Vì sao Trung Quốc gây hấn với hầu hết các nước láng giềng? Có lẽ vì Trung Quốc tự coi mình là bá chủ châu Á. >> Thất bại của 054A: Sự sỉ nhục công nghiệp đóng tàu Trung Quốc Trong thời gian qua, Trung Quốc đã gây hấn với hầu hết các nước láng giềng. Trên đất liền, Trung Quốc đột nhập sâu vào lãnh thổ Ấn Độ. Trên biển, Trung Quốc đưa tàu tiến sát các hòn đảo và bãi đá ngầm mà Philippines đang chiếm đóng, đưa một đội tàu cá “hùng hổ” tiến tới vùng biển Trường Sa và liên tục đưa tàu công vụ xâm nhập quấy rối ở vùng biển Senkaku/Điếu Ngư. Cục Hải dương Nhà nước Trung Quốc có kế hoạch tăng cường tuần tra biển và không loại trừ xung đột quân sự, trong khi giới học giả Trung Quốc đòi cả đảo Okinawa của Nhật Bản… Chủ nghĩa dân tộc đang dâng cao ở Trung Quốc. Những động thái gây hấn này phản ánh chiến lược quyết đoán liên quan đến tranh chấp lãnh thổ với các nước láng giềng của nhà lãnh đạo mới Tập Cận Bình. Điều này cũng cho thấy quân đội Trung Quốc là một thành tố mạnh mẽ trong chiến lược củng cố vị thế của ông Tập trên cương vị Chủ tịch nước, Chủ tịch Quân ủy Trung ương và Tổng Bí thư ĐCS Trung Quốc. Qua đó, quân đội Trung Quốc có ảnh hưởng nhiều hơn trong các tính toán chiến lược và phô trương sức mạnh ở những vùng lãnh thổ mà Trung Quốc đang tranh chấp với các nước láng giềng. Từ nhiều thập kỷ qua, Trung Quốc đã tỏ ra quyết đoán trong tranh chấp chủ quyền lãnh thổ với Ấn Độ; phản đối đe dọa mọi công ty dầu khí nước ngoài hợp tác với Việt Nam ở Biển Đông; hành động thô bạo chống Philippines liên quan đến bãi cạn Scarborough và ráo riết trả đũa việc Nhật Bản quốc hữu hóa 3 hòn đảo trong quần đảo Senkaku/Điếu Ngư. Thế nhưng, khác với trước đây, các hành động xâm phạm lãnh thổ Ấn Độ trên đất liền diễn ra đồng thời với việc Bắc Kinh ráo riết tranh chấp biển đảo và ngang nhiên coi các vùng biển tranh chấp với các nước láng giềng là “lợi ích cốt lõi” của Trung Quốc giống như các khu tự trị Tây Tạng, Tân Cương. Cuộc xâm nhập gần đây của quân lính Trung Quốc vào khu Ladakh là nhằm “nắn gân” quyết tâm bảo vệ lãnh thổ của Ấn Độ, đồng thời nhằm thách thức việc New Delhi tăng cường xây dựng cơ sở hạ tầng và triển khai quân đội gần biên giới. Hành động ngang ngược này xuất phát từ việc Trung Quốc tự coi mình là bá chủ ở châu Á. Nó cũng phản ánh mức độ nghiêm trọng hơn trong tranh chấp lãnh thổ giữa Trung Quốc với các nước láng giềng. Quân đội Trung Quốc ngày càng có ảnh hưởng đến tính toán chiến lược và phô trương sức mạnh. Chiến lược gây hấn với các nước láng giềng của Trung Quốc là một chiến lược phản tác dụng và gây bất lợi cho “giấc mơ Trung Hoa” của ông Tập Cận Bình. Đây là một chiến lược thiển cận và khiến cho các nước láng giềng nghi ngờ về cái gọi là “trỗi dậy hòa bình” của Trung Quốc. Chiến lược thiển cận này đã khiến cho công sức “ve vãn láng giềng” mà Trung Quốc bỏ ra trong nhiều thập kỷ qua “đổ xuống sông, xuống biển” và dẫn đến việc thành lập các liên minh chống Trung Quốc ở trong và ngoài khu vực. Với việc chỉ còn Pakistan và Triều Tiên là đồng minh, Trung Quốc không thể nào trở thành lãnh đạo châu Á, bất chấp tiềm lực kinh tế và sức mạnh quân sự chiến vị trí số 1 ở châu lục này. Vụ xâm nhập của binh lính Trung Quốc ở Ladakh sẽ khiến cho Ấn Độ buộc phải lựa chọn đứng về phía các nước chống một Trung Quốc đang ngày càng bị coi là “kẻ bắt nạt” trong khu vực, với các hành vi thiếu kiềm chế chiến lược và ngày càng thô bạo hơn. Xét theo tất cả các khía cạnh nói trên, Trung Quốc xem ra không phải là một cường quốc thực thụ. Bắc Kinh cần phải suy nghĩ lại về chiến lược khiêu khích đang thúc đẩy các nước láng giềng tham gia liên minh dựa trên chiến lược “kiềm chế sự trỗi dậy của Trung Quốc”. Bắc Kinh không nên chỉ đổ lỗi cho phương Tây mưu toan “kiềm chế” Trung Quốc, mà nên nhận thức được rằng chính hành động gây hấn ngày càng độc đoán của mình đang ngày càng khiến cho các nước láng giềng nghi ngờ xa lánh và càng khiến cho Trung Quốc không xứng đáng là một cường quốc có trách nhiệm trên thế giới. (Phân tích quân sự) |
Hiển thị các bài đăng có nhãn Quân đội Trung Quốc. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Quân đội Trung Quốc. Hiển thị tất cả bài đăng
Thứ Hai, 13 tháng 5, 2013
>> Trung Quốc tự coi mình là bá chủ châu Á?
>> Bí mật kho vũ khí hạt nhân của Trung Quốc
Trung Quốc đang nhanh chóng xây dựng một quân đội lớn hơn, trang bị vũ khí tinh vi hơn. Đây là những gì họ có, những gì họ muốn có, và những gì có ý nghĩa đối với Mỹ. Ẩn kiếm Năm 2006, Trung Quốc hé lộ một thiết kế máy bay không người lái (UAV) gọi là Anjian (Ẩn kiếm, Dark Sword), nhưng từ đó nó đã biến mất khỏi con mắt công chúng. Các nhà phân tích phương Tây không chắc liệu máy bay này vẫn còn đang được phát triển hay không. Nếu có, những tính năng thiết kế nhất định, chẳng hạn như một động cơ phản lực-không khí dòng thẳng (ramjet) cho thấy đây là một UAV tốc độ cao, có thể làm nhiệm vụ giám sát và tấn công ở xa bờ biển Trung Quốc. Dù số phận của Dark Sword ra sao, các kế hoạch UAV của Trung Quốc vẫn đầy tham vọng. Mùa hè 2012, chính phủ Trung Quốc đã công bố các kế hoạch xây dựng 11 căn cứ UAV ở ven biển. Ẩn kiếm Dực thủ long I UAV Dực thủ long I (Pterodactyl I) của Trung Quốc rất giống với UAV Predator của quân đội Mỹ. Dường như, nó được thiết kế cho nhiệm vụ giám sát thời gian dài, ở độ cao trung bình, và tấn công. Một UAV khác của Trung Quốc là Thăng Long (Soaring Dragon) trông giống như một phiên bản nhỏ hơn của RQ-4 Global Hawk của quân đội Mỹ. Các nhà phân tích cho rằng, nó được thiết kế để giám sát trên biển và trinh sát ở độ cao lớn. Dực thủ long I và Thăng long J-20 Năm 2011, quân đội Trung Quốc đã bắt đầu thử nghiệm J-20, tiêm kích tàng hình đầu tiên do Trung Quốc tự phát triển. Máy bay này được cho là có thể được đưa vào trang bị sau năm 2017. Các nhà phân tích cho rằng, J-20 được trang bị lớp phủ làm tán xạ sóng radar và có các khoang vũ khí bên trong thân. Hiện có rất ít thông tin công khai về chương trình về chương trình phát triển máy bay tiêm kích của Trung Quốc, nhưng sự xuất hiện vào tháng 9/2012 của mẫu chế thử tiêm kích tàng hình thứ hai là J-31 Falcon Eagle mà một số nhà quan sát cho là có thể có khả năng cất/hạ cánh trên tàu sân bay cho thấy, J-20 chỉ là loại đầu tiên trong một loạt các tiêm kích tiên tiến của Trung Quốc. Tiêm kích J-20 DF-21D Tên lửa đạn đạo triển khai tĩnh tại là mục tiêu dễ dàng cho các lực lượng đối phương để tiêu diệt bằng đòn tấn công phủ đầu. Các tên lửa cơ động DF-21D phóng từ xe ô tô bệ phóng thì không phải như vậy. Sau khi được phóng lên từ gần bờ biển, tên lửa bay vào vũ trụ rồi quay trở lại khí quển với tốc độ hơn 3.000 dặm/h và lao 1.300 kg thuốc nổ vào mục tiêu. Trung Quốc không đặt cho DF-21D biệt danh “sát thủ tàu sân bay”. Các nhà phân tích quân sự Mỹ đã làm như vậy. Tên lửa đường đạn đạo chống tàu DF-21D Thần Long Với một trạm không gian đang được xây dựng và các kế hoạch cho một chuyến bay vũ trụ có người lái lên mặt trăng, Trung Quốc đang tìm cách làm thay đổi cán cân sức mạnh trên quỹ đạo. Năm 2007, Trung Quốc đã phô trương các tên lửa chống vệ tinh bằng cách bắn hạ một vệ tinh thời tiết bị loại bỏ, tạo ra 40.000 mảnh rác trong vũ trụ. Hiện nay, họ đang thử nghiệm một phương tiện bay quỹ đạo không người lái quỹ đạo có tên là Thần long (Shenlong). Có thể sánh với máy bay vũ trụ X-37B của Không quân Mỹ, Thần long có thể nhanh chóng đặt các vệ tinh vào quỹ đạo và có tiềm năng mang các vũ khí có thể vô hiệu hóa các vệ tinh thông tin, định vị và giám sát của các quốc gia đối địch. Máy bay vũ trụ Thần Long (Nguồn : Vietnamdefence) |
Thứ Hai, 6 tháng 8, 2012
>> Mỹ tăng cường triển khai chiến lược quân sự nhằm vào Trung Quốc
Gần đây, Mỹ liên tiếp có các động thái điều chỉnh bố trí quân sự nhằm vào Trung Quốc như triển khai máy bay Osprey, F-22, tổ chức diễn tập quân sự… >> Tàu hộ tống NS Satpura - "Át chủ bài" của Hải quân Ấn Độ Mỹ có kế hoạch triển khai 24 máy bay cánh xoay MV-22 Osprey ở căn cứ Futenma, Okinawa, Nhật Bản, hiện đã đưa 12 máy bay loại này đến căn cứ Iwakuni,Nhật Bản. Mỹ có kế hoạch triển khai 24 máy bay cánh xoay MV-22 Osprey ở căn cứ Futenma, Okinawa, Nhật Bản, hiện đã đưa 12 máy bay loại này đến căn cứ Iwakuni,Nhật Bản. Dành một vị trí thường trực cho sĩ quan liên lạc Nhật Bản tại bộ phận chỉ huy của quân Mỹ Ngày 3/8, Bộ trưởng Quốc phòng Nhật Bản Satoshi Morimoto bắt đầu có chuyến thăm chính thức đầu tiên tới Mỹ kể từ khi lên nhậm chức đến nay. Hai bên sẽ trao đổi ý kiến về các vấn đề như kế hoạch điều chỉnh quân Mỹ đóng tại Nhật Bản, tăng cường đồng minh Mỹ-Nhật trong bối cảnh Mỹ điều chỉnh chiến lược quân sự ở châu Á-Thái Bình Dương. >> Vì sao người Trung Quốc không có đồng minh? Do 12 máy bay vận tải cánh xoay MV-22 Osprey của quân Mỹ đến Nhật Bản ngày 23/7 hiện vẫn bị dư luận Nhật Bản phản đối mạnh, Bộ trưởng Quốc phòng Nhật Bản Satoshi Morimoto sẽ phản hồi lại sức ép của người dân trong nước bằng cách đáp máy bay Osprey tại Mỹ, nhằm tiếp tục liên kết với Mỹ trên phương diện gia tăng cường độ bố trí quân sự ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Lần này Mỹ-Nhật phối hợp lập trường còn có một bối cảnh khác là, ngày 31/7, Nhật Bản công bố “Sách trắng Quốc phòng” năm 2012 đã bị Trung Quốc phê phán kịch liệt. Trong chiến lược quân sự châu Á-Thái Bình Dương của Mỹ, Nhật Bản có vai trò quan trọng của một đồng minh tin cậy. Trong nhiều ngày qua, Mỹ-Nhật dồn dập tương tác quân sự, Mỹ rõ ràng gia tăng mức độ đầu tư sức mạnh quân sự cho các căn cứ quân Mỹ tại Nhật Bản. Sau khi máy bay chiến đấu/vận tải cánh xoay Osprey đến Nhật Bản, ngày 28/7, 8 máy bay chiến đấu F-22 Raptor cũng đến căn cứ Kadena ở tỉnh Okinawa, Nhật Bản. Nghe nói, quân Mỹ sẽ còn triển khai 12 máy bay chiến đấu F-22 Raptor ở căn cứ này vào nửa cuối năm nay. Máy bay chiến đấu tàng hình F-22 tại căn cứ quân Mỹ ở Okinawa, Nhật Bản Ngày 2/8, quân Mỹ tiết lộ, Mỹ-Nhật đang triển khai phối hợp, có kế hoạch dành một vị trí thường trực cho sĩ quan liên lạc của Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản tại Bộ Tham mưu Không quân và Bộ Tác chiến Hải quân Mỹ ở ngoại ô Washington. Nếu điều này được thực hiện thì đây là lần đầu tiên Nhật Bản cử nhân viên đến cơ quan trung tâm của Hải quân và Không quân Mỹ. “Tác chiến hợp nhất trên không-trên biển” lấy Trung Quốc làm “hồng tâm” Trong tất cả những hoạt động giao lưu và triển khai quân sự này, Trung Quốc đều trở thành chủ đề trung tâm. Ngày 2/8, tờ “Bưu điện Washington” có bài viết cho rằng, trong 20 năm qua, Lầu Năm Góc luôn nghiên cứu cách thức dùng “tác chiến hợp nhất trên không-trên biển” đối phó Trung Quốc. Mục đích chính là nếu Mỹ-Trung xảy ra chiến tranh, trong trận đầu, máy bay ném bom tàng hình và tàu ngầm Mỹ sẽ phá hủy radar phát hiện tầm xa và hệ thống tên lửa chính xác trong đất liền Trung Quốc, khiến cho Quân đội Trung Quốc “mù lòa”, sau đó sẽ triển khai tấn công trên biển-trên không quy mô lớn đối với Trung Quốc. Tư tưởng “tác chiến hợp nhất trên không-trên biển” của quân Mỹ hoàn toàn không phải là tin mới, nhưng truyền thông Mỹ trần trụi tuyên truyền Trung Quốc là “hồng tâm” (điểm chính giữa của bia ngắm bắn) thì ít gặp. Sau khi Obama đưa ra chiến lược quay trở lại châu Á-Thái Bình Dương, Quốc hội Mỹ yêu cầu Lầu Năm Góc tiến hành đánh giá độc lập đối với chiến lược mới này. Về vấn đề này, Lầu Năm Góc giao cho Trung tâm Nghiên cứu Quốc tế và Chiến lược tiến hành viết báo cáo. Hiện nay, báo cáo “Chiến lược hành động của quân Mỹ ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương: Đánh giá độc lập” đã ra đời. Mỹ mới triển khai máy bay tác chiến điện tử EA-18G Growler ở khu vực Đông Bắc Á. Báo cáo cho rằng, tính không xác định về địa chính trị chủ yếu của Mỹ và đồng minh ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương là “sự trỗi dậy và vai trò ảnh hưởng tăng lên của Trung Quốc sẽ tác động ảnh hưởng thế nào đối với trật tự và ổn định”. Báo cáo thúc giục chính quyền Obama tăng tốc hiện diện quân sự ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương, điều nhiều hơn lính thủy đánh bộ, tàu ngầm hạt nhân tấn công, hệ thống tên lửa và các trang bị vũ khí khác. Báo cáo kiến nghị, ít nhất cần tiếp tục điều thêm một hoặc nhiều hơn tàu ngầm hạt nhân và hơn 5.000 binh sĩ lực lượng chiến đấu đổ bộ của lính thủy đánh bộ tới quanh Trung Quốc. Ngoài ra, Mỹ cũng nên điều nhiều hơn vũ khí trang bị tiên tiến như tàu tấn công đổ bộ, xe chiến đấu đổ bộ, máy bay chiến đấu đa dụng F/A-18, máy bay chiến đấu AV-8B Harrier, máy bay trực thăng tấn công. Guam nằm ở trung tâm Tây Thái Bình Dương, là trung tâm chiến lược quan trọng kiểm soát tình hình châu Á-Thái Bình Dương của Mỹ. Hiện nay, quân Mỹ đã triển khai một hạm đội 3 tàu ngầm hạt nhân tấn công, máy bay ném bom B-52 luân phiên ở khu vực này. Báo cáo đề nghị, cần tăng triển khai số lượng tàu ngầm tấn công ở Guam, triển khai mang tính vĩnh viễn 12 máy bay ném bom B-52. >> Vũ khí chiến lược Trung Quốc bị Mỹ bắt bài Trả lời báo cáo này, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Leon Panetta cho biết, rất nhiều đề nghị trong báo cáo thống nhất với quan điểm chiến lược của Lầu Năm Góc, Hải quân Mỹ sẽ tái bố trí lực lượng quân sự, từ 50% cho mỗi khu vực - Đại Tây Dương và Thái Bình Dương hiện nay, chuyển sang triển khai 60% lực lượng ở khu vực Thái Bình Dương. Quân Mỹ sẽ tăng số lần tiến hành diễn tập quân sự với đồng minh và bạn bè của khu vực này, tăng cường hiệu quả điều chỉnh lực lượng quân sự. Máy bay chiến đấu AV-8B Harrier của Quân đội Mỹ. Ngày 1/8, Ủy ban Quân sự, Hạ viện Mỹ tổ chức phiên điều trần về báo cáo trên. Tại phiên điều trần, Phó Trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Shirl cho biết, Lầu Năm Góc sẽ căn cứ vào đánh giá của báo cáo này, xem xét điều nhiều lực lượng quân sự hơn tới Guam. Mỹ triển khai quân sự ở châu Á-Thái Bình Dương còn rất nhiều khó khăn Báo chí Trung Quốc bình luận rằng: Mỹ khó che giấu được ý đồ chống lại Trung Quốc trong chiến lược quân sự của họ, nhưng họ vẫn tiếp tục hành động. Ngày 1/8, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ, người vừa kết thúc chuyến thăm các nước châu Á-Thái Bình Dương, ông Carter cho biết, đối với việc phát triển một khu vực châu Á-Thái Bình Dương hòa bình, thịnh vượng và an ninh, Trung Quốc có vai trò rất quan trọng. Ông nói, việc tái cân bằng sức mạnh quân sự của Mỹ ở châu Á-Thái Bình Dương không phải là nhằm vào một hay một số quốc gia nào, nó không phải là về Trung Quốc cũng không phải là về Mỹ, cái liên quan đến là toàn bộ khu vực châu Á-Thái Bình Dương hòa bình. Mỹ cũng còn rất nhiều khó khăn trong triển khai quân sự ở châu Á-Thái Bình Dương. Trong báo cáo, Trung tâm Nghiên cứu Quốc tế và Chiến lược Mỹ cảnh báo, chiến lược quân sự mới của Mỹ sẽ xung đột với ngân sách quân sự liên tục thu hẹp của Mỹ. Tàu ngầm hạt nhân Ohio mang theo tên lửa hành trình, của quân Mỹ, tại căn cứ Yokosuka ở Nhật Bản. Cùng ngày, Carter cho rằng, nếu Quốc hội Mỹ không đạt được giải pháp cắt giảm thâm hụt trước cuối năm nay, cơ chế giảm thâm hụt tự động được khởi động vào đầu năm 2013 sẽ gây ra hậu quả mang “tính phá hoại” đối với chiến lược quốc phòng mới và việc sẵn sàng chiến đấu, ứng phó khẩn cấp. Nếu cơ chế giảm thâm hụt tự động được khởi động, ngân sách quốc phòng của Mỹ năm 2013 sẽ giảm 55 tỷ USD. >> Việt Nam khôn ngoan khi cân bằng giữa Mỹ - Trung Quốc Ngoài ra, một số ý tưởng chiến lược của Mỹ hoàn toàn không được đồng minh tán thành và ủng hộ. Trong báo cáo, Trung tâm Nghiên cứu Quốc tế và Chiến lược cho rằng, Australia đã tạo ra chiều sâu chiến lược đầy đủ cho Mỹ trên các phương diện như địa lý, chính trị, khả năng quốc phòng hiện có và hạ tầng cơ sở, đề nghị Mỹ xây dựng ở Perth, Australia một biên đội tấn công tàu sân bay gồm có tàu sân bay động cơ hạt nhân, máy bay chiến đấu, tàu tuần dương và tàu khu trục. Đối với vấn đề này, Bộ trưởng Quốc phòng Australia, Stephen Smith phản hồi cho biết, Mỹ sẽ không có căn cứ quân sự vĩnh viễn trên lãnh thổ Australia, điểm này sẽ không thay đổi. (Nguồn :: Báo Giáo Dục VN) |
Thứ Sáu, 3 tháng 8, 2012
>> Vũ khí chiến lược Trung Quốc bị Mỹ bắt bài
Bản thân giới quân sự Trung Quốc vẫn thường rêu rao về 3 loại vũ khí sẽ giúp Bắc Kinh “bất chiến tự nhiên thành”, đó là tên lửa DF – 21D, tàu sân bay và máy bay tàng hình. Thế nhưng trong thực tế cả 3 loại vũ khí này đều không qua mặt được Mỹ. >> Hồ sơ các dự án đóng tàu của TQ Tên lửa phòng thủ Mỹ dễ dàng hạ gục Đông Phong Về cơ bản việc triển khai hệ thống phòng thủ tên lửa ở châu Á của Mỹ thực chất là nhằm đánh chặn các tên lửa đạn đạo tầm trung, tầm xa của Trung Quốc. Nhìn vào bề ngoài, Mỹ triển khai hệ thống phòng thủ tên lửa ở châu Á là nhằm vào tên lửa đạn đạo của CHDCND Triều Tiên, nhưng căn bản mục đích là nâng cấp khả năng tên lửa đạn đạo tầm trung phòng thủ Standard-3 hiện nay lên, có thể đánh chặn tên lửa đạn đạo xuyên lục địa Đông Phong. Trong giai đoạn đầu khi tên lửa đạn đạo Trung Quốc phóng lên được 5-10 giây, sẽ bị vệ tinh dò hồng ngoại bắt được. Ngay sau đó, vệ tinh sẽ truyền thông tin này về trạm chiến thuật liên hợp mặt đất ở lãnh thổ Mỹ bằng liên kết dữ liệu chiến thuật liên hợp. Song song với đó trạm mặt đất chịu trách nhiệm cảnh giới tên lửa đạn đạo của Trung Quốc được thiết lập tại Nhật Bản sẽ nhận lệnh. Bên cạnh đó, ở các căn cứ của Nhật Bản, vẫn thường xuyên triển khai máy bay cảnh báo sớm đối với tên lửa đạn đạo như RC-135, WC-135 của quân Mỹ. Từ cuối thập niên 1990, Mỹ bắt đầu phát triển hệ thống đánh chặn đối với tên lửa đạn đạo tầm trung và tầm xa, lần lượt gọi là hệ thống phòng thủ tên lửa khu vực chiến lược và hệ thống phòng thủ tên lửa đạn đạo quốc gia. >> Quân sự Trung Quốc mạnh cỡ nào? Đối tượng mục tiêu của hệ thống trước là tên lửa đạn đạo DF-15, đối tượng đánh chặn của hệ thống sau là tên lửa đạn đạo xuyên lục địa DF-31A. Ý đồ của Mỹ là triển khai tên lửa đánh chặn Standard-3, loại tên lửa được cải tiến liên tục, để nó có thể đánh chặn tên lửa đạn đạo tầm trung có tầm phóng trên 3.000 km, chẳng hạn tên lửa DF-21C/D, DF-25, đồng thời tiếp tục cải tiến hệ thống phòng thủ tên lửa có thể đánh chặn tên lửa đạn đạo xuyên lục địa DF-31A. Từ những thông tin trên có thể khẳng định niềm kiêu hãnh hàng đầu, biểu tượng cho sức mạnh quân đội Trung Quốc đã sớm bị Mỹ bắt bài, bất kỳ một hành động gây hấn nào từ Trung Quốc sẽ nhanh chóng bị Mỹ loại bỏ... Chiến đấu cơ tàng hình, vẫn còn yếu kém... Trong khi Trung Quốc đang úp mở về sức mạnh của loại chiến đấu cơ tàng hình thế hệ mới J-20 thì các quan chức Lầu Năm Góc lại tự tin khẳng định rằng loại chiến đấu cơ này chưa thể sánh được với những chiếc F-22 của Mỹ. Theo đó, J-20 của Trung Quốc vẫn đang vấp phải những vấn đề về động cơ và còn phải mất nhiều năm nữa, Trung Quốc mới có thể có được chiếc máy bay tàng hình tiếp theo. Lầu Năm Góc thậm chí còn tin rằng, Trung Quốc vẫn đang gặp khó khăn trong việc phát triển những chiếc máy bay chiến đấu thế hệ thứ tư. "Trung Quốc đúng là đang trong quá trình phát triển máy bay chiến đấu thế hệ thứ 5. Nhưng Trung Quốc vẫn còn đang gặp khó trong việc phát triển chiến đấu cơ thế hệ thứ 4," đại diện Lầu Năm Góc đã đưa ra nhận định về tiêm kích cơ thế hệ mới của Bắc Kinh. Chiến đấu cơ tàng hình J-20 của Trung Quốc không được Mỹ đánh giá cao... Mặc dù vẫn tiến hành theo dõi sát sao hoạt động chế tạo máy bay tàng hình của Trung Quốc, nhưng Lầu Năm Góc vẫn cho rằng họ chưa tìm thấy bất kỳ một mối nguy nào đến từ dự án này táo bạo này của Bắc Kinh. "Chúng tôi đã từng nói về chiếc máy bay tàng hình của Trung Quốc. Chúng tôi biết họ đang theo đuổi việc phát triển một chiếc máy bay chiến đấu tàng hình thế hệ thứ 5 nhưng chương trình đó chưa thực sự gây lo ngại", một đại diện của Lầu Năm Góc phát biểu trước giới truyền thông. Đại diện cao nhất của quân đội Mỹ từng tuyên bố, không quốc gia nào có thể sánh kịp với sức mạnh không quân của Mỹ và dự đoán Trung Quốc sẽ chỉ “có một số ít” máy bay chiến đấu có thể thách thức các phi đội tân tiến của Mỹ vào năm 2025, nhưng đến lúc đó thì cán cân quyền lực quân sự ở Thái Bình Dương đã không còn chỗ cho Trung Quốc. Tầu sân bay chưa hoàn thiện đã đầy yếu điểm Trái với những quan ngại của các nước trong khu vực về tàu sân bay đầu tiên của Trung Quốc, các chuyên gia quân sự Mỹ và Úc lại không đánh giá cao thành tựu này của Bắc Kinh. Theo đó, thì dù đã được nâng cấp hết mức, nhưng hàng không mẫu hạm Varyag từ thời Liên Xô mà Trung Quốc mua lại, vẫn chỉ thuộc loại tàu sân bay hạng dưới so với chuẩn mực của thế kỷ 21. Nếu tầu sân bay lớp Nimitz của Mỹ chở được 90 máy bay, có thể hoạt động trên biển liên tục 20 năm trước khi về bến rà soát lại động cơ chạy bằng năng lượng hạt nhân, thì ngược lại, tàu Varyag chở được tối đa 60 máy bay, và chỉ ra khơi được... 45 ngày. Trái với nguyên lý tồn tại của hàng không mẫu hạm là làm bệ phóng cho máy bay chiến đấu, chiếc Varyag vẫn sử dụng kỹ thuật cổ điển là cho máy bay chiến đấu cất cánh từ một dàn phóng trên boong. Trong mắt người Mỹ tầu sân bay của Trung Quốc chỉ là... hổ giấy Để có thể cất cánh được, máy bay phải nhẹ, do đó loại chiến đấu cơ duy nhất của Trung Quốc dùng được trên hàng không mẫu hạm này là J-15 sẽ phải mang ít vũ khí và nhiên liệu hơn. Hệ quả là hỏa lực cũng như tầm hoạt động bị giảm bớt. Varyag cũng không có khả năng chứa các loại máy bay tiếp nhiên liệu, vốn thường rất nặng. Tương tự như vậy, các loại máy bay trinh sát cũng rất nặng nên không thể được sử dụng trên Varyag. Điều này khiến cho tàu sân bay Trung Quốc không có được hệ thống cảnh báo sớm, dễ bị không quân đối phương tấn công. Như vậy có thể thấy rằng dù đang tích cực rêu rao về sức mạnh quân sự của mình, nhưng nếu xét trên bình diện của một quốc gia lớn thì rõ ràng Trung Quốc đang ở thiếu yếu, có lẽ thế nên Bắc Kinh chỉ dám hùng hổ với các quốc gia nhỏ hơn, còn đối với các cường quốc khác thì họ sẽ phải ngoan ngoãn cúi đầu... (Nguồn :: Báo Phụ Nữ VN) |
Thứ Ba, 19 tháng 6, 2012
>> 10 năm nữa TQ cũng không thể thắng Mỹ?
Trung Quốc muốn chi tiêu khổng lồ cho hải quân và cần vài chục năm nữa để thách thức tầm toàn cầu với Mỹ, nhưng cũng không thể chiến thắng. >> Trung Quốc và giấc mơ siêu cường số 1 >> Trung Quốc bất lực nhìn Mỹ bao vây? Trung Quốc tăng cường phát triển khả năng chống can thiệp và ngăn chặn khu vực. Trong hình là máy bay chiến đấu tàng hình J-20 đang được Trung Quốc phát triển. Ngày 12/6, Phương Đông báo dẫn nguồn từ tờ “Thời báo New York” Mỹ có bài viết nhan đề “Tránh một cuộc chiến tranh Mỹ-Trung”. Theo bài viết, quan hệ Trung-Mỹ có thể sẽ khiến cho hai nước xảy ra chiến tranh vào một ngày nào đó. Đầu tháng này, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Leon Panetta tuyên bố, đến năm 2020, 60% tàu chiến của Hải quân Mỹ sẽ triển khai ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Tháng 11/2011, tại Australia, Tổng thống Mỹ Barack Obama tuyên bố sẽ thành lập căn cứ quân sự của Mỹ ở nước này và khơi dậy thách thức về ý thức hệ với Trung Quốc. Ông còn nói, Mỹ sẽ “tiếp tục nói thẳng thắn với Bắc Kinh về tầm quan trọng của việc kiên trì các quy tắc quốc tế và tôn trọng nhân quyền”. Cuốn sách “Sự lựa chọn của Trung Quốc: Tại sao Mỹ cần chia sẻ quyền lực” của Hugh White, chuyên gia các vấn đề quốc tế Australia đã diễn giải về nguy cơ nội tại của Trung-Mỹ và chính sách khu vực hiện nay. Đến năm 2020, Mỹ sẽ chuyển 60% tàu chiến tới khu vực Thái Bình Dương. Trong hình là máy bay không người lái X-47B dự kiến sẽ triển khai cho tàu sân bay Mỹ. Ông viết: “Washington và Bắc Kinh đã lặng lẽ rơi vào đối đầu”. Để tránh xảy ra xung đột giữa hai nước, Hugh White cho rằng, Trung Quốc và Mỹ cần tiến hành “điều hòa nước lớn” ở châu Á, nền tảng kinh tế được hai bên đồng thuận đã tồn tại. Rủi ro xung đột hoàn toàn không đến từ việc Trung Quốc theo đuổi tham vọng khả năng lãnh đạo toàn cầu. Ở khu vực ngoài Đông Á, Trung Quốc thúc đẩy chính sách rất thận trọng, chính sách này lấy ưu thế kinh tế làm cốt lõi, không hàm chứa bất cứ nội dung quân sự nào - báo Trung Quốc bình luận. Một phần lý do kiên trì chính sách này là, các nhà lãnh đạo Trung Quốc ý thức được rằng, họ muốn có thời gian vài chục năm nữa và chi tiêu hải quân khổng lồ mới có thể tạo ra thách thức mang tính toàn cầu cho Mỹ. Nhưng cho dù đến lúc đó, Trung Quốc cũng hầu như chắc chắn sẽ thất bại. Ở Đông Á, tình hình lại rất khác. Về lịch sử, hầu hết thời gian, Trung Quốc luôn chủ đạo khu vực này. Khi họ trở thành một nền kinh tế lớn nhất thế giới, chắc chắn sẽ muốn làm như vậy. Mặc dù Trung Quốc không thể xây dựng được một lực lượng hải quân thách thức Mỹ ở biển xa, nhưng trong tương lai, họ có thể sản xuất tên lửa, tăng cường lực lượng trên không, đủ để khiến cho Hải quân Mỹ không thể xâm nhập các vùng biển xung quanh Trung Quốc. Ngoài ra, giữa Trung Quốc và các nước khác trong khu vực còn tồn tại tranh chấp lãnh thổ đảo, đá. Trong các tranh chấp này, chủ nghĩa dân tộc của Trung Quốc và chủ nghĩa dân tộc của các nước khác va chạm lẫn nhau. Philippines mới trang bị 4 máy bay trực thăng vũ trang Sokol. Sự thù địch đó là tài sản lớn nhất và cũng là rủi ro lớn nhất của Mỹ. Báo Đông Phương viết, điều này có nghĩa là, hầu hết các nước láng giềng của Trung Quốc muốn Mỹ duy trì sự hiện diện quân sự ở khu vực này. Đúng như Hugh White nói, cho dù Mỹ rút khỏi Đông Á, những nước này cũng không thể “cúi đầu phục tùng” bá quyền của Trung Quốc. Nhưng nếu Mỹ dốc sức xây dựng đồng minh chống Trung Quốc với các nước này, Washington đang liều lĩnh đưa bản thân cuốn vào tranh chấp lãnh thổ giữa các nước này. Một khi Trung Quốc và một nước nào đó trong khu vực xảy ra xung đột, Washington sẽ đối mặt với sự lựa chọn: Hoặc bàng quan đứng nhìn, danh dự nước đồng minh bị tổn hại; hoặc giao chiến với Trung Quốc - báo Trung Quốc tuyên truyền. Cho dù là Mỹ hay Trung Quốc đều sẽ không giành được chiến thắng trong chiến tranh, nhưng họ chắc chắn sẽ tạo ra sự phá hoại mang tính tai họa cho nền kinh tế của nhau và thế giới. Nếu xung đột leo thang thành chiến tranh hạt nhân, văn minh hiện đại sẽ bị hủy diệt. Mặc dù duy trì sự đối đầu quân sự và chiến lược lâu dài với Trung Quốc - nước có nền kinh tế mạnh, vị thế trên thế giới của Mỹ cũng sẽ bị suy yếu nghiêm trọng. Để tránh tình huống này, Hugh White cho rằng, trật tự Đông Á cần thiết lập một giới hạn mà Trung Quốc và Mỹ đều đồng ý không vượt qua: cam kết không được sự đồng ý của đối phương, không sử dụng vũ lực. Điều nhạy cảm nhất là, nếu Trung Quốc tuyên bố từ bỏ sử dụng vũ lực đối với Đài Loan, Mỹ rất có thể sẽ công khai ủng hộ Đài Loan và Trung Quốc thống nhất. Dư luận Đài Loan cho biết, chính quyền Mã Anh Cửu muốn mua máy bay chiến đấu tàng hình F-35 của Mỹ. Điều cũng quan trọng tương tự là, Trung Quốc phải thừa nhận tính hợp pháp sự hiện diện của Mỹ ở Đông Á, bởi vì đây là nhu cầu của khu vực này và các nước trong khu vực. Mỹ cũng phải thừa nhận trật tự chính trị hiện nay của Trung Quốc, bởi vì nó giúp kinh tế phát triển và thúc đẩy rất lớn tự do thực sự cho nhân dân Trung Quốc. Trong sự điều hòa đó, Mỹ phải từ bỏ những ngôn từ như của Obama ủng hộ dân chủ hóa Trung Quốc. Chính như Hugh White nói, sự điều hòa này giữa Mỹ và các nước trong khu vực có thể rất khó sắp đặt, “nếu có sự lựa chọn thay thế không có hại, thì quan điểm này hầu như không đáng xem xét”. Nhưng, Hugh White cũng viết một cách đáng sợ rằng, sự lựa chọn khác có thể cũng tạo ra hậu quả mang tính tai họa. Mỹ triển khai máy bay tác chiến điện tử EA-18G Growler ở khu vực Đông Bắc Á. (Nguồn :: Báo Giáo Dục) |
Thứ Ba, 12 tháng 6, 2012
>> TQ cần nâng cao khả năng tác chiến của Hải quân
Tân Hoa xã có bài viết dẫn lời Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Chủ tịch Quân ủy Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Quách Bá Hùng phát biểu trong một cuộc điều tra nghiên cứu ở lực lượng Hải quân nước này . Dưới đây là toàn bộ nội dung bài phát biểu của ông Quách Bá Hùng: >> Hải quân Trung Quốc: Tham vọng và thực lực (kỳ 1 >> "Siêu tàu sân bay" Ford của Mỹ là để dành cho Trung Quốc Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Chủ tịch Quân ủy Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc - Quách Bá Hùng quán triệt tinh thần sẵn sàng cho "đấu tranh quân sự" cho Hải quân Trung Quốc. “Cần phải quán triệt tinh thần chỉ thị quan trọng của Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cầm Đào, bám chặt vào đại cục công tác của Đảng và Nhà nước TQ, đi sâu quán triệt đường lối chính, chủ đề xây dựng quốc phòng và quân đội, lấy kiên quyết nghe Đảng chỉ huy, tuyệt đối trung thành tin cậy làm căn bản trong xây dựng quân đội, ra sức tăng cường xây dựng chính trị tư tưởng, tiếp tục mở rộng và đi sâu chuẩn bị đấu tranh quân sự, tiếp tục khơi dậy phong trào huấn luyện quân sự, không ngừng nâng cao khả năng tác chiến trong điều kiện thông tin hóa cho Quân đội, kiên quyết bảo vệ chủ quyền, an ninh, toàn vẹn lãnh thổ của TQ, bằng thành tích xuất sắc để chào mừng thắng lợi của Đại hội XVIII Đảng Cộng sản Trung Quốc”. Quách Bá Hùng cho rằng: “Cần luôn đặt xây dựng chính trị tư tưởng ở vị trí hàng đầu trong xây dựng Quân đội, bảo đảm kiên định phương hướng chính trị đúng đắn. Cần kiên trì dùng hệ thống lý luận xã hội chủ nghĩa đặc sắc Trung Quốc vũ trang cho binh sĩ, đi sâu triển khai giáo dục “quân hồn” (tinh thần của Quân đội), tiếp tục giáo dục quan điểm giá trị cốt lõi của quân nhân cách mạng đương đại, tiếp tục nắm chắc hoạt động dạy học “coi trọng chính trị, chú ý đại cục, tuân thủ kỷ luật” và hoạt động giáo dục “ca ngợi thành tựu phát triển khoa học, trung thành thực sự sứ mệnh lịch sử”, dốc sức phát triển văn hóa quân sự tiên tiến, thiết thực xây dựng chắc chắn nền tảng chính trị tư tưởng “binh sĩ giương cao ngọn cờ, nghe Đảng chỉ huy, thực hiện sứ mệnh”. Cần kiên trì lấy xây dựng khả năng và xây dựng hiện đại làm đường lối chính, đi sâu thúc đẩy xây dựng tổ chức đảng kiểu học tập và hoạt động xây dựng tổ chức cơ sở đảng và đảng viên tiên tiến, không ngừng nâng cao trình độ khoa học hóa trong xây dựng đảng của Quân đội”. Hạm đội Nam Hải- Hải quân Trung Quốc thường xuyên tập trận đổ bộ trên biển Đông. Quách Bá Hùng tiếp tục nhấn mạnh: “Cần chú trọng hơn đến mở rộng và tăng cường chuẩn bị đấu tranh quân sự. Cần giáo dục đông đảo binh sĩ luôn nắm chắc chức năng căn bản và sứ mệnh thần thánh của Quân đội, xây dựng vững chắc tư tưởng “đi lính đánh trận, dẫn dắt binh lính đánh trận, chuẩn bị đánh trận”. Cần thúc đẩy mạnh mẽ phong trào nghiên cứu các vấn đề tác chiến, đẩy nhanh chuyển đổi mô hình hình thành sức chiến đấu, không ngừng tăng cường khả năng tác chiến hệ thống trên cơ sở hệ thống thông tin. Cần đặt huấn luyện quân sự lên vị trí chiến lược để nắm chắc, không ngừng nâng cao khả năng tác chiến cho Quân đội trong điều kiện thông tin hóa. Cần nắm chắc xây dựng các công trình quan trọng và hạ tầng đồng bộ nền tảng. Cần coi trọng rất cao và làm tốt và nghiêm túc công tác sẵn sàng chiến đấu thường xuyên”. Quách Bá Hùng tiếp tục chỉ đạo: “Cần kiên trì phương châm trị quân theo pháp luật, trị quân nghiêm khắc, bảo đảm Quân đội thống nhất tập trung cao độ và an ninh, ổn định. Cần gia tăng mức độ thực hiện chế độ pháp quy, không ngừng nâng cao trình độ chính quy hóa cho Quân đội. Cần tăng cường mức độ làm tốt công tác ngăn ngừa các vấn đề an ninh lớn, đưa các yêu cầu về công tác an ninh, ổn định vào thực tế. Cần gia tăng mức độ nắm chắc cơ sở, xây dựng nền tảng, thúc đẩy xây dựng cơ sở tiến bộ toàn diện, thúc đẩy binh sĩ phát triển toàn diện”. Tàu vận tải đổ bộ 071 Tỉnh Cương Sơn của Hạm đội Nam Hải. |
Thứ Hai, 7 tháng 5, 2012
>> Trung Quốc có thực sở hữu 1800 đầu đạn hạt nhân ?
Mặc dù các quan chức Trung Quốc đã nhiều lần tuyên bố quy mô hạt nhân của nước này vẫn đang ở mức nhỏ, không thể so sánh với Mỹ, Nga... Tạp chí “Sứ giả quân sự” của Nga dẫn lời Giáo sư Victor Korablin, nguyên giảng viên Học viện Khoa học Quân sự Nga cho hay, mặc dù các quan chức Trung Quốc đã nhiều lần tuyên bố quy mô hạt nhân của nước này vẫn đang ở mức nhỏ, không thể so sánh với Mỹ, Nga và các cường quốc khác. Tuy nhiên, kho vũ khí hạt nhân của Trung Quốc có thể có tới 1.800 đầu đạn hạt nhân. Hiện Trung Quốc đang có 1.800 đầu đạn hạt nhân? Ông Korablin cho biết: “Những thống kê hiện nay về số lượng đầu đạn hạt nhân của Trung Quốc đang tồn tại nhiều số liệu khác nhau, từ 240-300 đầu đạn đến 10.000 đầu đạn. Vì vậy, tôi đang có gắng đưa ra một kết luận riêng về số lượng đầu đạn hạt nhân của quốc gia láng giềng này”. Hiện nay, Trung Quốc đang có một ngành công nghiệp hạt nhân phát triển rất mạnh, hoàn toàn có khả năng tự sản xuất các loại vũ khí hạt nhân, từ một loại tên lửa mang đầu đạn hạt nhân đến bom hạt nhân. Nhìn vào thực trạng sản xuất vật liệu hạt nhân của Trung Quốc có thể thấy, đến năm 2011, ngành công nghiệp hạt nhân của Trung Quốc đã sản xuất được tổng cộng 40 tấn vật liệu hạt nhân cấp độ vũ khí, đủ để sản xuất 3.600 đầu đạn hạt nhân (1.600 đầu đạn hạt nhân uranium và 2.000 đầu đạn hạt nhân plutonium). Tất nhiên, không phải tất cả số vật liệu hạt nhân trên của Trung Quốc đều dùng để chế tạo vũ khí hạt nhân, mà một nửa trong số này là dành cho việc dự trữ. Máy bay ném bom tầm xa H-6 của Trung Quốc Theo ông Korablin, nếu giả thuyết này là đúng thì Trung Quốc có thể có từ 1.600-1.800 đầu đạn hạt nhân. Dự kiến Trung Quốc sẽ đưa 800-900 đầu đạn đi vào hoạt động. Tuy nhiên, ông Korablin cũng cho biết, đây chỉ là tính toán của riêng mình. Vũ khí hạt nhân của Trung Quốc được phân chia như sau: bom hạt nhân B-4 chủ yếu được lắp đặt trên máy bay ném boom Q-5 và một số máy bay tấn công chiến thuật khác. Bom hạt nhân B-5 chủ yếu được lắp đặt trên máy bay ném boom tầm xa H-6. Ngoài ra, B-5 còn được lắp đặt trên tên lửa đạn đạo tầm trung DF-4, tên đạn đạo xuyên lục địa DF-5A, DF-31. Tên lửa JL-1 trong một lần phóng thử từ tàu ngầm Còn tên lửa đạo chiến lược JL-1 và JL-2 thường được lắp đặt trên các tàu ngầm. Ông Korablin cho biết thêm, tương lai của ngành công nghiệp hạt nhân của Trung Quốc sẽ phủ thuộc chủ yếu vào yếu tố bên ngoài, như việc Mỹ triển khai hệ thống lá chắn tên lửa trên toàn thế giới và việc Ấn Độ tăng cường phát triển vũ khí hạt nhân. Do Trung Quốc từ chối công khai số lượng đầu đạn hạt nhân của nước mình, bởi vậy, tương lai của năng lực hạt nhân Trung Quốc phải dựa vào đánh giá của các chuyên gia. Tuy nhiên, có thể thấy hiện nay năng lực hạt nhân của Trung Quốc đang bị đánh giá thấp. Số lượng đầu đạn hạt nhân của Trung Quốc có thể nhiều hơn nhiều so với con số mà các chuyên gia phương Tây đã từng đưa ra. Ông Korablin cho rằng, thỏa thuận giữa Mỹ và Nga về các hiệp ước cắt giảm vũ khí hạt nhân hiện nay cần phải tính đến yếu tố Trung Quốc. Đồng thời hai cường quốc này cần đưa Trung Quốc vào cuộc đàm phán đa phương về việc giải trừ vũ khí hạt nhân. Nếu không quá trình cắt giảm vũ khí hạt nhân sẽ không được thúc đẩy và không có nhiều hiệu quả. |
Chủ Nhật, 29 tháng 4, 2012
>> Hải quân Trung Quốc có thực sự đáng lo ngại?
Sức mạnh hải quân đang gia tăng của Trung Quốc không hẳn là một cách biểu hiện sự hiếu chiến song vẫn có lý do để lo ngại bởi bất cứ cuộc xung đột quân sự nào liên quan đến Trung Quốc hầu hết sẽ bắt đầu và diễn tiến trên biển. Sức mạnh khiến Mỹ ngỡ ngàng Kết luận tổng quát trong báo cáo đầu tháng 4 vừa qua của Ban nghiên cứu Quốc hội Mỹ (CRS) về tiến trình hiện đại hóa hải quân Trung Quốc khẳng định: “Sự lơ là của hải quân Mỹ tại Thái Bình Dương trong một thời gian dài tạo ra cơ hội để Trung Quốc tăng cường sức mạnh trên biển”. Theo báo cáo này, cụm từ hiện đại hóa hải quân nhằm chỉ sự hiện đại hóa không chỉ diễn ra trong hải quân mà còn ở các khía cạnh khác nhằm tăng cường sức mạnh trên biển của Trung Quốc như tên lửa đất đối không, máy bay chiến đấu được trang bị tên lửa đối hạm (ASCM) và radar tầm xa… Ngoài ra, theo CRS, sự lớn mạnh ấn tượng của hải quân Trung Quốc còn nằm ở các hạm đội tàu ngầm. Gần đây họ cho đóng ít nhất hai tàu ngầm lớp Jin – những tàu ngầm đầu tiên có khả năng mang tên lửa đạn đạo. Hai tàu ngầm tấn công lớp Shang sử dụng năng lượng hạt nhân cũng vừa được đưa vào sử dụng. Theo các nhà nghiên cứu Mỹ về hải quân Trung Quốc, không tính tới các tàu đã cũ, Bắc Kinh hiện có 9 tầu ngầm hạt nhân, trong đó có ba tàu được trang bị tên lửa hạt nhân tầm xa, 53 tầu ngầm chạy bằng động cơ diesel, 74 khu trục hạm và tầu hộ tống cùng số lượng tương tự tầu đổ bộ và tầu tuần tra ven biển trang bị tên lửa. Nếu tính tới các kế hoạch đóng tàu được biết hiện nay của Trung Quốc tới năm 2020, hải quân Trung Quốc có thể sẽ có hai tàu sân bay, 40 - 45 tầu ngầm động cơ diesel, khoảng 55 khu trục hạm và tầu hộ tống. Số lượng có thể ít hơn hoặc nhiều hơn, song không chênh lệch quá nhiều. Bên cạnh đó, báo cáo chỉ trích Washington không đánh giá đúng tốc độ phát triển của quân đội Trung Quốc. Hậu quả là Lầu Năm Góc không đưa dự đoán chính xác về thời điểm Bắc Kinh phát triển được tên lửa đối hạm và máy bay tàng hình. Sự lớn mạnh của hải quân Trung Quốc khiến Mỹ ngỡ ngàng. Ảnh: shutterstock.com. Báo cáo của CRS nhận định, Trung Quốc muốn quân đội có khả năng đóng vai trò gọi là lực lượng chống tiếp cận, giống như lực lượng ngăn chặn biển mà Liên Xô triển khai trong thời kỳ chiến tranh Lạnh. Bên cạnh đó, các mục tiêu khác trong chiến lược phát triển hải quân Trung Quốc còn nhằm xác định, đòi quyền lợi trong các tuyên bố chủ quyền lãnh thổ của nước này ở biển Hoa Đông và biển Đông, cũng như làm suy yếu ảnh hưởng của Mỹ tại Thái Bình Dương. Đây là điểm gây chú ý trong chiến lược hiện đại hóa hải quân của Trung Quốc vì nếu chỉ nhằm đối phó Đài Loan thì không cần đến tàu sân bay hay hàng loạt tàu khu trục và tàu tấn công đổ bộ. Trung Quốc vừa trấn an vừa đe dọa Trước sự quan ngại của Mỹ, hiện thực hóa ngay bằng hai cuộc tập trận với Philippines và Ấn Độ gần đây, Trung Quốc khẩn trương lên tiếng phân bua. Tờ Global Times hôm nay đăng bài viết khẳng định, trong một kỷ nguyên hiện đại, khi mà hòa bình, hợp tác và phát triển là mục tiêu trước nhất như hiện nay thì hải quân Trung Quốc đóng vai trò quan trọng trong các sứ mệnh phi quân sự liên quan đến hoạt động chống khủng bố, khắc phục hậu quả thiên tai, gìn giữ hòa bình và bảo vệ lãnh thổ. Kỷ niệm 63 năm ngày thành lập, hải quân Trung Quốc hôm nay tiếp tục xác định rõ nhiệm vụ của mình là tăng cường là hoạt động phi quân sự toàn cầu theo khuôn khổ của Hội đồng bảo an Liên Hiệp Quốc, đồng thời thiết lập các mối quan hệ song phương và đa phương nhằm bảo vệ nền hòa bình trên toàn thế giới. Đây cũng chính là nguyên tắc và “kim chỉ nam” hoạt động của hải quân Trung Quốc trong hiện tại và tương lai. Global Times nhấn mạnh, bất chấp thực tế này, một vài học giả nước ngoài gần đây không ngừng “rao giảng” về cái gọi là tham vọng của Trung Quốc nhằm “soán ngôi” cường quốc hải quân số 1 thế giới của Mỹ thông qua các nỗ lực tham gia vào hàng loạt chiến dịch trên biển của các tổ chức quốc tế. Theo tờ báo, giới quan sát thậm chí còn nghi ngờ về ý đồ thực sự của Bắc Kinh khi “tân trang” lại một chiếc tàu sân bay. Global Times khẳng định, hải quân Trung Quốc có tham vọng cũng như nguồn lực để thực hiện một cuộc chiến hao tiền tốn của ở trên biển. “Ngay cả khi Bắc Kinh chế tạo một chiếc tàu sân bay thì nó cũng chỉ là nhằm mục đích sử dụng cho các hoạt động chiến đấu chống lại cướp biển và bảo vệ lãnh thổ Trung Quốc”, Global Times quả quyết. Ngoài ra, theo tờ báo, lâu nay các hoạt động của hải quân Trung Quốc cũng không nằm ngoài mục tiêu gia tăng quyền lực cho Liên Hiệp Quốc và góp phần xây dựng nền hòa bình và an ninh tại khu vực. Bằng cách này, hải quân Trung Quốc vừa thúc đẩy được sự tin tưởng từ cộng đồng quốc tế, vừa tăng cường được khả năng tác chiến của mình. Theo đó, Global Times kết luận, sự lớn mạnh của hải quân Trung Quốc sẽ không tiềm ẩn bất cứ mối nguy nào mà chỉ càng góp phần tích cực vào việc thúc đẩy hòa bình và công bằng trên thế giới. Tuy nhiên, điều đáng quan tâm là ngay sau bài viết đầy ôn hòa này, Global Times tiếp tục đăng tải một bài báo trong đó khẳng định, việc cạnh tranh với sức mạnh hải quân Mỹ là khả năng trong tầm tay của Trung Quốc. “Trung Quốc có thể xây dựng một lực lượng hải quân hùng mạnh và thực tế cho thấy Bắc Kinh đã làm được điều đó”, tờ báo chính thống Trung Quốc nhấn mạnh. Global Times khẳng định, việc phát triển lực lượng hải quân có sức mạnh ngang tầm với Mỹ là hoàn toàn trong tầm tay. Ảnh: China Daily. Theo Global Times, một số học giả phương Tây giữ quan điểm cho rằng, sức mạnh tầm lục địa của Trung Quốc sẽ không bao giờ có thể “đọ” được với khả năng tấn công trên toàn cầu của hải quân Mỹ. Những học giả này thỉnh thoảng còn khơi lại sự vắng bóng trong thời gian dài của các hạm đội chiến đấu của Trung Quốc ở những vùng biển quan trọng hay sự bất lực của nhà Thanh trong việc xây dựng một lực lượng hải quân hùng mạnh. Theo họ, những trở ngại về văn hóa và địa lý là rào cản quá lớn đối với nỗ lực tăng cường tiềm lực hải quân của Bắc Kinh. Tuy nhiên, Global Times khẳng định, những bước tiến mà hải quân Trung Quốc đạt được trong thời gian qua cho thấy sự kiên trì và trí tuệ của con người có thể giúp họ vượt qua mọi khó khăn. Global Times phân tích, Mỹ thực sự là một cường quốc trên bộ. Vì các đường biên giới của Washington không phải đối mặt với bất cứ mối hiểm nguy nào nên quốc gia này càng tiết kiệm được nguồn lực để phát triển trên biển. Tờ báo Trung Quốc nhận định, Bắc Kinh cũng hoàn toàn có thể tạo ra lợi thế như Washington đang có để phát triển hải quân. Với sẵn những đường biên giới khá yên bình, Trung Quốc chỉ cần thúc đẩy các mối quan hệ tốt đẹp với láng giềng là hoàn toàn có thể trút bỏ gánh nặng về việc bảo vệ lãnh thổ, qua đó có thể dồn lực xây dựng lực lượng hải quân có khả năng vượt mặt Mỹ. |
Thứ Sáu, 20 tháng 4, 2012
>> Trung Quốc, Mỹ sẽ phát sinh xung đột nghiêm trọng?
Các lãnh đạo cấp cao Trung Quốc ngày càng xem mối quan hệ Trung-Mỹ như “một trò chơi có tổng bằng không”. Ông Kenneth Lieberthal, Giám đốc phụ trách nghiên cứu Trung Quốc của Trung tâm John L. Thornton tại Brookings, cựu thành viên của Hội đồng An ninh Quốc gia dưới thời Tổng thống Bill Clinton cho biết, khi thảo luận về mối quan hệ với Mỹ một cách trực tiếp hay gián tiếp, thì các quan chức Trung Quốc về cơ bản đều thông qua một “tư duy số không”. Khó có giải pháp trong quan hệ Trung-Mỹ? Một chuyên gia phân tích những ảnh hưởng của Trung Quốc cho biết, các lãnh đạo cấp cao Trung Quốc ngày càng xem mối quan hệ Trung-Mỹ như “một trò chơi có tổng bằng không”. Tức là, nếu kinh tế và chính trị Mỹ tiếp tục trượt dốc thì Trung Quốc lại càng ở thế thượng phong trong một thời gian dài. Mới đây, Viện Brookings tại Washington và Viện nghiên cứu chiến lược quốc tế Đại học Bắc Kinh đưa ra một báo cáo mang tên “Đối phó với sự nghi ngờ chiến lược lẫn nhau giữa Mỹ và Trung Quốc”. Theo báo cáo này, nhà phân tích chiến lược, chuyên gia cố vấn của Bộ Ngoại giao Trung Quốc, ông Vương Tập Ân cho rằng, Trung Quốc coi Mỹ là một quốc gia đang trong quá trình suy giảm trầm trọng. Nhưng đồng thời nhấn mạnh, Washington đã cố gắng để trở lại, thậm chí đang cố làm suy yếu sự trỗi dậy về quân sự và kinh tế Trung Quốc, với mục đích cuối cùng là ngăn cẳn Trung Quốc đã trở thành quốc gia mạnh nhất trên thế giới. Tuy nhiên, cả hai chuyên gia Kenneth Lieberthal và Vương Tập Ân đều nhận định rằng, mối quan hệ giữa Mỹ và Trung Quốc đang ngày càng này sinh những mối nghi ngời lẫn nhau. Nếu không có những bước tiến tích cực trong thời gian tới, quan hệ hai nước có thể sẽ biến thành một cuộc đối đầu quân sự trong tương lai. Ông Vương đã đưa ra một giải pháp trong mối quan hệ này tới các nhà lãnh đạo Trung Quốc là, Mỹ không còn là một cường quốc đáng sợ và đáng tin cậy như trước nữa. Ngược lại, với việc phát triển mạnh trong lĩnh vực quân sự và kinh tế,Trung Quốc ngày càng tự tin hơn trong vai trò là một nước lớn. Trung, Mỹ sẽ phát sinh xung đột? Đặc biệt là kể từ khi bắt đầu cuộc chiến tranh ở Iraq, khoảng cách giữa hai nước đã bị thu hẹp đáng kể.Năm 2003, GDP của Mỹ gấp 8 lần Trung Quốc, nhưng đến nay chỉ còn có 3 lần. Ông Vương nhấn mạnh, thời kỳ của Trung Quốc đã đến, giờ đây, Mỹ đã thuộc về “một mặt trái của lịch sử”. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc đang ngày càng tin rằng về lâu dài, Trung Quốc sẽ giành chiến thắng trong cuộc chạy đua với Mỹ. Ở một mức độ nhất định, chuyên gia Lieberthal của Mỹ cũng xác nhận điều này. Cách đây không lâu, tại một hộ thảo đươc tổ chức tại Đại học Thanh Hoa, Trung Quốc, ông Lieberthal cho biết, hai bên ngày càng nhìn nhận theo một khung hướng đó là, quan hệ hai nước có thể trở thành một cuộc đối đầu quân sự sau 15 năm nữa. Điều này có nghĩa rằng hai nước sẽ tăng đáng kể chi tiêu quân sự để tiến hành ngăn chặn lẫn nhau. “Trường hợp xấu nhất là hai bên có thể gây ra xung đột vũ trang thực sự, song cuộc đối đầu đó sẽ không mang lại nhiều kết quả. Đây chỉ là hệ quả của việc hai bên không tiếp tục kiềm chế và muốn loại bỏ lẫn nhau”. Ông Lieberthal nhấn mạnh. |
Thứ Năm, 19 tháng 4, 2012
>> Trung Quốc chỉ có 50 đầu đạn hạt nhân có thể vươn tới lãnh thổ Mỹ
“Trung Quốc hiện có chưa đến 50 quả tên lửa đạn đạo xuyên lục địa có thể vươn tới lãnh thổ Mỹ, nhưng sẽ tăng gấp đôi vào năm 2025”. Ngày 12/4, trang mạng “Quỹ Jamestown” Mỹ có bài viết cho rằng, hiện đại hóa lực lượng hạt nhân của Trung Quốc hoàn toàn không chạy theo ưu thế về số lượng, mà là chủ yếu thông qua khả năng sống sót và độ tin cậy của vũ khí hạt nhân để tăng cường khả năng răn đe hạt nhân, đồng thời cũng sẽ tăng số lượng vũ khí hạt nhân một cách thích hợp. Bài viết cho rằng, Trung Quốc tăng cường khả năng trả đũa hạt nhân hoàn toàn không có gì là ngạc nhiên. Từ lâu, lực lượng hạt nhân của Trung quốc tương đối yếu, khả năng chống lại các mối đe dọa cũng không mạnh, trong khi đó mãi đến những năm gần đây Trung Quốc mới bắt đầu theo đuổi hiện đại hóa lực lượng hạt nhân. Năm 2006, Trung Quốc công bố Sách trắng quốc phòng cho biết, chiến lược hạt nhân của Trung Quốc là “xây dựng một lực lượng hạt nhân tinh nhuệ, hiệu quả đáp ứng nhu cầu an ninh quốc gia”. Nhưng, chính quyền Trung Quốc hoàn toàn không tiến hành công bố về số lượng vũ khí hạt nhân cần thiết để thực hiện mục tiêu này. Một số chuyên gia Mỹ dự đoán, Trung Quốc hiện có vài trăm đầu đạt hạt nhân, nhưng kết luận của họ chỉ là đã xem xét số lượng vũ khí hạt nhân có thể cần cho răn đe hạt nhân tương lai của Trung Quốc, hoàn toàn không có chứng cứ tin cậy. Tên lửa đạn đạo xuyên lục địa DF-31A của Lực lượng tên lửa chiến lược Trung Quốc. Quan điểm của các nhà chiến lược Trung Quốc sẽ giúp chúng ta có nhận thức rõ hơn về vấn đề này. Họ mạnh mẽ khuyến nghị Trung Quốc tăng cường hiện đại hóa lực lượng hạt nhân, đồng thời mở rộng quy mô vũ khí hạt nhân. Nhưng, họ đồng thời không tán thành chế tạo hàng nghìn đầu đạn hạt nhân, chạy theo quan điểm thực hiện cân bằng hạt nhân Mỹ-Nga. Nội bộ Trung Quốc cho rằng, cần xây dựng khả năng tấn công hạt nhân như sau, đó là: đối mặt với khả năng do thám, tình báo, tấn công chính xác và phòng thủ tên lửa mạnh của đối phương, cần có đầy đủ sức mạnh để tiến hành tấn công hạt nhân lần hai đáng tin cậy. Các nhà chiến lược Trung Quốc cho rằng, xây dựng lực lượng hạt nhân có quy mô quá lớn sẽ làm giảm ưu thế của lực lượng hạt nhân, cũng sẽ làm trầm trọng thêm sự bất ổn chiến lược. Chẳng hạn, chuyên gia vấn đề hạt nhân nổi tiếng của Viện Khoa học Quân sự Trung Quốc, Thiếu tướng Diêu Vân Trúc cho rằng, Trung Quốc cần kiên trì chính sách phát triển vũ khí hạt nhân trước đây, tức là hiệu quả răn đe hoàn toàn không tỷ lệ thuận với số lượng vũ khí hạt nhân, lực lượng hạt nhân quy mô nhỏ có khả năng sống sót và độ tin cậy tương đối cao cũng có thể tạo được khả năng răn đe hạt nhân có hiệu quả. Rất nhiều nhà quan sát cho rằng, trong 10-15 năm tới, Trung Quốc sẽ triển khai nhiều vũ khí hạt nhân tiên tiến hơn. Cục Tình báo Quốc phòng Mỹ đã đồng ý với quan điểm này trong “Đánh giá mối đe dọa thế giới thường niên” đệ trình Quốc hội. Năm 2011, Cục trưởng Cục Tình báo Quốc phòng Mỹ cho rằng: “Trung Quốc hiện chỉ có chưa đến 50 quả tên lửa đạn đạo xuyên lục địa có thể tấn công tới lãnh thổ Mỹ, nhưng con số này đến năm 2025 có thể sẽ tăng gấp đôi”, Bài viết cho rằng, có 3 nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến quyết sách liên quan đến phát triển lực lượng hạt nhân của Trung Quốc. Trước hết, nhìn một cách tổng thể, cảm nhận của Trung Quốc về môi trường an ninh bên ngoài và mối quan hệ của họ với các nước lớn là một phương diện quan trọng. Thứ hai, nhìn vào góc độ tác chiến, sự răn đe hạt nhân tiềm tàng và răn đe thông thường của lực lượng hạt nhân phóng giếng, phóng cơ động trên đường bộ và phóng từ tàu ngầm cũng là một nhân tố quan trọng. Cuối cùng, Trung Quốc sẽ còn cân nhắc sự phát triển của hệ thống phòng thủ tên lửa trong tương lai, bởi vì nó có thể sẽ gây tổn hại cho khả năng đáp trả hạt nhân răn đe đối phương của Trung Quốc. Các học giả Trung Quốc cho rằng, phòng thủ tên lửa là nhân tố quan trọng nhất quyết định nhu cầu của Trung Quốc trong tương lai. Chẳng hạn, Diêu Vân Trúc từng cho rằng, Mỹ triển khai phòng thủ tên lửa là “nhân tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến sự phát triển lực lượng hạt nhân của Trung Quốc”. Ngoài ra, bà cho rằng, cần nỗ lực duy trì khả năng răn đe hạt nhân tin cậy trong tình hình đối mặt với hệ thống phòng thủ tên lửa. Trung Quốc có thể sẽ tiếp tục tăng cường lực lượng hạt nhân của họ, đến khi họ cho rằng quy mô lực lượng hạt nhân đủ để ứng phó với mọi tình huống. Tên lửa đạn đạo JL-2 phóng từ tàu ngầm, Hải quân Trung Quốc. |
Thứ Sáu, 13 tháng 4, 2012
>> Nam - Bắc Triều thống nhất, chiêu hiểm của Trung Quốc?
Để đối phó Mỹ quay trở lại châu Á, Trung Quốc có thể lôi kéo Hàn Quốc, lấy lòng Ấn Độ, chế tạo nhiều tên lửa và máy bay không người lái… Tốp lính thủy đánh bộ Mỹ khoảng 200 quân đã đến miền bắc Australia (trại lính Robertson khu vực xung quanh Darwin) ngày 4/4/2012, đánh dấu sự khởi đầu mở rộng triển khai ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương của Quân đội Mỹ. Mãng tin tức đài truyền hình hữu tuyến Mỹ ngày 5/4 có bài viết nhan đề: Trung Quốc sẽ ứng phó thế nào với sự “chuyển hướng” châu Á của Obama? Mỹ có thể “chuyển hướng” châu Á thu hút rất nhiều tranh cãi của dư luận. Nhưng, phương Tây rất ít bàn đến vấn đề cách thức ứng phó sự bao vây đối với Trung Quốc. Dưới đây là 5 kịch bản có thể: Lôi kéo Hàn Quốc Vấn đề khu vực của Trung Quốc là thiếu sự tin tưởng của các nước khác. Các đồng minh Bắc Triều Tiên và Myanmar của họ quá yếu. Cách tốt nhất là tranh thủ Hàn Quốc để phá vỡ vòng vây. Hàn Quốc và Trung Quốc gần gũi về văn hóa. Mặc dù có nhiều học giả Nhật, Mỹ xúi giục, nhưng người Hàn Quốc vẫn không nói Trung Quốc là kẻ thù chủ yếu của họ. Ngược lại, Nhật Bản, thậm chí Mỹ bị người Hàn coi là mối đe dọa lớn hơn. Hàn Quốc còn có truyền thống chống Mỹ. Rất nhiều người Hàn cảm thấy, Mỹ là thủ phạm gây chia cắt đất nước họ, Mỹ lừa gạt các nhà lãnh đạo Hàn Quốc, không cần thiết gây hấn với CHDCND Triều Tiên, ép buộc Hàn Quốc ký kết hiệp định mậu dịch không công bằng… Những quan điểm này cho dù đúng hay sai thì nó cũng đã tạo cơ hội cho Trung Quốc. CHDCND Triều Tiên hiện nay rất phụ thuộc vào Trung Quốc. Sự thống nhất được Trung Quốc ủng hộ sẽ gây chấn động toàn bộ khu vực, loại bỏ một khâu quan trọng của vòng vây, đồng thời tạo hiệu quả cô lập Nhật Bản và gây phiền phức cho Mỹ. Tên lửa chống hạm 704 của Trung Quốc, phóng từ máy bay. Lấy lòng Ấn Độ Đường biên giới dài, lịch sử xung đột khiến cho mối quan hệ Trung-Ấn khó khăn. Nhưng, chỉ cần Ấn Độ không hoàn toàn trở thành đồng minh của Mỹ (hoàn toàn là phe cánh của Mỹ), Trung Quốc sẽ được lợi. Tác giả từng dự đoán trong 10 năm Ấn Độ sẽ có căn cứ của Mỹ. Nhưng New Delhi hoàn toàn không làm như vậy. Ấn Độ cũng có đề phòng đối với Mỹ, theo cách nhìn của Ấn Độ thì “trách nhiệm bảo hộ” của phương Tây, sự thay đổi chính quyền ở Libya, giống như chủ nghĩa thực dân mới. Xét thấy Ấn Độ vẫn dễ nghiêng về Mỹ, đối với Trung Quốc, bỏ đi tư thế tấn công ma lực sẽ là khôn ngoan. Đẩy mạnh chế tạo tên lửa và máy bay không người lái Cố gắng sánh ngang với người Mỹ về tàu chiến ở Tây Thái Bình Dương sẽ là một hành động ngu xuẩn, chắc chắn sẽ phải trả giá đắt. Cách làm khôn ngoan hơn là chiến thuật “ngăn cản khu vực”. Trước hết, Trung Quốc cần tìm cách đóng vai trò chủ đạo ở Đông Á, sau đó đấu đá với Mỹ ở Thái Bình Dương. Dòng tên lửa DF-21 của Trung Quốc. Sử dụng rất nhiều tên lửa và máy bay không người lái giá rẻ để đối phó với tàu sân bay Mỹ đắt giá và hành động chậm chạp, sẽ tiết kiệm lớn được chi phí. Ở những khu vực mà Mỹ kiểm soát yếu, tiến hành tác chiến phi đối xứng xem ra có tính răn đe tương đối ít. Mua trái phiếu châu Âu Mua trái phiếu châu Âu có thể tăng con bài mặc cả với phương Tây. Nó có thể nhắc nhở Mỹ rằng, Trung Quốc có thể cầm tiền sang nơi khác, Mỹ nếu đoạn tuyệt với Trung Quốc, ngân sách sẽ gặp phải vấn đề nghiêm trọng, từ đó tạo sức ép cho Mỹ. Mua trái phiếu châu Âu sẽ còn đẩy lên cao lãi suất ở Mỹ, làm cho Mỹ đau đớn nhận thức được phải đối xử tử tế với chủ nợ của mình. Dựa vào vốn của Trung Quốc cũng sẽ ngăn chặn NATO “khoa tay múa chân” đối với châu Á. Giúp đỡ những “kẻ gây rối” trên thế giới Những người khiến các nhà hoạch định chính sách Mỹ phân tâm nhất là những nước không kiêng dè gì Mỹ. Những nước như Iran, Venezuela, Cuba có khả năng nhất khiến cho Mỹ phải bỏ ra nguồn lực rất lớn, dùng cho mua sắm quốc phòng và xung đột với giá đắt. Ý tưởng máy bay chiến đấu không người lái phóng tên lửa không đối đất - Trung Quốc. Cho nên, đối với Trung Quốc, hỗ trợ những “kẻ xấu” là biện pháp không tồi. Đương nhiên, điều này sẽ làm cho Trung Quốc xem ra dường như nước nào cũng phải hỗ trợ, song hành động này lợi nhiều hơn hại, chẳng hạn nó sẽ làm tiêu hao chi phí quân sự của Mỹ, khiến cho họ bị phiền phức, mệt mỏi, cuối cùng làm cho toàn cầu sợ hãi quyền lực của Mỹ. |
Thứ Năm, 12 tháng 4, 2012
>> So sánh tiềm lực hạt nhân Trung - Ấn
So sánh khả năng hạt nhân của Ấn Độ và Trung Quốc không thể tiến hành một cách riêng biệt. Bối cảnh chiến lược Sự so sánh này cần phải gắn với bối cảnh quan điểm chiến lược, tham vọng toàn cầu và các đặc tính chính trị và xã hội của mỗi nước vốn là điều kiện cấu thành nhận thức của mỗi nước. >> Ấn Độ sẽ dùng chiến tranh du kích nếu chiến tranh Trung - Ấn xảy ra Tầm nhìn chiến lược của mỗi nước quyết định sự phát triển khả năng hạt nhân của họ (bao gồm chính sách hạt nhân, khái niệm, vũ khí và các hệ thống phóng) phù hợp với môi trường địa chiến lược. Trung Quốc dè chừng sự hiện diện của Mỹ Kể từ năm 2008, khi kinh tế thế giới đi vào khủng hoảng, thành tựu kinh tế của Trung Quốc không ngừng gia tăng. Chính quyền Mỹ dưới thời Tổng thống Obama đặc biệt quan tâm đến việc lôi kéo Trung Quốc nhằm giúp vào việc ngăn chặn sự suy giảm của nền kinh tế Mỹ. Tình hình này rõ ràng là điều kiện để cho các tham vọng toàn cầu của Trung Quốc gia tăng. Vì vậy, không mấy ngạc nhiên khi Trung Quốc đã không hồ hởi với các "trò chơi" của chính quyền Obama trong những vấn đề quốc tế. Tuy nhiên, một trong những lý do quan trọng giải thích cho sự lưỡng lự của Trung Quốc là mối hoài nghi đối với các ý đồ của Mỹ ở châu Á nơi mà Mỹ đang phát triển quan hệ phù hợp với chiến lược của Ấn Độ. Sách trắng quốc phòng của Trung Quốc năm 2008 đã nói rõ điều này khi nhấn mạnh: “Mỹ đang tăng cường sự hiện diện quân sự ở châu Á-Thái Bình Dương.” Trung Quốc lo ngại về khả năng hình thành một trục chống Trung Quốc do Mỹ khởi xướng, kéo dài từ Nhật Bản đến Ấn Độ. Điều này không được tướng Mã Hiểu Thiên - Phó tổng tư lệnh Quân đội Trung Quốc nói ra trong cuộc đối thoại Shangri La 2010 tại Singapore. Ông Mã chỉ nói rằng: "Chúng tôi tin rằng duy trì an ninh trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương phục vụ cho lợi ích của Trung Quốc, và đó cũng là trách nhiệm của Trung Quốc.” Rõ ràng là vị thế ngày càng được khẳng định của Hải quân Trung Quốc tại Biển Đông chỉ là một cách khẳng định của chính sách này. Vòng xoay Mỹ - Trung, Mỹ - Ấn. Sự khẳng định quyền lực này có ý nghĩa chiến lược mạnh mẽ đối với các nước ASEAN, đặc biệt khi Trung Quốc rất có thể sẽ chen vào cấu trúc an ninh của ASEAN trong những năm tới. Quan hệ Mỹ - Ấn nồng ấm Quan hệ Ấn - Mỹ gần đây đã có những bước cải thiện, nhất là từ khi Obama khẳng định sẽ quay trở lại châu Á. Sau khi Hiệp định hạt nhân Ấn - Mỹ được ký kết, quan hệ kinh tế 2 nước dự kiến đi vào thời kỳ phát triển mạnh. Tuy nhiên điều này đã không diễn ra do nội bộ chính quyền Obama có vấn đề với Ấn Độ. Thực tế là việc cải thiện quan hệ này xảy ra khi quan hệ Mỹ - Trung có những bước trục trặc. Một phần vì kinh tế Ấn Độ duy trì được tốc độ tăng trưởng cao, gần 8%, và khác với tăng trưởng của kinh tế Trung Quốc là phụ thuộc vào xuất khẩu. Hơn nữa, khi lực lượng quân đội Mỹ tại Afghanistan rút hết, Mỹ sẽ mong muốn duy trì Pakistan làn một đồng minh ở khu vực. Giới quân sự ở Pakistan dường như sẽ tiếp tục quyết định thế chiến lược của nước này trong những năm tới. Có lẽ đây là lý do sâu xa của việc Mỹ tiếp tục duy trì viện trợ 10 tỷ USD cho quân đội Pakistan. Không được quên rằng Pakistan, một đồng minh thân cận của Trung Quốc, cũng đã đạt được khả năng hạt nhân của mình nhờ có sự giúp đỡ và tiếp tay của Trung Quốc. Những tính toán này có lẽ đã ảnh hưởng đến việc Mỹ khuyến khích Ấn Độ đóng một vai trò chiến lược lớn hơn ở Afghanistan và xa hơn nữa ở phía Tây Á. Với những tính toán như vậy, trong viễn cảnh quan hệ đối ngoại của Mỹ, Trung Quốc sẽ vẫn tiếp tục chiếm một khoảng không gian lớn hơn Ấn Độ trong những năm tới, bất chấp những thăng trầm trong quan hệ Mỹ Trung. Về kinh tế và sức mạnh, Ấn Độ vượt trội ở khu vực Nam Á. Sức mạnh mềm của văn hóa Ấn Độ cũng phổ biến khắp khu vực. Trong thời kỳ chiến tranh Lạnh, Ấn Độ có quan hệ tốt với Liên Xô đặc biệt là nguồn cung cấp vũ khí và trang thiết bị chủ yếu cho Ấn Độ. Vị trí đia lý của Ấn Độ cho phép nước này bao trùn khu vực Ấn Độ Dương. Chính vì vậy mà không ngạc nhiên khi Trung Quốc đang tranh thủ các nước nhỏ hơn trong khu vực, nhằm tách họ ra khỏi ảnh hưởng của Ấn Độ. Quan hệ thân thiện gần gũi giữa Trung Quốc với Pakistan là rất rõ. Nepal và Sri Lanka đang ngày càng rơi vào khu vực ảnh hưởng của Trung Quốc. Trừ Pakistan, quan hệ của Trung Quốc đối với các nước láng giềng khác gần Ấn Độ tỏ ra nhấn mạnh về chính trị và kinh tế nhiều hơn là quan hệ quân sự. Thực tế hạt nhân Với sức mạnh kinh tế và quân sự tương đối yếu hơn Trung Quốc, Ấn Độ dường như chỉ nuôi dưỡng những tham vọng khu vực. Khác với Trung Quốc, nước đã ký Hiệp định chống phổ biến vũ khí hạt nhân (NPT) và được công nhận là cường quốc hạt nhân, Ấn Độ chưa ký NPT, khả năng hạt nhân của Ấn Độ chỉ được công nhận sau vụ thử hạt nhân năm 1998. Vì vậy, Ấn Độ có những hạn chế cơ bản trong cố gắng mở rộng khả năng kho vũ khí hạt nhân của mình. Dù theo tin tức, Ấn Độ đã làm giàu được một khối lượng uranium đủ để chế tạo thêm 30 đầu đạn hạt nhân nữa. Theo dự đoán, kho vũ khí hạt nhân của Ấn Độ có từ 40-80 đầu đạn. Số lượng này ít hơn cả số đầu đạn của Pakistan và bằng khoảng 1/5 số đầu đạn mà Trung Quốc đang sở hữu. Với những vụ thử vũ khí hạt nhân hạn chế, vấn đề hoạt động thực tế của các vũ khí hạt nhân của Ấn Độ đang được đặt ra. Nhưng sự hạn chế chính của Ấn Độ là ở khả năng yếu kém trong hệ thống phóng. Hiện nay, Ấn Độ chỉ có những loại tên lửa đạn đạo tầm ngắn và tầm trung. Sự phát triển tên lửa của hải quân chỉ nhằm vào hoàn thiện khả năng phóng ở tầm trung. Tàu ngầm hạt nhân đầu tiên của Ấn Độ, INS Arihant, đang được chạy thử ở biển, nếu theo đúng lịch trình thì có thể bắt đầu chính thức hoạt động vào năm 2012. Vì vậy, hiện nay Ấn Độ vẫn chưa có tàu ngầm trang bị tên lửa đạn đạo. Hạm đội tàu ngầm của Ấn Độ đã cũ và phải dựa vào chương trình mua sắm chung của hải quân. Theo tin tức, rất có thể ngân sách hải quân sẽ bị cắt giảm đến 50%. Vì vậy khả năng phóng hạt nhân của Ấn Độ hiện nay chủ yếu dựa vào máy bay và hạm đội tàu nổi có khả năng mang vũ khí hạt nhân là chính. Trước mắt, vấn đề này hạn chế tầm với khả năng hạt nhân của Ấn Độ trong phạm vi khu vực Nam Á và vùng Tây Tạng. Hầu hết các tên lửa đạn đạo của Ấn Độ chỉ dừng ở tầm ngắn và tầm trung. Sau vụ thử hạt nhân năm 1998, Ấn Độ áp dụng chính sách “không sử dụng trước” (NFU). Tuy nhiên, theo chính sách hạt nhân của mình, dù Ấn Độ không là nước sử dụng vũ khí hạt nhân trước, vẫn sẽ có “trả đũa hạt nhân ồ ạt đối với việc sử dụng vũ khí hạt nhân đầu tiên và nhằm gây ra những tổn thất không thể chấp nhận được” cho kẻ thù. Tuy nhiên, những từ ngữ này có sức nặng đến đâu thì còn phải chờ xem. Với khả năng hạn chế về hạt nhân của mình, khả năng đánh đòn hạt nhân thứ 2 của Ấn Độ sẽ phải dựa vào lực lượng không quân và các hạm đội tàu nổi. Như vậy Ấn Độ sẽ tiếp tục ở thế yếu đối với các đòn tấn công hạt nhân xa hơn tầm trung. Cho đến năm 2003, Ấn Độ mới thành lập Bộ chỉ huy hạt nhân chiến lược. Tổ chức liên nghành này có trách nhiệm bao quát toàn bộ lực lượng hạt nhân, tên lửa và các khí tài khác. Đồng thời cũng có một trách nhiêm đặc biệt trong việc thực hiện chính sách hạt nhân của Ấn Độ. Điểm yếu cơ bản của Ấn Độ không chỉ ở quá trình quyết định chính sách chiến lược mà còn ở việc chậm trễ trong thực hiện các quyết định đó. Ấn Độ đã không tận dung được thời gian như là nguồn lực không thể thay thế. Do đó công tác nghiên cứu và phát triển quốc phòng do nhà nước chỉ đạo thường không đạt tiến độ đề ra. Việc mua sắm quốc phòng trở thành mảnh đất mầu mỡ cho tham nhũng và các thủ tục hành chính tỏ ra tập trung vào chống tham nhũng hơn là vào việc mua sắm các hệ thống vũ khí đúng hạn định. Tình hình này vẫn chưa được cải thiện bất chấp các tư lệnh quân chủng đã đưa ra lời phàn nàn. Tình trạng này đã làm suy yếu chương trình hiện đại hóa quân đội của Ấn Độ. Tuy nhiên, Ủy ban nội các về an ninh (CCS) do Thủ tướng trực tiếp chỉ đạo là cơ quan sẽ ra lệnh đánh trả bất kỳ cuộc tấn công hạt nhân nào. Quyết định nhanh đưa ra dưới sức ép chưa bao giờ là điểm mạnh của Ủy ban này. Liệu ủy ban này trên thực tế có ra lệnh cho một cuộc trả đũa hạt nhân hay không lại là một vấn đề còn tranh luận. Trái lại, Trung Quốc đã phát triển một tầm nhìn chiến lược dài hạn rõ ràng để mở rộng khả năng chiến lược hạt nhân của họ, phù hợp với những tham vọng toàn cầu đề ra. Trung Quốc đã thiết lập khả năng sản xuất, phát triển và nghiên cứu vũ khí hạt nhân quy mô lớn. Trung Quốc đã trở thành một nước xuất khẩu vũ khí lớn và điều này đã cho phép họ một tư thế mạnh và thuận lợi để mở rộng ảnh hưởng của mình trên trường quốc tế. Trung Quốc cũng áp dung chính sách không là nước đầu tiên sử dụng vũ khí hạt nhân, trước Ấn Độ rất nhiều (năm 1964) và với sự khẳng định không là nước sử dụng vũ khí hạt nhân “bất kỳ lúc nào hay trong bất kỳ hoàn cảnh nào.” Dù Trung Quốc tái khẳng định chính sách NFU vào năm 2009, độ tin tưởng để thi hành chính sách này được đánh giá là thấp. Thí dụ, có nhiều tin tức cho rằng Trung Quốc đã từng tính đến các phương án tấn công hạt nhân chống lại Liên Xô trong trường hợp Liến Xô mở cuộc tiến công thông thường. Lúc đó, Trung Quốc đã có khả năng phóng vũ khí hạt nhân từ máy bay, tàu nổi và tàu ngầm cũng như bằng tên lửa. Chương trình hiện đại hóa quân sự của Trung Quốc đang được tiến hành tốt với việc phát triển tập trung vào việc cải tiến khả năng hệ thống tên lửa và hải quân trong khi nhằm biến Lực lượng giải phóng quân Nhân dân (PLA) thành một quân đội hiện đại với khả năng cơ động cao và hỏa lực ngày càng hoàn thiện hơn. Với Trung Quốc thì sức mạnh tên lửa đạn đạo đã "bảo" cả trên biển với hạm đội tàu ngầm hùng hậu có khả năng phóng tên lửa liên lục địa. Theo một số nguồn tin, Trung Quốc là nước có số đầu đạn hạt nhân thấp nhất trong 5 cường quốc hạt nhân. Dù không biết con số chính xác số đầu đạn hạt nhân mà Trung Quốc đang sở hữu là bao nhiêu, số lượng đưa ra là khoảng 130 đầu đạn đang được triển khai trên các tên lửa và máy bay. Bản tin Nhà khoa học nguyên tử cho rằng con số này có thể là chính xác. Có khả năng còn 70 đầu đạn nữa đang nằm trong kho. Trung Quốc hiện có một số tên lửa đạn đạo xuyên lục địa tự chế tạo bao gồm DF-5 với tầm bắn khoảng 15.00Km đã đưa vào trực chiến từ năm 1980. Khoảng 80 đầu đạn hạt nhân đang được triển khai trên các tên lửa DF-3, DF-4, DF-5 và DF-21. Trong số này, Trung Quốc có khoảng 25 tên lửa DF-5. Trong chương trình hiện đại hóa quốc phòng, Trung Quốc đang cải tiến sự cơ động của tên lửa và khả năng hoạt động của chúng. Trung Quốc có tiềm năng phát triển loại tên lửa có khả năng mang nhiều đầu đạn từ một số loại tên lửa này. Dù lực lượng hải quân của Trung Quốc lớn thứ 3 trên thế giới, nhưng Trung Quốc chỉ có khả năng tự vệ giới hạn cho khu vực bờ biển và chỉ với khả năng "nước nâu". Tuy nhiên, với kết quả của các nỗ lực hiện đại hóa, hải quân PLA hiện đã có khả năng "nước xanh". Điều đó có nghĩa là họ đã có khả năng tiến công trong giới hạn cách bờ biển khoảng 1.000 hải lý. Thêm vào đó, Hải quân Trung Quốc tiếp tục ở thế yếu trong hệ thống chỉ huy C4. Để đáp ứng với những ưu tiên chiến lược ngày càng cao, hải quân Trung Quốc đang trong một quá trình chuyển hóa thành lực lượng hải quân nước xanh, tuy còn phải mất nhiều thời gian nữa. Họ đã phát triển được loại tàu ngầm hạt nhân Type 094 được trang bị tên lửa đạn đạo phóng từ tàu ngầm JL 2 với tầm bắn 8.000Km; đưa bán cầu phía Tây vào tầm bắn của mình. Trung Quốc cũng đã phát triển một căn cứ tàu ngầm lớn ở đảo Hải Nam, gây lo ngại cho cả Mỹ lẫn Ấn Độ. Từ thập kỷ trước, sự hiện diện của Hải quân Trung Quốc trên hải phận quốc tế đã không ngừng gia tăng. Trung Quốc đã tiến hành tập trận chung với hàng chục nước, bao gồm cả Ấn Độ và Pakistan. Trong cố gắng đầu tiên vươn ra quốc tế, Trung Quốc đã cử một đội tàu chiến tham gia vào các nhiệm vụ chống hải tặc tại Vịnh Aden. Rất có thể trong thập kỷ tới chúng ta sẽ chứng kiến sự khẳng định sức mạnh với quy mô lớn của hải quân Trung Quốc tại Ấn Độ Dương. Trung Quốc có công trong việc giúp Pakistan phát triển khả năng hạt nhân và tên lửa, bất chấp các hiệp định quốc tế. Hai nước này có quan hệ chiến lược chặt chẽ và quan hệ đó có thể giúp Pakistan gia tăng khả năng hạt nhân trong tương lai. Tuyên bố mới đây của Trung Quốc xây thêm hai nhà máy hạt nhân cho Pakistan mà họ nói là theo hợp đồng ký năm 1991 là một điều cần xem xét. Dù chính quyền Mỹ dưới thời Tổng thống Bush trước đây đã phản đối, nhưng giờ đây chính phủ Mỹ tìm cách làm ngơ do mục tiêu chính trị trong chiến lược Afghanistan - Pakistan. Vì thế mà Trung Quốc đang giành được lợi thế to lớn trong sự hiển diện của mình tại Pakistan. "Thua vì tham vọng nhỏ hơn" Cho đến nay Trung Quốc có lợi thế hơn Ấn Độ về ba phương diện cơ bản trong việc phát triển khả năng hạt nhân: Quá trình hoạch định chính sách, phát triển các thống vũ khí và các lựa chọn hệ thống phóng. Tuy nhiên, khả năng hạt nhân của Trung Quốc hầu như hoàn toàn dựa vào các hệ thống tên lửa đạn đạo liên lục địa triển khai trên biển và đất liền. Khả năng nước xanh của họ đang được mở rộng với việc phát triển 94 tàu ngầm hạt nhân được trang bị các tên lửa SLBM. Với trang bị này họ có thể vượt qua được các giới hạn hoạt động ở vùng biển nước xanh. Vì vậy khả năng hạt nhân của Trung Quốc phù hợp với những tham vọng toàn cầu của họ. So sánh với Trung Quốc, khả năng hạt nhân của Ấn Độ bị giới hạn bởi những tham vọng hạn hẹp trong khu vực của mình. Tình hình này khó có thể thay đổi trừ khi Ấn Độ cải thiện được khả năng giải quyết được những thách thức về an ninh chiến lược của mình. Để làm được điều này thì sở hữu những vũ khí hạt nhân và các khả năng về tên lửa hiện đại hơn sẽ là thiết yếu đối với Ấn Độ. Hiện tại, vị thế của Ấn Độ ít có khả năng thay đổi trừ khi Ấn Độ cải thiện được khả năng giải quyết những thách thức chiến lược của mình. Để làm được điều này, cải thiện khả năng hạt nhân và tên lửa là thiết yếu. Đặc biệt, Ấn Độ phải phát triển được một khả năng phòng thủ chống tên lửa mạnh. Để làm được như vậy Ấn Độ còn phải mất nhiều thời gian. Sức mạnh của Ấn Độ phụ thuộc vào việc xây dựng được một quan hệ hai bên cùng thắng với Trung Quốc, trong khi đồng thời phát triển được mối quan hệ chiến lược gần gũi hơn với Mỹ mà không phải hy sinh các lợi ích của mình ở khu vực. Quan hệ Ấn - Nga, hiện hơi trì trệ, cũng cần phải được nuôi dưỡng. Trên hết, Ấn Độ phải tăng tốc hiện đại hóa quân đội. Trong những năm sắp tới, khu vực Ấn Độ Dương rất có thể trở thành địa bàn khẳng định sức mạnh. Tình hình này đòi hỏi phải làm cho hải quân Ấn Độ trở thành một lực lượng mạnh. Vì có như vậy Ấn Độ mới không đánh mất lợi thế chiến lược của nình ở khu vực. |
Chủ Nhật, 8 tháng 4, 2012
>> Ấn Độ sẽ dùng chiến tranh du kích nếu chiến tranh Trung - Ấn xảy ra
Báo cáo Ấn Độ cho rằng, TQ là thách thức to lớn đối với ngoại giao, an ninh Ấn Độ. Về chiến lược, cần giữ vững hướng bắc, giành ưu thế hướng Nam… Ngày 29/3, tại New Delhi, Thủ tướng Ấn Độ Singh hội kiến với Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào. Tờ “Liên hợp Buổi sáng” Singapore ngày 30/3 có bài viết nhan đề ““Không liên kết 2.0” Ấn Độ phản đối liên minh với Mỹ chống Trung Quốc”, nội dung như sau: Cách đây không lâu, Ấn Độ đã công bố 1 báo cáo quan trọng, mang tên “Không liên kết 2.0: chính sách ngoại giao và chiến lược của Ấn Độ trong thế kỷ 21”. >> Sắp xảy ra chiến tranh biên giới Ấn Độ - Trung Quốc Từ khi kết thúc Chiến tranh Lạnh đến nay, Ấn Độ vẫn chưa có một báo cáo chính sách ngoại giao và chiến lược toàn diện và sâu sắc như vậy, một nhóm học giả Ấn Độ và Mỹ rất coi trọng vấn đề này, đang sôi nổi thảo luận. Tầm quan trọng của báo cáo này rất rõ: Thứ nhất, mặc dù không phải là một văn kiện của chính phủ, nhưng có bối cảnh về mặt chính quyền rất lớn. Đây là hoạt động tập thể của 8 nhân sĩ uy tín thảo luận thường xuyên dài tới 14 tháng, trong số họ có nguyên Thư ký ngoại giao (quan chức ngoại giao cao nhất Ấn Độ), Thư ký quân sự của Hội đồng An ninh Quốc gia, các học giả nổi tiếng và ưu tú trong giới thương nhân của thế giới, hơn nữa, cố vấn an ninh quốc gia đương nhiệm Menon mặc dù nằm ngoài danh sách, nhưng đôi lúc cũng tham gia các cuộc thảo luận của họ. Hoạt động của họ còn nhận được sự hỗ trợ hành chính của Học viện Quốc phòng Quốc gia Ấn Độ. Ngày 28/2, 3 cố vấn an ninh quốc gia tiền nhiệm và đương nhiệm đều tham dự lễ công bố báo cáo và cùng có bài phát biểu, có thể coi là rầm rộ chưa từng có. Nói cách khác, một phần nội dung của báo cáo rất có thể trở thành chính sách chính thức. Tên lửa đạn đạo xuyên lục địa DF-31A của Lực lượng tên lửa chiến lược Trung Quốc. Thứ hai, báo cáo thực sự có ý tưởng mới. Chỉ riêng tiêu đề “Không liên kết 2.0” đã nói lên được rất nhiều điều. “Không liên kết” có nghĩa là Ấn Độ và Mỹ sẽ duy trì một khoảng cách nhất định; “2. 0” cho biết đây là một phiên bản mới, vừa có liên hệ lại vừa khác với “bản 1. 0” thời kỳ Chiến tranh Lạnh. Ấn Độ và Mỹ đều có không ít học giả bày tỏ thất vọng đối với vấn đề này. Nhưng đối với việc báo cáo đề xuất lấy chiến lược Ấn Độ Dương để ứng phó với thách thức từ Trung Quốc, có đánh giá cho là “giàu sức tưởng tượng”. Thứ ba, báo cáo khá thẳng thắn. Mặc dù là báo cáo ngoại giao, nhưng ít có “ngôn ngữ ngoại giao” dè dặt. Bất kề là kết luận của nó thế nào, tính toàn diện của khuôn khổ báo cáo, tính phản biện đối với các vấn đề quan trọng và tính thẳng thắn đối với những khó khăn trực diện, đã quyết định đây là một tài liệu tham khảo hiếm có nghiên cứu về chính sách ngoại giao và chiến lược quân sự (thậm chí có thể bao gồm công việc nội bộ của Ấn Độ). “Trung Quốc trực tiếp va chạm vào Ấn Độ” Không cần úp mở, đề phòng Trung Quốc là trục chính của báo cáo. Lời nói đầu của báo cáo đã nói thẳng: “Trong tương lai gần, Trung Quốc sẽ tiếp tục là thách thức to lớn của chính sách ngoại giao và an ninh của Ấn Độ. Là 1 nước lớn chủ yếu, Trung Quốc trực tiếp động chạm đến không gian địa-chính trị của Ấn Độ. Cùng với việc tăng cường khả năng kinh tế và quân sự của Trung Quốc, khoảng cách sức mạnh giữa Trung-Ấn sẽ mở rộng”. Máy bay chiến đấu JF-17 của Không quân Pakistan, do Trung Quốc-Pakistan hợp tác sản xuất. Báo cáo thừa nhận rằng vấn đề biên giới Trung-Ấn không thể giải quyết được trong ngắn hạn, nhấn mạnh Trung Quốc chiếm ưu thế về triển khai quân sự và tình hình ở biên giới, vì vậy đề xuất phương châm chung ứng phó chiến lược là: Ở hướng bắc, tuyến một biên giới trên bộ “giữ vững không dao động”; về hướng nam, cần mở rộng ưu thế hải quân ở Ấn Độ Dương. Báo cáo đề xuất, về ngoại giao, một mặt cần tích cực phát triển quan hệ với các nước lớn chủ yếu, “nhằm buộc Trung Quốc phải kiềm chế trong các vấn đề đối với Ấn Độ”; mặt khác, quan hệ nước lớn của Ấn Độ lại không thể đi quá mức, tránh gây ra đối đầu công khai của Trung Quốc đối với Ấn Độ. Đoạn cuối “phần Trung Quốc” của báo cáo dừng lại ở từ “cân bằng”: “Chiến lược đối với Trung Quốc của Ấn Độ phải cân bằng thận trọng, tức là cân bằng giữa hợp tác và cạnh tranh, cân bằng giữa lợi ích kinh tế và lợi ích chính trị, cân bằng song phương và khu vực. Xét thấy tính bất đối xứng về sức mạnh và vai trò ảnh hưởng của hai nước Ấn Độ và Trung Quốc hiện nay và trong tương lai, Ấn Độ phải nắm chắc sự cân bằng này. Điều này có lẽ là thách thức quan trọng nhất của chiến lược Ấn Độ trong tương lai”. Xét một cách công bằng, chính sách Trung Quốc của báo cáo này có sự khác biệt rất lớn với quan điểm của “phái diều hâu” Ấn Độ hiện nay. Nhưng, nhận thức của báo cáo đối với quan hệ Trung-Ấn không toàn diện, mà có phần tiêu cực. Biên đội hộ tống Trung Quốc trên Ấn Độ Dương. Thứ nhất, báo cáo đã hoàn toàn tránh né một phần quan trọng, đó là, với tư cách là hai nước lớn đang phát triển có dân số đông nhất, trong rất nhiều vấn đề quốc tế quan trọng như trật tự tài chính quốc tế, phản đối chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch, biến đổi khí hậu toàn cầu, Trung-Ấn tự nhiều có lợi ích chung và đã thực hiện hợp tác chiến lược quan trọng. Thứ hai, báo cáo nhấn mạnh “Ấn Độ phải coi châu Á là khu vực hàng đầu về cơ hội kinh tế, nhấn mạnh toàn cầu hóa “lợi nhiều hơn hại” đối với Ấn Độ. Bài báo cho rằng, thực ra, có một thực tế cơ bản nhất là "Trung Quốc phát triển nhanh chóng đã là một trong những nguồn gốc chủ yếu của “cơ hội kinh tế châu Á”, phát triển quan hệ kinh tế thương mại với Trung Quốc chính là một khía cạnh quan trọng của toàn cầu hóa kinh tế Ấn Độ". Theo bài báo thì, trên phương diện này, nhận thức của báo cáo rõ ràng lạc hậu với thực tế. Ấn Độ là một nước lớn về phần mềm, nhưng thiết bị máy tính phải mua nhiều từ Thâm Quyến; Ấn Độ thiếu điện nghiêm trọng là “nút cổ chai” lớn nhất trong phát triển kinh tế của họ, mà đó lại là các thiết bị nhiệt điện của Trung Quốc có sức cạnh tranh, chứ không phải là hợp tác điện hạt nhân với các nước phát triển, đang giúp Ấn Độ thoát khỏi hoàn cảnh khó khăn; mặc dù Ấn Độ lo ngại thiết bị của Trung Quốc có thể cài lẫn phần mềm gián điệp, nhưng các doanh nghiệp viễn thông chính của Trung Quốc vẫn thực sự chiếm thị phần tương đối lớn ở Ấn Độ. Tóm lại, thái độ của báo cáo đối với quan hệ kinh tế thương mại Trung-Ấn vốn có thể tích cực hơn một chút. Máy bay chiến đấu đa năng Su-30MKI của Không quân Ấn Độ. Hơn nữa, báo cáo đã đề cập: “Chính sách Tây Tạng của Ấn Độ cần đánh giá và điều chỉnh lại, thuyết phục Trung Quốc tìm cách hòa giải với Dalai Lama và những người Tây Tạng lưu vong có thể giúp giảm quan hệ căng thẳng Ấn-Trung”. Đây là một lĩnh vực rất nhạy cảm, trách nhiệm quan trọng hàng đầu của Chính phủ Ấn Độ là không cho phép người Tây Tạng lưu vong triển khai tại Ấn Độ bất cứ hoạt động chính trị chống Trung Quốc nào. Ngoài ra, khi phân tích về việc khó có thể cải thiện quan hệ với Pakistan, báo cáo cho rằng: “Chúng ta cần coi Pakistan là một phần thách thức lớn từ Trung Quốc”. Có thể nói, đầy là sai lầm có tính thành kiến từ tác giả đối với chính sách Nam Á tổng thể của Trung Quốc. “Mỹ là bạn chứ không phải là đồng minh” Những năm gần đây, “liên minh với Mỹ chống Trung Quốc” hầu như đã trở thành dòng chính của dư luận Ấn Độ, chính ở điểm này, báo cáo có phần lại đi ngược trào lưu. Báo cáo không hề viết sơ lược về vấn đề này: Báo cáo chỉ ra rằng, do đặc điểm bản sắc quốc gia và tính đa dạng về lợi ích của Ấn Độ quyết định, trên thế giới không có nhóm quốc gia “tự nhiên”, kể cả về chính trị, kinh tế hay địa-chính trị, hoàn toàn thích hợp với Ấn Độ. Ở cấp độ toàn cầu, hệ thống liên minh quốc tế của Mỹ bắt đầu trượt dốc rõ rệt. Nếu nói sức mạnh kinh tế và quân sự, hệ thống liên minh quốc tế, vị thế chi phối trong lĩnh vực tài chính và năng lượng từng là 4 trụ cột lớn của Mỹ, thì những trụ cột này hiện đã không ổn định, không đáng tin cậy nữa. Ấn Độ có sức hút đặc biệt đối với Mỹ, bởi vì Ấn Độ chỉ đứng sau nước mới nổi lớn nhất là Trung Quốc, quan hệ với Bắc Kinh lại rất phức tạp. Đối với chính quyền Bush và Obama, giá trị tạo nên của Ấn Độ thường vượt giá trị của bản thân Ấn Độ. Ấn Độ muốn tận dụng giá trị tạo nên này sẽ có rủi ro, một khi quan hệ Trung-Mỹ có chiều hướng tốt lên, quan hệ Ấn-Mỹ sẽ phải trả giá. Hơn nữa, hiện nay còn chưa hoàn toàn rõ ràng, nếu Trung Quốc xâm phạm lợi ích của Ấn Độ, Mỹ cuối cùng sẽ có phản ứng thế nào. Lịch sử chứng minh rằng, hễ nước Mỹ chính thức liên minh thường đều phát hiện thấy quyền tự chủ chiến lược của mình bị tổn hại. Ấn Độ và Mỹ là bạn chứ không phải đồng minh, sẽ phù hợp hơn với lợi ích của mỗi nước. Ấn Độ đặt mua máy bay tuần tra chống tàu ngầm P-8I Poseidon của Mỹ. Do Trung Quốc luôn nghi ngờ Ấn Độ phát triển quan hệ đối tác với các nước khác, đặc biệt sử dụng quan điểm “tổng bằng không” để nhìn mối quan Ấn-Mỹ, Ấn-Nhật được cải thiện, vì vậy, nhìn về lâu dài, cần xử lý rất thận trọng quan hệ ba bước Ấn-Trung-Mỹ. Tác giả cho rằng, đến đây có thể nói, đây chính là cốt lõi của chính sách không liên kết phiên bản mới của Ấn Độ, tức là coi trọng cả Mỹ và Trung Quốc. “Nước lớn về hải quân là mục tiêu của Ấn Độ” Mặc dù Trung Quốc nói rõ là “không hề tồn tại vấn đề Trung Quốc muốn “tấn công Ấn Độ”, “gây sức ép với Ấn Độ””, mặc dù Thủ tướng Ấn Độ tuyên bố tại Quốc hội rằng “Chính phủ không cho rằng Trung Quốc có kế hoạch tấn công Ấn Độ, biên giới Ấn-Trung về tổng thể là hòa bình”, mặc dù Cố vấn An ninh quốc gia tiền nhiệm Ấn Độ Narayanan (cựu Giám đốc Tình báo Ấn Độ) công khai nói rằng “ý nguyện tìm kiếm hòa bình và an ninh của Trung Quốc ở khu vực biên giới là chân thành”, mặc dù báo cáo cũng thừa nhận “biên giới Ấn-Trung nhiều năm qua cơ bản ổn định”, nhưng, trung tâm chính sách quốc phòng của Ấn Độ là sẵn sàng chiến tranh với Trung Quốc. Tàu ngầm hạt nhân Chakra của Ấn Độ, thuê của Nga, đã đi vào hoạt động. Điểm này có thể hiểu được, quân đội bất cứ nước nào đều cần sẵn sàng cho khả năng xấu nhất, chỉ có điều thường không nói rõ mà thôi. “Phần sức mạnh” của báo cáo đã bàn về hai khả năng dùng vũ lực quy mô nhỏ chiếm đóng ở biên giới và phát động tấn công quy mô lớn đối với Ấn Độ, đồng thời đề xuất, cho dù xuất hiện tình huống thế nào, mục tiêu chiến lược của Ấn Độ đều là “khôi phục hiện trạng”. Về khả năng Trung Quốc dùng vũ lực quy mô nhỏ chiếm đóng ở biên giới, báo cáo cho rằng, có khả năng nhất xảy ra ở đoạn còn nhận thức khác nhau đối với Tuyến kiểm soát thực tế. Sách lược ứng phó tốt nhất là “lấy gậy ông đập lưng ông”. Có vài đoạn, Ấn Độ chiếm ưu thế chiến thuật, cần xác định đó là khu vực có thể phát động tấn công hạn chế. Đối với vấn đề này, cần tăng cường xây dựng giao thông và doanh trại. Về khả năng Trung Quốc phát động tấn công quy mô lớn đối với Ấn Độ, báo cáo không chủ trương “ứng phó đối xứng” chính diện (proportionate response), đồng thời bày tỏ nghi ngờ về ý tưởng tăng cường và bố trí “lực lượng tấn công miền núi” phổ biến hiện nay, cho rằng “điều này chỉ có thể tái hiện tất cả những vấn đề mà lực lượng tấn công hiện có của chúng ta phải đối mặt, trong điều kiện địa lý và hậu cần khắc nghiệt”. Tàu sân bay Viraat của Hải quân Ấn Độ. Điều này có thể chỉ những vấn đề mà quân đội Ấn Độ phải đối mặt khi đối đầu với Pakistan ở Siachen Glacier hoặc xảy ra cuộc xung đột Kargil giữa Ấn Độ-Pakistan. Báo cáo đưa ra chiến lược ứng phó: Dùng 3 “khả năng phi đối xứng” lớn (asymmetric capabilities) buộc Quân đội Trung Quốc rút lui. Thứ nhất, tiến hành chiến tranh du kích ở khu vực bị chiếm đóng, đồng thời thâm nhập Tây Tạng cắt đứt tuyến đường giao thông tiếp tế của Trung Quốc. Thứ hai, đẩy nhanh xây dựng giao thông, thông tin, đẩy nhanh tiến trình hợp nhất khu vực biên giới và người dân khu vực này với nội địa Ấn Độ. Thứ ba, dốc sức phát triển hải quân, đảm bảo có khả năng tiến hành kiểm soát đối với Ấn Độ Dương. Đây là cốt lõi của “chiến lược phi đối xứng”. Báo cáo nhấn mạnh, về khả năng trên biển, hiện nay Ấn Độ chiếm ưu thế, nhưng Trung Quốc đuổi kịp rất nhanh. Trung Quốc hiện tập trung sức cho kiểm soát biển Hoàng Hải, eo biển Đài Loan, biển Hoa Đông và biển Đông, tầm quan trọng của Ấn Độ Dương đối với họ chiếm vị trí thứ hai. Tên lửa chống hạm siêu âm Brahmos do Ấn-Nga hợp tác sản xuất. Hành động chiến lược biển của Mỹ, Nhật Bản, Indonesia, Australia và Việt Nam đều có lợi cho việc làm chậm lại việc Trung Quốc điều động lực lượng hải quân đến Ấn Độ Dương. Ấn Độ cần tận dụng cơ hội này tăng cường xây dựng hải quân. Ngoại giao khu vực của Ấn Độ cũng cần phục vụ cho vấn đề này, cần phát triển quan hệ chặt chẽ hơn với các lực lượng “ngăn chặn” nói trên, bao gồm đạt được hiệp định hợp tác an ninh và triển khai diễn tập hải quân định kỳ với những nước này. Phóng viên cho rằng, một khi có sự kiện lớn, Ấn Độ sẽ cắt đứt tuyến đường vận chuyển dầu mỏ của Trung Quốc ở Ấn Độ Dương. Sau khi báo cáo được công bố, nhà phân tích chiến lược nổi tiếng Ấn Độ Raja Mohan có bài viết cho rằng, đây là chiến lược đối với Trung Quốc “giàu sức tưởng tượng”. |
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)
Chuyên mục Quân Sự
Hải quân Trung Quốc
(263)
Hải quân Mỹ
(174)
Hải quân Việt Nam
(171)
Hải quân Nga
(113)
Không quân Mỹ
(94)
Phân tích quân sự
(91)
Không quân Nga
(83)
Hải quân Ấn Độ
(54)
Không quân Trung Quốc
(53)
Xung đột biển Đông
(50)
Không quân Việt Nam
(44)
tàu ngầm
(42)
Hải quân Nhật
(33)
Không quân Ấn Độ
(16)
Tàu ngầm hạt nhân
(15)
Hải quân Singapore
(12)
Xung đột Iran - Israel
(12)
Không quân Đài Loan
(9)
Siêu tên lửa
(8)
Quy tắc ứng xử ở Biển Đông
(7)
Tranh chấp biển Đông
(7)
Xung đột Trung - Mỹ
(4)
Xung đột Việt-Trung
(2)