Tin Quân Sự - Blog tin tức Quân sự Việt Nam: Hải quân Anh

Paracel Islands & Spratly Islands Belong to Viet Nam !

Quần Đảo Hoàng Sa - Quần Đảo Trường Sa Thuộc Về Việt Nam !

Hiển thị các bài đăng có nhãn Hải quân Anh. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Hải quân Anh. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 20 tháng 3, 2012

>> Tàu ngầm Anh làm Mỹ "choáng"


Các quan chức Nhà trắng đã thực sự "choáng" trước khả năng khủng khiếp mà tàu ngầm Anh thể hiện trong một cuộc chiến mô phỏng.

Hải quân Mỹ đã thực sự cảm thấy "choáng váng" khi chứng kiến hiệu suất hoạt động của tàu ngầm HMS Astute S119 của Hải quân Anh trong suốt quá trình thử nghiệm trên biển Đại Tây Dương trong thời gian gần đây, sỹ quan chỉ huy của con tàu, ông Ian Breckenridge cho biết.

Ông Breckenridge 45 tuổi, người đã dẫn dắt tàu ngầm HMS Astute qua thời gian hơn 4 tháng thử nghiệm ở bờ biển ngoài khơi phía Đông nước Mỹ cho biết, tàu ngầm này đã chứng minh được "khả năng khủng khiếp" của nó.

"Chúng tôi đã được chứng kiến khả năng của con tàu, nó tốt hơn so với bất kỳ tàu ngầm nào khác mà tôi từng được biết", ông Breckenridge, người mà trước đó từng phục vụ trên hai tàu ngầm khác của Hải quân Anh là HMS Superb và HMS Tireless nói.

Trong suốt thời gian thử nghiệm trên biển, tàu ngầm HMS Astute đã tham gia một cuộc chiến mô phỏng với tàu ngầm USS New Mexico, thuộc tàu ngầm tấn công tối tân lớp Virginia của Hải quân Mỹ.

Tàu ngầm Astute đã di chuyển quãng đường biển dài 16.400 dặm và thực hiện các bài lặn ở vùng nước sâu, tham gia bắn các tên lửa Tomahawk và ngư lôi Spearfish.

Trước màn thể hiện này, Astute từng gặp một loạt trục trặc như bị mắc cạn ngay trong lần ra khơi thử nghiệm đầu tiên ở gần đảo Skye, phía Tây Scotland , khi trở về căn cứ nó đã bị hư hỏng do một tàu kéo va phải. Ngoài ra, hệ thống hỗ trợ của tàu ngầm cũng gặp phải một sự cố trong tháng 2/2011.


http://nghiadx.blogspot.com
Siêu tàu ngầm nguyên tử HMS Astute S119 của Hải quân Anh.


"Astute vẫn trong giai đoạn thử nghiệm và nó là tàu ngầm hạt nhân đầu tiên của lớp tàu Astute, con tàu luôn gây cho chúng tôi nhiều vấn đề, nhưng chúng tôi đang bắt đầu lạc quan hơn về những vấn đề đó, tôi hứa là như vậy", Chỉ huy Breckenridge nói.

"Chúng tôi đã bắn 4 tên lửa Tomahak, nhắm vào mục tiêu là một khu vực nhỏ thuộc căn cứ không quân Eglin của Mỹ để kiểm tra độ chính xác, và đã bắn 6 quả ngư lôi Spearfish, đây là một loạt bắn đầu tiên của một tàu ngầm Anh trong 15 năm qua", viên chỉ huy tàu ngầm nói.

"Sonar trên tàu ngầm của chúng tôi là một "tuyệt tác" và tôi chưa bao giờ trải qua một cảm giác tuyệt vời như khi "khóa" được mục tiêu của chúng tôi là tàu ngầm USS New Mexico. Người Mỹ đã hoàn toàn "sửng sốt", họ choáng váng với những gì đang xảy ra", ông Breckenridge kể lại.

Tàu ngầm lớp Astute thứ hai, tàu HMS Ambush đã được hạ thủy trong năm 2011 và đang được chuẩn bị thử nghiệm trên biển vào cuối năm 2012. Hải quân Anh lên kế hoạch sẽ nhận tới 7 tàu ngầm lớp Astute.

HMS Astute cùng với HMS Ambush là hai tàu ngầm nguyên tử hạt nhân thế hệ mới nhất của Hải quân Anh. Họ còn gọi các tàu ngầm lớp này là "siêu tàu ngầm" bởi mức giá chi phí đóng tàu cao "ngất ngưởng" 1 tỷ USD/một tàu, cũng như mức độ công nghệ tiên tiến và khả năng tấn công hủy diệt khủng khiếp của nó.

Tàu HMS Astute được tuyên bố là tàu ngầm đầu tiên trên thế giới có khả năng tàng hình. Tàu mang được 38 ngư lôi hạng nặng 533 mm Spearfish với 6 ống phóng, các tên lửa hành trình tấn công mặt đất Tomahawk Block IV, và tên lửa chống hạm UGM-84 Harpoon.

Tàu được trang bị sonar tầm phát hiện "siêu xa" tới 3.000 dặm (khoảng 4.800 km). Có lẽ chính khả năng tàng hình và sonar cực nhạy của nó đã làm cho tàu ngầm tối tân USS New Mexico của Hải quân Mỹ bị "khóa".

Thứ Tư, 7 tháng 9, 2011

>> Hải quân Anh nhận “chiến hạm Rồng” siêu hiện đại



Theo kế hoạch, khu trục hạm HMS Dragon sẽ được triển khai tại Portsmouth.

Ngày 2/9/2011 vừa qua Hải quân Hoàng gia Anh đã chính thức tiếp nhận tàu khu trục hạm tên lửa HMS Dragon (chiến hạm Rồng) trọng tại 7.500 tấn.

Trước khi được bàn giao cho Hải quân Anh vào ngày 2/9 tại cảng Portsmouth, khu trục hạm HMS Dragon đã trải qua nhiều đợt chạy thử nghiệm trên biển và hiện nó đã sẵn sàng tham gia vào các chiến dịch quân sự của Hải quân London.


http://nghiadx.blogspot.com
Khu trục hạm tên lửa HMS Dragon


Khu trục hạm HMS Dragon sẽ được chỉ huy bởi tư lệnh Darren Houston. HMS Dragon là 1 trong những chiến hạm “khủng” thuộc Type 45.

Chiến hạm HMS Dragon là một trong những tàu chiến được vũ trang hạng nặng do tập đoàn BAE System của Anh nghiên cứu và chế tạo.

Bộ trưởng Lục quân Anh - Nick Harvey cho biết chiến hạm HMS Dragon là chiếc thứ 4 trong số 6 tàu chiến mạnh nhất của Hải quân Anh hiện tại và trong tương lai.

Hạm đội hiện đại nhất này của Anh sẽ đóng vai trò qua trọng trong việc đảm bảo các lợi ích của London trên toàn thế giới.

Theo kế hoạch, khu trục hạm HMS Dragon sẽ được triển khai tại Portsmouth.

HMS Dragon được hoàn thành vào năm 2008, kể từ đó cho đến nay, HMS Dragon liên tục được chạy thử nghiệm trên các vùng biển thuộc chủ quyền của Scottland.

Chiến hạm thuộc lớp Type 45 đầu tiên (HMS Daring) do BAE System sản xuất được bàn giao cho Hải quân Hoàng gia Anh vào thang 1.2009, chiếc thứ 2 (HMS Dauntless) được bàn giao vào tháng 12 cùng năm.

Chiếc thứ 3 HMS Diamond chính thức đi vào biên chế của Hải quân Anh vào tháng 9 năm 2010.

Chùm ảnh về HMS Dragon :


http://nghiadx.blogspot.com



http://nghiadx.blogspot.com



http://nghiadx.blogspot.com



http://nghiadx.blogspot.com



http://nghiadx.blogspot.com



http://nghiadx.blogspot.com



http://nghiadx.blogspot.com



http://nghiadx.blogspot.com



http://nghiadx.blogspot.com



http://nghiadx.blogspot.com



http://nghiadx.blogspot.com



http://nghiadx.blogspot.com



http://nghiadx.blogspot.com



Thứ Ba, 16 tháng 8, 2011

>> CVS-401 Perseus - Tên lửa chống hạm hiện đại của Nato



Nhằm bắt kịp cuộc đua chế tạo tên lửa chống hạm siêu âm của Nga, tập đoàn MBDA cùng với Hải quân Anh và Pháp đã phát triển tên lửa chống hạm hiện đại CVS-401 Perseus.


http://nghiadx.blogspot.com

Mô hình tên lửa chống hạm CVS-401 Perseus tại triển lãm hàng không Paris 2011.


Trong lĩnh vực tên lửa chống hạm, tên lửa Exocet của tập đoàn nghiên cứu chế tạo tên lửa MBDA là niềm tự hào của nước Pháp nói riêng và châu Âu nói chung.

Loại tên lửa này đã rất nổi tiếng với nhiều thành tích trên chiến trường như đánh chìm khu trục hạm HMS Sheffield và đánh bị thương nặng chiến hạm HMS Glamorgan của hải quân Anh trong chiến tranh đảo Falkland; đánh bị thương nặng hộ vệ hạm USS Stark trong chiến tranh Iran-Iraq.

Tuy nhiên, dưới áp lực hiện đại hóa của hải quân trên thế giới, Exocet đã dần dần trở nên lạc hậu khi so với các loại tên lửa chống hạm siêu âm tân tiến như Klub hay Yakhont của Nga.

Chính vì vậy, với sự hợp tác của Anh và Pháp, tập đoàn MBDA đã sẵn sàng cho ra đời phiên bản tên lửa chống hạm mới thay thế Exocet: CVS-401 Perseus.

Tập hợp mọi tinh hoa khoa học của hai cường quốc hải quân châu Âu, Perseus là loại tên lửa chống hạm rất cơ động, cấu tạo từ các mô đun có thể thay đổi dễ dàng tùy thuộc nhiệm vụ, có tầm bắn xa, tốc độ hành trình siêu âm và có thể phóng được từ các bệ phóng trên tầu ngầm, tầu nổi hay trên mặt đất.

Nhằm cho phép Perseus có thể dễ dàng lắp đặt trên các máy bay hiện nay, tên lửa sẽ có kích cỡ tương tự tên lửa Exocet với chiều dài 5 mét và có khối lượng phóng chỉ nằm ở mức 800 kg.

Động cơ đẩy của Perseus là loại động cơ ramjet được áp dụng công nghệ mới nhất CDWE (Continous Detonation Wave Engine), tức nhiên liệu và chất oxy hóa sẽ được trộn với nhau từng đợt liên tiếp nhờ sóng xung kích.

Cấu tạo động cơ này giúp đơn giản hóa cấu tạo động cơ, loại bỏ các cánh nén nhiên liệu giúp giảm kích cỡ động cơ. Đồng thời, công nghệ CDWE cũng giúp giảm khả năng nhiên liệu bị bắt cháy trước buồng đốt.


http://nghiadx.blogspot.com

Sơ đồ cấu tạo công nghệ phun nhiên liệu tiên tiến CDWE được áp dụng cho tên lửa Perseus.

Hình dạng đặc biệt của Perseus không những đảm bảo yêu cầu khí động học mà còn làm tiết diện phản xạ radar của tên lửa, khiến nó khó bị đánh chặn hơn bởi các hệ thống phòng thủ tên lửa tầm cực gần (CIWS) trên tầu.

Ngoài ra, với các cảm biến trên thân, Perseus có khả năng phát hiện cả những tên lửa đánh chặn đang hướng tới nó và né tránh với khả năng cơ động rất cao.

Không thua kém những tên lửa chống hạm siêu âm Nga đứng đầu thị trường vũ khí hiện nay là Klub và Yakhont, Perseus có tầm bắn 300km với tốc độ hành trình 1.020m/giây (Mach 3) ở độ cao lớn và 680m/giây (Mach 2) ở sát mặt biển.

Trong khi đó, tên lửa Yakhont có tầm bắn 300 km với tốc độ hành trình 850m/giây (Mach 2,5); tên lửa 3M54E Klub có tầm bắn 300 km với tốc độ hành trình pha cuối đạt 987m/giây (Mach 2,9).


http://nghiadx.blogspot.com

Perseus được trang bị một đầu đạn chính nặng 200 kg cùng hai đầu đạn phụ, mỗi đầu đạn nặng 40 kg để có thể ứng phó linh hoạt với nhiều loại mục tiêu.


Một điểm không kém phần thú vị là cấu tạo đầu đạn của Perseus.

Tên lửa này được trang bị một đầu đạn chính loại nổ lõm nặng 200 kg và hai đầu đạn phụ, mỗi đầu đạn nặng 40 kg có khả năng tách rời tên lửa chính ở pha cuối để tấn công nhiều mục tiêu hay nằm yên tại tên lửa để gia tăng sức công phá khi đánh phá các mục tiêu lớn.





Khối lượng đầu đạn này là tương đương với đầu đạn tên lửa Yakhont (nặng 300 kg) và nhỏ hơn đầu đạn tên lửa 3M54E Club một chút (400 kg), tuy nhiên Perseus lại gọn nhẹ hơn rất nhiều hai loại tên lửa trên. Khối lượng phóng của Perseus chỉ bằng một phần tư Yakhont (3.000 kg) hay một phần ba 3M54E Klub (2.300 kg).

Đây là ưu thế rất lớn nếu sử dụng tên lửa phóng đi từ máy bay. Khi đó một máy bay chiến đấu có trọng tải 8 tấn có khả năng mang theo đến 10 tên lửa Perseus thay cho con số hai tên lửa Yakhont hay ba tên lửa Klub.

Đầu dò của Perseus bao gồm nhiều bộ phận với các mục đích khác nhau. Các bộ phận này bao gồm hệ thống thám trắc địa hình bằng laser LADAR, radar AESA để phát hiện và bắt bám mục tiêu cùng đầu dò laser bán chủ động để tấn công các mục tiêu đã được chỉ điểm laser trên mặt đất.

Vào thời điểm này, mặc dù công việc phát triển CVS-401 Perseus vẫn chưa hoàn thành, tuy nhiên chủ nhiệm chương trình phát triển tên lửa, ông Lionel Mazenq cho biết Perseus sẽ được đưa vào phục vụ trong tương lai gần và nó sẽ mở ra một kỷ nguyên mới về công nghệ tên lửa chống hạm.

Chủ Nhật, 17 tháng 7, 2011

>> Pháp thiếu phương tiện cho cuộc chiến Libya



Pháp không còn đủ phương tiện quân sự để phục vụ cho tham vọng chính trị do triển khai quân đội trên nhiều mặt trận trong điều kiện kinh tế khó khăn.


Pháp triển khai quân đội trên nhiều mật trận từ Afghanistan, Côte d’Ivoire đến Libya trong khi kinh tế trong nước đang hết sức khó khăn. Trong bối cảnh đó, cuộc chiến tại Libya đang bị sa lầy và tiêu tốn nhiều tiền của quốc gia.

Các báo Pháp hôm nay có nhiều bài viết phân tích vấn đề này, nhưng đáng chú ý nhất là bài chạy tít trên trang nhất của tờ Le Monde: "Pháp không còn đủ phương tiện quân sự để phục vụ cho tham vọng chính trị".

Theo Le Monde, các tướng lĩnh quân đội Pháp cảnh báo đang gặp nhiều khó khăn. Tổng tham mưu trưởng hải quân Pháp, đô đốc Pierre-Francois Forissier, nhận định, quân đội đang hoạt động quá mức bình thường, và không còn đủ khả năng để vừa tác chiến vừa có thể phục hồi tiềm lực quân sự.

Khi không quân Pháp tham chiến tại Libya, công tác đào tạo phi công mới phải dừng lại. Nếu trận chiến kéo dài đến cuối năm 2011, thì phải đến năm 2012, hàng không mẫu hạm Charles de Gaulle mới về được để có thể thay thiết bị. Như vậy, trên tổng thể, hậu phương thiếu phương tiện cho công tác huấn luyện. Khả năng sẳn sàng tác chiến rất thấp, dưới 50% đối với máy bay. Tinh thần thì sa sút.

Từ những năm 1960, quân đội Pháp đối mặt với ba vấn đề : tái cấu trúc, tham gia chiến dịch ở nước ngoài và bị hạn chế tài chính. Thế nhưng, theo tham mưu trưởng quân đội Pháp, đô đốc Edouard Guillaud, chưa bao giờ ba vấn đề này nổi cộm như hiện tại, quân đội đang trong tình trạng yếu ớt và khó khăn. Nhất là những bó buộc tài chính có thể làm nguy hại khả năng tác chiến.



Tàu sân bay Charles de Gaulle.


Trong bối cảnh đó, cuộc chiến tại Libya ngốn nhiều tiền của : 1,2 triệu euro mỗi ngày, tức nước Pháp đã chi đến 100 triệu euro cho cuộc chiến này, chỉ sau 3 tháng. Với đà này, mức chi cho các chiến dịch ở nước ngoài đến cuối năm 2011 chắc chắn vượt 1 tỷ euro, trong khi ngân sách được thông qua dành cho năm nay chỉ ở mức 640 triệu.

Từ những năm 1960, quân đội Pháp đối mặt với ba vấn đề : tái cấu trúc, tham gia chiến dịch ở nước ngoài và bị hạn chế tài chính. Thế nhưng, theo tham mưu trưởng quân đội Pháp, đô đốc Edouard Guillaud, chưa bao giờ ba vấn đề này nổi cộm như hiện tại, quân đội đang trong tình trạng yếu ớt và khó khăn. Nhất là những bó buộc tài chính có thể làm nguy hại khả năng tác chiến.

Trong bối cảnh đó, cuộc chiến tại Libya ngốn nhiều tiền của : 1,2 triệu euro mỗi ngày, tức nước Pháp đã chi đến 100 triệu euro cho cuộc chiến này, chỉ sau 3 tháng. Với đà này, mức chi cho các chiến dịch ở nước ngoài đến cuối năm 2011 chắc chắn vượt 1 tỷ euro, trong khi ngân sách được thông qua dành cho năm nay chỉ ở mức 640 triệu.

Từ những năm 1960, quân đội Pháp đối mặt với ba vấn đề : tái cấu trúc, tham gia chiến dịch ở nước ngoài và bị hạn chế tài chính. Thế nhưng, theo tham mưu trưởng quân đội Pháp, đô đốc Edouard Guillaud, chưa bao giờ ba vấn đề này nổi cộm như hiện tại, quân đội đang trong tình trạng yếu ớt và khó khăn. Nhất là những bó buộc tài chính có thể làm nguy hại khả năng tác chiến.

Trong bối cảnh đó, cuộc chiến tại Libya ngốn nhiều tiền của : 1,2 triệu euro mỗi ngày, tức nước Pháp đã chi đến 100 triệu euro cho cuộc chiến này, chỉ sau 3 tháng. Với đà này, mức chi cho các chiến dịch ở nước ngoài đến cuối năm 2011 chắc chắn vượt 1 tỷ euro, trong khi ngân sách được thông qua dành cho năm nay chỉ ở mức 640 triệu.

Cũng giống như các cường quốc Châu Âu khác, Pháp đang đối mặt với thách thức to lớn, đó là sở hữu một quân đội « đúng giá ». Cụ thể là : chuyên nghiệp và thu gọn, hiện đại và hiệu quả, được dân ủng hộ và sẵn sàng tác chiến khi giới lãnh đạo chính trị cần đến. Thế nhưng, ngân sách quốc phòng của các nước Châu Âu không ngừng bị cắt bớt để phục vụ cho mục tiêu xã hội và kinh tế.

Liên quan đến vấn đề này, Le Monde phỏng vấn ông Bastien Irondelle, thuộc Trung tâm Nghiên cứu Quốc tế (CERI-Pháp). Ông này cũng nhấn mạnh khoảng cách giữa tham vọng chính trị và phương tiện hiện hữu của Pháp.

Ông nhắc lại, năm 1996, tổng thống Jacques Chirac đã tiến hành cải tổ quân đội với mục tiêu rất rõ ràng : chuyên nghiệp hóa và hiện đại hóa. Nhiều chương trình đã được đưa ra như trực thăng Tigre, xe tăng Leclerc, máy bay chiến đấu Rafale, hàng không mẫu hạm. Thế nhưng, sau đó khó khăn về ngân sách đã xuất hiện.

Theo sách trắng năm 2008, cần phải chọn mục tiêu khi tiến hành chiến dịch ở nước ngoài. Thế mà, tổng thống Sarkozy lại liên tiếp tham chiến ở Afghanistan, Côte d’Ivoire, rồi đến Libya. Ngân sách thì không đủ, người đóng thuế lo lắng về kết quả của các cuộc chiến, như cuộc chiến tại Libya chẳng hạn.

Để tóm tắt thực trạng thiếu thốn của quân đội Pháp, ta có thể mượn câu nói của chuyên gia này: "Nước Pháp muốn đấu quyền Anh vượt hạng cân".

[BDV news]


Thứ Bảy, 9 tháng 7, 2011

>> Cuộc chiến tranh không-biển-đảo đầu tiên sau thế chiến II




Cuộc xung đột vũ trang tại quần đảo Malvinas/Falklands năm 1982 là cuộc chiến tranh không - biển - đảo hiện đại đầu tiên sau thế chiến II.

Cuộc chiến không tuyên bố

Quần đảo có tên tiếng Tây Ban Nha là Malvinas (tiếng Anh là Falklands) nằm ở Nam Đại Tây Dương cách Argentina khoảng 400 km, cách Anh khoảng 13 ngàn km. Gồm hai đảo lớn và nhiều đảo nhỏ, tên và chủ quyền của quần đảo này đã từng là đối tượng bị tranh chấp. Argentina luôn khẳng định chủ quyền đối với quần đảo này, dù nó đã bị Anh chiếm đóng từ năm 1833(1).

Xung đột vũ trang từ tháng Tư đến tháng Sáu 1982 tại quần đảo này là một trong những kết quả của cuộc đối đầu ngoại giao không có lời giải về chủ quyền với quần đảo. Các bên đã không đưa ra những lời tuyên chiến chính thức, và chiến sự được giới hạn trong phạm vi quanh lãnh thổ tranh chấp tại vùng biển Nam Đại Tây Dương.

Lần này, Liên Hiệp quốc đã không thể hiện được vai trò của mình trong dàn xếp tranh chấp lãnh thổ. Anh dùng lực lượng vũ trang áp đảo chiếm lại quần đảo. Argentina vẫn tiếp tục khẳng định chủ quyền đối với quần đảo này trong bất lực. Các diễn biến của cuộc xung đột vũ trang này được viết trên báo Đất Việt tháng Sáu, 2011(2). Trong bài viết này, chúng tôi chủ yếu chỉ phân tích các nguyên do và tác động chính trị của một cuộc xung đột “chớp nhoáng”.

Nhưng được mong đợi (?)

Trong kinh tế Anh lúc đó, đã rõ nét những dấu hiệu trì trệ, và “Người đàn bà thép” Thatcher đang tìm kiếm các phương thức và cơ hội để cải thiện tình hình. Uy tín của chính phủ Bảo thủ, vốn khá bế tắc trong giải quyết các vấn đề xã hội(3), xuống thấp.

Các nguồn tin của Liên Xô cho rằng, chính phủ Thatcher thậm chí từng phải tính đến việc giảm chi phí quốc phòng bằng cách tinh giản biên chế Hạm đội, bán bớt các tàu sân bay và các tàu chiến(4).

Quân đội Anh kể từ Thế chiến II không tích luỹ thêm được kinh nghiệm tác chiến gì rõ rệt. Địa vị uy tín của quân lực Hoàng gia này trong xã hội Anh sút kém, đòi hỏi phải tìm kiếm một thắng lợi quân sự nhanh chóng, dù nhỏ.

Không hẹn mà nên, ở Argentina, tình hình còn quẫn bách hơn. Đình đốn kinh tế vùi dập đất nước vẫn chưa thoát ra khỏi khủng hoảng chính trị. Tập đoàn độc tài quân sự vừa lên cầm quyền nhờ đảo chính cuối 1982, đã quyết định dành lại chủ quyền tại quần đảo Malvinas. “Nhất tiễn tề xuyên”, chiến dịch quân sự này vừa nhằm gây uy tín chính trị cho chính thể cầm quyền, vừa đánh lạc hướng dư luận trong nước vào “cuộc chiến” chống kẻ thù truyền kiếp. Nó cũng ăn nhập với sự phẫn nộ trong nước vì các điều kiện ngặt nghèo mà Quỹ tiền tệ quốc tế (bị mang tiếng là chỉ giúp các nước giàudo Anh và Mỹ thao túng) ràng buộc “con nợ” Argentina lúc đó.



Lược đồ tái chiếm của Anh tại các hòn đảo ở Malvinas (Nguồn: wikipedia: http://en.wikipedia.org/wiki/Falklands_War)


Bóng ma của “thần” dầu hoả

Đầu những năm 80, trữ lượng dầu hoả ở Biển Bắc (North Sea) gần nước Anh đã cạn. Trước đó, đã có tin một trữ lượng dầu mỏ lớn hơn của Biển Bắc được khám phá gần quần đảo Falklands. Với xu thế chinh phục Nam Cực đang ló dạng, quốc gia nào có chủ quyền tại Malvinas/Falklands tất yếu giành quyền sở hữu các phần (lô) tương thích có chứa dầu của thềm lục địa Nam Cực.

Quyền sở hữu và nâng hạ giá dầu - khí của những nước có tài nguyên này là nỗi đau muôn thuở của các nước khác. Và cuộc chiến biến kẻ phải nhập khẩu nguyên, nhiên liệu thành nhà xuất khẩu không chỉ là chiến thắng về vật chất, chính trị, mà còn niềm an ủi “chuyển bại thành thắng” cho những nước vốn thiệt thòi về tài nguyên. Dầu hoả còn là một thứ chất đốt cho lò lửa chiến tranh đế quốc.

Tình báo các bên nói gì?

Hậu duệ của các “nhà tình báo vĩ đại”, như Richard Sorge, ở Liên Xô khẳng định rằng “toàn bộ cuộc chiến tranh này được Mi – 5 (tình báo Anh) trù liệu từ trước, để nổ ra vào một thời khắc thiết yếu đối với lợi ích của Luân Đôn(5).

Các nguồn Nga – Liên Xô cũng chỉ ra rằng truyền thông Anh, chẳng hạn báo Sunday Times ra 22 tháng Ba 1987, đã không cố tình giấu diếm rằng tình báo Anh đã biết trước về cuộc xâm nhập của Argentina lên đảo Falklands ít nhất 6 tháng(6). Moscow hẳn ngụ ý nói đến bài của S. Jenkins, một tác giả viết nhiều về cuộc xung đột Malvinas/Falklands. Trong bài này, chiến dịch của quân Anh tại đây được ngợi ca như trận Trân Châu cảng của Anh (Britain’s Pearl Harbor).

Ngược lại, truyền thông phương tây dẫn các nguồn cho rằng Liên Xô đã cung cấp những tin tức tình báo về triển khai lực lực lượng của quân Anh cho Argentina, và tìm cách hỗ trợ về vũ khí. Một cựu quan chức KGB được dẫn lời, rằng Quảng trường Đỏ đã sẵn sàng đi khá xa trong sứ mạng viện binh(7).

Mặt trời lại không lặn trên nước Anh?

Các nguồn của hai phía của chiến tranh lạnh dường như đều nhất trí rằng trang bị hiện đại hơn về hải – không - lục quân là yếu tố đảm bảo chiến thắng. Nhất là khi phía cường quốc quân sự hiện đại đã “rình” sẵn, để chộp một cơ hội, việc tổng động viên nhân vật lực cho hành động chiến tranh chỉ là vấn đề tác nghiệp.

Các nguồn nhất tề liệt kê danh sách dài những lợi thế mà London có được sau khi đoạt lại quần đảo Falklands/Malvinas. Có cảm giác như sương mù tan đi, để mọi câu hỏi của nhiều mặt quan trọng của đời sống chính trị - kinh tế - xã hội Anh cùng lúc tìm được câu trả lời.

Cụ thể là: vị thế của Anh được nâng lên, quốc dân đoàn kết xung quanh nữ hoàng, quân đội và Chính phủ Bảo thủ (Thatcher lại chiến thắng trong cuộc bầu cử 1983, điều mà trước chiến tranh Falklands không hề chắc chắn); kinh tế phát triển sôi động; quân đội sau cuộc “diễn tập thực binh” đã rút ra những bài học cần thiết, không bị giảm biên chế, ngược lại, trở nên hào hùng trong hiện đại hoá.

Ở Argentina, chính quyền quân phiệt đổ, những người cầm đầu bị kết án, bỏ tù do làm chiến tranh thất bại. Tổng thống mới, được bầu theo thể thức Tổng tuyển cử (thể thức này vốn bị gián đoạn từ năm 1973 trong gần một thập kỷ ở Argentina bởi một loạt cuộc đảo chính). Các nguồn Nga cho rằng điều này cũng nằm trong ý đồ của Anh, vì chỉ có các tổng thống “dân chủ” mới tìm cách phát triển kinh tế, trang trải nợ nần với Anh, (và Mỹ)(8).

Bao trùm lên tất cả, là Anh có dịp triển khai cơ sở hạ tầng gần sát Nam Cực – nguồn tương lai và quan trọng nhất của toàn thế giới về tài nguyên:nước ngọt, hiđrôcacbon, kim loại, tài nguyên sinh học… Anh đã đi trước một bước, trong cuộc chiến khốc liệt giành Nam Cực của các cường quốc ở ngưỡng cửa thiên kỷ mới.

Quan hệ hai nước này vốn bị gián đoạn trong chiến tranh đã được khôi phục năm 1989, theo "quy cách cái ô" (umbrella formula), tức là cho "chìm xuồng" luôn vấn đề chủ quyền của quần đảo Malvinas.

Lẽ ra Argentina có thể chiến thắng

Vì kẻ chiến thắng thường không bị chỉ trích, nên các nguồn của hai phía của chiến tranh lạnh đều không tiếc lời ca ngợi năng lực chính trị - quân sự - kinh tế của bên Anh trong cuộc đối đầu.

Nhưng trong cuộc chiến giành Malvinas/Falklands, tiềm lực quân sự của Argentina đâu phải “trứng chọi đá” (cũng có tàu sân bay), lại được hậu thuẫn rõ rệt của: Peru, Venezuela (phụ tùng máy bay), Brazil (hai máy bay tuần tiễu biển P -95), Israel (chuyên gia không quân), và Liên Xô (ngoài tin tình báo, còn cung cấp các tên lửa Strela 2 qua Libia)…

Theo các nguồn phương tây, Mỹ đã không cố “ra mặt” ủng hộ Anh trong cuộc khủng hoảng này là do ngại Kremli cũng sẽ “ra mặt” ở khu vực Nam Đại Tây Dương(9).

Một ngày sau khi quân Anh bắt đầu đổ bộ lên một đảo của Malvinas/Falklands, 26/4, Tổng thư ký Liên Hiệp quốc Perez de Cuella yêu cầu Anh dừng ngay hành động chiến tranh, nhưng Thủ tướng Anh đã lớn tiếng bác bỏ lời kêu gọi này và nước Anh tiếp tục dấn vào cuộc chiến với quy mô ngày một lớn hơn.

Nhưng, trong hồi ký “Một trăm ngày” (10) của mình, Tổng tư lệnh quân Anh thời đó là John Woodward, chỉ huy chiến dịch tái chiếm Falklands đã viết về “chiến thắng bị bỏ lỡ” của đối phương.

Theo Đô đốc John Woodward, có một sự thật “không thể cắt nghĩa nổi” là, trong cả chiến dịch hơn hai tháng ròng, các chỉ huy Argentina đã không nhận thấy rằng nếu họ đánh trúng Hermes (11) (một trong hai tàu sân bay của Anh trong chiến dịch này), thì quân Anh đã bại.

“Họ đã không thể thực sự dấn tới được một mục tiêu chắc chắn sẽ đem lại chiến thắng cho họ”. Woodward viết tiếp, “Chúng tôi hiểu rằng mình đang tác chiến ở thế đi trên lưỡi dao cạo. Tôi hiểu rằng chỉ cần có một rủi ro: một quả mìn, một vụ nổ, một đám cháy, xảy ra với một trong hai tàu chở máy bay, là chiến dịch (của Anh) sẽ bị giáng đòn chí tử. Chúng ta đã mất các tàu Shffield, Coventry, Ardent, Antelope, Atlantic Conveyor, Sir Galahad. Nếu (không quân) Argentina ném bom chính xác hơn từ các độ cao tầm thấp, chắc chắn chúng ta đã mất thêm các chiến hạm Antrim, Plymouth, Argonaut, Broadsword và Glasgow…”

Dĩ nhiên những hồi ký thường chứa những lời bàn hậu nghiệm. Vấn đề vẫn là các bên đã chuẩn bị thế nào cho một tình huống chiến tranh. Nhưng qua kinh nghiệm của Đô đốc Woodward, kỷ luật, kỹ năng của bộ đội và chiến lược quân sự vẫn là quan trọng nhất để chiến thắng chứ không hẳn là vấn đề trang bị. Về phương diện quốc gia, khả năng chuyển từ kinh tế thị trường sang động viên cho chiến tranh cũng là yếu tố then chốt…

[BDV news]


Thứ Năm, 7 tháng 7, 2011

>> Nghệ thuật quân sự hải quân (kỳ 4)



Sự phát triển tiếp theo của Hải quân đã gắn liền với sự phát triển của khoa học công nghệ, tiềm lực kinh tế.



Theo đó, khoa học quân sự đã hình thành các lực lượng hải quân tác chiến trên biển xa và đại dương, được trang bị tên lửa mang đầu đạn hạt nhân và các loại vũ khí có khả năng hủy diệt lớn. Hạm đội đã trở thành lực lượng tác chiến chiến lược, có thể thực hiện một cuộc chiến tranh hạn chế và xung đột khu vực.


Lực lượng chủ lực của Hải quân xô viết bao gồm các tàu ngầm nguyên tử và không quân hải quân, được trang bị chủ yếu là tên lửa và ngư lôi hiện đại. Trong ảnh, tuần dương hạm tên lửa Moscow thuộc Hạm đội Biển Đen.


Sự phát triển của khoa học công nghệ quân sự tiên tiến, đặc biệt là tên lửa hành trình, tên lửa đạn đạo với các đầu đạn hạt nhân, hóa học, sinh học và nhiệt áp đã làm thay đổi căn bản nghệ thuật quân sự hải quân, hạm đội có thể tấn công đối phương trên toàn bộ diện tích lãnh thổ, tấn công các hạm tàu trên nhiều điểm khác nhau, tấn công các căn cứ hải quân với khoảng cách đến hàng ngàn km, các đòn tấn công của hạm đội có khả năng tiêu diệt các mục tiêu chiến lược của đối phương và các mục tiêu trong hải chiến tầm xa.

Nghệ thuật quân sự hải quân đã mang ý nghĩa chiến lược trong sử dụng hạm đội, đồng thời mang ý nghĩa chiến dịch trong xung đột khu vực, đấu tranh vũ trang trên biển. Những phương thức chiến thuật và kỹ thuật tác chiến mới được hình thành và phát triển trong nội dung chiến dịch sử dụng binh chủng hợp thành: binh chủng tàu ngầm có trang bị tên lửa và ngư lôi, không quân hải quân, các chiến hạm nổi các lớp từ tuần dương, khu trục, tàu phóng lôi, rải và quét mìn,…các đơn vị hải quân đánh bộ, lính thủy đánh bộ trong các chiến dịch và các trận hải chiến.

Đồng thời các giải pháp mới cũng được triển khai nhằm duy trì và phát triển sức mạnh của hải quân, khả năng sẵn sàng chiến đấu và sẵn sàng đánh chặn mọi cuộc tấn công của kẻ thù, hoàn thành những nhiệm vụ chiến lược và chiến thuật mà nhà nước, tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang giao phó.

Nét đặc sắc trong quan điểm tác chiến hải quân Anh, Mỹ

Nghệ thuật quân sự hải quân của các hạm đội Mỹ, Anh, Pháp và các nước khác, trọng tâm được chú ý đến là những phương án, kỹ chiến thuật tác chiến biển sâu của các tàu ngầm, những phương án kỹ chiến thuật tấn công từ tàu sân bay trong một cuộc chiến tranh hạt nhân tổng lực hoặc hạn chế, đồng thời xây dựng cơ sở lý luận và thực tiễn cho các cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột khu vực.

Các chuyên gia hải quân có quan điểm cho rằng, kết quả của các nhiệm vụ tác chiến trên biển và đại dương phụ thuộc vào hiệu quả chiến đấu chống ngầm, do đó, Anh, Mỹ và các nước trong khối NATO tập trung vào nghiên cứu phương pháp đấu tranh chống các tàu ngầm nguyên tử, có trang bị tên lửa đạn đạo mang đầu đạn hạt nhân.

Phương án tác chiến là triển khai các chiến dịch lớn với các loại vũ khí trang bị của hạm đội trên các tuyến chiến đấu chống tàu ngầm hoặc các khu vực tàu ngầm đối phương triển khai sẵn sàng chiến đấu. Không gian hải chiến chống tàu ngầm sẽ được diễn ra tại các khu vực tác chiến nhiều chiều, trên không, trên biển, đại dương và cuộc săn đuổi của các tàu ngầm.



Mô phỏng chiến trường săn đuổi và chống ngầm.


Ngày nay, các cường quốc quân sự hải dương rất quan tâm đến các đòn tấn công hủy diệt bằng vũ khí hạt nhân, hóa học hoặc nhiệt áp vào các căn cứ hải quân, tàu ngầm đối phương.

Không quân hải quân triển khai các hoạt động tác chiến, tiến hành chống ngầm trên khu vực tàu ngầm đối phương tiến ra biển hoặc trong khu vực có sử dụng lực lượng tác chiến hiệp đồng không - hải quân.

Lực lượng hải quân Mỹ xây dựng các đơn vị chuyên trách chống ngầm, các lực lượng này có thể tác chiến trong khu vực xảy ra hải chiến, hoặc tác chiến phục kích, tập kích chiến lược ngay tại vùng vịnh , cửa biển của đối phương.



Mô phỏng hệ thống phòng thủ biển của Hải quân Trung Quốc.


Như vậy, quá trình lịch sử phát triển của nghệ thuật quân sự hải quân cho thấy, lực lượng Hải quân từ nhiệm vụ yểm trợ và tác chiến độc lập, đã hình thành lực lượng tác chiến mang tính chiến lược, chiến lược hải quân thời bình và thời chiến phản ánh trung thành đường lối chính trị của quốc gia, dân tộc với mục tiêu phát triển và bảo vệ lợi ích biển, đại dương.

Chiến lược phát triển và sử dụng hải quân phụ thuộc vào đường lối phát triển kinh tế và đối ngoại, nhưng có ý nghĩa quyết định trong nhiệm vụ bảo vệ quyền lợi và sự phát triển của quốc gia.

[BDV news]


Chủ Nhật, 5 tháng 6, 2011

>> Hồ sơ tranh chấp trên quần đảo Falkland (P 2)



>> Hồ sơ tranh chấp trên quần đảo Falkland (P1)

Cuộc tranh chấp về chủ quyền trên quần đảo Falkland đã gây ra những thiệt hại lớn cả về sinh mạng và của cải, nhưng vẫn không xóa đi được tranh cãi tiêp tục dai dẳng.

Con đường chuyển quân của quân đội Anh, với đảo Ascension làm điểm tập trung.

Các dấu mốc quan trọng của cuộc chiến

Ngày 2/4/1982, Argentina mở màn cuộc chiến bằng việc sử dụng tàu đổ bộ đưa một đơn vị với quân số gần 1.000, tấn công bờ biển gần cảng Stanley. Lực lượng này đụng độ với đơn vị lính thủy quân lục chiến Hoàng gia Anh khoảng 80 người. Kết quả, lính Anh bị bắt giữ toàn bộ còn Argentina đổ bộ tiếp 3.000 lính.

Con đường chuyển quân của quân đội Anh, với đảo Ascension làm điểm tập trung.

Ngày 3/4/1982, biệt kích Argentina tiếp tục tràn lên hòn đảo Nam Georgia, đụng độ với đơn vị thủy quân lục chiến khác của Anh đang làm nhiệm vụ đuổi các công nhân đã dựng cờ Argentina tại đây. Vì số lượng ít ỏi, quân Anh tiếp tục thất bại và bị bắt giữ toàn bộ nhưng không có thương vong.

Từ 5 – 22/4/1982, chính quyền Anh bắt đầu huy động lực lượng Hải quân và Lục quân hùng hậu tiến về phía Nam để giành lại quyền kiểm soát quần đảo Falkland, với hành trình dài hơn 12.800 km.

Điểm nhấn chính là 2 chiếc tàu sân bay HMS Invicible và Hermes, trung tâm của lực lượng; tất cả lực lượng đặt dưới sự chỉ huy của Thiếu tướng Hải quân Woodward.

Đảo Ascension, nằm ở giữa con đường từ Anh tới Falkland là điểm tập trung quân. Chiến thuật của Anh là phong tỏa vùng biển bán kính 320 km quanh quần đảo, sẵn sàng tiêu diệt bất cứ con tàu của Argentina xâm nhập vùng cấm.

Giai đoạn này, theo nhiều chuyên gia quân sự, các lãnh đạo quân đội Argentina đã mắc nhiều sai lầm chiến lược.

Thất bại tai hại nhất là việc người Argentina không nỗ lực xây dựng, mở rộng đường băng lớn để cho phép các máy bay Skyhawk, Mirage, Super Etendard cất hạ cánh trên các đảo. Từ đó, suy giảm về mặt sức mạnh chiến đấu cũng như không thể thực hiện không kích quy mô lớn vào hạm đội tàu của Anh.


Các máy bay của Argentina chỉ có thể xuất kích từ nội địa và sớm trở về đất liền với quãng đường gần 500 km, trong khi bị hạn chế nhiên liệu.


Trước tình hình nghiêm trọng, lãnh đạo Argentina đưa tàu sân bay Veinticinco de Mayo rời quân cảng Puerto Belgrano tiến về Falkland, cùng với 3 tàu ngầm, 1 tuần dương, 2 khu trục hạm và một số tàu khác. Tuy nhiên, tàu của Argentina chủ yếu ở ngoài khu vực phong toả của người Anh.

22-25/4/1982, quân đội Anh tiến hành tấn công chiếm lại đảo Nam Georgia, tiêu diệt tàu ngầm Santa Fe bằng 3 quả tên lửa diệt ngầm, bắt giữ gần 200 lính Argentina.

1/5/1982, chiến sự bước vào giai đoạn quyết liệt trên các đảo chính Đông và Tây Falkland. Dù máy bay chiến đấu của Argentina, bao gồm Mirage và máy bem ném bom Canberra làm hư hỏng 2 tàu chiến Anh, nhưng Harrier và máy bay ném bom Vulcan gây ra những tổn thất lớn hơn nhiều cho Argentina.

2/5/1982 diễn ra sự kiện đẫm máu nhất trong cuộc chiến, cũng như buộc hạm đội của Argentina bó buộc trong cảng trong suốt thời gian còn lại của cuộc chiến.

Tàu ngầm HMS Conquer của Anh đã phát hiện và tiêu diệt tàu tuần dương hạng nhẹ ARA General Belgro với 3 quả ngư lôi, khiến 320 lính Argentina thiệt mạng.




Tàu General Belgro dính ngư lôi và chìm dần, khiến 320 lính Argentina thiệt mạng. Ngay sau đó, Argentina trả thù bằng phá hỏng tàu Sheffield.


4/5/1982, quân đội Anh nếm đòn trả thù khi máy bay Argentina sử dụng tên lửa có điều khiển Exocet tấn công tàu khu trục Sheffield khiến chiếc tàu này hư hỏng nặng và 20 người chết.

Từ ngày 21/5, cục diện chuyển dần từ hải - không chiến sang chiến trường trên bộ khi quân đội Anh bắt đầu đổ bộ tái chiếm đảo. Tuy nhiên, cuộc đổ bộ khiến Anh tổn thất khá nặng với các tàu HMS Ardent, Antelope, Conventry bị đánh chìm…

Với 4.000 lính dưới sự chỉ huy Chuẩn tướng Thủy quân lục chiến Julian Thompson, quân đội Anh tiến hành giành lại nhiều chiến trường: chiếm lại Darwin và Goose Green ngày 27-28/5; đánh bại quân Argentina ở núi Kent. 5.000 quân Anh được bổ sung, đảm bảo lực lượng để tấn công vào thủ phủ Stanley.

Từ đầu tháng 6, phía Anh chuyển đại pháo, súng cối, và những thiết bị khác lên vùng đất cao gần Stanley. Tàu chiến liên tục tấn công vị trí của quân Argentina. Những đơn vị biệt kích tinh nhuệ của Anh di chuyển ngang qua hòn đảo từ Darwin, Goose Green tới chiếm lĩnh những vị trí gần Stanley.



Bản đồ các hướng tấn công của quân đội Anh vào thủ phủ Stanley.


Tuy nhiên, quá trình xây dựng, củng cố lực lượng của Anh gặp phải sự công kích của Không quân Argentina. Ngày 8/6/1982, máy bay Skyhawk và Mirage liên tục dội bom khiến 2 chiếc tàu chở lính RFA Sir Galahad và Sir Tristam hư hỏng nặng, 56 lính thiệt mạng.

11-14/6/1982, cuộc chiến bắt đầu ngã ngũ. Những đơn vị Gurkha và Vệ binh cùng lính bộ binh, lính thủy đánh bộ Anh tiến vào thủ phủ Stanley. Hàng loạt các trận chiến dữ dội nổ ra giữa 2 bên. Các chiến trường chủ yếu là núi Harriet, Longdon, trận Wireless Ridge, Two Sisters.

Tuyến phòng thủ cuối cùng của quân đội Argentina tại núi Mount Tumbledown sụp đổ. Bị bao vây trên bộ và chặn đứng ở biển, tình thế này buộc chỉ huy quân đội Argentina, chuẩn tướng Mario Menendez phải đầu hàng cùng 9.800 lính của mình, chính thức kết thúc cuộc chiến trên quần đảo Falkland.

Hậu quả và thương vong

Tổng số, 907 người thiệt mạng trong 74 ngày diễn ra cuộc tranh chấp. Trong đó, con số bên Argentina là 649 người. Bên phía Anh, có 255 binh lính và sĩ quan thiệt mạng.

Số người bị thương lên tới 1.188 (phía Argentina) và 777 (phía Anh). Số người Argentina bị bắt làm tù binh là 11.313 người, còn phía Anh chỉ có 115 người.

Thiệt hại về khí tài:

Quân đội Anh mất 2 tàu khu trục (Conventry và Sheffield) và 2 tàu khinh hạm (Ardent và Antelope), 1 tàu đổ bộ, 1 tàu vận chuyển, 24 trực thăng và 10 máy bay chiến đấu.

Về phía Argentina, tàu tuần dương General Belgrano, tàu ngầm Santa Fe, 4 tàu chở 2 hàng, 2 thuyền tuần dương, 1 thuyền đánh cá do thám.

Tuy nhiên, thiệt hại nghiêm trọng nhất của Argentia là máy bay: mất 25 trực thăng, 35 máy bay chiến đấu, 2 máy bay ném bom, 4 máy bay vận tải, 9 máy bay huấn luyện có vũ trang, 25 máy bay.

Hệ quả gián tiếp giành cho 2 nước cũng khác biệt. Tại Argentina, 3 ngày sau thất bại tại Falkland, Tổng thống Galtieri bị hạ bệ, kết thúc giai đoạn lãnh đạo quân sự cầm quyền, phục hồi nền dân chủ.

Còn ở Anh, chiến thắng đã củng cố niềm tin quốc gia cũng như vị thế trên trường quốc tế, đảm bảo cho chiến thắng của chính quyền Thatcher trong kỳ bầu cử năm 1983.

Những tuyên bố hiện tại về chủ quyền của hai nước

Tuyên bố từ phía Argentia:

Từ sau cuộc chiến Falkland, chính quyền Argentina vẫn tiếp tục tuyên bố chủ quyền trên quần đảo Falkdland. Mới đây nhất, trong Hiến pháp sửa đổi, nước này coi đây là một phần của tỉnh Tiera del Fuego cùng với quần đảo Nam Georgia, Nam Sandwich. Những lý do mà Argentina đưa ra:

+ Chủ quyền được chuyển từ Tây Ban Nha sang Argentina sau khi giành độc lập với nguyên tắc “uti possidetis juris” (sở hữu cái hiện có). Trong khi, bản thân Tây Ban Nha chưa bao giờ từ bỏ chủ quyền, ngay cả khi có sự thuộc địa hóa của người Anh.
+ Anh đã từ bỏ thuộc địa này năm 1776, chính thức trong Công ước Nootka Sound, trong khi Argentina thì không.
+ Việc Anh quay trở lại năm 1833 là bất hợp pháp theo luật quốc tế, nên Argentina luôn phản đổi hành động này từ 17/6/1833 đến nay.
+ Nguyên tắc tự định đoạt mà Anh đưa ra không thích hợp, khi mà những người dân hiện tại không phải là dân bản xứ. Thực chất, Anh đã đưa công dân của mình tới thay thế người Argetina sau năm 1883.
+ Quần đảo nằm trong thềm lục địa của Argentia tuân theo Hiệp ước Liên hiệp quốc về thềm lục địa năm 1958.

Tuyên bố từ phía Anh:

+ Người Anh đã tuyên bố chủ quyền từ năm 1690 và chưa bao giờ từ bỏ.
+ Quần đảo được người Anh xây dựng cơ sở hạ tầng, liên tục và hòa bình từ năm 1833, trừ 2 tháng xung đột với Argentia năm 1982.
+ Những cố gắng của Argentia trong việc thành lập thuộc địa trên quần đảo giai đoạn 1820-1833 là không liên tục và vô ích.
+ Bản thân quần đảo không có người bản xứ trước khi Anh khai hoang lập địa tại đây.
+ Trong cuộc bỏ phiếu do Argetina khởi xướng năm 1994, 87 % dân số đảo từ chối bất kỳ thảo luận về chủ quyền trong bất kỳ hoàn cảnh nào.
+ Hiệp ước Lisbon phê chuẩn, quần đảo Falkland thuộc về Anh.
[Vitinfo news]


Thứ Bảy, 4 tháng 6, 2011

>> Hồ sơ tranh chấp trên quần đảo Falkland (P1)



Xung đột giữa Anh và Argentina trên quần đảo Falkdland năm 1982 cảnh báo xu hướng các tranh chấp chủ quyền biển đảo giữa các nước trên thế giới.

Hồ sơ về quần đảo này để lại cho thế giới bài học lớn về cách hành xử giữa các cuộc gia, sự thiệt hại không đáng có nếu giải quyết tranh chấp bằng vũ lực.

Vị trí chiến lược của quần đảo Falkland

Quần đảo Falkland, có tên tiếng Tây Ban Nha là Malvinas, nằm ở phía Nam Đại Tây Dương, cách bờ biển Nam Mỹ khoảng 460 km. Quần đảo Falkland gồm hai đảo chính của Đông Falkland và Tây Falkland, cùng với hơn 776 hòn đảo nhỏ hơn. Hiện tại, Falkland là lãnh thổ tự trị của Anh với thủ phủ Stanley, Đông Falkland. Tổng diện tích của quần đảo là 12.173 km2. Cho đến nay, dân số đạt khoảng 2.379 người, phần lớn tập trung tại thủ đô Stanley.

Falkland có lịch sử khá phức tạp. Những nhà thám hiểm người Anh phát hiện ra hòn đảo vào năm 1592, nhưng nước này chưa tuyên bố chủ quyền với quần đảo. Mãi đến năm 1690, nơi đây được đặt tên theo một đô đốc Anh đầu tiên đặt chân tới đây.

Tuy nhiên, đến thế kỷ 18, một nhóm người Pháp tới đây khai hoang và cư ngụ tại đây trong một thời gian ngắn, tiếp sau là Tây Ban Nha với việc tuyên bố chủ quyền với hòn đảo.



Nằm ở gần Nam Mỹ, Falkland có vai trò chiến lược với Anh trong việc thực hiện nhiệm vụ ở Nam Cực và kiểm soát khu vực Nam Mỹ, cũng như khai thác nguồn lợi từ dầu mỏ tại đây.


Điểm nhấn chính là việc Argentina, lấy tư cách là người thừa kế của Tây Ban Nha để chiếm quyền sở hữu trên hòn đảo, nhưng quân đội Anh đã giành lại nó vào năm 1833.

Kể từ đó, người Anh định cư lâu dài ở đây với nghề nghiệp chính là sản xuất lông cừu. Mãi đến năm 1982, cuộc chiến Falkland nổ ra giữa Anh và Argentina trong vòng 2 tháng, rốt cuộc, Anh tiếp tục làm chủ quần đảo.

Vị trí chiến lược của quần đảo Falkland gần gũi với khu vực phía nam của Nam Mỹ và Nam Cực. Nó là bàn đạp cho bất kỳ lực lượng nào muốn tiến hành các nhiệm vụ quân sự và dân sự ở Nam Cực. Với riêng nước Anh, vị trí này rất quan trọng trong việc tăng cường kiểm soát ở khu vực Nam Mỹ.

Vai trò của Falkland được minh chứng trong chiến thắng của Quân đội Anh đối với Hạm đội châu Á của Đức năm 1914, trong thời kỳ Chiến tranh thế giới thứ nhất. Đến năm 1939, quần đảo trở thành nơi đóng quân của Hải quân Hoàng gia Anh tham gia trận chiến River Plate.

Vai trò về giao thông và kinh tế cũng khẳng định tầm quan trọng của quần đảo Falkland. Ngoài những hoạt động truyền thống về khai thác than, đánh bắt cá và cảng biển, những giếng dầu phong phú trong vùng lãnh hải của quần đảo là nhân tố giúp phát triển kinh tế cho bản thân người dân ở Falkland và Anh. Theo tính toán, trữ lượng của khu vực lên tới 60 triệu thùng (tương đương 9,5 tỷ mét khối).

Du lịch cũng dần trở thành thế mạnh của quần đảo này. Hàng năm, hàng chục nghìn du khách đến thăm quần đảo trên những chiếc tàu du lịch, hấp dẫn với hệ động/thực vật đa dạng cùng các cơ sở nghỉ dưỡng được đầu tư hiện đại.

Cuộc chiến Falkland năm 1982

Khơi mào chiến tranh:

Không phải ngẫu nhiên, Argentina khơi mào cuộc chiến và xung đột tại quần đảo Falkland. Nguyên nhân xuất phát từ sự thay đổi bộ máy cầm quyền của nước này.

Đầu năm 1982, sau cuộc đảo chính, Tổng thống Leopoldo Galtieri lên nắm quyền, là người đứng đầu nhóm sĩ quân quân sự cai trị đất nước Argentina. Ông này đã thông qua kế hoạch tấn công quần đảo Falkland.

Điều này sẽ gia tăng những giá trị quốc gia và có thể giành lại hòn đảo mà họ tuyên bố chủ quyền nắm giữ từ trước đó.



Bằng việc công khai đổ bộ trên một hòn đảo thuộc quần đảo Falkland, Argentina đã khơi mào cuộc chiến với Anh.


Đầu tiên, Argentina đưa 60 công nhân được đưa lên hòn đảo Nam Georgia (thuộc quần đảo Falkland) ngày 19/3/1982. Họ tháo dỡ một trại săn cá voi bỏ hoang, sau đó dựng ngọn quốc kỳ của Argentina, chính thức thách thức chủ quyền với Anh.

Nhà cầm quyền Anh đã tuyên bố về sự chiếm đóng phi pháp của Argentina và yêu cầu rút lui. Thủ tướng Anh, Magaret Thatcher công kích mạnh mẽ trên kênh ngoại giao.

Việc tuyên bố chủ quyền từ hành động nhỏ đã nổ ra cuộc chiến khốc liệt giữa quân đội Anh - Argentina trong vòng 2 tháng, cướp đi sinh mạng hàng trăm người. Mỗi bên tiêu tốn hàng tỷ USD. Cuộc chiến cũng đánh dấu những bước chuyển về kỹ thuật tác chiến quân sự, sử dụng vũ khí.

Cuộc chiến bắt đầu:

Đây là cuộc chiến lớn đầu tiên kể từ sau Chiến tranh thế giới 2 trên biển và trên không giữa hai lực lượng quân sự được trang bị hiện đại.

Trong khi Anh có lợi thế hơn về kinh nghiệm chiến đấu, còn Argentina có lợi thế về vị trí địa lý do ở gần quần đảo Falkland.

Về trang bị quân sự:

Anh: Hải quân hoàng gia Anh tham chiến 2 tàu sân bay là HMS Invincible và Hermes (tàu chỉ huy); 2 tàu đốc đổ bộ trực thăng (LPD) là HMS Fearless và Intrepid; các tàu khu trục HMS Bristol, Sheffield, Glasgow, Conventry…; tàu ngầm lớp Churchill như HMS Conqueror, Courageous; tàu phá băng Endurance…cùng hàng loạt tàu hỗ trợ khác.

Vũ khí trang bị chủ yếu là tên lửa đối không Sea Slug, Sea Cat, Sea Wolf; tên lửa đối hạm Exocet MM38, tên lửa diệt tàu ngầm Ikara; pháo Mark, Oelikon…; ngư lôi Mark 24 Tigerfish và Mark 8.

Lực lượng máy bay của Anh chủ yếu gồm máy bay chiến đấu Sea Harrier, Sea King, Wessex; Lynx; trực thăng Chinook; máy bay phản lực Phantom; máy bay ném bom chiến lược Vulcan, Victor; máy bay vận tải Hercules…

Ngoài ra, Anh đưa vào chiến trường 3 lữ đoàn biệt kích và 5 lữ đoàn bộ binh với trang bị vũ khí khá hiện đại như súng L1A1 SLR, súng phóng lựu M79…

Argentina:

Hải quân Argentina không có sức mạnh hùng hậu như Anh, chỉ có tàu sân bay duy nhất là Veinticinco de Mayo. Ngoài ra, là lực lượng tàu nhỏ hơn: 2 tàu khu trục Comodoro Py, Segui; tàu đổ bộ USS De Soto; tàu hộ tống Guerrico; nhiều tàu tuần tra; tàu ngầm Type 209

Sức mạnh chủ yếu của Argentina là lực lượng máy bay chiến đấu có khả năng tác chiến cao, gây ra thiệt hại đáng kể cho hạm đội tàu của Anh.

Một số máy bay chủ lực tham chiến của Argentina là máy bay chiến đấu Mirage IIIEA, IAI Dagger (do Israel cung cấp), Douglas A-4 Skyhawk; máy bay trinh sát Boeing 707; máy bay vận tải C-130 Hercules; máy bay dân dụng Fokker F28…

Hỏa lực của Argentina bao gồm: tên lửa không đối không Sidewinder tầm ngắn (trang bị cho Skyhawk); Shafrir 2(trang bị cho IAI Dagger); Matra R550/R530 (trang bị cho Mirage); tên lửa không đối hạm Exocet 39; rocket MB339 và Pucaras…

Lực lượng tác chiến trên bộ của Argentina gồm 2 lữ đoàn bộ binh cơ giới chủ đạo với đội pháo binh; ngoài ra còn lực lượng quân đội hỗn tạp; lính thủy đánh bộ và hiến binh.

[BDV news]


Thứ Tư, 11 tháng 5, 2011

>> Thế giới lao vào cuộc đua tàu sân bay



Mặc dù xuất hiện tranh cãi ngày một lớn về chi phí và sự phù hợp của các tàu sân bay, nhưng hải quân các nước vẫn tiếp tục gia tăng đội tàu của mình với tốc độ chưa từng thấy kể từ Thế chiến II.

Trình diễn sức mạnh

Mỹ - nước có số tàu sân bay nhiều hơn mọi quốc gia khác cộng lại - thiết lập được sức mạnh hải quân như Anh, Pháp và Nga đang theo đuổi. Brazil, Ấn Độ và Trung Quốc thuộc nhóm các nền kinh tế mới nổi cũng không ngừng tăng tốc.

"Toàn bộ ý tưởng nhằm trình diễn sức mạnh, quyền lực”, phó Đô đốc Philippe Coindreau, chỉ huy đội đặc nhiệm của hải quân Pháp dẫn đầu cuộc không kích vào Libya từ 22/3, cho biết.

Tàu sân bay Charles de Gaulle của Pháp. Ảnh: AP


"Một tàu sân bay hoàn toàn phù hợp với các kiểu xung đột này, và con tàu ấy đã chứng tỏ nó mỗi ngày”, ông nói trong một cuộc phỏng vấn thực hiện tại tàu sân bay Pháp Charles de Gaulle, mang sứ mệnh tấn công vào các lực lượng của lãnh đạo Libya Moammar Gadhafi kể từ cuộc can thiệp của liên quân vào Libya bắt đầu ngày 22/3.

Tàu sân bay hạt nhân trọng tải 42.000 tấn đã cùng tham gia chiến dịch với một tàu nhỏ hơn - tàu Giuseppe Garibaldi của Italy 14.000 tấn. Không có tàu sân bay nào của Mỹ tham gia cho dù lực lượng Mỹ có mặt trong cuộc chiến này ở giai đoạn đầu tiên.

Hải quân Mỹ vẫn sở hữu 11 tàu sân bay hạt nhân, hầu hết là tàu lớp Nimitz có trọng tải lên tới 100.000 tấn. “Pháo đài nổi” trở thành xương sống sức mạnh biển của Mỹ sau Thế chiến II, trình diễn sức mạnh quân sự Mỹ trong các cuộc khủng hoảng khắp thế giới như Triều Tiên, Iraq, Kosovo và Afghanistan.

Theo Lee Willett, phụ trách chương trình nghiên cứu hàng hải tại Viện nghiên cứu Royal United Services có trụ sở ở London, cho hay, cuộc chiến tại Libya đã minh chứng cho tính hữu ích của các tàu sân bay.

Pháp và Italy, hai quốc gia thành viên NATO gần gũi nhất bờ biển Bắc Phi, đã chọn cách triển khai các tàu trong chiến dịch cho dù họ có các căn cứ không quân gần hơn, ông nhấn mạnh. "Trên khắp thế giới, những cường quốc hải quân hay lực lượng hải quân chưa lớn lắm đều tìm kiếm việc tạo lập sức mạnh không quân trên biển”, Willett nói. "Họ có thể không muốn là những cường quốc toàn cầu, nhưng chắc chắn mong muốn có sức mạnh trong khu vực”.

Căn cứ không quân di động

Rất khó xác định số lượng chính xác các tàu sân bay đang hoạt động trên khắp thế giới vì sự tồn tại của các tàu này được phân thành nhiều loại khác nhau như tàu chiến đổ bộ, tàu sân bay trực thăng hay tàu khu trục - nhưng tóm lại tàu sân bay được xem như là một căn cứ không quân di động có bãi đáp cho máy bay cất cánh, hạ cánh.

Trong số này, 8 tàu tấn công đổ bộ lớp Wasp trọng tải 41.000 tấn của Mỹ. Tàu lớp Mistral của Pháp; HMS Ocean của Anh và Juan Carlos I của Tây Ban Nha đều được coi là các tàu sử dụng đa mục đích, có thể mang máy bay chiến đấu, trực thăng và hàng trăm lính thủy đánh bộ cho các chiến dịch đổ bộ. Thậm chí các tàu khu trục lớp Hyuga của Nhật cũng được coi là các tàu sân bay hiệu quả. Tàu này có thể mang nhiều trực thăng trên boong và có hầm chứa máy bay phía dưới.

"Nói chung, tàu sân bay trở nên phổ biến vì đây là những nền tảng rất linh hoạt có thể được sử dụng cho nhiều nhiệm vụ, không chỉ trong chiến tranh”, Nate Hughes, giám đốc phân tích quân sự tại tổ chức cố vấn Stratfor, Mỹ cho biết.

Hải quân Mỹ dự kiến sẽ giới thiệu Gerald R. Ford, tàu chỉ huy của nhóm ba 3 siêu tàu sân bay lớp mới, vào năm 2015. Mỗi chiếc có trị giá khoảng 9 tỉ USD.

Các nước khác trong NATO đang bổ sung thêm cho hạm đội tàu sân bay của họ gồm Anh, hiện đang đóng hai chiếc, và Pháp đang cân nhắc mua tàu sân bay hạt nhân thứ hai. Tây Ban Nha và Italia vừa đưa ra hai tàu sân bay mới.

Trung Quốc và Ấn Độ đều trong quá trình nâng cấp các tàu sân bay xây dựng thời Liên Xô. Ấn Độ cũng đang phát triển tàu sân bay nội địa đầu tiên. Nga sẽ hiện đại hóa tàu sân bay Đô đốc Kuznetsov trong năm tới để gia tăng thời hạn hoạt động của tàu sau năm 2030 và lên kế hoạch tậu các tàu lớp Mistral của Pháp.

Brazil đã hoàn tất quá trình nâng cấp tàu sân bay Foch gần đây mua từ Pháp, giờ đổi tên là Sao Paolo. Con tàu này giờ đây trở thành tàu đô đốc của Hải quân Brazil. “Hải quân các thành viên BRIC đặc biệt chú tâm tới tàu sân bay”, Willett nói.

Một số chuyên gia quân sự vẫn tiếp tục tranh cãi về sự phù hợp của tàu sân bay. Theo các người phê bình, khái niệm căn cứ không quân trên biển giờ đây đã lỗi thời. Họ lập luận rằng, tiến bộ trong các vũ khí chống hạm khiến cho tàu sân bay trở nên quá tốn kém và rủi ro cao trong một cuộc chiến.

Trong khi các tàu sân bay mang máy bay, tên lửa được xem là “pháo đài bất khả chiến bại”, thì thực tế là, kể từ Thế chiến II, phần lớn chúng được sử dụng trong các cuộc xung đột với những đối thủ yếu hơn nhiều. Chúng chưa từng chạm mặt những lực lượng hải quân hiện đại với tên lửa đạn đạo “sát thủ tàu sân bay”, siêu ngư lôi hay tên lửa siêu thanh.

"Những công nghệ mới khiến cho các vũ khí hiện đại dễ dàng hơn trong tiếp cận mục tiêu tàu sân bay từ khoảng cách lớn hơn nhiều”, Benjamin Friedman, nhà nghiên cứu tại Viện CATO ở Washington nói. "Công nghệ ấy có khả năng tấn công nhanh hơn việc phòng thủ, nghĩa là trong hai thập niên tới, tàu sân bay có thể không tồn tại”.
[Vietnamnet news]


Chủ Nhật, 1 tháng 5, 2011

>> Tàu sân bay Anh đội giá gấp đôi



Chi phí chế tạo hai hàng không mẫu hạm của Anh đã tăng gần gấp đôi, tính từ thời điểm ký hợp đồng vào tháng 7/2008.



Anh đã quyết định thay đổi thiết kế 2 hàng không mẫu hạm mới để phù hợp với khả năng mang máy bay chiến đấu F-35 Lightning II của hãng Lockheed Martin.

Từ đó đến nay, chi phí chế tạo hai tàu sân bay mới bị “đội lên” đáng kể, từ 1,7 tới 3 tỷ USD.

Đây là một con số được coi là “khiêm tốn” vì Chính phủ Anh đã quyết định sử dụng hệ thống hãm, đẩy phù hợp với biến thể F-35 dành cho hải quân thay vì dùng hệ thống cất-hạ cánh theo phương thẳng đứng đắt tiền.




Hai tàu sân bay mới sẽ tăng cường đáng kể sức mạnh của hải quân hoàng gia Anh.


Theo người phát ngôn của Bộ quốc phòng Anh, việc trang bị những hệ thống cất/hạ cánh mới cho tàu sân bay sẽ tăng cường khả năng phối hợp cùng các đồng minh NATO và giảm thiểu chi phí vận hành.

Một liên minh bao gồm BAE Systems, Babcock International và Thales chịu trách nhiệm chế tạo hai hàng không mẫu hạm mới cho Hải quân Anh.

Ước tính, Anh sẽ phải chi tới 11,7 tỷ USD cho thương vụ này. Đây là một con số khổng lồ nếu so sánh với dự toán 6,5 tỷ USD vào thời điểm hợp đồng được ký vào tháng 7/2008.

Năm 2010, Anh đã buộc phải điều chỉnh chi phí lên 8,7 tỷ USD.


[BDV news]


Chủ Nhật, 10 tháng 4, 2011

>> Bắn nhau trên tàu ngầm Anh



[BDV news] Cảnh sát Anh vừa bắt một thủy thủ trên tàu ngầm nguyên tử HMS Astute đang đỗ ở cảng Southampton sau khi anh này bắn chết một đồng nghiệp và làm một người khác bị thương nặng.

Giới truyền thông Anh cho hay, vụ nổ súng xảy ra khoảng 12h12 ngày 8/4 (giờ địa phương). Nghi phạm sử dụng súng trường SA80 để “nã” hai đồng nghiệp trước khi bị khống chế và bắt giữ.

Một nhân chứng kể lại rằng, anh nghe thấy 6 loạt đạn. Sau đó một đồng nghiệp bị trúng đạn chạy vọt qua người anh.

Theo một phát ngôn viên Bộ Quốc phòng Anh, một nạn nhân thiệt mạng ngay tại hiện trường, trong khi một người khác bị thương khá nặng. Bộ quốc phòng Anh thông báo là sẽ không công bố tên của hai nạn nhân cho tới khi gia đình họ được thông báo.

Người phát ngôn này cũng cho biết, nghi phạm là một thủy thủ làm nhiệm vụ canh gác tàu ngầm. Anh này vừa nhận súng từ kho vũ khí của tàu khi tới làm nhiệm vụ canh gác và dự kiến nhận ca trực thì xảy ra tranh cãi với một đồng nghiệp về việc sử dụng phòng vệ sinh. Ngay sau đó, sẵn có súng trên tay, anh khai hỏa về phía các đồng nghiệp.



Vụ nổ súng khiến một người thiệt mạng và một người khác bị thương.


Tàu ngầm HMS Astute hoạt động tại Scotland nhưng đang có chuyến "thăm" kéo dài 5 ngày tới Southampton. Con tàu có giá một tỷ bảng Anh này là một trong 11 tàu ngầm hạt nhân của Anh. Nó được trang bị ngư lôi Spearfish và tên lửa hành trình.

Tuy nhiên, con tàu gặp phải không ít biến cố trong sự nghiệp ngắn ngủi. Theo dự kiến, HMS Astute được đưa vào sử dụng năm 2005 nhưng thời hạn này bị lùi đến năm 2010, với khoản ngân sách vượt hàng triệu USD. Đến tháng 10/2010, HMS Astute lại đâm phải đá và bị mắc kẹt gần đảo Skye ngoài khơi bờ biển phía Tây của Scotland.




Thứ Năm, 7 tháng 4, 2011

>> Trực thăng Anh trang bị tên lửa đa năng



[BDV news] Anh vừa công bố hợp đồng trang bị tên lửa hạng nhẹ đa chức năng (LMM) cho các trực thăng Lynx Wildcat của Hải quân nước này.

Công ty Thales UK đã nhận được đơn đặt hàng 1.000 đơn vị tên lửa hạng nhẹ đa chức năng, chưa đầy 3 năm sau khi bắt tay vào phát triển thiết kế.

Trong cuộc họp báo ngày 5/4 vừa qua, công ty cho biết bản hợp đồng “mang tính đột phá” này là kết quả của thỏa thuận giữa công ty với Bộ Quốc phòng Anh.

Việc phát triển hoàn thiện và đưa vào sản xuất hàng loạt phiên bản dẫn đường bằng laser của loại tên lửa này sẽ bắt đầu được thực hiện để trang bị cho trực thăng AgustaWestland Lynx Wildcat của Hải quân Anh.



Phiên bản tên lửa cho máy bay không người lái. Mỗi tên lửa LMM có trọng lượng khi phóng là 13kg, tầm bắn 8km.


Công ty Thales UK cũng đang thiết kế một phiên bản khác với đầu nổ mảnh và đầu đạn lõm dùng để chống lại xe thiết giáp hạng nhẹ và hạng trung. Những biến thể khác sẽ đáp ứng được các yêu cầu tấn công từ trên không khác nhau.

“Thiết kế của tên lửa cho phép cải tiến và lắp đặt các kiểu đầu đạn và hệ thống dẫn đường khác trong tương lai. Trong đó, có một phiên bản sử dụng công nghệ laser bán tự động dùng cho vai trò tấn công chính xác trên mặt nước", người phát ngôn Thales UK cho biết.

Theo các nhà phát triển, tên lửa có độ chính xác cao đối với các mục tiêu cố định và di động trong khi gây ra tổn thất phụ rất nhỏ.

Tên lửa LMM cũng có thể được trang bị cho các máy bay không người lái.


Thứ Sáu, 4 tháng 3, 2011

>> Tên lửa Exocet


Trong các cuộc xung đột quân sự trên thế giới trong những năm 1980, một trong những loại vũ khí được nhắc đến nhiều nhất là tên lửa đối hạm Exocet. Loại tên lửa đã lập nhiều công trạng trong cuộc chiến ở quần đảo Falklands giữa Anh và Argentina.

Exocet là tên lửa hành trình đối hạm do Pháp phát triển, loại tên lửa này được thiết kế để tấn công các loại tàu chiến cỡ nhỏ, cỡ trung nhưng khi cần thiết hoàn toàn có thể sử dụng để oanh kích những chiến hạm lớn kể cả tàu sân bay. Tên lửa Exocet phát triển thành nhiều biến thể phóng từ tàu chiến (MM - 38, MM - 40), phóng từ tàu ngầm (SM - 39) và phóng từ trên không (AM - 39). Hầu hết, các biến thể đều giống nhau trong phương thức dẫn đường (quán tính và radar chủ động), hình dáng tương tự nhau với bốn cánh ở giữa thân và bốn cánh định hướng ở đuôi, mang đầu đạn thuốc nổ phá mảnh nặng 165 kg. Tầm bắn các biến thể khác nhau.



Tên lửa hành trình đối hạm phóng từ trên không AM - 39 Exocet.

Ra đời từ những năm 1970, nhưng phải đến năm 1982 tên lửa Exocet mới được biết đến nhiều hơn trên thế giới khi đánh hư hỏng nhiều khu trục hạm hạng nặng của hải quân Anh trong cuộc chiến Falklands. Sau đây là chùm ảnh những chiến hạm xấu số của hải quân Anh trong cuộc chiến Falklands:

Ngày 4/5/1982, máy bay chiến đấu của không quân Argentina Super Etendard bắn một quả tên lửa Exocet AM - 39 đánh trúng khu trục hạm hạng nặng HMS Sheffield (Hải quân Anh).


Tên lửa Exocet đánh trúng tàu nhưng đầu đạn không phát nổ. Tuy nhiên, lượng nhiên liệu động cơ tên lửa đã gây ra một số vụ cháy không thể kiểm soát được trên HMS Sheffied, thủy thủ đoàn buộc rời bỏ tàu. Sáu ngày sau vụ tấn công, con tàu mới chìm hẳn.


Ngày 12/6/1982, tên lửa đối hạm MM - 38 Exocet của quân đội Argentina được phóng đi từ đất liền đánh trúng khu trục hạm HMS Glamorgan (hải quân Anh) gây thiệt hại nặng nề cho con tàu, 13 thủy thủ thiệt mạng. HMS Glamorgan mất gần một năm sửa chữa những hư hỏng do đầu đạn 165 kg gây ra.


Ngày 25/5/1982, không quân Argentina bắn hai quả tên lửa AM - 39 Exocet vào tàu thương mại Atlantic Conveyor của Anh làm thiệt mạng 12 thủy thủ và gây hư hỏng nặng cho con tàu. Năm ngày sau vụ không kích, tàu Atlantic Conveyor chìm hẳn.


"Nỗi khiếp sợ" của chiến hạm Anh, máy bay tấn công Super Etendard do Pháp thiết kế và sản xuất chuyên thực hiện các nhiệm vụ chống hạm.


Sau cuộc chiến Falklands 1982, tên lửa Exocet tái xuất lần nữa và "nạn nhân" lần này là khu trục hạm Mỹ. Ngày 17/5/1987, cường kích cơ Mirage F1 của không quân Iraq bắn hai tên lửa AM - 39 trúng khu trục hạm USS Stark của hải quân Mỹ.


Thực tế, lúc đó tất cả hệ thống phòng không của USS Stark đang trong trạng thái "nghỉ ngơi" nên không phản ứng kịp và hậu quả là một phần thân tàu bị biến dạng, 37 thủy thủ thiệt mạng, 21 người khác bị thương


(bdv)

Copyright 2012 Tin Tức Quân Sự - Blog tin tức Quân Sự Việt Nam
 
Lên đầu trang
Xuống cuối trang