Tin Quân Sự - Blog tin tức Quân sự Việt Nam: Quần đảo Falkland

Paracel Islands & Spratly Islands Belong to Viet Nam !

Quần Đảo Hoàng Sa - Quần Đảo Trường Sa Thuộc Về Việt Nam !

Hiển thị các bài đăng có nhãn Quần đảo Falkland. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Quần đảo Falkland. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Sáu, 9 tháng 11, 2012

>> Chiến tranh Falklands (Kỳ 2)

Vai trò của tư lệnh chiến dịch và những bài học

Kinh nghiệm quý báu của cuộc chiến này được các cường quốc hải quân, đặc biệt là Mỹ, vận dụng để hoàn thiện hạm đội của mình.

>> Bài học từ cuộc chiến Falklands(Kỳ 1)


Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Đô đốc John Woodward
Vai trò của người chỉ huy trong bất kỳ chiến dịch hay cuộc hành quân nào cũng đều có ý nghĩa quyết định hay gần như thế. Nhất là trong một chiến dịch phức tạp và đặc thù như thế này. Tuy nhiên, người ta cũng thấy sự xung đột giữa tiền phương chiến trường đại dương với Bộ Hải quân Anh.

Trường hợp với Đô đốc Woodward còn đặc biệt trầm trọng hơn về tâm lý bởi bối cảnh, hầu như đến cuối chiến dịch, vị trí của ông vẫn ở “trạng thái treo”, một thứ tư lệnh chiến dịch tạm quyền. Các chỉ huy cấp trên tinh quái đã để ông ở tình trạng “kiễng chân” và bất kỳ lúc nào cũng sẵn sàng thay thế ông bằng một đô đốc “hai sao” dày dạn hơn và “xứng đáng” hơn. Nhưng điều đó cũng không cản trở Bộ Hải quân Anh vắt kiệt năng lực của Woodward.

Còn nếu ông Woodward thành công, như thực tế đã diễn ra thì Bộ Hải quân Anh có cớ để khiêm tốn nói rằng, trường hợp Woodward một lần nữa khẳng định rằng, mỗi đô đốc của họ dù là trẻ nhất, khi bị bất ngờ rút từ bất kỳ vị trí nào cũng sẵn sàng cầm đầu lực lượng viễn chinh và giành thắng lợi trong cuộc chiến tranh ở bất cứ đâu, dù ở tận đầu bên kia của thế giới.

Thật may là Đô đốc Woodward đã vượt qua một cách xứng đáng cả thử thách tâm lý không đơn giản này khi cho thấy những nét và phẩm chất của một đô đốc chân chính.

Vậy gánh nặng trọng trách của vị tư lệnh là thế nào? Ngay ở giai đoạn chiến khai, bão tố đã gạt phăng người ra ngoài mạn tàu, các trực thăng thì rơi xuống biển, một máy bay chở khách chút xíu nữa thì bị bắn hạ vì bị nhầm là máy bay trinh sát Argentina hàng ngày quấy nhiễu. Vị đô đốc chắc chắn vẫn run sợ nhớ lại cho đến hôm nay.

Về ông Woodward thì nay người ta thường nói rằng, ông đã dẫn dắt cuộc chiến tranh máy tính đầu tiên trong lịch sử. Điều đó có thể hiểu theo những cách khác nhau. Tác giả bài viết đương thời từng “lang thang” trên tàu ngầm nguyên tử lớp Projekt 671RTM giữa vịnh Persique và vịnh Aden, giữa Seychelles và các vùng biển lân cận, nên dễ hiểu hơn đặc điểm của vũ khí trang bị có máy tính là như thế nào, độ tin cậy ra sao.

Phức tạp một cách vô lý và còn chưa đủ tin cậy, các hệ thống này thường tùy ý làm sững sờ các chuyên gia và các cấp chỉ huy. Ở đó lại thường xuyên thiếu làm mát, đi cùng với nó là độ ẩm 100%, muối biển lập tức sùi lên trên các tiếp điểm và giắc cắm. Trong khi đó, hỏa lực bắn loạt bằng vũ khí chủ yếu và hỏa lực phòng vệ phải tiếp nối đúng lúc và không thể tránh né, chứ không phải khi các chuyên gia sẵn sàng sau khi khởi động lại hệ thống 2 lần, 4 lần. Bởi vậy, tôi sẽ không bao giờ quên các chuyên gia máy tính và thủy âm của mình, họ là những chuyên gia do Chúa ban cho. Đằng sau họ không bao giờ có sự chậm trễ hay thậm chí trở ngại nào. Ở Falklands, những vấn đề đó bị trả giá bằng sự tồn vong của các con tàu và binh sĩ. Hoàn cảnh tàu khu trục HMS Coventry (D118) bị tiêu diệt cho thấy rõ điều đó.

Vậy vị tư lệnh có thể tác động tới vấn đề này tới mức nào? Trong mọi trường hợp, người chỉ huy không thể thờ ơ mà phải liên tục kiện toàn các thành phần của thế trận chiến đấu, các thủ đoạn và phương pháp giải quyết các nhiệm vụ phòng không và phòng thủ tên lửa. Cần bắt đầu từ việc lên quyết tâm chiến dịch của vị tư lệnh trong khi hoàn toàn thiếu thông tin, mà người ta gọi là “quyết định trên yên ngựa”. Việc hầu như không nội dung nào trong quyết tâm chiến dịch bị Bộ Hải quân Anh bác bỏ nói lên chất lượng quyết tâm của tư lệnh, cũng như sau đó là công tác soạn thảo kế hoạch chiến đấu.

Việc thực hiện kế hoạch này mà không cho phép sai thời hạn quá một ngày đêm cũng bộc lộ một nét khác trong tính cách của vị tư lệnh: sự cương quyết trong thực hiện kế hoạch chiến tranh. Đằng sau sự cương quyết đó này là sự thận trọng, chính xác rất cao trong hoàn thành toàn bộ các biện pháp cho phép kịp thời chuyển sang giai đoạn hành động tiếp theo.


Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Người hùng Woodward 30 năm sau chiến tranh Falklands

Nói lên nhiều điều về tính cách và phong cách chỉ huy của vị đô đốc là thái độ của vị tư lệnh đối với những người có trách nhiệm trực tiếp hay gián tiếp về những tổn thất nặng nề của hạm đội như hạm trưởng khu trục hạm Sheffield - một ví dụ về thái độ cẩu thả vô lối - và hạm trưởng khu trục hạm HMS Coventry - bằng việc cơ động tàu không thống nhất tại thời điểm máy bay Argentina tấn công đã che khuất hướng bắn bắn của hệ thống tên lửa phòng không Sea Wolf từ tàu HMS Brilliant (F90), tạo điều kiện cho máy bay Argentina đột phá và tấn công tiêu diệt tàu HMS Coventry.

Woodward đã cho họ có quyền mệt mỏi vì chiến đấu liên miên và những hậu quả của nó. Hơn nữa, các hành động của tàu Coventry, của vị hạm trưởng và thủy thủ đoàn tàu này trước đó là không thể chê trách và dũng cảm.

Điểm nổi bật ở Woodward là việc sẵn sàng chiến đấu bằng những lực lượng sẵn có trong tay ông và cương quyết bảo vệ quan điểm của mình với cấp trên.

Sự kiên định và ý chí sắt đã của người chỉ huy nhằm đạt mục tiêu đã thể hiện đặc biệt rõ trong việc tiến hành trinh sát chống thủy lôi các tuyến đường hành quân tới điểm đổ bộ bằng các tàu chiến. Ông hiểu rằng, các sự kiện chính của cuộc chiến sẽ khai diễn sau khi đổ bộ. Cũng không thể không nhắc đến sự kiềm chế, thận trọng của vị tư lệnh Anh khi ông không hăng máu ham đánh để giữ các tàu sân bay ở ngoài tầm với của các máy bay Super Étendard của Argentina.

Để kết thúc bản phân tích về vai trò và vị trí của người chỉ huy, cần một lần nữa nhắc đến gánh nặng lịch sử của sứ mệnh cực kỳ phức tạp và trọng trách của vị tư lệnh chiến dịch Falklands. Lần đầu tiên trong 37 năm hòa bình sau chiến tranh, chính Đô đốc Woodward đã phải bảo vệ uy tín của hạm đội Anh, người thủy binh Anh và vị đô đốc Anh.

Một kết luận quan trọng nữa là hệ thống đào tạo hạm trưởng của Hải quân Anh với việc thử thách toàn diện ở nhiều vị trí phục vụ đã hoàn toàn chứng minh được giá trị của mình.

Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Quân Anh trên quần đảo Falklands

Những bài học, kết luận và tiết lộ

Những tư liệu thực tế phong phú mà kinh nghiệm cuộc chiến này mang lại đã được các cường quốc hải quân vận dụng một cách khác nhau để hoàn thiện các chương trình xây dựng hạm đội, vũ khí hải quân, các thủ đoạn và phương thức sử dụng các lực lượng của hạm đội. Điều thật kỳ lạ là vận dụng chúng ở mức độ cao nhất là Hải quân Mỹ, ở mức độ ít hơn nhiều là Hải quân Liên Xô và Hải quân Anh.

Trận chiến Falkland đã xác nhận một giả thiết rằng, một cuộc xung đột cường độ cao, trong đó dù cho một bên tham chiến là cường quốc hạt nhân, thì chắc chắn vẫn diễn ra ở phương án phi hạt nhân. Điều đó đặt ra vấn đề mức độ đủ và trình độ vũ khí trang bị có tính chiến thuật. Việc ngành đóng tàu sau Thế chiến II giải quyết vấn đề trọng lượng lâu nay bằng cách sử dụng các hợp kim nhẹ cho phần thượng tầng và các kết cấu khác của tàu sao cho với lượng giãn nước hạn chế lại có thể dành được nhiều không gian hơn cho vũ khí đã khiến lính thủy Anh phải trả giá đắt.

Trong tất cả các trường hợp tàu Anh bị tiêu diệt trong chiến đấu đều xảy ra hỏa hoạn lớn. Kim loại nhẹ của phần thượng tầng bốc cháy và tan chảy làm cho việc cứu hỏa trở nên cực kỳ khó khăn. Các vật liệu ngăn cách bằng polymer cũng không chịu được lửa.

Tỏ ra mờ nhạt đến mức đáng kinh ngạc khi so với các lực lượng khác là các tàu ngầm nguyên tử Anh, nhất là khả năng tìm kiếm mục tiêu và tấn công của chúng. Các kết luận lập tức được rút ra: nay các tên lửa chống hạm đã được triển khai ngay cả trên các tàu ngầm diesel và phi hạt nhân và được phóng từ ống phóng lôi.

Cuộc xung đột đã chứng minh một cách hùng hồn rằng, mối nguy hiểm lớn nhất là các phương tiện tiến công đường không có khả năng hoạt động ở độ cao nhỏ và cực nhỏ. Toàn bộ kho tên lửa phòng không của hạm đội Anh (không dưới 4 loại) đã không thể bảo vệ chắc chắn chống các phương tiện tiến công đường không bay thấp. Không có hệ thống radar phát hiện tầm xa, hạm đội ngày nay chẳng thể làm gì trên biển.

Người Mỹ đã rút ra được kết luận nên đã chế tạo hệ thống Aegis và kiên trì cải tiến nó thành một vũ khí phòng thủ tên lửa. Nền tảng của bản thân khái niệm tác chiến của Hải quân Mỹ chính là các máy bay báo động sớm AWACS và Hawkeye liên tục bay trên đất liền và biển cả.

Những bài học của cuộc khủng hoảng đặt ra một cách thẳng thừng vấn đề về tính cấp thiết và ưu thế của các hệ thống vũ khí trước các mẫu vũ khí đơn nhất hoàn thiện nhất như một cách tiếp cận để giải quyết các nhiệm vụ chiến đấu. Khí tài bảo đảm bay đêm, radar hoàn thiện hơn và các tên lửa Mỹ Sidewinder đã bảo đảm ưu thế của máy bay Sea Harrier trên không trước các máy bay hiện đại nhất của Argentina mới mua từ Pháp, Thụy Điển và Israel.

Không lâu sau cuộc xung đột Falklands, các hệ thống trinh sát-tiến công hiệu quả cao đã xuất hiện hàng loạt ở Mỹ.

Người ta chỉ có thể nhận ra cuộc khủng hoảng về ngư lôi đã bắt đầu trong quá trình chiến sự ở Falklands. Do không tự tin vào độ tin cậy của các ngư lôi mới Tigerfish, Hải quân Anh đã phải dùng ngư lôi МК-8 thời Thế chiến II tấn công mục tiêu duy nhất bị đánh chìm bằng vũ khí tàu ngầm. Ở phía bên kia, chiếc tàu ngầm của Argentina trang bị ngư lôi МК-37 của Mỹ cũng liên tục thất bại với vũ khí ngư lôi.

Thực tế cho thấy hiệu quả chống ngầm của lực lượng đặc nhiệm Anh thấp một cách bất ngờ. Một tàu ngầm Argentina đã chạy lang thang khá lâu giữa các hạm tàu Anh và thậm chí còn định tấn công chúng mà không ai phát hiện được!

Kinh nghiệm đó có ý nghĩa gì đối với Hải quân Liên Xô hồi đó và Hải quân Nga hiện nay? Không được quên là Hải quân Liên Xô/Nga và hạm đội Anh có một điểm chung là cả hai đều giải quyết vấn đề cực kỳ trọng yếu là “không quân hóa” theo cùng một cách. Chỉ có Anh và Liên Xô là thành công trong việc chế tạo máy bay chiến đấu cất/hạ cánh thẳng đứng và đường băng ngắn. Ngay cả Mỹ với tiềm lực hàng không-vũ trụ vô hạn cũng đành chịu thất bại trong lĩnh vực này. Điều đó đã mang lại những lợi ích chưa từng có trong lĩnh vực vũ khí hải quân.

Việc lao vào cuộc chạy đua mệt mỏi, tốn kém và nói chung là vô vọng nhằm đóng và trang bị cho các tàu sân bay khổng lồ trở nên không còn cần thiết nữa. Vấn đề xây dựng một hạm đội cân đối trong một quãng thời gian đáng kể đã có được cơ hội hiện thực hóa gần như ở phương án động viên.

Một máy bay cất cánh đường băng ngắn và hạ cánh thẳng đứng vốn được cho là không phải là máy bay chiến đấu đúng nghĩa khi hoạt động trong một hệ thống đã dễ dàng giành ưu thế trước các máy bay chiến đấu “thật sự” của đối phương. Dĩ nhiên, Harrier của Anh đã tỏ ra thành công hơn nhiều Yak-38 của Liên Xô trước hết nhờ động cơ duy nhất mạnh mẽ. Nhưng Liên Xô cũng từng tiến gần đến việc có được không chỉ những máy bay loại này tốt nhất, mà còn là máy bay siêu âm có triển vọng to lớn.

Tính không nhất quán đáng sợ trong xây dựng hạm đội Nga xuất phát từ một cơ cấu sai lệch cuối cùng đã không cho phép Hải quân Nga có được lực lượng không quân trên hạm như một binh chủng thường trực và cuối cùng là đạt được sự cân đối hằng mong muốn. Cuộc sống cho thấy, thế giới đang trở lại với ý tưởng này.

Hạm đội Hoàng gia Anh sẽ cực kỳ hùng mạnh với việc đưa vào biên chế tàu sân bay mới Queen Elizabeth, các khu trục hạm Type 45 (Daring) và các tàu ngầm nguyên tử đa năng mới với trang bị vũ khí mới. Bởi lẽ, Hải quân Anh vẫn được trang bị một tư duy hải quân tiên tiến nhất, điều được khẳng định một cách thuyết phục bởi kết quả của cuộc xung đột Falklands.

Chủ Nhật, 5 tháng 6, 2011

>> Hồ sơ tranh chấp trên quần đảo Falkland (P 2)



>> Hồ sơ tranh chấp trên quần đảo Falkland (P1)

Cuộc tranh chấp về chủ quyền trên quần đảo Falkland đã gây ra những thiệt hại lớn cả về sinh mạng và của cải, nhưng vẫn không xóa đi được tranh cãi tiêp tục dai dẳng.

Con đường chuyển quân của quân đội Anh, với đảo Ascension làm điểm tập trung.

Các dấu mốc quan trọng của cuộc chiến

Ngày 2/4/1982, Argentina mở màn cuộc chiến bằng việc sử dụng tàu đổ bộ đưa một đơn vị với quân số gần 1.000, tấn công bờ biển gần cảng Stanley. Lực lượng này đụng độ với đơn vị lính thủy quân lục chiến Hoàng gia Anh khoảng 80 người. Kết quả, lính Anh bị bắt giữ toàn bộ còn Argentina đổ bộ tiếp 3.000 lính.

Con đường chuyển quân của quân đội Anh, với đảo Ascension làm điểm tập trung.

Ngày 3/4/1982, biệt kích Argentina tiếp tục tràn lên hòn đảo Nam Georgia, đụng độ với đơn vị thủy quân lục chiến khác của Anh đang làm nhiệm vụ đuổi các công nhân đã dựng cờ Argentina tại đây. Vì số lượng ít ỏi, quân Anh tiếp tục thất bại và bị bắt giữ toàn bộ nhưng không có thương vong.

Từ 5 – 22/4/1982, chính quyền Anh bắt đầu huy động lực lượng Hải quân và Lục quân hùng hậu tiến về phía Nam để giành lại quyền kiểm soát quần đảo Falkland, với hành trình dài hơn 12.800 km.

Điểm nhấn chính là 2 chiếc tàu sân bay HMS Invicible và Hermes, trung tâm của lực lượng; tất cả lực lượng đặt dưới sự chỉ huy của Thiếu tướng Hải quân Woodward.

Đảo Ascension, nằm ở giữa con đường từ Anh tới Falkland là điểm tập trung quân. Chiến thuật của Anh là phong tỏa vùng biển bán kính 320 km quanh quần đảo, sẵn sàng tiêu diệt bất cứ con tàu của Argentina xâm nhập vùng cấm.

Giai đoạn này, theo nhiều chuyên gia quân sự, các lãnh đạo quân đội Argentina đã mắc nhiều sai lầm chiến lược.

Thất bại tai hại nhất là việc người Argentina không nỗ lực xây dựng, mở rộng đường băng lớn để cho phép các máy bay Skyhawk, Mirage, Super Etendard cất hạ cánh trên các đảo. Từ đó, suy giảm về mặt sức mạnh chiến đấu cũng như không thể thực hiện không kích quy mô lớn vào hạm đội tàu của Anh.


Các máy bay của Argentina chỉ có thể xuất kích từ nội địa và sớm trở về đất liền với quãng đường gần 500 km, trong khi bị hạn chế nhiên liệu.


Trước tình hình nghiêm trọng, lãnh đạo Argentina đưa tàu sân bay Veinticinco de Mayo rời quân cảng Puerto Belgrano tiến về Falkland, cùng với 3 tàu ngầm, 1 tuần dương, 2 khu trục hạm và một số tàu khác. Tuy nhiên, tàu của Argentina chủ yếu ở ngoài khu vực phong toả của người Anh.

22-25/4/1982, quân đội Anh tiến hành tấn công chiếm lại đảo Nam Georgia, tiêu diệt tàu ngầm Santa Fe bằng 3 quả tên lửa diệt ngầm, bắt giữ gần 200 lính Argentina.

1/5/1982, chiến sự bước vào giai đoạn quyết liệt trên các đảo chính Đông và Tây Falkland. Dù máy bay chiến đấu của Argentina, bao gồm Mirage và máy bem ném bom Canberra làm hư hỏng 2 tàu chiến Anh, nhưng Harrier và máy bay ném bom Vulcan gây ra những tổn thất lớn hơn nhiều cho Argentina.

2/5/1982 diễn ra sự kiện đẫm máu nhất trong cuộc chiến, cũng như buộc hạm đội của Argentina bó buộc trong cảng trong suốt thời gian còn lại của cuộc chiến.

Tàu ngầm HMS Conquer của Anh đã phát hiện và tiêu diệt tàu tuần dương hạng nhẹ ARA General Belgro với 3 quả ngư lôi, khiến 320 lính Argentina thiệt mạng.




Tàu General Belgro dính ngư lôi và chìm dần, khiến 320 lính Argentina thiệt mạng. Ngay sau đó, Argentina trả thù bằng phá hỏng tàu Sheffield.


4/5/1982, quân đội Anh nếm đòn trả thù khi máy bay Argentina sử dụng tên lửa có điều khiển Exocet tấn công tàu khu trục Sheffield khiến chiếc tàu này hư hỏng nặng và 20 người chết.

Từ ngày 21/5, cục diện chuyển dần từ hải - không chiến sang chiến trường trên bộ khi quân đội Anh bắt đầu đổ bộ tái chiếm đảo. Tuy nhiên, cuộc đổ bộ khiến Anh tổn thất khá nặng với các tàu HMS Ardent, Antelope, Conventry bị đánh chìm…

Với 4.000 lính dưới sự chỉ huy Chuẩn tướng Thủy quân lục chiến Julian Thompson, quân đội Anh tiến hành giành lại nhiều chiến trường: chiếm lại Darwin và Goose Green ngày 27-28/5; đánh bại quân Argentina ở núi Kent. 5.000 quân Anh được bổ sung, đảm bảo lực lượng để tấn công vào thủ phủ Stanley.

Từ đầu tháng 6, phía Anh chuyển đại pháo, súng cối, và những thiết bị khác lên vùng đất cao gần Stanley. Tàu chiến liên tục tấn công vị trí của quân Argentina. Những đơn vị biệt kích tinh nhuệ của Anh di chuyển ngang qua hòn đảo từ Darwin, Goose Green tới chiếm lĩnh những vị trí gần Stanley.



Bản đồ các hướng tấn công của quân đội Anh vào thủ phủ Stanley.


Tuy nhiên, quá trình xây dựng, củng cố lực lượng của Anh gặp phải sự công kích của Không quân Argentina. Ngày 8/6/1982, máy bay Skyhawk và Mirage liên tục dội bom khiến 2 chiếc tàu chở lính RFA Sir Galahad và Sir Tristam hư hỏng nặng, 56 lính thiệt mạng.

11-14/6/1982, cuộc chiến bắt đầu ngã ngũ. Những đơn vị Gurkha và Vệ binh cùng lính bộ binh, lính thủy đánh bộ Anh tiến vào thủ phủ Stanley. Hàng loạt các trận chiến dữ dội nổ ra giữa 2 bên. Các chiến trường chủ yếu là núi Harriet, Longdon, trận Wireless Ridge, Two Sisters.

Tuyến phòng thủ cuối cùng của quân đội Argentina tại núi Mount Tumbledown sụp đổ. Bị bao vây trên bộ và chặn đứng ở biển, tình thế này buộc chỉ huy quân đội Argentina, chuẩn tướng Mario Menendez phải đầu hàng cùng 9.800 lính của mình, chính thức kết thúc cuộc chiến trên quần đảo Falkland.

Hậu quả và thương vong

Tổng số, 907 người thiệt mạng trong 74 ngày diễn ra cuộc tranh chấp. Trong đó, con số bên Argentina là 649 người. Bên phía Anh, có 255 binh lính và sĩ quan thiệt mạng.

Số người bị thương lên tới 1.188 (phía Argentina) và 777 (phía Anh). Số người Argentina bị bắt làm tù binh là 11.313 người, còn phía Anh chỉ có 115 người.

Thiệt hại về khí tài:

Quân đội Anh mất 2 tàu khu trục (Conventry và Sheffield) và 2 tàu khinh hạm (Ardent và Antelope), 1 tàu đổ bộ, 1 tàu vận chuyển, 24 trực thăng và 10 máy bay chiến đấu.

Về phía Argentina, tàu tuần dương General Belgrano, tàu ngầm Santa Fe, 4 tàu chở 2 hàng, 2 thuyền tuần dương, 1 thuyền đánh cá do thám.

Tuy nhiên, thiệt hại nghiêm trọng nhất của Argentia là máy bay: mất 25 trực thăng, 35 máy bay chiến đấu, 2 máy bay ném bom, 4 máy bay vận tải, 9 máy bay huấn luyện có vũ trang, 25 máy bay.

Hệ quả gián tiếp giành cho 2 nước cũng khác biệt. Tại Argentina, 3 ngày sau thất bại tại Falkland, Tổng thống Galtieri bị hạ bệ, kết thúc giai đoạn lãnh đạo quân sự cầm quyền, phục hồi nền dân chủ.

Còn ở Anh, chiến thắng đã củng cố niềm tin quốc gia cũng như vị thế trên trường quốc tế, đảm bảo cho chiến thắng của chính quyền Thatcher trong kỳ bầu cử năm 1983.

Những tuyên bố hiện tại về chủ quyền của hai nước

Tuyên bố từ phía Argentia:

Từ sau cuộc chiến Falkland, chính quyền Argentina vẫn tiếp tục tuyên bố chủ quyền trên quần đảo Falkdland. Mới đây nhất, trong Hiến pháp sửa đổi, nước này coi đây là một phần của tỉnh Tiera del Fuego cùng với quần đảo Nam Georgia, Nam Sandwich. Những lý do mà Argentina đưa ra:

+ Chủ quyền được chuyển từ Tây Ban Nha sang Argentina sau khi giành độc lập với nguyên tắc “uti possidetis juris” (sở hữu cái hiện có). Trong khi, bản thân Tây Ban Nha chưa bao giờ từ bỏ chủ quyền, ngay cả khi có sự thuộc địa hóa của người Anh.
+ Anh đã từ bỏ thuộc địa này năm 1776, chính thức trong Công ước Nootka Sound, trong khi Argentina thì không.
+ Việc Anh quay trở lại năm 1833 là bất hợp pháp theo luật quốc tế, nên Argentina luôn phản đổi hành động này từ 17/6/1833 đến nay.
+ Nguyên tắc tự định đoạt mà Anh đưa ra không thích hợp, khi mà những người dân hiện tại không phải là dân bản xứ. Thực chất, Anh đã đưa công dân của mình tới thay thế người Argetina sau năm 1883.
+ Quần đảo nằm trong thềm lục địa của Argentia tuân theo Hiệp ước Liên hiệp quốc về thềm lục địa năm 1958.

Tuyên bố từ phía Anh:

+ Người Anh đã tuyên bố chủ quyền từ năm 1690 và chưa bao giờ từ bỏ.
+ Quần đảo được người Anh xây dựng cơ sở hạ tầng, liên tục và hòa bình từ năm 1833, trừ 2 tháng xung đột với Argentia năm 1982.
+ Những cố gắng của Argentia trong việc thành lập thuộc địa trên quần đảo giai đoạn 1820-1833 là không liên tục và vô ích.
+ Bản thân quần đảo không có người bản xứ trước khi Anh khai hoang lập địa tại đây.
+ Trong cuộc bỏ phiếu do Argetina khởi xướng năm 1994, 87 % dân số đảo từ chối bất kỳ thảo luận về chủ quyền trong bất kỳ hoàn cảnh nào.
+ Hiệp ước Lisbon phê chuẩn, quần đảo Falkland thuộc về Anh.
[Vitinfo news]


Thứ Bảy, 4 tháng 6, 2011

>> Hồ sơ tranh chấp trên quần đảo Falkland (P1)



Xung đột giữa Anh và Argentina trên quần đảo Falkdland năm 1982 cảnh báo xu hướng các tranh chấp chủ quyền biển đảo giữa các nước trên thế giới.

Hồ sơ về quần đảo này để lại cho thế giới bài học lớn về cách hành xử giữa các cuộc gia, sự thiệt hại không đáng có nếu giải quyết tranh chấp bằng vũ lực.

Vị trí chiến lược của quần đảo Falkland

Quần đảo Falkland, có tên tiếng Tây Ban Nha là Malvinas, nằm ở phía Nam Đại Tây Dương, cách bờ biển Nam Mỹ khoảng 460 km. Quần đảo Falkland gồm hai đảo chính của Đông Falkland và Tây Falkland, cùng với hơn 776 hòn đảo nhỏ hơn. Hiện tại, Falkland là lãnh thổ tự trị của Anh với thủ phủ Stanley, Đông Falkland. Tổng diện tích của quần đảo là 12.173 km2. Cho đến nay, dân số đạt khoảng 2.379 người, phần lớn tập trung tại thủ đô Stanley.

Falkland có lịch sử khá phức tạp. Những nhà thám hiểm người Anh phát hiện ra hòn đảo vào năm 1592, nhưng nước này chưa tuyên bố chủ quyền với quần đảo. Mãi đến năm 1690, nơi đây được đặt tên theo một đô đốc Anh đầu tiên đặt chân tới đây.

Tuy nhiên, đến thế kỷ 18, một nhóm người Pháp tới đây khai hoang và cư ngụ tại đây trong một thời gian ngắn, tiếp sau là Tây Ban Nha với việc tuyên bố chủ quyền với hòn đảo.



Nằm ở gần Nam Mỹ, Falkland có vai trò chiến lược với Anh trong việc thực hiện nhiệm vụ ở Nam Cực và kiểm soát khu vực Nam Mỹ, cũng như khai thác nguồn lợi từ dầu mỏ tại đây.


Điểm nhấn chính là việc Argentina, lấy tư cách là người thừa kế của Tây Ban Nha để chiếm quyền sở hữu trên hòn đảo, nhưng quân đội Anh đã giành lại nó vào năm 1833.

Kể từ đó, người Anh định cư lâu dài ở đây với nghề nghiệp chính là sản xuất lông cừu. Mãi đến năm 1982, cuộc chiến Falkland nổ ra giữa Anh và Argentina trong vòng 2 tháng, rốt cuộc, Anh tiếp tục làm chủ quần đảo.

Vị trí chiến lược của quần đảo Falkland gần gũi với khu vực phía nam của Nam Mỹ và Nam Cực. Nó là bàn đạp cho bất kỳ lực lượng nào muốn tiến hành các nhiệm vụ quân sự và dân sự ở Nam Cực. Với riêng nước Anh, vị trí này rất quan trọng trong việc tăng cường kiểm soát ở khu vực Nam Mỹ.

Vai trò của Falkland được minh chứng trong chiến thắng của Quân đội Anh đối với Hạm đội châu Á của Đức năm 1914, trong thời kỳ Chiến tranh thế giới thứ nhất. Đến năm 1939, quần đảo trở thành nơi đóng quân của Hải quân Hoàng gia Anh tham gia trận chiến River Plate.

Vai trò về giao thông và kinh tế cũng khẳng định tầm quan trọng của quần đảo Falkland. Ngoài những hoạt động truyền thống về khai thác than, đánh bắt cá và cảng biển, những giếng dầu phong phú trong vùng lãnh hải của quần đảo là nhân tố giúp phát triển kinh tế cho bản thân người dân ở Falkland và Anh. Theo tính toán, trữ lượng của khu vực lên tới 60 triệu thùng (tương đương 9,5 tỷ mét khối).

Du lịch cũng dần trở thành thế mạnh của quần đảo này. Hàng năm, hàng chục nghìn du khách đến thăm quần đảo trên những chiếc tàu du lịch, hấp dẫn với hệ động/thực vật đa dạng cùng các cơ sở nghỉ dưỡng được đầu tư hiện đại.

Cuộc chiến Falkland năm 1982

Khơi mào chiến tranh:

Không phải ngẫu nhiên, Argentina khơi mào cuộc chiến và xung đột tại quần đảo Falkland. Nguyên nhân xuất phát từ sự thay đổi bộ máy cầm quyền của nước này.

Đầu năm 1982, sau cuộc đảo chính, Tổng thống Leopoldo Galtieri lên nắm quyền, là người đứng đầu nhóm sĩ quân quân sự cai trị đất nước Argentina. Ông này đã thông qua kế hoạch tấn công quần đảo Falkland.

Điều này sẽ gia tăng những giá trị quốc gia và có thể giành lại hòn đảo mà họ tuyên bố chủ quyền nắm giữ từ trước đó.



Bằng việc công khai đổ bộ trên một hòn đảo thuộc quần đảo Falkland, Argentina đã khơi mào cuộc chiến với Anh.


Đầu tiên, Argentina đưa 60 công nhân được đưa lên hòn đảo Nam Georgia (thuộc quần đảo Falkland) ngày 19/3/1982. Họ tháo dỡ một trại săn cá voi bỏ hoang, sau đó dựng ngọn quốc kỳ của Argentina, chính thức thách thức chủ quyền với Anh.

Nhà cầm quyền Anh đã tuyên bố về sự chiếm đóng phi pháp của Argentina và yêu cầu rút lui. Thủ tướng Anh, Magaret Thatcher công kích mạnh mẽ trên kênh ngoại giao.

Việc tuyên bố chủ quyền từ hành động nhỏ đã nổ ra cuộc chiến khốc liệt giữa quân đội Anh - Argentina trong vòng 2 tháng, cướp đi sinh mạng hàng trăm người. Mỗi bên tiêu tốn hàng tỷ USD. Cuộc chiến cũng đánh dấu những bước chuyển về kỹ thuật tác chiến quân sự, sử dụng vũ khí.

Cuộc chiến bắt đầu:

Đây là cuộc chiến lớn đầu tiên kể từ sau Chiến tranh thế giới 2 trên biển và trên không giữa hai lực lượng quân sự được trang bị hiện đại.

Trong khi Anh có lợi thế hơn về kinh nghiệm chiến đấu, còn Argentina có lợi thế về vị trí địa lý do ở gần quần đảo Falkland.

Về trang bị quân sự:

Anh: Hải quân hoàng gia Anh tham chiến 2 tàu sân bay là HMS Invincible và Hermes (tàu chỉ huy); 2 tàu đốc đổ bộ trực thăng (LPD) là HMS Fearless và Intrepid; các tàu khu trục HMS Bristol, Sheffield, Glasgow, Conventry…; tàu ngầm lớp Churchill như HMS Conqueror, Courageous; tàu phá băng Endurance…cùng hàng loạt tàu hỗ trợ khác.

Vũ khí trang bị chủ yếu là tên lửa đối không Sea Slug, Sea Cat, Sea Wolf; tên lửa đối hạm Exocet MM38, tên lửa diệt tàu ngầm Ikara; pháo Mark, Oelikon…; ngư lôi Mark 24 Tigerfish và Mark 8.

Lực lượng máy bay của Anh chủ yếu gồm máy bay chiến đấu Sea Harrier, Sea King, Wessex; Lynx; trực thăng Chinook; máy bay phản lực Phantom; máy bay ném bom chiến lược Vulcan, Victor; máy bay vận tải Hercules…

Ngoài ra, Anh đưa vào chiến trường 3 lữ đoàn biệt kích và 5 lữ đoàn bộ binh với trang bị vũ khí khá hiện đại như súng L1A1 SLR, súng phóng lựu M79…

Argentina:

Hải quân Argentina không có sức mạnh hùng hậu như Anh, chỉ có tàu sân bay duy nhất là Veinticinco de Mayo. Ngoài ra, là lực lượng tàu nhỏ hơn: 2 tàu khu trục Comodoro Py, Segui; tàu đổ bộ USS De Soto; tàu hộ tống Guerrico; nhiều tàu tuần tra; tàu ngầm Type 209

Sức mạnh chủ yếu của Argentina là lực lượng máy bay chiến đấu có khả năng tác chiến cao, gây ra thiệt hại đáng kể cho hạm đội tàu của Anh.

Một số máy bay chủ lực tham chiến của Argentina là máy bay chiến đấu Mirage IIIEA, IAI Dagger (do Israel cung cấp), Douglas A-4 Skyhawk; máy bay trinh sát Boeing 707; máy bay vận tải C-130 Hercules; máy bay dân dụng Fokker F28…

Hỏa lực của Argentina bao gồm: tên lửa không đối không Sidewinder tầm ngắn (trang bị cho Skyhawk); Shafrir 2(trang bị cho IAI Dagger); Matra R550/R530 (trang bị cho Mirage); tên lửa không đối hạm Exocet 39; rocket MB339 và Pucaras…

Lực lượng tác chiến trên bộ của Argentina gồm 2 lữ đoàn bộ binh cơ giới chủ đạo với đội pháo binh; ngoài ra còn lực lượng quân đội hỗn tạp; lính thủy đánh bộ và hiến binh.

[BDV news]


Copyright 2012 Tin Tức Quân Sự - Blog tin tức Quân Sự Việt Nam
 
Lên đầu trang
Xuống cuối trang