Có nền kinh tế phát triển cùng với nền tảng quốc phòng vững chắc, các quốc gia Đông Bắc Á đã tự giải quyết “bài toán” tàu ngầm của mình.
Tàu ngầm lớp Soryu của Nhật Bản. Tinh thần độc lập - tự cường mạnh mẽ Dù xuất phát điểm của mỗi quốc gia có những điểm khác biệt nhưng cả 3 nước Nhật Bản, Hàn Quốc và CHDCND Triều Tiên đều rất chú trọng việc phát huy nội lực để nâng cao tiềm lực quốc phòng. Trong đó, Nhật Bản không muốn làm “nước lớn què quặt” nên chủ trương duy trì phát triển lực lượng quân sự tương xứng với địa vị nền kinh tế, có thể có sức ảnh hưởng tới an ninh thế giới. Hàn Quốc cũng không chịu kém cạnh, quyết tâm xây dựng và phát triển công nghiệp quốc phòng mạnh. Xét về khối lượng và trình độ công nghệ, công nghiệp quốc phòng của Hàn Quốc đang ở vị trí số 1 trong khu vực. Còn Triều Tiên, với chính sách độc lập tự chủ, ưu tiên hàng đầu cho quân sự (military first) cũng đã áp dụng mô hình Liên Xô để xây dựng tổ hợp công nghiệp quốc phòng nhằm chế tạo tất cả vũ khí trang bị cho quân đội. Cùng với đó, Nhật Bản, Hàn Quốc và Triều Tiên đều là quốc đảo hoặc bán đảo nên hải quân, trong đó có lực lượng tàu ngầm được đặc biệt chú trọng phát triển. Đến nay, bằng nhiều con đường, các nước này đều đã làm chủ công nghệ chế tạo tàu ngầm. Khả năng này lại cộng với diễn biến an ninh phức tạp khiến Đông Bắc Á trở thành khu vực có mật độ tàu ngầm hoạt động lớn nhất thế giới. Từ hoàn cảnh và kinh nghiệm của Nhật Bản, Hàn Quốc và Triều Tiên, các quốc gia đang phát triển có thể rút ra bài học trong việc xây dựng, phát triển lực lượng tàu ngầm của riêng mình. Tàu ngầm “tiêu chuẩn Mỹ” Kể từ sau chiến tranh thế giới thứ 2, Nhật Bản trở thành đồng minh chiến lược của Mỹ trong khu vực. Nhờ mối quan hệ này, Nhật Bản đã sớm có được giấy phép và tài liệu kỹ thuật của nước ngoài (chủ yếu là Mỹ) để phát triển công nghệ trong nước, trong đó có công nghệ quân sự. Vậy nên, khi sự kiềm tỏa của Mỹ lên hoạt động công nghiệp quốc phòng được nới lỏng, các nhà cung cấp nội địa Nhật Bản nhanh chóng phát triển và sản xuất được hầu như tất cả trang thiết bị hiện đại cho lực lượng phòng vệ với tiêu chuẩn rất cao. Trong đó, các tàu ngầm Nhật Bản được thiết kế với lớp vỏ chắc chắn, được làm từ thép có độ bền cao, cho phép tàu lặn xuống độ sâu 500m. Cùng với đó, các tàu này được trang bị hệ thống đẩy khí độc lập (AIP) rất hiện đại của hãng Kockums (Thụy Điển) giúp tàu ngầm Nhật hoạt động lâu hơn dưới mặt biển với chu kỳ nổi lên để thay khí tính bằng tuần. Một số tàu ngầm Nhật Bản có thiết kế vỏ kép để tăng tính an toàn trong khi nhiều tàu ngầm Mỹ chậm áp dụng công nghệ này. Tàu ngầm Nhật còn được tự động hóa cao, giúp giảm số thủy thủ đoàn so với các loại cùng kích cỡ do nước khác thiết kế, qua đó kéo dài thời gian hoạt động trên biển. Điển hình là tàu lớp Oyashio, “xương sống” của lực lượng tàu ngầm Nhật Bản (với số lượng khoảng 11 chiếc), có thủy thủ đoàn là 69 người nhưng có thể làm việc dưới biển tới 90 ngày. Trong khi đó, tàu ngầm lớp Kilo của Nga có thủy thủ đoàn ít hơn (52 người) nhưng số ngày hoạt động chỉ bằng một nửa. Cùng với việc nâng cấp các tàu lớp Oyashio, Nhật Bản cũng đang đóng và bước đầu vận hành tàu ngầm lớp Soryo, tàu ngầm lớn nhất từ sau chiến tranh thế giới thứ 2 trong biên chế Hải quân Nhật Bản với lượng giãn nước lên tới 2.900 tấn. Điểm nâng cao của tàu lớp Soryo so với Oyashio ở tính tự động hóa hệ thống chiến đấu. Trong khí đó, 2 lớp tàu này có trang bị về vũ khí như nhau, gồm 6 ống phóng ngư lôi cỡ 533mm, loại Type-89 và tên lửa chống hạm UGM-84 Harpoon. Nhằm đối phó với các thách thức an ninh hàng hải, Nhật Bản vừa quyết định nâng số tàu ngầm từ 16 lên 22 chiếc. Hướng tới xuất khẩu tàu ngầm Hàn Quốc đã có chiến lược đầu tư vào ngành đóng tàu để trở thành cường quốc hải quân. Từ năm 2001, mỗi năm Chính phủ Hàn Quốc đầu tư 7,13 triệu USD cho nghiên cứu và phát triển công nghệ đóng tàu. Giống Nhật Bản, công nghiệp quốc phòng Hàn Quốc nhận được nhiều sự hỗ trợ từ Mỹ qua việc chuyển giao các gói dữ liệu kỹ thuật. Tuy nhiên, để chế tạo tàu ngầm, Hàn Quốc lại “chơi thân” với Đức, một quốc gia có truyền thống mạnh trong lĩnh vực đóng tàu ngầm. Biểu hiện rõ nét là sự có mặt của các tàu ngầm lớp Type-209/1200 với tên Hàn Quốc là Changbogo, theo tên một đô đốc hải quân vương triều Koryo tồn tại cách đây 1.000 năm. Tàu lớp Chang Bogo, được thiết kế để bảo vệ các căn cứ hải quân và tiêu diệt các tàu ngầm và tàu mặt nước của đối phương. Tàu có lượng giãn nước 1.200 tấn, có thể lặn sâu 250m, tốc độ 11-21 hải lý/giờ và được trang bị 14 ngư lôi cỡ 533mm cùng với 28 thủy lôi. Ba chiếc đóng sau cùng thuộc lớp này còn được trang bị tên lửa chống hạm Harpoon. Thiết kế tàu ngầm Type-214 của hãng HDW mà Hàn Quốc dựa vào chế tạo tàu ngầm lớp Chang Bogo II. Tàu có thủy thủ đoàn lên tới 40 người, có thể thực hiện các nhiệm vụ độc lập trong thời gian 2 tháng. Dựa trên mẫu thiết kế của Changbogo và sự giúp đỡ kỹ thuật của hãng HDW, hãng Huyndai bắt tay chế tạo tàu ngầm Type-214 (Chang Bogo II), lượng giãn nước 1.700 tấn, tích hợp nhiều cảm biến và hệ thống điều khiển vũ khí tối tân. Trong “gia đình” tàu ngầm Hàn Quốc, thành viên đang nhận được nhiều sự chú ý hiện nay là tàu lớp Chang Bogo III, có lượng giãn nước lên tới 3.500 tấn. Dự kiến, tàu chiến này sẽ được trang bị các ống phóng thẳng đứng, dành cho tên lửa hành trình hạng nặng nội địa Cheonryon, có tầm bắn 500km. Không bị cấm xuất khẩu vũ khí như Nhật Bản, Hàn Quốc đang xúc tiến xuất khẩu tàu ngầm ra thị trường thế giới với các đối tác tiềm năng là các khách hàng trong khu vực Đông Nam Á như Indonesia, Thái Lan, Malaysia… Vũ khí là con người Trong điều kiện chật vật hơn so với Nhật Bản và Hàn Quốc, Triều Tiên không có được các tàu ngầm hiện đại. Nhưng bù lại, nước này có số lượng tàu ngầm thuộc vào hàng “khủng”, với khoảng 88 chiếc. Từ sự giúp đỡ của các nước trong khối XHCN trước đây, trong hoàn cảnh eo hẹp của mình, Triều Tiên đã xây dựng lực lượng tàu ngầm đông đảo, tuy không hiện đại nhưng đảm đương được các nhiệm vụ chiến đấu. Trong lực lượng tàu ngầm Triều Tiên, đông nhất là tàu ngầm Yugo (khoảng 40-45 chiếc, chế tạo dựa trên mẫu tàu ngầm lớp Una của Nam Tư). Đây là tàu ngầm chỉ lượng giãn nước khoảng 110 tấn với thủy thủ đoàn chỉ cần tới… 2 người. Điều khác biệt này là do quan điểm tác chiến của Triều Tiên luôn đánh giá cao yếu tố con người. Không rõ tàu Yugo có trang bị mìn hay ngư lôi hay không, nhưng điều đó không quan trọng bởi vũ khí của tàu là… bộ đội đặc công. Yugo được thiết kế để có thể chở 6-7 binh sĩ. Sau khi tới bờ biển đối phương, lực lượng này sẽ bơi hoặc lặn để thâm nhập sâu vào lãnh thổ đối phương, sau đó thực hiện các nhiệm vụ được giao. Sau tàu lớp Yugo về số lượng là tàu lớp Sang O (khoảng 20-25 chiếc). Loại tàu này có lượng giãn nước gần 400 tấn, được thiết kế thành 2 loại với 2 nhiệm vụ, chở đặc công (giống tàu lớp Yugo) và rải mìn. Do đó, vũ khí trang bị cho tàu cũng rất khiêm tốn chỉ từ 2-4 ống phóng ngư lôi cỡ 533mm và khoảng 16 quả mìn. Nói vậy, không phải Triều Tiên không có những tàu ngầm tiến công, đó là những chiếc thuộc lớp Romeo và Wishkey. Tuy nhiên, lực lượng này khá khiêm tốn về cả số lượng và sức mạnh trên biển. |
Hiển thị các bài đăng có nhãn Thi trường tàu ngầm. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Thi trường tàu ngầm. Hiển thị tất cả bài đăng
Thứ Năm, 11 tháng 8, 2011
>> Hồ sơ tàu ngầm Đông Bắc Á (kỳ 1)
Thứ Tư, 10 tháng 8, 2011
>> Nhộn nhịp thị trường tàu ngầm Đông Nam Á
Có nhu cầu sở hữu tàu ngầm rất lớn nhưng chưa hội đủ điều kiện tự chế tạo, nên hoạt động mua sắm tàu ngầm ở Đông Nam Á diễn ra hết sức sôi động.
Thái Lan quyết định mua 2 tàu ngầm tấn công Type 206A của Đức. Sôi động nhất thế giới Các chuyên gia quân sự đánh giá, trong các cuộc đối đầu trên biển, ưu thế tác chiến và khả năng dành quyền kiểm soát chiến trường thuộc về nước sở hữu vũ khí lặn được dưới nước. Vì vậy, từ sau 2 cuộc đại chiến thế giới, vai trò tàu ngầm trong hải quân được nâng từ “vũ khí của kẻ yếu” trở thành phương tiện không thể thiếu của các quốc gia muốn vươn lên từ biển. Vị thế của lực lượng này càng trở nên nổi bật ở châu Á – Thái Bình Dương, đặc biệt ở Đông Á, nơi gần đây xuất hiện nhiều thách thức an ninh hàng hải mới. Nghiên cứu mới đây của Viện nghiên cứu hòa bình và xung đột Ấn Độ (Institute of Peace and Conflict Studies) chỉ ra: “Các quốc gia ở khu vực này có khao khát giống nhau là có thể sở hữu những chiếc tàu ngầm có khả năng chiến đấu cao”. Bên cạnh sự thúc đẩy từ nhu cầu quốc phòng, tích lũy tài chính thời gian qua cho phép các nước này mạnh dạn chi trả cho việc mua sắm tàu ngầm. Điều này khiến khu vực trở thành một trong những thị trường tàu ngầm sôi động nhất thế giới. “Chập chững” phát triển lực lượng tàu ngầm Ở Đông Á, trong khi các quốc gia Đông Bắc Á có nền tảng công nghiệp quốc phòng khá vững chắc, đã xây dựng và phát triển lực lượng tàu ngầm của riêng mình từ khá lâu thì thời gian gần đây, các quốc gia ở Đông Nam Á mới đầu tư mạnh cho lực lượng này. Có nhu cầu sở hữu tàu ngầm rất lớn nhưng chưa hội đủ điều kiện tự chế tạo nên các nước Đông Nam Á phải nhập khẩu tàu ngầm từ nước ngoài. Trong đó, bên cạnh một số nước như Singapore, Indonesia, Malaysia đã biên chế một số tàu ngầm cho hải quân, thì các nước khác như Việt Nam, Thái Lan, Philippines mới đang “chập chững” xây dựng lực lượng, thậm chí có nước mới chỉ vạch ra kế hoạch mua tàu ngầm. Điển hình nhất là Philippines. Đang phải chịu áp lực lớn từ tranh chấp chủ quyền biển đảo, quốc đảo này quyết định phải có ít nhất 1 tàu ngầm cho hải quân. Tiết lộ với Tạp chí Jane's Navy International, đại diện Hải quân Philippines cho biết nước này đang tiến hành các nghiên cứu nhằm xác định các yêu cầu đối với tàu ngầm, trên cơ sở đó, sẽ đề xuất với Bộ Quốc phòng về việc mua sắm tàu ngầm trong năm tới. Đại diện Hải quân Phillipines cho biết, hiện còn quá sớm để nói đó sẽ là một tàu ngầm mới hay cũ. Những khó khăn kinh tế của Philippines thường thúc đẩy nước này mua các loại vũ khí trang bị đã qua sử dụng. Là quốc gia đầu tiên và duy nhất sở hữu tàu sân bay ở Đông Nam Á nhưng Hải quân Thái Lan tự coi là “lạc hậu với tàu ngầm”. Hiện nay, nhu cầu sở hữu tàu ngầm của Thái Lan được nhấn mạnh bởi họ có rất ít kiến thức về nó, trong khi công nghệ được nâng cấp liên tục. Tờ Bangkok Post dẫn lời một quan chức Hải quân Thái Lan cho biết: “Một số nước láng giềng còn thanh lý cả tàu ngầm vậy mà lính hải quân Thái Lan chưa khi nào được tiếp xúc với tàu ngầm. Chúng tôi vẫn lạc hậu về công nghệ tàu ngầm”. Đến nay, Chính phủ Thái Lan đã đồng ý mua 2 tàu ngầm tấn công loại Type-206A đã qua sử dụng của Đức. Chi phí cho 2 tàu ngầm này khoảng 220 triệu USD và được thanh toán vào tài khóa 2012. Trước đó, một báo cáo đánh giá thực lực tàu ngầm các nước châu Á – Thái Bình Dương từ phía Trung Quốc cho biết, Thái Lan từng có dự định mua tàu ngầm lớp Amur của Nga hoặc lớp Tống (Song) của Trung Quốc. Hải quân Thái Lan tuyên bố, hầu hết ngân sách quốc gia cần chi cho lĩnh vực kinh tế, vì thế lực lượng này sẽ đề xuất mua tàu ngầm đã qua sử dụng. Tuy nhiên, SAMTO (Trung tâm phân tích buôn bán vũ khí quốc tế của Nga) cho biết, Thái Lan đặt hàng của Đức 6 chiếc trong giai đoạn 2013-2014. Điều này cho thấy, Thái Lan dù mới bắt tay xây dựng nhưng đang có những kế hoạch để tiến nhanh tới việc hoàn thiện lực lượng tàu ngầm. Về phía Việt Nam, trong cuộc trả lời phỏng vấn báo chí, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Đại tướng Phùng Quang Thanh, cho biết, “5-6 năm tới ta sẽ có một lữ đoàn tàu ngầm với 6 tàu hiện đại”. Đại tướng khẳng định, Việt Nam mua tàu ngầm là để tự vệ, bảo vệ hòa bình chủ quyền của đất nước. Việc mua sắm tàu ngầm của Việt Nam là để hiện thực hóa chủ trương đưa hải quân tiến thẳng lên hiện đại. Tuy nhiên, mức độ đầu tư phải căn cứ vào khả năng tài chính của đất nước. “Ta quá chú tâm trang bị mua sắm mà đời sống nhân dân khó khăn thì không thể, Đảng nhà nước hết sức thận trọng vấn đề này”, đại tướng Phùng Quang Thanh cho biết. Cái giá không hề rẻ Quả thực, việc sở hữu tàu ngầm không hề rẻ, vì ngoài khoản tiền mua tàu ngầm, chi phí xây dựng và duy trì các hạm đội cũng khá lớn. Đơn cử, Hải quân Malaysia đang biên chế 2 tàu ngầm Scorpene và chi phí để bảo trì cho các tàu ngầm này là 16,5 triệu USD/năm. Theo Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Malaysia, Abdul Latiff Ahmad chi phí trên chưa gồm tiền chi cho phụ tùng thay thế. Đó cũng chưa kể tới các chi phí sửa chữa những lỗi phát sinh trong quá trình sử dụng như trường hợp Tanka Abdul Rahman, chiếc tàu ngầm lớp Scorpene đầu tiên của Hải quân Malaysia đã không thể nổi lên sau khi lặn xuống, hay việc Singapore cải tiến các tàu ngầm lớp Challenger (lớp Sjoormen trong biên chế Hải quân Thụy Điển) nhằm thích ứng với điều kiện khí hậu sở tại. Dù vậy, các quốc gia trong khu vực chưa hề có ý định ngưng đầu tư cho lực lượng này. Một loạt các kế hoạch mua sắm lớn được vạch ra, ngay với cả các nước đã sở hữu tàu ngầm trong tay. Hải quân Malaysia đang có kế hoạch mua nhiều tàu ngầm loại nhỏ Andrsta cho các nhiệm vụ ven biển. Còn Singapore, nước có lực lượng hải quân hiện đại nhất khu vực, đang sở hữu 4 chiếc tàu ngầm đang dự tính mua 2 chiếc tàu ngầm lớp Vastergotland (cũng của Thụy Điển) để thay thế tàu ngầm lớp Challenger (mua từ 1995). Tàu ngầm Type-209, nguyên mẫu của tàu ngầm lớp Chakra của Đức. Cuối năm 2010, dù đang sở hữu 2 tàu ngầm lớp Chakra (Type-209/1200 của Đức) đã được nâng cấp bởi công ty Hàn Quốc DSME (Daewoo Shipbuilding And Marine Engineering) nhưng Indonesia vẫn bày tỏ mong muốn sớm có 39 tàu ngầm trong tương lai. Thông tin này được hãng tin Antara News dẫn nguồn tin từ Hải quân Indonesia. Theo đó, Phó tư lệnh Hải quân Indonesia, Phó đô đốc Marset cho biết, số tàu ngầm kể trên sẽ được triển khai để đảm bảo việc tuần tra lãnh hải và bảo vệ chủ quyền. Ngoài ra, Indonesia đang có kế hoạch mua bổ sung thêm 2 tàu ngầm nữa trong giai đoạn 2011-2012 bất chấp các khó khăn về kinh tế thời gian qua (kế hoạch này từng bị ngừng do thiếu tiền đầu tư). Các ứng viên cho kế hoạch này của Indonesia là tàu ngầm của Nga, Đức, Pháp, Hàn Quốc và Thổ Nhĩ Kỳ. Trong đó, 2 nhà cung cấp sau cùng có nhiều khả năng sẽ đồng ý bán tàu ngầm cho Indonesia. Theo nguồn tin quân sự Nga, một quan chức dấu tên trong chính phủ Seoul hy vọng hợp đồng với Indonesia sẽ mở đường cho tàu ngầm Hàn Quốc tiến vào khu vực Đông Nam Á bởi các quốc gia khác như Malaysia, Thái Lan cũng có kế hoạch mua tàu ngầm trang bị cho quân đội. Tốn kém nhưng dẫu sao, còn hơn có tiền mà không mua được như trường hợp Đài Loan. Mắc vào quan hệ địa chính trị phức tạp giữa Trung Quốc và Mỹ, lực lượng tàu ngầm cũ kỹ 4 chiếc của Đài Bắc đang “nằm dài” chờ ngày “hồi sinh”. Trong đó, 2 chiếc có thời gian phục vụ hơn 60 năm chỉ để huấn luyện, 2 chiếc còn lại dù không thể đảm bảo được khả năng bảo vệ lãnh hải hiệu quả nhưng vẫn phải ra khơi. Mỗi lần như vậy, Tư lệnh Hải quân và Tư lệnh hạm lại hết sức lo lắng cho số phận của thủy thủ đoàn. Tháng 10/2010, một đoàn đại biểu quân sự Đài Loan đã đến Moscow để đàm phán các vấn đề mua bán vũ khí trong đó có cả tàu ngầm điện- diesel nhưng xem chừng đây là nhiệm vụ bất khả thi. Theo phân tích thị trường tàu ngầm của nhóm dự báo Forecast International (Mỹ), đến năm 2020, đội tàu ngầm điện-diesel (SSK) thế giới sẽ được bổ sung 71 chiếc, chiếm 64% tổng số tàu ngầm được đóng trong giai đoạn 2011-2020). Chi phí đóng số tàu này ước 30,36% khối lượng thị trường. Theo báo cáo của Nga, giữ vị trí đầu tiên trong danh sách nhà cung cấp tàu ngầm mới lớn nhất thế giới là Đức (17 chiếc với tổng giá trị 6,2 tỷ USD). Trong đó, giai đoạn 2007-2010, Đức đã xuất khẩu 9 chiếc NAPL với tổng giá trị lên tới hơn 3 tỷ USD). Vị trí thứ 2 thuộc về Nga và Pháp. |
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)
Chuyên mục Quân Sự
Hải quân Trung Quốc
(263)
Hải quân Mỹ
(174)
Hải quân Việt Nam
(171)
Hải quân Nga
(113)
Không quân Mỹ
(94)
Phân tích quân sự
(91)
Không quân Nga
(83)
Hải quân Ấn Độ
(54)
Không quân Trung Quốc
(53)
Xung đột biển Đông
(50)
Không quân Việt Nam
(44)
tàu ngầm
(42)
Hải quân Nhật
(33)
Không quân Ấn Độ
(16)
Tàu ngầm hạt nhân
(15)
Hải quân Singapore
(12)
Xung đột Iran - Israel
(12)
Không quân Đài Loan
(9)
Siêu tên lửa
(8)
Quy tắc ứng xử ở Biển Đông
(7)
Tranh chấp biển Đông
(7)
Xung đột Trung - Mỹ
(4)
Xung đột Việt-Trung
(2)