góc 47 độ. Trước khi tên lửa được phóng ra khỏi ống, ống phóng sẽ được nước tràn ngập. Họ tên lửa SS-N-21 SS-N-21 (NATO gọi là Sampson) có tên thiết kế là 3k10 Granat, RK-55 Granat, S-10/3M10 là tên lửa đối hạm chiến lược tầm trung, trang bị cho tàu ngầm, sử dụng động cơ đẩy phản lực và bắt đầu trang bị cho hải quân Nga kể từ năm 1984. Sampson được xem là loại tên lửa có khả năng tác chiến ngang ngửa với tên lửa Tomahawk của Mỹ. Granat được cho là có khả năng tấn công và tiêu diệt mục tiêu ngang ngửa với tên lửa Tomahawk của Mỹ. Ảnh là một quả tên lửa RK-55 Granat. Sampson được thiết kế nhằm trang bị cho các tàu ngầm lớp Victor 3, Akula 1/2, Sierra 1/2 và Yankee Notch. Mỗi tàu ngầm có thể mang từ 20-35 tên lửa. Sampson có kích thước 8,09x0,51 m, trọng lượng 1.700 kg, có thể phóng từ ống phóng ngư lôi 533 mm. Sampson sử dụng hệ dẫn đường quán tính, có khả năng cập nhật thông tin địa hình trên đường bay và điều khiển từ trung tâm chỉ huy. Sampson có thể tiêu diệt mục tiêu cách tàu lên tới 2.400km, hành trình trên biển với vận tốc 0,7 M, mang đầu đạn hạt nhân có sức công phá 200 kt hoặc đầu đạn thường nặng 400 kg hoặc đầu đạn có chứa nhiều đầu đạn con bên trong. Samspon được trang bị cho các tàu ngầm lớp Victor 3, Akula 1/2, Sierra 1/2 và Yankee Notch. Ảnh là một chiếc tàu ngầm lớp Yankee Notch của Nga. Kể từ khi chính thức đưa vào trang bị cho hải quân, đến nay, có hơn 240 tên lửa Sampson triển khai trên 37 tàu ngầm của Nga. Theo Hiệp ước cắt giảm vũ khí chiến lược START 2, loại tên lửa này đã được cắt giảm đáng kể, hiện còn khoảng 200 tên lửa. Tuy nhiên, một số nguồn tin cho rằng, một số tên lửa này đã được hoán cải mang đầu đạn thông thường hoặc loại mang nhiều đầu đạn con. Nguồn tin cho hay, có thể Nga trang bị loại tên lửa này cho các tàu ngầm hiện đại lớp Delta 1/2/3 và có thể triển khai trên một số khu trục hạm. |
Nhãn:
Hải quân Nga,
Họ tên lửa SS-N-12,
Họ tên lửa SS-N-9,
Khu trục lớp Slava,
Sandbox missile,
Shipwreck,
Tàu chiến lớp Oscar,
tên lửa,
Tên lửa chống hạm,
Tomahawk,
Tu-95
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)
Chuyên mục Quân Sự
Hải quân Trung Quốc
(263)
Hải quân Mỹ
(174)
Hải quân Việt Nam
(171)
Hải quân Nga
(113)
Không quân Mỹ
(94)
Phân tích quân sự
(91)
Không quân Nga
(83)
Hải quân Ấn Độ
(54)
Không quân Trung Quốc
(53)
Xung đột biển Đông
(50)
Không quân Việt Nam
(44)
tàu ngầm
(42)
Hải quân Nhật
(33)
Không quân Ấn Độ
(16)
Tàu ngầm hạt nhân
(15)
Hải quân Singapore
(12)
Xung đột Iran - Israel
(12)
Không quân Đài Loan
(9)
Siêu tên lửa
(8)
Quy tắc ứng xử ở Biển Đông
(7)
Tranh chấp biển Đông
(7)
Xung đột Trung - Mỹ
(4)
Xung đột Việt-Trung
(2)