Tin Quân Sự - Blog tin tức Quân sự Việt Nam: cuộc chiến Falklands

Paracel Islands & Spratly Islands Belong to Viet Nam !

Quần Đảo Hoàng Sa - Quần Đảo Trường Sa Thuộc Về Việt Nam !

Hiển thị các bài đăng có nhãn cuộc chiến Falklands. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn cuộc chiến Falklands. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Sáu, 9 tháng 11, 2012

>> Chiến tranh Falklands (Kỳ 2)

Vai trò của tư lệnh chiến dịch và những bài học

Kinh nghiệm quý báu của cuộc chiến này được các cường quốc hải quân, đặc biệt là Mỹ, vận dụng để hoàn thiện hạm đội của mình.

>> Bài học từ cuộc chiến Falklands(Kỳ 1)


Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Đô đốc John Woodward
Vai trò của người chỉ huy trong bất kỳ chiến dịch hay cuộc hành quân nào cũng đều có ý nghĩa quyết định hay gần như thế. Nhất là trong một chiến dịch phức tạp và đặc thù như thế này. Tuy nhiên, người ta cũng thấy sự xung đột giữa tiền phương chiến trường đại dương với Bộ Hải quân Anh.

Trường hợp với Đô đốc Woodward còn đặc biệt trầm trọng hơn về tâm lý bởi bối cảnh, hầu như đến cuối chiến dịch, vị trí của ông vẫn ở “trạng thái treo”, một thứ tư lệnh chiến dịch tạm quyền. Các chỉ huy cấp trên tinh quái đã để ông ở tình trạng “kiễng chân” và bất kỳ lúc nào cũng sẵn sàng thay thế ông bằng một đô đốc “hai sao” dày dạn hơn và “xứng đáng” hơn. Nhưng điều đó cũng không cản trở Bộ Hải quân Anh vắt kiệt năng lực của Woodward.

Còn nếu ông Woodward thành công, như thực tế đã diễn ra thì Bộ Hải quân Anh có cớ để khiêm tốn nói rằng, trường hợp Woodward một lần nữa khẳng định rằng, mỗi đô đốc của họ dù là trẻ nhất, khi bị bất ngờ rút từ bất kỳ vị trí nào cũng sẵn sàng cầm đầu lực lượng viễn chinh và giành thắng lợi trong cuộc chiến tranh ở bất cứ đâu, dù ở tận đầu bên kia của thế giới.

Thật may là Đô đốc Woodward đã vượt qua một cách xứng đáng cả thử thách tâm lý không đơn giản này khi cho thấy những nét và phẩm chất của một đô đốc chân chính.

Vậy gánh nặng trọng trách của vị tư lệnh là thế nào? Ngay ở giai đoạn chiến khai, bão tố đã gạt phăng người ra ngoài mạn tàu, các trực thăng thì rơi xuống biển, một máy bay chở khách chút xíu nữa thì bị bắn hạ vì bị nhầm là máy bay trinh sát Argentina hàng ngày quấy nhiễu. Vị đô đốc chắc chắn vẫn run sợ nhớ lại cho đến hôm nay.

Về ông Woodward thì nay người ta thường nói rằng, ông đã dẫn dắt cuộc chiến tranh máy tính đầu tiên trong lịch sử. Điều đó có thể hiểu theo những cách khác nhau. Tác giả bài viết đương thời từng “lang thang” trên tàu ngầm nguyên tử lớp Projekt 671RTM giữa vịnh Persique và vịnh Aden, giữa Seychelles và các vùng biển lân cận, nên dễ hiểu hơn đặc điểm của vũ khí trang bị có máy tính là như thế nào, độ tin cậy ra sao.

Phức tạp một cách vô lý và còn chưa đủ tin cậy, các hệ thống này thường tùy ý làm sững sờ các chuyên gia và các cấp chỉ huy. Ở đó lại thường xuyên thiếu làm mát, đi cùng với nó là độ ẩm 100%, muối biển lập tức sùi lên trên các tiếp điểm và giắc cắm. Trong khi đó, hỏa lực bắn loạt bằng vũ khí chủ yếu và hỏa lực phòng vệ phải tiếp nối đúng lúc và không thể tránh né, chứ không phải khi các chuyên gia sẵn sàng sau khi khởi động lại hệ thống 2 lần, 4 lần. Bởi vậy, tôi sẽ không bao giờ quên các chuyên gia máy tính và thủy âm của mình, họ là những chuyên gia do Chúa ban cho. Đằng sau họ không bao giờ có sự chậm trễ hay thậm chí trở ngại nào. Ở Falklands, những vấn đề đó bị trả giá bằng sự tồn vong của các con tàu và binh sĩ. Hoàn cảnh tàu khu trục HMS Coventry (D118) bị tiêu diệt cho thấy rõ điều đó.

Vậy vị tư lệnh có thể tác động tới vấn đề này tới mức nào? Trong mọi trường hợp, người chỉ huy không thể thờ ơ mà phải liên tục kiện toàn các thành phần của thế trận chiến đấu, các thủ đoạn và phương pháp giải quyết các nhiệm vụ phòng không và phòng thủ tên lửa. Cần bắt đầu từ việc lên quyết tâm chiến dịch của vị tư lệnh trong khi hoàn toàn thiếu thông tin, mà người ta gọi là “quyết định trên yên ngựa”. Việc hầu như không nội dung nào trong quyết tâm chiến dịch bị Bộ Hải quân Anh bác bỏ nói lên chất lượng quyết tâm của tư lệnh, cũng như sau đó là công tác soạn thảo kế hoạch chiến đấu.

Việc thực hiện kế hoạch này mà không cho phép sai thời hạn quá một ngày đêm cũng bộc lộ một nét khác trong tính cách của vị tư lệnh: sự cương quyết trong thực hiện kế hoạch chiến tranh. Đằng sau sự cương quyết đó này là sự thận trọng, chính xác rất cao trong hoàn thành toàn bộ các biện pháp cho phép kịp thời chuyển sang giai đoạn hành động tiếp theo.


Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Người hùng Woodward 30 năm sau chiến tranh Falklands

Nói lên nhiều điều về tính cách và phong cách chỉ huy của vị đô đốc là thái độ của vị tư lệnh đối với những người có trách nhiệm trực tiếp hay gián tiếp về những tổn thất nặng nề của hạm đội như hạm trưởng khu trục hạm Sheffield - một ví dụ về thái độ cẩu thả vô lối - và hạm trưởng khu trục hạm HMS Coventry - bằng việc cơ động tàu không thống nhất tại thời điểm máy bay Argentina tấn công đã che khuất hướng bắn bắn của hệ thống tên lửa phòng không Sea Wolf từ tàu HMS Brilliant (F90), tạo điều kiện cho máy bay Argentina đột phá và tấn công tiêu diệt tàu HMS Coventry.

Woodward đã cho họ có quyền mệt mỏi vì chiến đấu liên miên và những hậu quả của nó. Hơn nữa, các hành động của tàu Coventry, của vị hạm trưởng và thủy thủ đoàn tàu này trước đó là không thể chê trách và dũng cảm.

Điểm nổi bật ở Woodward là việc sẵn sàng chiến đấu bằng những lực lượng sẵn có trong tay ông và cương quyết bảo vệ quan điểm của mình với cấp trên.

Sự kiên định và ý chí sắt đã của người chỉ huy nhằm đạt mục tiêu đã thể hiện đặc biệt rõ trong việc tiến hành trinh sát chống thủy lôi các tuyến đường hành quân tới điểm đổ bộ bằng các tàu chiến. Ông hiểu rằng, các sự kiện chính của cuộc chiến sẽ khai diễn sau khi đổ bộ. Cũng không thể không nhắc đến sự kiềm chế, thận trọng của vị tư lệnh Anh khi ông không hăng máu ham đánh để giữ các tàu sân bay ở ngoài tầm với của các máy bay Super Étendard của Argentina.

Để kết thúc bản phân tích về vai trò và vị trí của người chỉ huy, cần một lần nữa nhắc đến gánh nặng lịch sử của sứ mệnh cực kỳ phức tạp và trọng trách của vị tư lệnh chiến dịch Falklands. Lần đầu tiên trong 37 năm hòa bình sau chiến tranh, chính Đô đốc Woodward đã phải bảo vệ uy tín của hạm đội Anh, người thủy binh Anh và vị đô đốc Anh.

Một kết luận quan trọng nữa là hệ thống đào tạo hạm trưởng của Hải quân Anh với việc thử thách toàn diện ở nhiều vị trí phục vụ đã hoàn toàn chứng minh được giá trị của mình.

Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Quân Anh trên quần đảo Falklands

Những bài học, kết luận và tiết lộ

Những tư liệu thực tế phong phú mà kinh nghiệm cuộc chiến này mang lại đã được các cường quốc hải quân vận dụng một cách khác nhau để hoàn thiện các chương trình xây dựng hạm đội, vũ khí hải quân, các thủ đoạn và phương thức sử dụng các lực lượng của hạm đội. Điều thật kỳ lạ là vận dụng chúng ở mức độ cao nhất là Hải quân Mỹ, ở mức độ ít hơn nhiều là Hải quân Liên Xô và Hải quân Anh.

Trận chiến Falkland đã xác nhận một giả thiết rằng, một cuộc xung đột cường độ cao, trong đó dù cho một bên tham chiến là cường quốc hạt nhân, thì chắc chắn vẫn diễn ra ở phương án phi hạt nhân. Điều đó đặt ra vấn đề mức độ đủ và trình độ vũ khí trang bị có tính chiến thuật. Việc ngành đóng tàu sau Thế chiến II giải quyết vấn đề trọng lượng lâu nay bằng cách sử dụng các hợp kim nhẹ cho phần thượng tầng và các kết cấu khác của tàu sao cho với lượng giãn nước hạn chế lại có thể dành được nhiều không gian hơn cho vũ khí đã khiến lính thủy Anh phải trả giá đắt.

Trong tất cả các trường hợp tàu Anh bị tiêu diệt trong chiến đấu đều xảy ra hỏa hoạn lớn. Kim loại nhẹ của phần thượng tầng bốc cháy và tan chảy làm cho việc cứu hỏa trở nên cực kỳ khó khăn. Các vật liệu ngăn cách bằng polymer cũng không chịu được lửa.

Tỏ ra mờ nhạt đến mức đáng kinh ngạc khi so với các lực lượng khác là các tàu ngầm nguyên tử Anh, nhất là khả năng tìm kiếm mục tiêu và tấn công của chúng. Các kết luận lập tức được rút ra: nay các tên lửa chống hạm đã được triển khai ngay cả trên các tàu ngầm diesel và phi hạt nhân và được phóng từ ống phóng lôi.

Cuộc xung đột đã chứng minh một cách hùng hồn rằng, mối nguy hiểm lớn nhất là các phương tiện tiến công đường không có khả năng hoạt động ở độ cao nhỏ và cực nhỏ. Toàn bộ kho tên lửa phòng không của hạm đội Anh (không dưới 4 loại) đã không thể bảo vệ chắc chắn chống các phương tiện tiến công đường không bay thấp. Không có hệ thống radar phát hiện tầm xa, hạm đội ngày nay chẳng thể làm gì trên biển.

Người Mỹ đã rút ra được kết luận nên đã chế tạo hệ thống Aegis và kiên trì cải tiến nó thành một vũ khí phòng thủ tên lửa. Nền tảng của bản thân khái niệm tác chiến của Hải quân Mỹ chính là các máy bay báo động sớm AWACS và Hawkeye liên tục bay trên đất liền và biển cả.

Những bài học của cuộc khủng hoảng đặt ra một cách thẳng thừng vấn đề về tính cấp thiết và ưu thế của các hệ thống vũ khí trước các mẫu vũ khí đơn nhất hoàn thiện nhất như một cách tiếp cận để giải quyết các nhiệm vụ chiến đấu. Khí tài bảo đảm bay đêm, radar hoàn thiện hơn và các tên lửa Mỹ Sidewinder đã bảo đảm ưu thế của máy bay Sea Harrier trên không trước các máy bay hiện đại nhất của Argentina mới mua từ Pháp, Thụy Điển và Israel.

Không lâu sau cuộc xung đột Falklands, các hệ thống trinh sát-tiến công hiệu quả cao đã xuất hiện hàng loạt ở Mỹ.

Người ta chỉ có thể nhận ra cuộc khủng hoảng về ngư lôi đã bắt đầu trong quá trình chiến sự ở Falklands. Do không tự tin vào độ tin cậy của các ngư lôi mới Tigerfish, Hải quân Anh đã phải dùng ngư lôi МК-8 thời Thế chiến II tấn công mục tiêu duy nhất bị đánh chìm bằng vũ khí tàu ngầm. Ở phía bên kia, chiếc tàu ngầm của Argentina trang bị ngư lôi МК-37 của Mỹ cũng liên tục thất bại với vũ khí ngư lôi.

Thực tế cho thấy hiệu quả chống ngầm của lực lượng đặc nhiệm Anh thấp một cách bất ngờ. Một tàu ngầm Argentina đã chạy lang thang khá lâu giữa các hạm tàu Anh và thậm chí còn định tấn công chúng mà không ai phát hiện được!

Kinh nghiệm đó có ý nghĩa gì đối với Hải quân Liên Xô hồi đó và Hải quân Nga hiện nay? Không được quên là Hải quân Liên Xô/Nga và hạm đội Anh có một điểm chung là cả hai đều giải quyết vấn đề cực kỳ trọng yếu là “không quân hóa” theo cùng một cách. Chỉ có Anh và Liên Xô là thành công trong việc chế tạo máy bay chiến đấu cất/hạ cánh thẳng đứng và đường băng ngắn. Ngay cả Mỹ với tiềm lực hàng không-vũ trụ vô hạn cũng đành chịu thất bại trong lĩnh vực này. Điều đó đã mang lại những lợi ích chưa từng có trong lĩnh vực vũ khí hải quân.

Việc lao vào cuộc chạy đua mệt mỏi, tốn kém và nói chung là vô vọng nhằm đóng và trang bị cho các tàu sân bay khổng lồ trở nên không còn cần thiết nữa. Vấn đề xây dựng một hạm đội cân đối trong một quãng thời gian đáng kể đã có được cơ hội hiện thực hóa gần như ở phương án động viên.

Một máy bay cất cánh đường băng ngắn và hạ cánh thẳng đứng vốn được cho là không phải là máy bay chiến đấu đúng nghĩa khi hoạt động trong một hệ thống đã dễ dàng giành ưu thế trước các máy bay chiến đấu “thật sự” của đối phương. Dĩ nhiên, Harrier của Anh đã tỏ ra thành công hơn nhiều Yak-38 của Liên Xô trước hết nhờ động cơ duy nhất mạnh mẽ. Nhưng Liên Xô cũng từng tiến gần đến việc có được không chỉ những máy bay loại này tốt nhất, mà còn là máy bay siêu âm có triển vọng to lớn.

Tính không nhất quán đáng sợ trong xây dựng hạm đội Nga xuất phát từ một cơ cấu sai lệch cuối cùng đã không cho phép Hải quân Nga có được lực lượng không quân trên hạm như một binh chủng thường trực và cuối cùng là đạt được sự cân đối hằng mong muốn. Cuộc sống cho thấy, thế giới đang trở lại với ý tưởng này.

Hạm đội Hoàng gia Anh sẽ cực kỳ hùng mạnh với việc đưa vào biên chế tàu sân bay mới Queen Elizabeth, các khu trục hạm Type 45 (Daring) và các tàu ngầm nguyên tử đa năng mới với trang bị vũ khí mới. Bởi lẽ, Hải quân Anh vẫn được trang bị một tư duy hải quân tiên tiến nhất, điều được khẳng định một cách thuyết phục bởi kết quả của cuộc xung đột Falklands.

Thứ Bảy, 5 tháng 5, 2012

>> Bài học từ cuộc chiến Trung Quốc - Hà Lan

Tháng 2/2012 đánh dấu 350 năm kể từ khi cuộc chiến đầu tiên và cũng là thắng lợi của Trung Quốc với một nước phương Tây. Cả 2 bên đã học được gì?

>> Bài học từ cuộc chiến Falklands



http://nghiadx.blogspot.com
Giáo sư Tonio Andrade.

Giáo sư lịch sử Tonio Andrade, làm việc tại ĐH Emory, đang giảng dạy tại ĐH Emory, bang Georgia (Mỹ) đã viết cuốn “Thuộc địa đã mất: Câu chuyện chưa kể của chiến thắng vĩ đại của Trung Quốc trước phương Tây”.

Dưới đây là nội dung chính của tác phẩm này:

Dưới sự lãnh đạo của Tổng tư lệnh Trịnh Thành Công – người hùng giai đoạn cuối nhà Minh - đầu nhà Thanh, Quân đội Trung Quốc đã quét sạch toàn bộ Hà Lan khỏi Đài Loan vào tháng 2/1662. Đây cũng là lần đầu tiên trong lịch sử, Đài Loan đặt dưới sự cai trị của Trung Quốc.

Đây là sự kiện cực kỳ đặc biệt. Lúc đó, Hà Lan là thế lực thực dân mạnh mẽ nhất của châu Âu và Đài Loan là thuộc địa lớn nhất của nước này tại châu Á.

Cuộc chiến Hà Lan – Trung Quốc là một sự kiện hấp dẫn giới học giả về lịch sử - chính trị trên quy mô toàn cầu, đụng chạm tới cả cán cân quyền lực của thế giới cận đại. Theo các ghi chép về cuộc chiến, Hà Lan – vốn nổi tiếng khắp châu Âu về vũ khí, chiến lược, hậu cần khi đó, đã cảm thấy bị vuột mất đẳng cấp sau thất bại trước Trung Quốc.

Cuộc chiến này mang lại những bài học cho ngày hôm nay bởi lẽ, trong số các yếu tố cho phép người Trung Quốc giành chiến thắng với người phương Tây là truyền thống văn hóa, tư duy chiến lược và nghệ thuật quân sự của người Trung Hoa. Các nhà lãnh đạo quân đội Trung Quốc ngày nay vẫn thấm nhuần sâu sắc về văn hóa quân sự truyền thống và học hỏi nhiều điều từ đó.

http://nghiadx.blogspot.com
Trịnh Thành Công trở thành người hùng dân tộc với việc giành Đài Loan về cho Trung Quốc năm 1662

Bất ngờ với khả năng của người Trung Quốc

Từ trước đến nay, các nước phương Tây vẫn có xu hướng đánh giá thấp sức mạnh quân sự của Trung Quốc. Thậm chí, với nhiều chuyên gia, Trung Quốc là nước yếu, thường xuyên bị các nước láng giềng như Hung Nô, Mông Cổ, Mãn Châu và Nhật Bản xâm lược. Trong Chiến tranh Thế giới lần 2, Mỹ và Anh thường xuyên tuyên truyền và củng cố hình ảnh này bằng cách mô tả Trung Quốc như là một nạn nhân không may mắn của một Nhật Bản hiện đại, quyết đoán và chiến lược quân sự hiệu quả. Thậm chí, nhiều người phương Tây còn tin rằng, Trung Quốc phát minh ra thuốc súng nhưng chỉ sử dụng cho các màn bắn pháo hoa.

Trên thực tế, Trung Quốc là quốc gia đầu tiên phát triển những khẩu súng đầu tiên cũng như pháo, tên lửa, lựu đạn và mìn. Các kĩ sư Trung Quốc từng luôn háo hức nghiên cứu vũ khí nước ngoài, ví dụ như súng hỏa mai của Nhật Bản và đại bác của Anh.

Vì vậy, không có gì ngạc nhiên, trong cuộc chiến trên đảo Đài Loan, Hà Lan đã sững sờ trước hỏa lực của Trung Quốc. Bản thân người Hà Lan không hề lạc hậu. Đại bác và súng ngắn của Hà Lan đã nổi tiếng khắp châu Âu. Các ngành công nghiệp vũ khí của Hà Lan là một phần quan trọng của nền kinh tế đang bùng nổ đầu thời kỳ tư bản chủ nghĩa.

Tuy nhiên, Hà Lan lại lép vế trước sự hiệu quả và chính xác của những tay súng Trung Quốc nhanh nhẹn và rèn luyện tốt. Một chỉ huy người Hà Lan đã từng viết trong sự thất vọng: “Người Trung Quốc khiến những người lính của tôi cảm thấy xấu hổ”.

Trong giai đoạn thế kỷ 16-17, là Trung Quốc đã vượt lên cao so với mô hình cổ xưa. Các vị tướng lĩnh Trung Quốc đã dạy quân lính cách tránh hỏa lực, tăng cường sức chịu đựng và sức mạnh, tìm kiếm vị trí chiến đấu tốt. Trong khi những người phương Tây lại có cách đào tạo để hiên ngang trước mũi tên hòn đạn.

Quân đội Hà Lan phải đối mặt với những người lính Trung Quốc được đào tạo tốt, thế nên trên chiến trường Đài Loan đó, họ giống như lính mới chứ còn là những người nổi tiếng về quân sự khắp phương Tây.

Người Hà Lan được biết đến khắp châu Âu như là các nhà phát minh khái niệm "tập trận quân sự hiện đại" và vai trò trong đổi mới, cách mạng hóa chiến tranh.

Những người lính ngự lâm của Hà Lan được đào tạo trong các cuộc duyệt binh chuẩn mực, tiến hành các cuộc hành quân phức tạp và hoạt động như một đơn vị phối hợp và độc lập.

Cách thức này đã lan tỏa ra toàn châu Âu, tạo thành “phong cách chiến tranh châu Âu”, biến họ thành lực lượng chiến đấu hiệu quả nhất thế giới. 

Tuy nhiên, lợi thế quan trọng nhất của Trung Quốc nằm trong nền văn hóa chiến lược và chiến thuật. Qua 2.000 năm lịch sử, các chỉ huy quân sự của Trung Quốc học được cách nghĩ cẩn trọng về chiến tranh.

Hầu hết những người phương Tây đều đã biết hay đọc qua về Binh pháp Tôn tử, từ những CEO ở Đức cho đến Mỹ, nhưng họ không biết rằng, đã có bao nhiêu nhà chiến lược, chiến thuật hay chuyên gia xuất sắc đã thừa kế tinh hoa của Tôn Tử.

Trong cuộc chiến đảo Đài Loan năm 1662, tướng Trịnh Thành Công đã áp dụng mưu kế mà người phương Tây vẫn gọi là “con ngựa thành Troy”. Họ đã liên tục đánh lừa người Hà Lan, thu hút họ vào bẫy hay lợi dụng địa hình, kết hợp sức mạnh hải quân và bộ binh theo những cách bất ngờ và hiệu quả.

Sau nhiều thất bại, người Hà Lan kết luận, không còn hy vọng chiến thắng trước lực lượng tinh nhuệ của Trung Quốc. Cuối cùng, họ từ bỏ và giao lại Đài Loan cho Trung Quốc.

Hiểu nền văn hóa Trung Quốc để thắng Trung Quốc

Trong 2 thế kỷ tiếp theo, không còn một cuộc chiến nào giữa Trung Quốc và phương Tây. Giai đoạn này đánh dấu cán cân quyền lực toàn cầu đã dịch chuyển sang châu Âu với quá trình công nghiệp hóa.

Ngày nay, Trung Quốc đang hiện đại hóa một cách kinh ngạc trong tình thế siêu cường Mỹ đang bị "ốm". Cán công công nghệ có thể vẫn ủng hộ phương Tây nhưng tình hình này sẽ thay đổi nhanh chóng.

Nhận thức về hiện trạng này khiến các chuyên gia phương Tây thúc giục Washington kiềm chế Trung Quốc. Tổng thống Barack Obama cũng đang chuyển động theo hướng này.

Tuy nhiên, ít người nghĩ tới những giải pháp hiệu quả và tiết kiệm hơn, đó là tìm hiểu thêm về truyền thống, nghệ thuật chiến tranh của Trung Quốc. Không có quốc gia nào thấm nhuần sâu xa với lịch sử của mình như người Trung Quốc. Các chỉ huy quân sự Trung Quốc hiểu rõ giá trị di sản từ những tư tưởng như Tôn Tử, Gia Cát Lượng, Trịnh Thành Công…

Thế nhưng, người Trung Quốc còn trích dẫn từ những tư tưởng quân sự phương Tây như Clausewitz, Mahan hay Petraeus. Trung Quốc hiểu rõ truyền thống riêng của mình và cả truyền thống phương Tây theo lời khuyên của Tôn Tử: "Biết mình, biết ta".

Nếu phương Tây không nghiên cứu truyền thống quân sự của Trung Quốc, họ sẽ gặp phải những bất lợi đáng kể. Chiến tranh Trung Quốc - Hà Lan, chiến tranh đầu tiên của châu Âu với Trung Quốc là một bài học tuyệt vời.

Thứ Năm, 1 tháng 3, 2012

>> Bài học từ cuộc chiến Falklands


“Trung Quốc có thể dùng nhiều tên lửa hành trình, chiến thuật “tấn công bão hòa” để phá vỡ mạng lưới phòng thủ của tàu chiến Mỹ” – theo chuyên gia Mỹ.


Bởi các chuyên gia tin rằng, tâm điểm của chiến tranh thế kỷ 21 là chiến tranh mạng. Cuộc chiến ảo đã bắt đầu khai hỏa trong thế giới thực.

Ngày 21/2, trang mạng “Nhà ngoại giao” Nhật Bản đã đăng bài viết của James Holmes – phó giáo sư Học viện Chiến tranh Hải quân Mỹ cho biết, hiện nay Trung Quốc có thể rút ra bài học kinh nghiệm từ cuộc chiến tranh quần đảo Falkland (Argentina gọi là Malvinas), trong xung đột trên biển tương lai ở Thái Bình Dương, sử dụng rất nhiều tên lửa hành trình, dùng chiến thuật “tấn công bão hòa”, phá vỡ mạng lưới phòng thủ cùa tàu chiến Mỹ và có thể tiến hành đánh chặn giữa đường đối với tàu tiếp tế của quân Mỹ, ngăn chặn quân Mỹ tiếp viện cho Đài Loan hoặc khu vực bùng phát xung đột khác.

Bài viết cho rằng, trong dịp tròn 30 năm Chiến tranh quần đảo Falkland, cựu Tham mưu trưởng Lục quân Anh Michael Jachson tuyên bố, do ảnh hưởng của cắt giảm ngân sách quốc phòng, nếu Argentina tiếp tục chiếm đóng đảo Falkland, Hải quân Anh “hầu như không thể” tiếp tục đoạt lại.

http://nghiadx.blogspot.com
Tàu sân bay HMS Queen Elizabeth của Anh trong tương lai, áp dụng phương án cất cánh kiểu nhảy cầu.


Mọi người đều biết, năm 2011, tàu sân bay Ark Royal của Hải quân Anh đã về hưu, khiến cho khả năng điều động máy bay cánh cố định bị thiếu hụt, trước khi tàu sân bay HMS Queen Elizabeth đi vào hoạt động vào trước sau năm 2019, sẽ không có năng lực điều động này.

Hơn nữa, London còn bán máy bay chiến đấu cất/hạ cánh thẳng đứng Harrier cho lực lượng lính thủy đánh bộ Mỹ, khiến cho trước khi trang bị máy bay tấn công liên hợp F-35 (trước sau năm 2019), Hải quân Anh sẽ không có lực lượng trên không có thể điều động.

Bài báo cho biết, trong tình hình khả năng đoạt lại đảo Falkland của Anh giảm xuống, Argentina lại đang tăng cường đòi hỏi chủ quyền đối với quần đảo này, nó có thể không phải hoàn toàn trùng hợp.

Argentina với sự suy thoái về kinh tế, rất khát khao khai thác tài nguyên thiên nhiên ở vùng biển và đáy biển khu vực xung quanh quần đảo Falkland.

Gần đây một loạt phát hiện về dầu mỏ như mỏ dầu “Sư tử biển” cách đảo Falkland 80 km về phía bắc, ở nam Thái Bình Dương đã xảy ra một cuộc tranh luận về “cơn sốt vàng đen”.

Tổng thống Argentina Cristina lên án Anh đã làm kiệt quệ tài nguyên thiên nhiên của Argentina và tuyên bố sẽ chiếm lại Falklands.

http://nghiadx.blogspot.com
Hạm đội quân Anh trong chiến tranh quần đảo Falkland có thực lực mạnh, nhưng tiếp tế kém.


Đồng thời, sự suy yếu khả năng viễn chinh của Anh cũng làm cho số lượng các quan chức Anh có giữ thái độ lạc quan như chỉ huy quân Anh ở nam Thái Bình Dương để làm như Bill Aldridge liên tục giảm xuống.

Những quan chức này cho rằng, vấn đề Anh có thể đoạt lại Falklands hay không không phải nói đến, hơn nữa Anh cơ bản không thể mất được Falklands.

Aldridge từng nói: “Tôi cho rằng, Anh sẽ không để Falklands cho người khác, và do đó đặt chúng ta vào tình huống buộc phải chiếm lại nó”.

Bài viết cho rằng, tranh chấp quần đảo Falkland giữa Anh và Argentina gần đây đã gây sự chú ý của các nước khác. Chắc chắn rằng, các nhà chiến lược Trung Quốc đang quan tâm chặt chẽ tới tình hình xảy ra ở nam Thái Bình Dương.

Trung Quốc từng nghiên cứu kỹ lưỡng cuộc chiến tranh quần đảo Falkland năm 1982, phát hiện cả Anh và Argentina đều có rất nhiều chỗ để khen và chê, đồng thời từ đó rút ra được rất nhiều bài học kinh nghiệm. Điều này cho thấy, Bắc Kinh cho rằng, chiến tranh quần đảo Falkland có ý nghĩa định hướng cho chiến lược hiện đại của Trung Quốc.

http://nghiadx.blogspot.com
Tàu khu trục Sheffield của Anh bị tên lửa Exocet của Argentina bắn chìm trong chiến tranh quần đảo Falkland năm 1982.


Nhìn vào bản đồ có thể phát hiện: một cường quốc biển phương Tây đã phát động một cuộc chiến tranh trong thời gian ngắn, đã chiếm được hòn đảo từ một nước tương đối yếu trong khu vực. Do bị ảnh hưởng bởi yếu tố địa lý, cường quốc ngoài khu vực này phải đi qua đại dương hàng nghìn dặm Anh, phát động các chiến dịch quân sự nhằm vào mục tiêu của họ, trong khi đối phương có các ưu thế về chiến trường, nhân lực vật lực đầy đủ và hiểu rõ môi trường xung quanh.

Từ trong hoàn cảnh lúc đó và hiện nay của Anh, Trung Quốc rút ra được kinh nghiệm như thế nào về các phương diện chiến lược, chiến thuật và cơ cấu lực lượng?

Đáp án này là: nếu các nước trong khu vực sẵn sàng hơn trả giá cho rủi ro chiến tranh, sử dụng đầy đủ ưu thế “sân nhà”, đồng thời có đầy đủ vũ khí chuyên dụng, thì các nước trong khu vực có thể chiến thắng cường quốc đến từ bên ngoài.

Chẳng hạn, nhà bình luận Trung Quốc đã nhấn mạnh đến những biểu hiện của tên lửa hành trình chống hạm Exocet trong chiến tranh, được phóng từ máy bay chiến đấu phản lực Super Etendard của Argentina.

http://nghiadx.blogspot.com
Ý tưởng của dân mạng về tên lửa hành trình của Trung Quốc trong tương lai.


Trong chiến tranh quần đảo Falkland, tên lửa hành trình chống hạm Exocet đã đánh chìm thành công tàu khu trục Sheffield của Anh, cho thấy các tên lửa lướt biển có thể tránh được hệ thống phòng không của tàu chiến hiện đại, gây ra tổn thất chí tử cho tàu nổi.

Chiến tranh quần đảo Falkland phải chăng là nguồn cảm hứng cho Hải quân Trung Quốc đưa ra chiến thuật “tấn công bão hòa” có thể công phá mạng lưới phòng thủ của tàu chiến đối phương? Vấn đề này vẫn chưa biết được.

Điều có khả năng hơn là, kết quả chiến đấu của tên lửa Exocet đã tiếp tục khẳng định quan điểm của các nhà chiến thuật Trung Quốc về sử dụng tên lửa hành trình trong các cuộc xung đột trên biển.

Các nhà quan sát Trung Quốc cho rằng, nếu trước đây phi công Argentina có khả năng điều động nhiều hơn tên lửa Exocet, thì kết cục của chiến trường có thể sẽ khác rất nhiều.

http://nghiadx.blogspot.com
Tên lửa thế hệ mới hiện nay của Trung Quốc có tầm phóng xa.


Bài báo viết, ngoài ra, cuộc chiến dưới nước trong chiến tranh quần đảo Falkland cũng không thể xem thường. Hai bên Anh và Argentina coi tàu ngầm là vũ khí tấn công hiệu quả, đưa vào chiến trường, nhưng đều có hiệu quả rất kém trong việc tìm kiếm và bắn chìm tàu chiến đối phương.

Tuy nhiên, sau khi một chiếc tàu ngầm của Hải quân Anh nhanh chóng bắn chìm được tàu tuần dương ARA General Belgrano của Argentina, hạm đội tàu nổi của Argentina sau đó đã cố thủ ở khu vực an toàn.

Do không thể phân biệt rõ tín hiệu giữa sona (máy định vị bằng sóng âm thanh) và địa từ, cho nên binh sĩ Anh đã phóng đạn chống tàu ngầm đối với tất cả các mục tiêu có tín hiệu hơi giống với tàu chiến của Argentina.

Cách làm sai lầm này đã làm nảy sinh hiệu quả chiến lược tiêu cực: Khi đó đúng vào giai đoạn giữa của cuộc Chiến tranh Lạnh, Hải quân Anh gần như tiêu hao hết dự trữ vũ khí trang bị cho cuộc chiến tranh quần đảo Falkland.

Là một thành viên trong hạm đội của NATO, Hải quân Anh có nhiệm vụ giám sát tàu chiến của Liên Xô ở vùng biển bắc Đại Tây Dương. Một khi tiêu hao hết dự trữ đạn dược chống tàu ngầm trong chiến tranh quần đảo Falkland, thì Hải quân Anh rất khó hoàn thành được nhiệm vụ này. Do đó, cho dù là lực lượng hải quân tiên tiến nhất trên thế giới, chiến tranh chống tàu ngầm cũng là một vấn đề nan giải.

http://nghiadx.blogspot.com
Tàu sân bay Mỹ nhận tiếp tế trên biển Đông.


Bài viết cho rằng, trong các cuộc xung đột tương lai, lực lượng trên biển của Trung Quốc làm thế nào áp dụng bài học kinh nghiệm này?

Các sĩ quan chỉ huy giỏi có thể lựa chọn vùng biển cách xa duyên hải châu Á để giao chiến, nửa đường đánh tan lực lượng tiếp viện của Hải quân Mỹ trên Thái Bình Dương.

Argentina đã bỏ lỡ cơ hội, không nắm được tình hình chiến tranh trước khi lực lượng đặc nhiệm Anh đến khu vực giao chiến. Trung Quốc phải chăng giẫm lên vết xe đổ này là điều đáng nghi ngờ.

Chẳng hạn, tấn công tàu tiếp tế hỗ trợ cho tàu sân bay và lực lượng đổ bộ Mỹ sẽ có thể dễ dàng ngăn chặn quân Mỹ tiếp viện cho Đài Loan hoặc khu vực xảy ra xung đột khác.

Số lượng tàu tiếp tế ít đi, bố trí trang bị phòng thủ không nhiều, và thông thường cũng không có tàu hộ tống. Vì vậy, những tàu chiến này rất dễ trở thành mục tiêu tấn công của Trung Quốc.

Sau khi loại bỏ được tàu chở dầu, tàu đông lạnh và tàu đạn dược, thực lực của hạm đội Mỹ sẽ dần dần bị thu nhỏ lại.

Vì vậy, các nhà chiến lược Mỹ đang xem xét làm thế nào để vượt qua được phòng thủ “chống can dự” của Trung Quốc, đồng thời triển khai nghiên cứu những nhận xét của Trung Quốc về cuộc chiến tranh Falklands.

http://nghiadx.blogspot.com

Thứ Sáu, 4 tháng 3, 2011

>> Tên lửa Exocet


Trong các cuộc xung đột quân sự trên thế giới trong những năm 1980, một trong những loại vũ khí được nhắc đến nhiều nhất là tên lửa đối hạm Exocet. Loại tên lửa đã lập nhiều công trạng trong cuộc chiến ở quần đảo Falklands giữa Anh và Argentina.

Exocet là tên lửa hành trình đối hạm do Pháp phát triển, loại tên lửa này được thiết kế để tấn công các loại tàu chiến cỡ nhỏ, cỡ trung nhưng khi cần thiết hoàn toàn có thể sử dụng để oanh kích những chiến hạm lớn kể cả tàu sân bay. Tên lửa Exocet phát triển thành nhiều biến thể phóng từ tàu chiến (MM - 38, MM - 40), phóng từ tàu ngầm (SM - 39) và phóng từ trên không (AM - 39). Hầu hết, các biến thể đều giống nhau trong phương thức dẫn đường (quán tính và radar chủ động), hình dáng tương tự nhau với bốn cánh ở giữa thân và bốn cánh định hướng ở đuôi, mang đầu đạn thuốc nổ phá mảnh nặng 165 kg. Tầm bắn các biến thể khác nhau.



Tên lửa hành trình đối hạm phóng từ trên không AM - 39 Exocet.

Ra đời từ những năm 1970, nhưng phải đến năm 1982 tên lửa Exocet mới được biết đến nhiều hơn trên thế giới khi đánh hư hỏng nhiều khu trục hạm hạng nặng của hải quân Anh trong cuộc chiến Falklands. Sau đây là chùm ảnh những chiến hạm xấu số của hải quân Anh trong cuộc chiến Falklands:

Ngày 4/5/1982, máy bay chiến đấu của không quân Argentina Super Etendard bắn một quả tên lửa Exocet AM - 39 đánh trúng khu trục hạm hạng nặng HMS Sheffield (Hải quân Anh).


Tên lửa Exocet đánh trúng tàu nhưng đầu đạn không phát nổ. Tuy nhiên, lượng nhiên liệu động cơ tên lửa đã gây ra một số vụ cháy không thể kiểm soát được trên HMS Sheffied, thủy thủ đoàn buộc rời bỏ tàu. Sáu ngày sau vụ tấn công, con tàu mới chìm hẳn.


Ngày 12/6/1982, tên lửa đối hạm MM - 38 Exocet của quân đội Argentina được phóng đi từ đất liền đánh trúng khu trục hạm HMS Glamorgan (hải quân Anh) gây thiệt hại nặng nề cho con tàu, 13 thủy thủ thiệt mạng. HMS Glamorgan mất gần một năm sửa chữa những hư hỏng do đầu đạn 165 kg gây ra.


Ngày 25/5/1982, không quân Argentina bắn hai quả tên lửa AM - 39 Exocet vào tàu thương mại Atlantic Conveyor của Anh làm thiệt mạng 12 thủy thủ và gây hư hỏng nặng cho con tàu. Năm ngày sau vụ không kích, tàu Atlantic Conveyor chìm hẳn.


"Nỗi khiếp sợ" của chiến hạm Anh, máy bay tấn công Super Etendard do Pháp thiết kế và sản xuất chuyên thực hiện các nhiệm vụ chống hạm.


Sau cuộc chiến Falklands 1982, tên lửa Exocet tái xuất lần nữa và "nạn nhân" lần này là khu trục hạm Mỹ. Ngày 17/5/1987, cường kích cơ Mirage F1 của không quân Iraq bắn hai tên lửa AM - 39 trúng khu trục hạm USS Stark của hải quân Mỹ.


Thực tế, lúc đó tất cả hệ thống phòng không của USS Stark đang trong trạng thái "nghỉ ngơi" nên không phản ứng kịp và hậu quả là một phần thân tàu bị biến dạng, 37 thủy thủ thiệt mạng, 21 người khác bị thương


(bdv)

Copyright 2012 Tin Tức Quân Sự - Blog tin tức Quân Sự Việt Nam
 
Lên đầu trang
Xuống cuối trang