Theo thông tin được đăng tải trên tuần báo quân sự Jane's Defence, Chính phủ Myanmar đã quyết định trích 20,8% ngân sách quốc gia năm tài khóa 2013-2014 cho chi tiêu quốc phòng, tương đương khoảng 2 tỷ USD. >> Singapore: Đại gia vũ khí Đông Nam Á Quân đội Myanmar. Ảnh minh họa Quân đội Philippines. Ảnh Internet Tàu sân bay Chakri Naruebet của hải quân Thái Lan Chiến hạm lớp Sigma Frigate loại nhẹ (kiểu 9113) của Indonesia Tàu tuần tra lớp Kedah của Malaysia Khinh hạm tàng hình lớp La Fayette của Singapore do Pháp chế tạo Khoản ngân sách quốc trên đã được Quốc hội Myanmar hôm 19/2 thông qua và bắt đầu có hiệu lực từ ngày 1/4. Theo đánh giá của các chuyên gia, tỷ lệ cân đối giữa chi tiêu quốc phòng trên GDP của Myanmar năm 2013-2014 đã giảm so với cùng kỳ năm 2011-2012. Tuy nhiên, ngân sách quốc phòng của Myanmar sẽ được bổ sung thông qua nguồn tài chính từ các doanh nghiệp quân đội làm kinh tế nhờ quy chế về Quỹ quốc phòng đặc biệt. Tháng 3/2011, Quốc hội Myanmar đã thông qua đạo luật về Quỹ quốc phòng đặc biệt. Theo đó, quân đội có thể sử dụng trực tiếp nguồn tài chính từ quỹ này mà không chịu sự giám sát của Quốc hội. Nguồn thu của Quỹ Quốc phòng đặc biệt có được chủ yếu từ việc khai thác khoáng sản, nhất là các mỏ khí đốt tự nhiên. Dự kiến, tăng trưởng GDP của Myanmar từ 59 tỷ USD năm 2013 sẽ tăng lên tới 77 tỷ USD vào năm 2017, với tỷ lệ tăng trưởng hằng năm đạt khoảng 7%. Điều này có được là nhờ Myanmar tập trung phát triển khai thác các mỏ khí tự nhiên lớn của nước này. Hiện, Phương Tây vẫn đang duy trì lệnh cấm vận vũ khí với Myanmar, vì vậy quốc gia Đông Nam Á này trong vài năm qua nhập khẩu vũ khí chủ yếu từ Nga và Trung Quốc. Đáng chú ý là các hợp đồng mua 20 chiến đấu cơ Mig-29 năm 2009 với Nga và 60 máy bay huấn luyện K-8 Karakorum với Trung Quốc. Không chỉ riêng Myanmar quyết định tăng ngân sách quốc phòng trong năm tài khóa 2013–2014, mới đây Viện nghiên cứu chiến lược quốc tế tại Luân Đôn (IISS) đã công bố bảng thống kê thường niên về chi phí quốc phòng của các nước trong khu vực Đông Nam Á. Theo đó, Singapore, Thái Lan và Indonesia nằm trong số 10 nước châu Á chi cho quốc phòng nhiều nhất. Trong giai đoạn 2010-2011, ngân sách quốc phòng của Thái Lan và Indonesia tăng trên dưới 5%. Con số này tại Trung Quốc là 6,8%. Dự phòng cho năm 2013, ngân sách quốc phòng của Indonesia có thể tăng đến 18%, đạt mức 8,1 tỷ USD. Philippines cũng tăng tốc: năm 2013, ngân sách quốc phòng nước này có thể lên đến 2,8 tỷ đô la, tăng 12,5% so với năm 2012. Hồi tháng 12.2012, Philippines đã thông qua một luật mới về hiện đại hóa quân đội trong 15 năm tới, trong đó ưu tiên dành cho hải quân và không quân. Theo một chuyên gia về Đông Nam Á, một trong những ngòi nổ khiến Philippines phải tăng nhanh ngân sách quốc phòng, đó chính là cuộc tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc. Chuyên gia này cho biết thêm, trong năm năm tới, Phlippines dự định tậu thêm nhiều khí tài, trong đó đáng chú ý là 12 máy bay chiến đấu, một tàu khu trục. Trong bối cảnh đó, các cường quốc bắt đầu tăng cường chính sách hướng về khu vực châu Á Thái Bình Dương. Ngoài Mỹ, Úc cũng đã khẳng định chính sách hướng đông của mình. Một quan chức lãnh đạo quân đội Úc cho biết, quân đội nước này sẽ rút khỏi Afghanistan, khu vực đảo Salomon và Đông Timor, và dự định sẽ tăng cường hợp tác với Indonesia, Việt Nam và Thái Lan. Trang phân tích địa chính trị của nhật báo Le Monde cảnh báo: Khu vực biển biển Đông là một tuyến đường huyết mạch của giao thương hàng hải thế giới, vì thế, sự có mặt ngày càng nhiều của các tàu ngầm trong khu vực này làm tăng thêm căng thẳng trong khu vực vốn đã có nhiều căng thẳng. |
Hiển thị các bài đăng có nhãn Khu vực Đông Nam Á. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Khu vực Đông Nam Á. Hiển thị tất cả bài đăng
Thứ Năm, 28 tháng 2, 2013
>> Các quốc gia Đông Nam Á gia tăng ngân sách quốc phòng
Chủ Nhật, 16 tháng 9, 2012
>> Singapore: Đại gia vũ khí Đông Nam Á
Ít ai ngờ một đảo quốc với diện tích khiêm tốn như Singapore lại đang để nhiều dấu ấn trong ngành chế tạo vũ khí thế giới. >> Quân đội Singapore: hiện đại và thách thức Từ trái qua, hàng trên: tàu đổ bộ Endurance, pháo tự hành SSPH Primus. Hàng dưới: xe bọc thép Bionix và Bronco - Ảnh: T.L Tháng trước, kênh Channel News Asia đưa tin Tập đoàn công nghiệp quốc phòng Singapore ST Engineering vừa tăng lợi nhuận 9,7% trong quý 2/2012, đạt 143 triệu SGD (gần 120 triệu USD). Kết quả trên không có gì bất ngờ khi ST Engineering bắt đầu hiện diện trong danh sách 100 nhà sản xuất vũ khí hàng đầu thế giới từ năm 2010, theo báo cáo của Viện Nghiên cứu hòa bình quốc tế (SIPRI). Singapore trở thành nhà cung cấp vũ khí cho nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ: Bangladesh, Bỉ, Brazil, Brunei, Ấn Độ, Indonesia, Kuwait, Oman, Philippines, Sri Lanka, Thụy Điển, Đài Loan, Thái Lan, UAE. Tàu đổ bộ “khủng” Đầu năm nay, Công ty ST Marine thuộc Tập đoàn ST Engineering chính thức bàn giao tàu mẹ đổ bộ HTMS Ang Thong, theo hợp đồng trị giá 134 triệu USD, cho hải quân hoàng gia Thái Lan. Đây là chiến hạm thuộc lớp Endurance hoàn toàn do Singapore tự thiết kế và chế tạo. Hiện tại, hải quân Singapore đang có 4 tàu đổ bộ lớp Endurance là: RSS Endurance, RSS Resolution, RSS Persistence, RSS Endeavour. Theo chuyên trang công nghệ hải quân Naval Technology, loại tàu đổ bộ này có độ choán nước 6.500 tấn, tầm hoạt động 5.000 hải lý (khoảng 9.000 km), được trang bị tên lửa đối không Mistral, pháo 76 li cùng nhiều loại súng khác. Về khả năng hỗ trợ đổ bộ tấn công, tàu lớp Endurance có thể mang theo 4 tàu đổ bộ nhỏ, 18 xe tăng, 20 xe thiết giáp và xe vận tải cùng 500 binh sĩ. Ngoài ra, tàu Endurance còn được thiết kế thêm bãi đáp cho 2 trực thăng cỡ trung, tương thích với những loại trực thăng quân sự phổ biến như Super Puma, CH-47 Chinook, Eurocopter AS532 Cougar. >> Tìm hiểu ngành công nghiệp vũ khí Singapore Vì thế, giới chuyên gia hải quân quốc tế đánh giá rất cao khả năng kết hợp tác chiến toàn diện của tàu Endurance. Những năm gần đây, ST Marine ngày càng hoàn thiện khả năng đóng mới tàu chiến. Mới đây, công ty này đã đủ sức tự đóng 5 chiếc tàu khu trục hiện đại lớp Formidable sau khi tiếp nhận công nghệ từ nước ngoài Đa dạng xe thiết giáp Nếu ST Marine tập trung phát triển kỹ thuật hải quân thì ST Kinetics, cũng thuộc ST Engineering, cung cấp rất nhiều loại khí tài dùng tác chiến trên bộ. Công ty này cung cấp đủ các loại từ súng tự động cá nhân cỡ nòng 9 li đến súng phóng lựu cỡ nòng 40 li hay súng máy cỡ nòng 12,7 li. ST Kinetics còn chế tạo và đã xuất khẩu các loại pháo như HF-2000 cỡ nòng 155 li đạt tầm bắn lên đến 45 km, pháo SLWH Pegasus 155 li tầm bắn 30 km… Đặc biệt, ST Kinetics còn cung cấp cả pháo tự hành SSPH Primus 155 li, tầm bắn 30 km và có tầm hoạt động lên đến 350 km. Loại pháo này được cho là hiện đại không hề thua kém các khí tài tương đương do Mỹ chế tạo. Hiện nay, Indonesia là một trong số các khách hàng mua bản quyền sản xuất và nhập khẩu những loại pháo trên của Singapore. Ngoài ra, ST Kinetics còn đang nổi lên như một nhà cung cấp hàng đầu các loại xe bọc thép, xe tấn công hạng nhẹ. Uy tín của những loại xe bọc thép, do công ty này sản xuất càng tăng lên, sau khi được quân đội Anh chọn mua để tác chiến tại Afghanistan. Hồi tháng 12.2008, quân đội Anh chi ra hàng trăm triệu USD để mua 115 chiếc xe bọc thép Bronco của ST Kinetics, theo tạp chí quốc phòng Jane’s. Với tốc độ tối đa lên đến 60 km/giờ, loại xe bọc thép Bronco có thể chở đến 5 tấn trang thiết bị cùng binh sĩ hoặc các lực lượng hậu cần, cứu hộ. Tương tự, ST Kinetics còn cung cấp loại xe bọc thép Terrex 8 bánh, động cơ 400 mã lực và có thể chở theo 12 binh sĩ với tốc độ di chuyển gần 120 km/giờ. Công ty này cũng đang ghi dấu ấn bằng dòng xe bọc thép Bionix có tốc độ lên đến 70 km/giờ, chở 10 binh sĩ và được trang bị các loại pháo 25 li, 30 li cùng súng máy. Cùng với ST Marine và ST Kinetics, Tập đoàn ST Engineering còn có 2 công ty khác là ST Aerospace và ST Electronics. Trong đó, ST Aerospace đang là nhà cung cấp dịch vụ bảo trì máy bay dân sự lẫn quân sự nổi tiếng thế giới. ST Electronics thì chuyên sản xuất các thiết bị điện tử ứng dụng trong nhiều loại khí tài khác nhau. Vì thế, giới chuyên gia nhận định ST Engineering đang hướng đến việc trở thành một đại gia đa ngành trong lĩnh vực quốc phòng. |
Thứ Năm, 9 tháng 8, 2012
>> Tên lửa DH-10 của Trung Quốc vô dụng ở Đông Nam Á
Cơ chế dẫn đường của tên lửa hành trình đối đất DH-10 kém chính xác và không hiệu quả với địa hình khu vực Đông Nam Á. >> Sự nguy hiểm của tên lửa Trung Quốc Cuộc hành trình săn lùng công nghệ tên lửa LACM Chương trình phát triển tên lửa hành trình tấn công mặt đất (LACM) được Trung Quốc khởi xướng từ năm 1990. Đến năm 1991, trong chiến tranh vùng Vịnh lần thứ nhất, 80% tên lửa hành trình tấn công mặt đất Tomahawk của Mỹ đã đánh trúng mục tiêu với CEP (sai số vòng tròn bán kính) chỉ 3m. Thành tích này thúc đẩy Trung Quốc lao vào cuộc tìm kiếm công nghệ tên lửa hành trình bằng mọi giá. Quá khó khăn để tiếp cận công nghệ của phương Tây, đích hướng cho cuộc săn lùng công nghệ này không ở đâu khác ngoài Nga. Các báo cáo không chính thức cho biết, sự phát triển của tên lửa hành trình DH-10 có sự giúp đỡ kỹ thuật từ phía Nga và Ukraine. Bên cạnh đó, việc săn lùng các tên lửa Tomahawk bị lạc đường và không phát nổ cũng được ráo riết thực hiện. Báo cáo của Viện 2049, một tổ chức phi chính phủ chuyên nghiên cứu về châu Á có trụ sở tại bang Virginia, Mỹ cho biết: Trong chiến dịch tấn công tiêu diệt Bin Laden ở Afghanistan (1998), Mỹ đã phóng đi 75 tên lửa Tomahawk và một số trong chúng đã rơi xuống mà không phát nổ. Trung Quốc đã không mấy khó khăn để có được những tên lửa “xịt” này để nghiên cứu các công nghệ liên quan. Trung Quốc đã có được tên lửa hành trình tấn công mặt đất DH-10 sau nhiều cuộc "săn lùng" bằng mọi giá Ảnh: Ausairpower Báo cáo của Global Security cho biết, trong năm 1993, Trung Quốc xây dựng một trung tâm phát triển công nghệ tên lửa hành trình đối đất ở một khu vực lân cận Thượng Hải. Đến năm 1995, một số chuyên gia tên lửa từ Nga đã được tuyển dụng vào làm việc cho trung tâm này. Báo cáo cũng cho biết, bằng cách nào đó Trung Quốc đã có được một tập tài liệu kỹ thuật liên quan đến một hệ thống tên lửa hành trình của Nga. Một báo cáo chưa được xác nhận cho biết, trong giai đoạn 1999-2001, Ukraine xuất khẩu khoảng 18 tên lửa hành trình đối đất tầm xa Kh-55 có khả năng trang bị đầu đạn hạt nhân cho Trung Quốc và Iran. Bên cạnh đó, không loại trừ khả năng Trung Quốc có được thiết kế của tên lửa Kh-65SE (biến thể xuất khẩu tầm ngắn của Kh-55). Kết quả của những nỗ lực trên, sau một thời gian dài miệt mài tìm kiếm, nghiên cứu, sao chép, chế tạo, Trung Quốc đã có "đứa con lai Nga-Mỹ” là DH-10. Tuy nhiên, tương tự như sự phát triển của các hệ thống vũ khí khác của Trung Quốc, sự phát triển, tên gọi chính thức của chương trình tên lửa LACM Trung Quốc khá mơ hồ và không rõ ràng. Sự phát triển của chương trình này đôi khi cũng nhầm lẫn với chương trình phát triển tên lửa hành trình đối đất HN-1. Những thông số không kiểm chứng Tên lửa hành trình đối đất DH-10 được cho là đã triển khai hoạt động trong giai đoạn 2004-2005 cùng với việc thành lập lữ đoàn tên lửa hành trình thuộc "lực lượng nhị pháo" (cách gọi lực lượng tên lửa chiến lược Trung Quốc) có trụ sở tại Kiến Thủy, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc. Báo cáo của Global Security cho biết, đến hết năm 2008, Trung Quốc đã triển khai 200-500 tên lửa hành trình đối đất DH-10. Một biến thể khác của DH-10 là CJ-10 đã được triển khai trên máy bay ném bom chiến lược H-6M. Khả năng của những loại vũ khí "con lai" kiểu này gần như không thể kiểm chứng từ một bên thứ 3. Ảnh: Sinodefence Tầm bắn chính xác của DH-10 cũng là con số không được kiểm chứng, ít nhất là đến thời điểm hiện tại. Tầm bắn của tên lửa DH-10 được dự đoán từ 1.500-4.000km, tuy nhiên, nếu dựa vào kích thước, trọng lượng tên lửa thì tầm bắn của DH-10 khoảng từ 1.500-1.800km là hợp lý. Độ chính xác (tính bằng chỉ số CEP) của DH-10 được dự đoán ở mức 10m. Một báo cáo của Bộ Quốc phòng Mỹ trong tháng 3/2009 cho biết, một biến thể khác của DH-10 là CH-10 sao chép hoàn toàn từ tên lửa hành trình Kh-55 đã được phát triển. Có khoảng 250 tên lửa cùng với 20-30 bệ phóng đã được triển khai, tầm bắn của biến thể này được cho là từ 1.500-2.000km. Trong tháng 7/2012, một số bức ảnh đăng tải trên các diễn đàn quân sự Trung Quốc cho thấy, có vẻ tên lửa DH-10 được triển khai hoạt động trên tàu khu trục Type-052C. >> Khu trục hạm Type 052C của Hải quân Trung Quốc Vô dụng trong khu vực Đông Nam Á Một trong những yêu cầu quan trọng đối với tên lửa hành trình đối đất là cơ chế dẫn đường. Đây là nhân tố quyết định của bất kỳ loại vũ khí có điều khiển nào. Đối với Trung Quốc, phát triển cơ chế dẫn đường cho DH-10 là một thách thức lớn. Để có thể tấn công chính xác các mục tiêu cách xa hàng ngàn kilomet, tên lửa đòi hỏi phải có hệ thống dẫn đường rất tinh vi và kết hợp nhiều cách dẫn đường khác nhau nhằm tăng độ chính xác. Tên lửa DH-10 được cho là sử dụng hệ thống dẫn đường kết hợp giữa dẫn đường quán tính (INS), dẫn đường men theo địa hình TERCOM và GPS. Tuy nhiên, để tên lửa có thể hoạt động với hệ thống dẫn đường men theo địa hình TERCOM thì bản đồ khu vực mục tiêu cần được lập sẵn và đưa vào bộ nhớ của tên lửa. Khi đó, radar đo độ cao của tên lửa sẽ ghi nhận các thông số về khu vực đang bay và chuyển vào một bộ nhớ nhỏ trong tên lửa để thực hiện các phép tính. Các thông số có được sẽ được tổ chức thành một dải các phép đo tương tự như một bản đồ, bản đồ tạm này sẽ được so sánh với bản đồ đã được lưu trữ từ trước để xác đinh vị trí và hướng, những thông tin này sẽ được sử dụng để điều chỉnh đường bay của tên lửa. Sử dụng DH-10 tại ĐNA là không phù hợp và nguy cơ rất lớn đối với thường dân Ảnh:Ausairpower Trong khi đó, Trung Quốc rất khó để lập được bản đồ địa hình đối với khu vực có địa lý phức tạp như Đông Nam Á. Trung Quốc không thể sử dụng máy bay do thám xâm nhập sâu vào bên trong không phận các quốc gia có chủ quyền để lập bản đồ mặt đất. Hơn nữa, theo các báo cáo không chính thức, hệ thống dẫn đường chủ đạo cho tên lửa DH-10 là GPS. Tuy nhiên, việc sử dụng tín hiệu GPS dân sự để dẫn đường cho một tên lửa quân sự chắc chắn không phải là lựa chọn khả thi, vì tín hiệu GPS dân sự rất dễ bị gây nhiễu. Nếu tên lửa DH-10 dựa vào hệ thống dẫn đường này thì khả năng đe dọa của nó là không đáng kể. Tên lửa DH-10 có thể dựa vào hệ thống dẫn đường quán tính để tìm đến mục tiêu, song đối với giải pháp này, chỉ số CEP sẽ rất lớn. Một khả năng được đề cập đến, trong trường hợp Mỹ cắt tín hiệu GPS tại khu vực tác chiến, tên lửa DH-10 có thể dựa vào hệ thống định vị vệ tinh GLONASS của Nga để tấn công mục tiêu. Song hiện nay, tín hiệu dận sự của hệ thống GLONASS chưa được phủ sóng toàn cầu, nên mức độ tin cậy của biện pháp này không khả quan hơn so với sử dụng tín hiệu GPS dân sự. Một phương pháp khác là sử dụng hệ thống định vị vệ tinh Bắc Đẩu do Trung Quốc phát triển. Tuy nhiên, thời điểm hệ thống này đi vào hoạt động vẫn chưa được xác định, mức độ chính xác của hệ thống định vị vệ tinh này vẫn là một câu hỏi chưa thể giải đáp. Cần nhớ lại rằng, tên lửa hành trình tấn công mặt đất Tomahawk trở nên kém hiệu quả khi hoạt động tại những khu vực có địa hình hiểm trở. 75 tên lửa đã được Mỹ phóng đi trong năm 1998 nhưng không tiêu diệt được bin Laden. Một lượng lớn các tên lửa trượt mục tiêu, rơi vào các khu vực dân sự gây ra cái chết cho hàng trăm thường dân. Vì vậy, tên lửa DH-10 hay các loại tên lửa hành trình tấn công mặt đất khác của Trung Quốc mang lại cho quốc gia này khả năng răn đe quân sự đáng kể... trên lý thuyết. (Nguồn :: BDV) |
Thứ Hai, 2 tháng 7, 2012
>> Thái Lan - Chìa khóa của Mỹ để kiềm chế Trung Quốc ?
Với vị trí chiến lược ở khu vực Đông Nam Á, Thái Lan đang lấy lại “vị thế” của một trong những đồng minh then chốt của Mỹ tại khu vực. Đất nước “Chùa vàng” được đánh giá là chìa khóa để Mỹ can dự vào khu vực và kiềm chế một Trung Quốc đang trỗi dậy. >> Trung Quốc và giấc mơ siêu cường số 1 >> Vikramaditya - Tàu sân bay mang theo giấc mộng lớn của Ấn Độ Tình trong như đã… Những động thái “xích lại gần nhau” giữa Mỹ và Thái Lan, hai đồng minh lâu năm, được thể hiện rõ hơn sau chuyến thăm tới Thái Lan của Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân Mỹ, tướng Martin Dempsey. Cùng với đó là tuyên bố của Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Leon Panetta về việc Mỹ chuyển trọng tâm sang khu vực châu Á-Thái Bình Dương tại Đối thoại an ninh Shangri-La ở Singapore. Những động thái, những tuyên bố gần đây cho thấy cả Thái Lan và Mỹ đều mong muốn điều chỉnh và làm mới các chiến lược chung của hai bên nhằm khôi phục quan hệ liên minh giữa hai nước. Tướng Mỹ Martin Dempsey và Thủ tướng Thái Lan Yingluck Shinawatra Báo chí Thái Lan mới đây tiết lộ phía Mỹ đã ủy nhiệm cho Giáo sư Catharin Dalpino nghiên cứu các khả năng hiện đại hóa và củng cố quan hệ hợp tác giữa Mỹ và Thái Lan. Được biết, bà Catharin Dalpino nguyên là một nhà ngoại giao và hiện là Trưởng khoa Quan hệ Quốc tế thuộc Đại học Simmon. Trong một cuộc hội thảo do Học viện nghiên cứu quốc phòng quốc gia của Mỹ và Đại học Thammasat của Thái Lan đồng tổ chức, bà Dalpino đã trình bày các ý tưởng của mình. Theo đó, Mỹ và Thái Lan cần tăng cường trao đổi các chuyến thăm cấp cao, thiết lập đối thoại song phương về sự tác động của việc Trung Quốc trỗi dậy, phát triển sân bay quân sự U-tapao thành trung tâm khu vực về cứu trợ thảm họa và nhân đạo, mở rộng thành viên tham gia cuộc tập trận “Hổ mang vàng”, cũng như thúc đẩy tự do hóa thương mại song phương cũng như khu vực. Bà Dalpino cho rằng việc làm mới liên minh Mỹ-Thái là nhân tố then chốt để Mỹ can dự vào khu vực và thực hiện chiến lược trở lại khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Cái cớ hợp lý Thái Lan là đồng minh lâu đời nhất của Mỹ tại châu Á. Năm tới, Mỹ và Thái Lan sẽ cùng kỷ niệm 180 năm thiết lập quan hệ ngoại giao. Tuy nhiên, mối quan hệ liên minh này dường như không kịp thích ứng với các thay đổi trong thế kỷ XXI. Sau Chiến tranh Việt Nam, mối quan hệ đồng minh này đã không được cả hai bên “chăm chút” nên có dấu hiệu nhạt dần. Nguyên nhân chính là do những quan điểm khác nhau về mối đe dọa cũng như mục tiêu khác nhau trong việc mở rộng quan hệ chính trị, kinh tế và an ninh của hai nước. Tuy nhiên, sự thay đổi trong nhận thức về mối đe dọa trong giai đoạn mới đang mở ra cơ hội để hai nước làm hồi sinh mối quan hệ liên minh này. Những đe dọa an ninh phi truyền thống sau Chiến tranh Lạnh như chủ nghĩa khủng bố đã trở thành điểm tựa cho quan hệ Mỹ-Thái hiện nay. Giới phân tích đánh giá Thái Lan không giống với các đối tác khác của Mỹ ở châu Á như Nhật Bản, Hàn Quốc, Philippines hay Australia. Mối quan hệ này không xuất phát từ một thỏa thuận hay yêu cầu phải cập nhật. Với Mỹ, Thái Lan có vai trò khác và chỗ dựa cho mối quan hệ này tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực an ninh phi truyền thống. Cuộc tập trận “Hổ mang vàng” mà Thái Lan làm chủ nhà là minh chứng cho điều này. Cuộc tập trận chủ yếu tập trung vào các hoạt động cứu trợ nhân đạo. Một binh sĩ Thái Lan cho một binh sĩ Mỹ uống máu hổ mang trong cuộc tập trận “Hổ mang vàng 2012” tại một căn cứ quân sự tại tỉnh Chon Buri, Thái Lan ngày 13/2. Tuy nhiên, Mỹ vẫn chưa thể tận dụng “cánh cửa” Thái Lan để bước chân vào khu vực ASEAN. Cuộc tập trận “Hổ mang vàng” vẫn chưa tìm được cách để kết nối với các cơ chế khác của khu vực như Diễn đàn Khu vực ASEAN hay Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN. Chính vì vậy, trong chuyến đi tới Campuchia vào tháng 11 tới để dự Hội nghị thượng đỉnh Phnom Penh, nhiều khả năng Tổng thống Mỹ Barack Obama sẽ “ghé” qua Thái Lan để tìm cách mở cánh cửa này và can dự sâu hơn vào khu vực. Thái Lan cũng thể hiện thái độ hoan nghênh sự trở lại của Mỹ khi cho rằng điều này sẽ góp phần cho ổn định khu vực. Tuy nhiên, các chuyên gia của Thái Lan như ông Kavi Chongkittavorn, chuyên gia tại Học viện an ninh và nghiên cứu quốc tế, cho rằng Thái Lan cần vạch một ranh giới rõ ràng trong liên minh với Mỹ. Đây là điều mà Australia đã làm. Bên cạnh đó, việc sử dụng sân bay U-tapao phải được giám sát chặt chẽ. Quốc kỳ các nước tham gia tập trận Hổ mang vàng 2012 Trong khi đó, Tướng Surasit Thanadtang - Giám đốc Trung tâm nghiên cứu chiến lược, cho biết Thái Lan muốn nhìn thấy Mỹ mở rộng vai trò đa phương của họ, đặc biệt tại Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN và các diễn đàn cứu trợ thảm họa và nhân đạo. Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng Thái Lan chưa hẳn đã quan trọng bằng Ấn Độ, Việt Nam hay Singapore. Vai trò của Thái Lan trong ASEAN hiện không thực sự rõ ràng. Để có được “vai trò” trong ASEAN và giúp Mỹ can thiệp vào khu vực, Thái Lan cần tiếp tục quan hệ “hai đầu” bằng cách duy trì hợp tác quân sự cả với Mỹ và Trung Quốc. Trong khi đó, Thái Lan vẫn phải tiếp tục đóng vai trò tích cực hơn nữa trong các cơ chế khu vực như Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN và Diễn đàn khu vực ASEAN. Mục tiêu U-tapao Một trong những mục tiêu trước mắt mà Mỹ nhắm tới khi làm sống lại mối quan hệ đồng minh với Thái Lan chính là căn cứ không quân và hải quân U-tapao trên Vịnh Thái Lan. Người Mỹ không hề che giấu ý đồ muốn giành quyền kiểm soát căn cứ chiến lược này. Có lẽ, Chính phủ của nữ Thủ tướng xinh đẹp Yingluck Shinawatra đã chấp thuận các yêu cầu của Mỹ về việc sử dụng căn cứ U-tapao. Đổi lại, Thái Lan sẽ nhận được sự ủng hộ về chính trị từ phía Mỹ. Cơ quan Hàng không Vũ trụ (NASA) của Mỹ mới đây đã bày tỏ mong muốn được sử dụng U-tapao để tiến hành các nghiên cứu về thời tiết tại Đông Nam Á. Đây được coi là kế hoạch đầy tham vọng của NASA với chiến dịch khoa học mang tên Nghiên cứu tổng hợp điều kiện khí hậu, mây mưa ở Đông Nam Á (SEAC4RS). Những chiếc pháo đài bay B-52 của Mỹ tại căn cứ U-tapao trong Chiến tranh Việt Nam Chiến dịch khoa học này sẽ nhận được sự hỗ trợ của Tổ chức khoa học quốc gia và Phòng thí nghiệm nghiên cứu hải quân Mỹ. NASA sẽ tập hợp dữ liệu và kết quả quan trắc từ các vệ tinh, máy bay nghiên cứu cùng hàng loạt điểm quan trắc trên mặt đất, mặt biển. Theo kế hoạch, chiến dịch nghiên cứu này sẽ bắt đầu từ tháng 8 tới. Các chuyên gia cho rằng dự án của NASA có thể gồm cả các vệ tinh do thám hỗ trợ các máy bay không người lái. Vì thế, U-tapao có thể được sử dụng như một trạm mặt đất để kết nối với các vệ tinh Mỹ, giúp dẫn đường cho các máy bay tấn công không người lái. Với những gì thu thập được, người Mỹ chắc chắn sẽ hiểu thêm về khu vực mình đang muốn can dự sâu hơn. Trước đó, Mỹ đã đưa ra đề xuất thiết lập một trung tâm cứu trợ nhân đạo tại U-tapao. Đích thân Tướng Martin Dempsey xác nhận rằng Mỹ muốn hợp tác với Thái Lan cùng sử dụng U-tapao như một Trung tâm cứu trợ thảm họa nhân đạo. Tuy nhiên, vị tướng này đã rất khôn khéo khi từ chối trả lời câu hỏi liệu Mỹ có muốn sử dụng U-tapao như một căn cứ toàn diện hay không. Nhưng rõ ràng, về lâu dài đây chính là mục tiêu mà Mỹ hướng tới. Lính Mỹ trên đất Thái Lan trong cuộc tập trận Hổ mang vàng 2012 Trước các động thái của Mỹ, Trung Quốc đã bày tỏ lo ngại về ý định sử dụng căn cứ U-tapao của Mỹ. Trong trường hợp này, Thái Lan đang như đứng giữa hai dòng nước. Nếu đồng ý cho Mỹ sử dụng U-tapao, Thái Lan sẽ làm mất lòng Trung Quốc. Đặc biệt, nếu xảy ra xung đột quân sự Mỹ-Trung, thì Thái Lan đương nhiên là kẻ thù của Trung Quốc. Điều này đi ngược lại với các lợi ích mà Thái Lan đang theo đuổi. Nếu được Thái Lan chấp thuận, nhân viên và các thiết bị quân sự Mỹ sẽ được đưa trở lại U-tapao lần đầu tiên kể từ sau khi Mỹ thất bại trong Chiến tranh Việt Nam hơn ba thập kỷ trước. (Nguồn :: Báo Phụ Nữ) |
Thứ Năm, 8 tháng 3, 2012
>> Thái Lan : thị trường vũ khí phát triển nhanh nhất ĐNA
Chi tiêu mua sắm quốc phòng liên tục tăng trong thời gian qua, Thái Lan được xem là thị trường vũ khí có tốc độ phát triển nhanh nhất ở Đông Nam Á.
Hôm 5/3,tại triển lãm quốc tế về An ninh Quốc phòng châu Á (Defense security guard End - 2012) chính thức được khai mạc tại Thủ đô Bangkok của Thái Lan với sự tham gia của hơn 250 công ty đến từ 30 quốc gia trên thế giới, trong đó có 7 công ty của Nga.
Một đại diện của các công ty tham dự triển lãm lần này nhận định, Thái Lan đang là một trong những thị trường vũ khí phát triển nhanh nhất Đông Nam Á. Trung tâm phân tích mua sắm vũ khí toàn cầu TSAMTO của Nga đã đưa ra một số thống kê về mua sắm quốc phòng của Thái Lan trong thời gian gần đây. Thống kê chia làm 3 giai đoạn, 2004-2007, 2008-2011 và dự báo 2012-2015. Cụ thể, giai đoạn 2004-2007 tổng giá trị nhập khẩu vũ khí của Thái Lan chỉ vỏn vẹn 355 triệu USD, đến giai đoạn 2008-2011, tổng giá trị nhập khẩu vũ khí đã tăng lên đến 1,715 tỷ USD, tăng 4,8 lần so với giai đoạn trước đó. Thụy Điển đang "thống trị" thị trường vũ khí tại Thái Lan đặc biệt là phân khúc hàng không quân sự. Trong ảnh là một chiếc tiêm kích Jas-39 Gripen của Không quân Hoàng gia Thái Lan. Tổng giá trị các đơn hàng mua sắm vũ khí đã được ký trong giai đoạn 2012-2015 dự báo lên đến 2,41 tỷ USD. Tuy là thị trường vũ khí phát triển nhanh nhất Đông Nam Á, nhưng "miếng bánh" Thái Lan lại không thuộc về những quốc gia xuất khẩu vũ khí hàng đầu thế giới. Đặc biệt trong lĩnh vực hàng không, thị trường vũ khí Thái Lan bị "thống trị" bởi Thụy Điển, tăng - thiết giáp thuộc về Ukraine, tàu ngầm thuộc về Đức, các phân khúc còn lại thuộc về các quốc gia như: Trung Quốc, Singapore, Indonesia và Brazil... Triển vọng của Nga Nga đang là nhà cung cấp vũ khí lớn cho Đông Nam Á, tuy nhiên, thị phần tại Thái Lan vẫn chưa thực sự phát triển tương xứng với tiềm năng. Năm 2003, trong chuyến thăm của Thủ tướng Putin đến Thái Lan, hai bên đã ký bản ghi nhớ về việc Nga sẽ trợ giúp các vấn đề về hậu cần và kỹ thuật cho Quân đội Hoàng gia Thái Lan. Bản ghi nhớ này là cơ sở quan trọng để tiến tới việc hợp tác kỹ thuật quân sự giữa hai nước. Trong khuôn khổ chuyến thăm này, Nga và Thái Lan đã nhất trí về việc giải quyết khoản nợ trị giá 36,5 triệu USD từ thời Liên Xô, phương thức trả nợ sẽ được thực hiện bằng cung cấp hàng hóa và dịch vụ trong 5 năm. Dù nỗ lực khá nhiều bằng các biện pháp ngoại giao song Nga vẫn chưa đạt được thành công trong việc xâm nhập thị trường vũ khí Thái Lan. Nga đã nhiều lần cố gắng xúc tiến các hợp đồng mua sắm vũ khí với Thái Lan nhưng chưa thực sự thành công, rất nhiều đề xuất hợp tác, mua sắm đã không thể thực hiện, các thất bại này được nhận định là do thói quen sử dụng các vũ khí nguồn gốc phương Tây và còn có cả những yếu tố liên quan đến chính trị. Hợp đồng mua sắm vũ khí đáng kể nhất giữa hai bên là hợp đồng cung cấp 3 trực thăng vận tải đa năng Mi-17V-5, hợp đồng trị giá 27,5 triệu USD bao gồm cả chi phí đào tạo Hiện tại, công ty xuất khẩu vũ khí nhà nước Nga Rosoboronexport đang làm việc với Thái Lan liên quan đến các vũ khí nhỏ, vũ khí chống máy bay và trực thăng , Thái Lan cũng bày tỏ sự quan tâm đến các tàu ngầm điện-diesel và các tàu tên lửa cao tốc của Nga. Thống kê chi tiết cho từng giai đoạn như sau: Giai đoạn 2004-2007 Tổng giá trị nhập khẩu vũ khí của Thái Lan được TSAMTO tổng kết với giá trị là 355 triệu USD, trong đó năm 2004 có giá trị 141 triệu USD, năm 2005 30,6 triệu USD, năm 2006 94 triệu USD và năm 2007 là 89 triệu USD. Đứng đầu về giá trị xuất khẩu trong giai đoạn này là Pháp với kim ngạch đạt 80 triệu USD chiếm 22,56%, vị trí thứ 2 thuộc về Mỹ với kim ngạch đạt 77,5 triệu USD chiếm 21,85%, vị trí thứ 3 và thứ 4 được chia sẽ bởi Trung Quốc và Singapore với kim ngạch đạt 70 triệu USD chiếm 17,74%. Phần còn lại được chia đều cho các quốc gia Thụy Điển, Đức, Hà Lan, Anh và New Zealand. Giai đoạn 2008-2011 Tổng giá trị nhập khẩu vũ khí giai đoạn này đạt con số 1,715 tỷ USD, giai đoạn này chứng kiến sự chiếm lĩnh của các quốc gia không thuộc top các quốc gia xuất khẩu vũ khí hàng đầu thế giới. Thống kê chi tiết cho từng năm như sau, năm 2008 đạt giá trị 157 triệu USD, năm 2009 đạt 300 triệu USD, năm 2010 đạt 486 triệu USD và năm 2011 đạt 772 triệu USD. Giai đoạn này chứng kiến sự thành công vượt bậc của Thụy Điển tại Thái Lan, từ một quốc gia chiếm thị phần rất nhỏ bé trong tổng kim ngạch nhập khẩu vũ khí của Thái Lan giai đoạn 2004-2007. Thụy Điển đã vươn lên thành nhà cung cấp vũ khí lớn nhất cho Thái Lan trong giai đoạn 2008-2011, tổng kim ngạch xuất khẩu vũ khí cho Thái Lan đạt giá trị 531 triệu USD chiếm 31%. Ukraine đang chiếm lĩnh phân khúc tăng thiết giáp của quân đội Hoàng gia Thái Lan Ảnh minh họa Vị trí này có được là nhờ Thụy Điển đã giành chiến thắng trong hợp đồng cung cấp máy bay chiến đấu mới cho Không quân Hoàng gia Thái Lan, quốc gia này đã mua 6 tiêm kích Jas-39 Gripen với giá trị khoảng 492 triệu USD. Ngoài ra, Thái Lan còn dự định tăng số đặt hàng lên thêm 6 chiếc Jas-39 cùng với 2 máy bay chỉ huy và cảnh báo sớm trên không Saab-340. Quốc gia thứ 2 có sự tăng trưởng vượt trội là Indonesia, xứ sở vạn đảo đã vượt lên chiếm vị trí thứ 2 trong các quốc gia xuất khẩu vũ khí lớn nhất cho Thái Lan với tổng kim ngạch đạt 220 triệu USD chiếm 12,83%. Vị trí thứ 3 thuộc về Brazil với tổng kim ngạch đạt 180 triệu USD chiếm 10,5%, giai đoạn này chứng kiến sự sụt giảm về giá trị của hai quốc gia xuất khẩu vũ khí hàng đầu thế giới là Mỹ và Pháp. Mỹ từ vị trí thứ 2 giai đoạn 2004-2007 rớt xuống vị trí thứ 4, tổng kim ngạch đạt 177,5 triệu USD, Italia đạt giá trị 150 triệu USD, Israel đạt giá trị 132 triệu USD, Ukraine đạt giá trị 115 triệu USD, Pháp đạt giá trị 52 triệu USD, Trung Quốc đạt giá trị 47 triệu USD, Nam Phi 30 triệu USD, Nga đạt giá trị khá khiêm tốn 29,1 triệu USD. Giai đoạn 2012-2015 Tổng giá trị nhập khẩu vũ khí của Thái Lan giai đoạn này đạt giá trị 2,41 tỷ USD, Thụy Điển tiếp tục chiếm lĩnh thị trường vũ khí xứ sở chùa vàng, tổng kim ngạch giai đoạn này qua các đơn hàng đã ký kết đạt con số 1,156 tỷ USD chiếm 48,4%, vị trí thứ hai thuộc về Ukraine với tổng kim ngạch đạt 380 triệu USD chiếm 15,8%. Các hợp đồng đấu thầu chưa xác định được nhà cung cấp trong giai đoạn này ước đạt giá trị 300 triệu USD. |
Thứ Sáu, 9 tháng 9, 2011
>> Phillippines tăng cường ngân sách cho hải quân
118 triệu USD là số tiền sẽ được chính phủ Phillippines tăng cường thêm cho lực lượng cảnh sát biển nước này. Ngày 7/9/2011, tại Thủ đô Manila, chính phủ Phillippines đã công bố một khoản ngân sách tăng cường trị giá 118 triệu USD cho lực lượng cảnh sát biển. Việc tăng ngân sách này nhằm đảm bảo cho các hoạt động bảo vệ vùng lãnh thổ, lãnh hải và các dự án khai thác tài nguyên quan trọng của Phillippines trên biển Đông. Theo đó, số tiền 118 triệu USD sẽ được dành cho việc mua thêm tàu tuần tra cùng 6 trực thăng cũng như các thiết bị quân sự liên quan. Bộ trưởng Bộ Ngân sách và quản lý Phillipines Florencio Abad đã xác nhận thông tin về khoản ngân sách nói trên. Phillippines sẽ tăng cường ngân sách cho việc mua sắm các tàu tuần tra và máy bay trực thăng mới, trong ảnh chiến hạm BRP Gregorio del Pilar (PF-15) mà hải quân nước này mới nhận hồi tháng 8/2011. Đây là khoản ngân sách cần thiết để đảm bảo các yêu cầu của lực lượng vũ trang trong việc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và lãnh hải, trong đó chú trọng đến việc thiết lập vành đai bảo vệ xung quanh dự án khai thác khí đốt Malampaya và nhà máy điện tại đây. Dự án khai thác khí đốt Malampaya là một dự án hợp tác giữa Tập đoàn Shell và Tập đoàn dầu khí quốc gia Phillippines trị giá 4,5 tỷ USD. Đây được xem là dự án hợp tác mang tầm chiến lược với an ninh năng lượng Phillippines, cung cấp tới 50% năng lượng cần thiết trên đảo Luzon. Đầu tháng 9/2011, Tổng thống Phillippines Benigno Aquino và Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào đã cam kết giải quyết các tranh chấp một cách hòa bình khi các nhà lãnh đạo Phillippines đến thăm Bắc Kinh. Dù khoản ngân sách tăng cường này là rất nhỏ nếu so với ngân sách mà Trung Quốc chi cho lực lượng hải giám nước này. Tuy nhiên, đây cũng là một sự tăng cường quan trọng cho lực lượng vũ trang Phillippines, trong bối cảnh quốc gia này đang đối mặt với nhiều khó khăn về kinh tế. Tháng 8/2011, Phillippines cũng đã nhận một tàu tuần tra lớn nhất trong trang bị của hải quân nước này để phục vụ cho nhiệm vụ tuần tra vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý. Tag: Hải quân các nước ASEAN |
Chủ Nhật, 28 tháng 8, 2011
>> Tướng Việt Nam phân tích ý đồ thực sự của TQ tại Biển Đông
Có hay không việc Mỹ đưa tàu chiến tàng hình tới biển Đông “chọi” TQ, tướng VN nói về ý đồ thực sự của TQ ở biển Đông,…những thông tin tiếp tục được các báo đề cập tới trong ngày hôm nay.
Tướng Trung Quốc bác tin tàu sân bay sẽ hoạt động năm 2012 Theo thông tin được đăng tải trên Dân trí: Thiếu tướng Hải quân Trung Quốc Zhang Zhao zhong hôm qua đã bác tin cho rằng tàu sân bay đầu tiên của nước này sẽ chính thức hoạt động năm 2012, không lâu sau khi báo chí Trung Quốc tuyên bố địa bàn hoạt động của con tàu sẽ là Biển Đông vào năm 2012. Tàu sân bay Trung Quốc tại cảng Đại Liên sau chuyến đi thử đầu tiên. Phát biểu trong buổi ký tặng cuốn sách mới của mình, Tướng Zhang nhận định rằng rất khó để đưa tàu sân bay đầu tiên của nước này vào hoạt động sớm. “Cần phải có thời gian”, ông nói và lấy dẫn chứng là Pháp phải mất 7 năm mới đưa được tàu sân bay đầu tiên của mình vào hoạt động. Trước đó, hôm 16/8, tức là gần như ngay sau khi đưa tàu sân bay đầu tiên trở lại cảng sau 5 ngày thử nghiệm đầu tiên trên Hoàng Hải, trang mạng People's Daily Online của Trung Quốc đã dẫn nguồn tin quân sự cấp cao ở Bắc Kinh tuyên bố chiếc tàu sân bay đầu tiên của Trung Quốc sẽ được triển khai trong vùng biển Nam Hải (tên được Trung Quốc dùng để gọi Biển Đông). Cũng theo People's Daily Online, tàu sân bay này sẽ góp phần tăng cường năng lực chiến đấu và răn đe của hải quân Trung Quốc. Một dấu hiệu cho thấy tầm mức quan trọng của chiếc tàu sân bay là nó được đặt dưới quyền chỉ huy trực tiếp của Ủy ban Quân ủy Trung ương Trung Quốc, định chế lãnh đạo cao nhất của quân đội hiện do chính ông Hồ Cẩm Đào làm Chủ tịch. Tuy nhiên, ông Zhang đã bác bỏ việc quân đội Trung Quốc có các kế hoạch như vậy và gọi đây chỉ là tin đồn. Mỹ triển khai tàu chiến tàng hình tới biển Đông 'chọi' TQ? Ngày hôm nay, trên hầu hết các trang báo như Đất Việt, Dân trí, VTC News… đều đăng tải thông tin: Mỹ âm thầm triển khai tàu chiến tàng hình thế hệ mới tới biển Đông, một tuần sau khi Trung Quốc “khai trương” hàng không mẫu hạm. Theo Sunday Times, tàu của Mỹ được triển khai để kiểm soát các tuyến hàng hải giữa Sinngapore và Hong Kong là USS Independence. Loại tàu này có thể tác chiến tại vùng nước nông và “hiện đại hơn bất cứ tàu Trung Quốc nào được biết đến”. Các chiến hạm tàng hình của Mỹ có thể “diệt tàu ngầm, phá mìn, trinh sát, do thám và đổ bộ”. Theo báo Anh, kế hoạch này được Bộ trưởng Quốc phòng Robert Gates “âm thầm nêu ra” tháng trước (khi còn tại nhiệm) trong bối cảnh Trung Quốc khẳng định một cách cứng rắn chủ quyền của họ ở vùng biển tranh chấp. Tuy hai bên Trung Quốc và Mỹ tiếp tục gặp gỡ ở cấp cao nhất để xây dựng niềm tin, giới quân sự hai bên không ngừng cảnh giác đề phòng lẫn nhau. “TQ vạch chiến lược để khống chế biển Đông, chứ không phải dầu khí” Đó là lời nhận định của Thiếu tướng Lê Văn Cương, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu chiến lược và Khoa học, Bộ Công An về hoạt động nghiên cứu biển Đông tại Việt Nam, được đăng tải trên Tuổi trẻ. Theo thiếu tướng Lê Văn Cương: “Ý đồ của Trung Quốc ở biển Đông là gì? Ngay cả học giả Mỹ và châu Âu cũng có sự nhầm lẫn lớn về TQ. Có tới 80-90 % công trình nghiên cứu về biển Đông đều nói rằng TQ muốn chiếm biển Đông là vì dầu khí. Đó là hoàn toàn sai lầm về tầm mức chiến lược. Quan điểm của tôi, xuất phát từ vị trí địa chính trị, địa chiến lược của biển Đông, TQ vạch chiến lược để khống chế biển Đông, chứ không phải vì dầu khí. Nên nhớ dầu khí ở biển Đông trữ lượng không phải lớn, làm sao mà so được với vịnh Péc- xích và Trung Đông. Hơn nữa, khai thác cực kỳ khó khăn, lôi lên 1 thùng dầu đắt gấp 2 ở Trung Đông, Bắc Phi. Trong khi đó, bồn dầu ở sông Châu Giang, bán đảo Lôi Châu, biển Hoa Bắc, Hoa Đông, Hoàng Hải đều nhiều dầu, TQ vẫn còn để dự trữ, chứ chưa khai thác. Đúng là TQ cần dầu, nhưng mục tiêu khống chế biển Đông mới là cao nhất. Khống chế được biển Đông là khống chế được Nhật Bản, Hàn Quốc và tác động trực tiếp tới quan hệ chiến lược giữa Mỹ- Nhật Bản- Hàn Quốc, gọng kìm đè nặng trên đầu TQ. Đầu tiên, có những lý do lịch sử. Trong suốt thời kỳ cổ xưa, một số quốc gia châu Á chịu ảnh hưởng của Nho giáo, sẽ phải cống nạp cho các vương triều của Trung Quốc bao gồm Việt Nam, Triều Tiên và Nhật Bản bây giờ. Những nước Đông Nam Á khác không chịu ảnh hưởng (gồm Philippines, Indonesia, Campuchia và Thái Lan ngày nay) cũng có ghi nhận phải cống phẩm cho Trung Quốc theo yêu cầu từ các vị vua của họ. Ngoài ra còn có những ràng buộc gần cận hơn khi một số quốc gia Đông Nam Á dưới sự đe doạ "xuất khẩu cách mạng" của Trung Quốc vào những năm 1950-1960, rồi sự kiện năm 1979. Nhưng có lẽ nhân tố lớn nhất đang phá huỷ lòng tin lẫn nhau và làm xói mòn nỗ lực xây dựng các quan hệ đối tác là tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ. Trung Quốc có tranh chấp lãnh hải hoặc các đảo ở Biển Đông hay Hoa Đông với Việt Nam, Brunei, Malaysia, Philippines và Nhật Bản. Với nhiều quốc gia Đông và Đông Nam Á, tăng trưởng kinh tế, quân sự và ảnh hưởng chính trị của Trung Quốc ở châu Á nhắc nhở họ về một chế độ triều cống trong lịch sử, về sự tồn tại của các chư hầu quanh Trung Quốc xưa từng thừa nhận ưu thế của Trung Quốc trong khu vực. Lo ngại về sự trở lại của một chế độ triều cống kiểu mới có lẽ vẫn là một rào cản tâm lý với một số quốc gia để khiến họ có thể tin tưởng vào chính sách láng giềng tốt của Bắc Kinh. Quan hệ không tốt giữa Trung Quốc và láng giềng một phần còn là bởi những điều kiện nội tại của Trung Quốc, về quan niệm giá trị dân chủ giữa các nước trong khu vực. Dù Trung Quốc cam kết về một sự trỗi dậy hoà bình, dù từ lâu đã từ bỏ "xuất khẩu cách mạng", nhưng họ lại chưa làm rõ mục tiêu chiến lược của việc hiện đại hoá quân sự. Với nhiều nước láng giềng, một siêu cường như vậy mà thiếu tuyên bố rõ ràng là đáng lo ngại. Lẽ tự nhiên với kích cỡ và dân số Trung Quốc cũng như ảnh hưởng văn hoá sâu rộng, sức mạnh kinh tế và quân sự thì những quốc gia châu Á tương đối nhỏ và yếu hơn sẽ hoài nghi và lo ngại về những gì "con rồng lớn" sẽ nắm giữ. TQ cần làm gì để thực hiện “chính sách láng giềng tốt”? Cũng theo Vietnamnet, để giải quyết việc này, ngoài những cam kết bằng lời nói, Trung Quốc phải có những nỗ lực thực tế để thể hiện hiện rằng, họ sẽ đóng góp vào lợi ích và ổn định khu vực khi cần thiết. Ví dụ, trong thời kỳ hậu khủng hoảng tài chính hiện tại, Trung Quốc nên giữ vai trò dẫn dắt để cùng xây dựng một hệ thống tài chính khu vực mạnh mẽ nhằm ổn định thị trường tài chính khu vực. Trung Quốc nên tôn trọng các cam kết gia tăng hoà bình bằng những biện pháp cụ thể để góp phần đảm bảo an ninh và hoà bình khu vực. Cũng như ở Trung Quốc, quan điểm dân tộc chủ nghĩa đang gia tăng khắp châu Á, thúc giục các chính phủ đưa ra các bước đi chính sách mạo hiểm và thách thức Trung Quốc. Không cần phải nói rằng, căng thẳng chính trị hiện tại của châu Á, chạy đua vũ trang, tranh chấp lâu dài không phải là chọn lựa lý tưởng cho khu vực. Vì mối quan hệ phức tạp giữa các quốc gia, Trung Quốc và những nước láng giềng cần dành thêm nhiều thời gian và nỗ lực để xây dựng các quan hệ đối tác đích thực. Trung Quốc nên hành động như một người chơi có trách nhiệm luôn tuân thủ những nguyên tắc chung; họ nên có một chiến lược châu Á rõ ràng, thực thi và thực tế. Theo chính sách này, Bắc Kinh nên hoạt động như một cường quốc kinh tế ổn định, nó đòi hỏi Trung Quốc sáng tạo hơn trong các lĩnh vực tài chính quốc tế, và can đảm hơn trong sáng kiến cải tổ các hệ thống tài chính hiện hành. Trung Quốc cũng nên góp phần đảm bảo an ninh khu vực với khả năng quân sự đang gia tăng của mình. Bắc Kinh nên rõ ràng hơn so với láng giềng trong việc sử dụng quân sự để duy trì ổn định khu vực thông qua chống hải tặc, khủng bố và tội phạm quốc tế khác ở Thái Bình Dương. Thay vì phô diễn sức mạnh quân sự trong tranh chấp lãnh thổ, Trung Quốc nên khuyến khích sự hội nhập chính trị, kinh tế và văn hoá ở Đông cũng như Đông Nam Á. Sau tất cả, Trung Quốc nên định hình lại chiến lược châu Á của mình với mục tiêu hoạt động như một lực lượng ổn định, trong khi vẫn duy trì chiến lược để giữ sự cân bằng với ảnh hưởng của Mỹ trong khu vực này. Trung Quốc phải thể hiện thiện chí và sự chân thành của mình bằng lời nói và hành động. Chỉ bằng cách này, thì sự trỗi dậy hoà bình của họ mới không đáng báo động và Trung Quốc mới được các láng giềng châu Á coi là một người bạn. Chiến lược châu Á của Trung Quốc nên đi xa hơn việc chỉ là tìm kiếm những lợi ích kinh tế chung và bao gồm trách nhiệm góp phần duy trì ổn định tài chính, hàng hải và chính trị. |
Thứ Năm, 25 tháng 8, 2011
>> "Trò chơi đố chữ" trên Biển Đông
Tuyên bố Hành xử ở Biển Đông, các bên đang chơi "trò đố chữ", các nước trong khu vực gia tăng sức mạnh quân sự bảo vệ chủ quyền...
Philippines tăng cường sức mạnh quân sự bảo vệ chủ quyền trên biển Đông Theo thông tin từ các báo, ngày hôm qua (23/8), Tổng thống Philippines Benigno Aquino đã tuyên bố sẽ tăng cường sức mạnh quân sự nhằm bảo vệ chủ quyền của Manila trên biển Đông. Ông Aquino tuyên bố tàu chiến lớp Hamilton, Gregorio del Pilar biểu trưng cho khả năng của Philippines mục tiêu canh phòng, bảo vệ và nếu cần thiết sẽ chiến đấu vì lợi ích quốc gia. Tổng thống Aquino luôn cứng rắn với Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông Philippines gần đây liên tiếp lên tiếng về việc Trung Quốc trở nên cứng rắn hơn trong những tuyên bố chủ quyền trên biển. Trung Quốc từng có nhiều hành động gây hấn với ngư dân Philippines và Việt Nam ở biển Đông. Khi căng thẳng leo thang, Philippines kêu gọi đồng minh lâu năm Mỹ giúp đỡ tăng cường quân sự bởi ông Aquino cho hay, Philippines không thể tự kiềm chế Trung Quốc. Mỹ hứa giúp Philippines nâng cấp quân đội nhưng không tiết lộ cụ thể lộ trình hỗ trợ quân sự. Trong khi đó, giới truyền thông Trung Quốc trong tháng này cảnh báo Philppines có thể phải “trả giá đắt” nếu tiếp tục tăng cường quân sự trên biển Đông. Tuy nhiên, quân hệ song phương giữa hai bên vẫn tiếp tục được đẩy mạnh. Đáng chú ý, Tổng thống Philippines đưa ra tuyên bố trên chỉ ít ngày trước chuyến thăm Trung Quốc, nước có nhiều hành động gây hấn nhằm độc chiếm biển Đông trong thời gian gần đây. Chuyến thăm Trung Quốc của Tổng thống Aquino sẽ diễn ra từ ngày 30/8-3/9. Dự kiến, vấn đề biển Đông sẽ là trọng tâm chương trình nghị sự của chuyến thăm này. Petronas Malaysia đẩy mạnh khai thác khí đốt tại Biển Đông Tập đoàn năng lượng quốc doanh Petronas của Malaysia ngày 23/8 cho biết sẽ tham gia một dự án trị giá 15 tỉ ringgit (5 tỉ USD) để khai thác các mỏ khí đốt nằm ở khu vực ngoài khơi phía Đông của nước này. Thông tin được đăng tải trên Petrotimes. Trong một tuyên bố, Petronas nêu rõ với sự tham gia của các đối tác khác, dự án “Bể Bắc Malay” sẽ khai thác khí đốt từ 9 mỏ nhỏ nhằm đáp ứng nhu cầu ngày một gia tăng của Malaysia. Tập đoàn này cũng sẽ lắp đặt một đường ống dẫn dài 200 km nhằm vận chuyển khí đốt từ các mỏ trên tới Kerteh, thuộc bang Terengganu. Trong tuyên bố trên, Petronas không công bố tên các đối tác cùng tham gia dự án này. Nhiều động thái tăng cường vũ trang trong khu vực Theo thông tin đăng tải trên Thanh niên: Giữa lúc có nhiều quan ngại về sự phát triển quân sự của Trung Quốc, một số nước và vùng lãnh thổ đồng loạt tuyên bố tăng cường vũ trang. Từ tàu chiến… Ngày 23.8, Tổng thống Philippines Benigno Aquino tuyên bố sẽ tăng cường phòng vệ khu vực mà Manila tuyên bố chủ quyền ở biển Đông. Phát biểu này được đưa ra trong buổi lễ đón tàu chiến lớn nhất từ trước đến nay của nước này tại vịnh Manila, theo AFP. Ông Aquino nói tàu BRP Gregorio del Pilar sẽ được dùng để bảo vệ vùng đặc quyền kinh tế của Manila cũng như các hoạt động dầu khí của nước này ở biển Đông. Trước đó, Philippines cáo buộc hải quân Trung Quốc đe dọa ngư dân ở biển Đông, quấy nhiễu tàu thăm dò dầu khí cũng như cắm cột mốc ở một số đảo mà Manila tuyên bố chủ quyền, theo AFP. Ngoài ra, tờ Sunday Times ngày 22.8 dẫn lời một số quan chức giấu tên loan tin Mỹ cũng đang có kế hoạch triển khai các siêu tốc hạm tàng hình lớp Independence đến những khu vực tranh chấp trên biển Đông. Các lãnh đạo Philippines lên tàu Grogorio del Pilar ngày 23.8 - Ảnh: AFP Bên cạnh đó, Ấn Độ, vốn đang lo ngại Trung Quốc phát triển hải quân xuống vùng Ấn Độ Dương, vừa tăng cường thêm tàu chiến cho Hạm đội phía đông. Tàu hộ vệ tàng hình INS Satpura. Theo báo The New Indian Express, hải quân Ấn Độ ngày 20.8 đưa vào biên chế tàu chiến tàng hình INS Satpura. Tàu này được trang bị nhiều hệ thống vũ khí, gồm có tên lửa đối không Barak, tên lửa hành trình Klub do Nga sản xuất, vũ khí chống tàu ngầm và 2 trực thăng. ...đến tên lửa, máy bay Nhằm đối phó sức mạnh quân sự đang lên của Trung Quốc, trong thời gian qua, Đài Loan cũng liên tục thông báo phát triển vũ khí mới. Ngày 22.8, nghị sĩ Lâm Hữu Phương cho hay đảo này dành ngân sách hơn 1 triệu USD nhằm phát triển một loại tên lửa tầm xa có thể đánh trả các căn cứ quân sự dọc bờ biển đông nam của đại lục. “Như vậy Đài Loan không cần phải đưa máy bay chiến đấu đến gần mục tiêu ở đại lục và tránh được nhiều thiệt hại”, AFP dẫn lời ông Lâm đánh giá. Trước đó, nghị sĩ này cũng cho hay Đài Loan đang nghiên cứu phát triển phiên bản mới của tên lửa siêu thanh Hùng Phong III, được cho là có khả năng tiêu diệt tàu sân bay. Tên lửa siêu thanh Hùng Phong III Nhật Bản cũng không ngồi yên trước những diễn biến phức tạp trong khu vực. Mới đây, Kyodo News đăng tấm ảnh chụp cảnh lắp ráp máy bay chiến đấu F-35 trong một nhà máy của hãng Lockheed Martin tại Fort Worth (Texas, Mỹ). Nhật xúc tiến mua máy bay chiến đấu F35 Hãng tin này dẫn lời một nhân vật cấp cao của Lockheed Martin cho biết giá bán một chiếc F-35 dành cho Nhật Bản vào khoảng 65 triệu USD. Một số nguồn tin khác cho biết Tokyo có thể nhận hàng vào năm 2016. Trò đố chữ ở Biển Đông “Trung Quốc tiếp tục trì hoãn những nỗ lực đa phương để giải quyết các tranh chấp lãnh thổ. Các chính khách không tiếc lời ca ngợi và coi đó là bước đột phá ngoại giao, giới phân tích thì nhanh chóng khẳng định sự lạc quan. Nhưng trên thực tế, thoả thuận ký kết tháng trước giữa Trung Quốc và ASEAN xung quanh mối quan hệ Biển Đông lại chẳng thay đổi điều gì”. Nhà nghiên cứu tại Viện Nghiên cứu Đông Nam Á ở Singapore Barry Wain, từng là biên tập của nhật báo Phố Wall châu Á bình luận về vấn đề biển Đông, Vietnamnet trích dịch. Ngoại trưởng Mỹ và người đồng cấp Trung Quốc. Ảnh: Wall Street Journal Gặp gỡ tại Bali, hai bên đã nhất trí về tám hướng dẫn thực thi Tuyên bố Hành xử của các bên ở Biển Đông thông qua năm 2002. Trong bản tuyên bố, họ cam kết giải quyết những bất đồng một cách hòa bình, nỗ lực tự kiềm chế, và không làm gì để "phức tạp hóa hay leo thang tranh chấp". Thỏa thuận Bali có thể chỉ vì ASEAN đã từ bỏ khẳng định rằng, hướng dẫn phải được bàn thảo giữa 10 nước thành viên ở tư cách một nhóm trước khi thảo luận với Trung Quốc. Điều này về cơ bản là sự nhượng bộ vô nghĩa. Các thành viên ASEAN dù thế nào cũng tự thảo luận với nhau, thực tế là họ có bổn phận như vậy, và Trung Quốc biết điều đó. Toàn bộ thỏa thuận như một trò đố chữ làm xói mòn bất cứ tuyên bố nào cho rằng, nó là dấu hiệu của tiến triển thực sự. ASEAN và Trung Quốc giờ đây đã trở lại gần nơi họ bắt đầu khi ký kết tuyên bố, mà bản thân tuyên bố ấy không mang lại sự thỏa mãn cho một bộ quy tắc hành xử thực sự. Bắc Kinh và các nước Đông Nam Á đã lãng phí 9 năm với một kết quả không có thực tế. Họ đã lao vào một trò chơi tuyên truyền chính trị - ngoại giao hơn là nỗ lực nghiêm túc để quản lý các khả năng xung đột tại Biển Đông. Bước đi tạm thời Ông Barry Wain tiếp tục phân tích, việc thúc đẩy tuyên bố chỉ là bước tạm thời đánh dấu sự tin tưởng chính trị ở mức cao hơn giữa họ và góp phần vào hòa bình, ổn định ở Biển Đông - nơi diễn ra tuyên bố chủ quyền chồng lấn giữa Trung Quốc và bốn nước Đông Nam Á, trong đó Trung Quốc tự đưa ra tuyên bố chủ quyền lớn nhất, hầu như bao trùm toàn bộ vùng biển. Trung Quốc tự đưa ra tuyên bố chủ quyền lớn nhất, hầu như bao trùm toàn bộ vùng biển. Trong khi đó, Đông Nam Á lại đang tận hưởng những lợi ích từ việc Trung Quốc gia tăng thương mại và đầu tư thông qua một thỏa thuận tự do thương mại ký kết năm 2002. Tuyên bố đã minh chứng là không có hiệu quả. Mặc dù không một bên tuyên bố chủ quyền nào vi phạm các điều khoản xâm chiếm đảo đá hoặc đảo san hô không có người ở, nhưng một số bên lại áp dụng những cách thức khác để củng cố tuyên bố chủ quyền của mình, và gây hấn nhất chính là Trung Quốc - với bản đồ 9 đoạn khẳng định chủ quyền hầu như toàn bộ Biển Đông. Sau ít năm tương đối yên bình, căng thẳng trong khu vực lại gia tăng nguy hiểm trở lại. Trong khi đó, sứ mệnh của Nhóm làm việc chung ASEAN - Trung Quốc trong việc thực thi tuyên bố lại bị đình trệ xung quanh phản ứng của Bắc Kinh về việc ASEAN thảo luận riêng rẽ trước khi gặp gỡ với Trung Quốc. Trung Quốc khăng khăng rằng, tranh chấp Biển Đông cần được giải quyết song phương giữa các bên tuyên bố chủ quyền, chứ không theo con đường đa phương. Và quan chức ASEAN thì không hề nghi ngờ về việc Trung Quốc sử dụng vấn đề này để biện minh cho việc không thực thi tuyên bố. Vào tháng 7, khi Diễn đàn Khu vực ASEAN tới gần, tất cả các bên quyết định "chiến thuật xác định lại quan điểm và làm dịu căng thẳng khi thời gian tới gần". Và ít nhất Trung Quốc đã phải thừa nhận, dù rất khôn khéo. Họ cho phép "hồ sơ tóm tắt" cuộc gặp giữa các quan chức Trung Quốc và ASEAN bao gồm cả ghi chú rằng, ASEAN có ý định tiếp tục tham vấn giữa các thành viên. Tránh can thiệp từ Mỹ Theo ông Barry Wain, khi những hướng dẫn thực hiện tuyên bố hầu như không có tác dụng trong việc kiềm chế cách hành xử ngày một gây hấn của Trung Quốc ở Biển Đông thì sự kiềm chế đích thực với Trung Quốc là việc hiện diện của Hải quân Mỹ và cần phải có một mối quan hệ Mỹ - Trung ổn định. Sự kiềm chế đích thực với Trung Quốc là việc hiện diện của Hải quân Mỹ Mỹ đã can thiệp vào tranh chấp lãnh thổ ít nhất một lần. Năm ngoái, tại Diễn đàn khu vực ở Hà Nội, Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton tuyên bố, Mỹ có "lợi ích quốc gia" trong tự do hàng hải ở Biển Đông. Nói về thỏa thuận năm 2002, bà nói: "Chúng tôi khuyến khích các bên đạt được thỏa thuận về một bộ quy tắc ứng xử". Bắc Kinh hầu như chắc chắn nhất trí các hướng dẫn vì họ muốn trấn an ASEAN sau khi các tàu Trung Quốc dính dáng tới một số sự cố ở Biển Đông, khiến cả Việt Nam và Philippines lên tiếng phản đối mạnh mẽ. Có lẽ Trung Quốc không muốn các thành viên ASEAN khuyến khích người Mỹ can thiệp lần nữa. Mặc dù Ngoại trưởng Trung Quốc Dương Khiết Trì nói rằng, nước này sẽ bắt đầu một bộ quy tắc hành xử "ở thời gian thích hợp", nhưng quan chức Đông Nam Á vẫn hoài nghi điều đó. Họ đơn giản không tin là Bắc Kinh đã thay đổi. Thực tế là, họ cho rằng Trung Quốc lại tìm ra cái cơ khác để hoãn thực thi tuyên bố này. |
Thứ Tư, 10 tháng 8, 2011
>> Nhộn nhịp thị trường tàu ngầm Đông Nam Á
Có nhu cầu sở hữu tàu ngầm rất lớn nhưng chưa hội đủ điều kiện tự chế tạo, nên hoạt động mua sắm tàu ngầm ở Đông Nam Á diễn ra hết sức sôi động.
Thái Lan quyết định mua 2 tàu ngầm tấn công Type 206A của Đức. Sôi động nhất thế giới Các chuyên gia quân sự đánh giá, trong các cuộc đối đầu trên biển, ưu thế tác chiến và khả năng dành quyền kiểm soát chiến trường thuộc về nước sở hữu vũ khí lặn được dưới nước. Vì vậy, từ sau 2 cuộc đại chiến thế giới, vai trò tàu ngầm trong hải quân được nâng từ “vũ khí của kẻ yếu” trở thành phương tiện không thể thiếu của các quốc gia muốn vươn lên từ biển. Vị thế của lực lượng này càng trở nên nổi bật ở châu Á – Thái Bình Dương, đặc biệt ở Đông Á, nơi gần đây xuất hiện nhiều thách thức an ninh hàng hải mới. Nghiên cứu mới đây của Viện nghiên cứu hòa bình và xung đột Ấn Độ (Institute of Peace and Conflict Studies) chỉ ra: “Các quốc gia ở khu vực này có khao khát giống nhau là có thể sở hữu những chiếc tàu ngầm có khả năng chiến đấu cao”. Bên cạnh sự thúc đẩy từ nhu cầu quốc phòng, tích lũy tài chính thời gian qua cho phép các nước này mạnh dạn chi trả cho việc mua sắm tàu ngầm. Điều này khiến khu vực trở thành một trong những thị trường tàu ngầm sôi động nhất thế giới. “Chập chững” phát triển lực lượng tàu ngầm Ở Đông Á, trong khi các quốc gia Đông Bắc Á có nền tảng công nghiệp quốc phòng khá vững chắc, đã xây dựng và phát triển lực lượng tàu ngầm của riêng mình từ khá lâu thì thời gian gần đây, các quốc gia ở Đông Nam Á mới đầu tư mạnh cho lực lượng này. Có nhu cầu sở hữu tàu ngầm rất lớn nhưng chưa hội đủ điều kiện tự chế tạo nên các nước Đông Nam Á phải nhập khẩu tàu ngầm từ nước ngoài. Trong đó, bên cạnh một số nước như Singapore, Indonesia, Malaysia đã biên chế một số tàu ngầm cho hải quân, thì các nước khác như Việt Nam, Thái Lan, Philippines mới đang “chập chững” xây dựng lực lượng, thậm chí có nước mới chỉ vạch ra kế hoạch mua tàu ngầm. Điển hình nhất là Philippines. Đang phải chịu áp lực lớn từ tranh chấp chủ quyền biển đảo, quốc đảo này quyết định phải có ít nhất 1 tàu ngầm cho hải quân. Tiết lộ với Tạp chí Jane's Navy International, đại diện Hải quân Philippines cho biết nước này đang tiến hành các nghiên cứu nhằm xác định các yêu cầu đối với tàu ngầm, trên cơ sở đó, sẽ đề xuất với Bộ Quốc phòng về việc mua sắm tàu ngầm trong năm tới. Đại diện Hải quân Phillipines cho biết, hiện còn quá sớm để nói đó sẽ là một tàu ngầm mới hay cũ. Những khó khăn kinh tế của Philippines thường thúc đẩy nước này mua các loại vũ khí trang bị đã qua sử dụng. Là quốc gia đầu tiên và duy nhất sở hữu tàu sân bay ở Đông Nam Á nhưng Hải quân Thái Lan tự coi là “lạc hậu với tàu ngầm”. Hiện nay, nhu cầu sở hữu tàu ngầm của Thái Lan được nhấn mạnh bởi họ có rất ít kiến thức về nó, trong khi công nghệ được nâng cấp liên tục. Tờ Bangkok Post dẫn lời một quan chức Hải quân Thái Lan cho biết: “Một số nước láng giềng còn thanh lý cả tàu ngầm vậy mà lính hải quân Thái Lan chưa khi nào được tiếp xúc với tàu ngầm. Chúng tôi vẫn lạc hậu về công nghệ tàu ngầm”. Đến nay, Chính phủ Thái Lan đã đồng ý mua 2 tàu ngầm tấn công loại Type-206A đã qua sử dụng của Đức. Chi phí cho 2 tàu ngầm này khoảng 220 triệu USD và được thanh toán vào tài khóa 2012. Trước đó, một báo cáo đánh giá thực lực tàu ngầm các nước châu Á – Thái Bình Dương từ phía Trung Quốc cho biết, Thái Lan từng có dự định mua tàu ngầm lớp Amur của Nga hoặc lớp Tống (Song) của Trung Quốc. Hải quân Thái Lan tuyên bố, hầu hết ngân sách quốc gia cần chi cho lĩnh vực kinh tế, vì thế lực lượng này sẽ đề xuất mua tàu ngầm đã qua sử dụng. Tuy nhiên, SAMTO (Trung tâm phân tích buôn bán vũ khí quốc tế của Nga) cho biết, Thái Lan đặt hàng của Đức 6 chiếc trong giai đoạn 2013-2014. Điều này cho thấy, Thái Lan dù mới bắt tay xây dựng nhưng đang có những kế hoạch để tiến nhanh tới việc hoàn thiện lực lượng tàu ngầm. Về phía Việt Nam, trong cuộc trả lời phỏng vấn báo chí, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Đại tướng Phùng Quang Thanh, cho biết, “5-6 năm tới ta sẽ có một lữ đoàn tàu ngầm với 6 tàu hiện đại”. Đại tướng khẳng định, Việt Nam mua tàu ngầm là để tự vệ, bảo vệ hòa bình chủ quyền của đất nước. Việc mua sắm tàu ngầm của Việt Nam là để hiện thực hóa chủ trương đưa hải quân tiến thẳng lên hiện đại. Tuy nhiên, mức độ đầu tư phải căn cứ vào khả năng tài chính của đất nước. “Ta quá chú tâm trang bị mua sắm mà đời sống nhân dân khó khăn thì không thể, Đảng nhà nước hết sức thận trọng vấn đề này”, đại tướng Phùng Quang Thanh cho biết. Cái giá không hề rẻ Quả thực, việc sở hữu tàu ngầm không hề rẻ, vì ngoài khoản tiền mua tàu ngầm, chi phí xây dựng và duy trì các hạm đội cũng khá lớn. Đơn cử, Hải quân Malaysia đang biên chế 2 tàu ngầm Scorpene và chi phí để bảo trì cho các tàu ngầm này là 16,5 triệu USD/năm. Theo Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Malaysia, Abdul Latiff Ahmad chi phí trên chưa gồm tiền chi cho phụ tùng thay thế. Đó cũng chưa kể tới các chi phí sửa chữa những lỗi phát sinh trong quá trình sử dụng như trường hợp Tanka Abdul Rahman, chiếc tàu ngầm lớp Scorpene đầu tiên của Hải quân Malaysia đã không thể nổi lên sau khi lặn xuống, hay việc Singapore cải tiến các tàu ngầm lớp Challenger (lớp Sjoormen trong biên chế Hải quân Thụy Điển) nhằm thích ứng với điều kiện khí hậu sở tại. Dù vậy, các quốc gia trong khu vực chưa hề có ý định ngưng đầu tư cho lực lượng này. Một loạt các kế hoạch mua sắm lớn được vạch ra, ngay với cả các nước đã sở hữu tàu ngầm trong tay. Hải quân Malaysia đang có kế hoạch mua nhiều tàu ngầm loại nhỏ Andrsta cho các nhiệm vụ ven biển. Còn Singapore, nước có lực lượng hải quân hiện đại nhất khu vực, đang sở hữu 4 chiếc tàu ngầm đang dự tính mua 2 chiếc tàu ngầm lớp Vastergotland (cũng của Thụy Điển) để thay thế tàu ngầm lớp Challenger (mua từ 1995). Tàu ngầm Type-209, nguyên mẫu của tàu ngầm lớp Chakra của Đức. Cuối năm 2010, dù đang sở hữu 2 tàu ngầm lớp Chakra (Type-209/1200 của Đức) đã được nâng cấp bởi công ty Hàn Quốc DSME (Daewoo Shipbuilding And Marine Engineering) nhưng Indonesia vẫn bày tỏ mong muốn sớm có 39 tàu ngầm trong tương lai. Thông tin này được hãng tin Antara News dẫn nguồn tin từ Hải quân Indonesia. Theo đó, Phó tư lệnh Hải quân Indonesia, Phó đô đốc Marset cho biết, số tàu ngầm kể trên sẽ được triển khai để đảm bảo việc tuần tra lãnh hải và bảo vệ chủ quyền. Ngoài ra, Indonesia đang có kế hoạch mua bổ sung thêm 2 tàu ngầm nữa trong giai đoạn 2011-2012 bất chấp các khó khăn về kinh tế thời gian qua (kế hoạch này từng bị ngừng do thiếu tiền đầu tư). Các ứng viên cho kế hoạch này của Indonesia là tàu ngầm của Nga, Đức, Pháp, Hàn Quốc và Thổ Nhĩ Kỳ. Trong đó, 2 nhà cung cấp sau cùng có nhiều khả năng sẽ đồng ý bán tàu ngầm cho Indonesia. Theo nguồn tin quân sự Nga, một quan chức dấu tên trong chính phủ Seoul hy vọng hợp đồng với Indonesia sẽ mở đường cho tàu ngầm Hàn Quốc tiến vào khu vực Đông Nam Á bởi các quốc gia khác như Malaysia, Thái Lan cũng có kế hoạch mua tàu ngầm trang bị cho quân đội. Tốn kém nhưng dẫu sao, còn hơn có tiền mà không mua được như trường hợp Đài Loan. Mắc vào quan hệ địa chính trị phức tạp giữa Trung Quốc và Mỹ, lực lượng tàu ngầm cũ kỹ 4 chiếc của Đài Bắc đang “nằm dài” chờ ngày “hồi sinh”. Trong đó, 2 chiếc có thời gian phục vụ hơn 60 năm chỉ để huấn luyện, 2 chiếc còn lại dù không thể đảm bảo được khả năng bảo vệ lãnh hải hiệu quả nhưng vẫn phải ra khơi. Mỗi lần như vậy, Tư lệnh Hải quân và Tư lệnh hạm lại hết sức lo lắng cho số phận của thủy thủ đoàn. Tháng 10/2010, một đoàn đại biểu quân sự Đài Loan đã đến Moscow để đàm phán các vấn đề mua bán vũ khí trong đó có cả tàu ngầm điện- diesel nhưng xem chừng đây là nhiệm vụ bất khả thi. Theo phân tích thị trường tàu ngầm của nhóm dự báo Forecast International (Mỹ), đến năm 2020, đội tàu ngầm điện-diesel (SSK) thế giới sẽ được bổ sung 71 chiếc, chiếm 64% tổng số tàu ngầm được đóng trong giai đoạn 2011-2020). Chi phí đóng số tàu này ước 30,36% khối lượng thị trường. Theo báo cáo của Nga, giữ vị trí đầu tiên trong danh sách nhà cung cấp tàu ngầm mới lớn nhất thế giới là Đức (17 chiếc với tổng giá trị 6,2 tỷ USD). Trong đó, giai đoạn 2007-2010, Đức đã xuất khẩu 9 chiếc NAPL với tổng giá trị lên tới hơn 3 tỷ USD). Vị trí thứ 2 thuộc về Nga và Pháp. |
Thứ Ba, 9 tháng 8, 2011
>> Thái Lan mua 121 xe bọc thép của Ucraina
Việc Thái Lan, một trong các nước trong khu vực Đông Nam Á mua sắm vũ khí cho lục quân là điều đáng quan tâm, hơn nữa, lại là mua vũ khí “hệ hai” đối với họ.
BTR– 3E1. Trang mạng của công ty xuất khẩu vũ khí “Ukrspetsexport” thông báo, Công ty này của Ucraina đã ký hợp đồng bán 121 xe bọc thép BTR– 3E1 cho Thái Lan. Giá trị của hợp đồng là 140 triệu USD. Hợp đồng này là phần bổ sung vào thoả thuận đã ký năm 2007 bán cho Thái Lan 96 xe bọc thép. Trước đây có tin Thái Lan có dự định mua BTR– 3E1 nhờ tiền tiết kiệm được của ngân sách quốc phòng. Sau khi ký hợp đồng mua 96 xe bọc thép, một thời gian dài Thái Lan không nhận được xe. Phía Ucraina giải thích là do Đức từ chối không cung cấp cho Ucraina những phụ tùng được coi là có tính năng quân sự dùng cho xe BTR– 3E1. Vì vậy mà việc lắp ráp BTR cho Thái Lan không hoàn tất được. Đến cuối tháng 9/2010 mới bàn giao được lô hàng đầu tiên gồm 12 xe bọc thép; lô tiếp theo gồm 12 xe đã được chở đi Thái Lan tháng 4/2011. Năm 2010, Thái Lan đã tăng mạnh việc mua trang bị kỹ thuật quân sự từ Ucraina. Bộ Quốc phòng giải thích đó là do hàng Ucraina giá rẻ. Tháng 3/2011 Bộ Tư lệnh Lục quân Thái Lan quyết định mua 200 (có nguồn tin nói chỉ có 100) tăng chiến đấu cơ bản T– 84U “Thành trì” (Оплот) do Ucraina sản xuất. Giá trị hợp đồng tiềm tàng là 7 tỷ Bạt (231,1 triệu USD). Các tăng này sẽ thay thế các xe tăng M41A3 do Mỹ sản xuất đã lạc hậu. |
Thứ Bảy, 6 tháng 8, 2011
>> Trung Quốc tổ chức chiến dịch Shady RAT?
Trung Quốc đang bị cả thế giới nghi ngờ chủ mưu cuộc tấn công tin học vào 72 tổ chức, trong đó nạn nhân là các chính phủ, tập đoàn và Liên Hợp Quốc suốt 5 năm. Ngạc nhiên trước danh sách các nạn nhân Mc Afee gọi đây là “chiến dịch Shady RAT”, trong đó RAT có nghĩa là các công cụ xâm nhập từ xa. Chiến dịch này bắt đầu từ giữa năm 2006. Trung Quốc tổ chức chiến dịch Shady RAT Công ty an ninh mạng McAfee tin rằng họ đã xác định được một “quốc gia chủ mưu” đứng đằng sau các cuộc tấn công này, nhưng từ chối cung cấp danh tính cụ thể. Theo nhiều chuyên gia an ninh mạng thì mọi bằng chứng đều hướng tới Trung Quốc. Danh sách nạn nhân dài dằng dặc bao gồm các cơ quan chính phủ Mỹ, Đài Loan, Ấn Độ, Hàn Quốc, Việt Nam, Canada, tổ chức ASEAN, ủy ban Olympic quốc tế IOC, cơ quan chống Doping thế giới và hàng loạt các công ty chế tạo vũ khí, công ty công nghệ cao... Trong trường hợp của Liên Hợp Quốc, máy tính của giám đốc trụ sở tại Geneva đã bị đột nhập vào năm 2008 và theo dõi trong suốt 2 năm. Chúng tôi cũng ngạc nhiên trước danh sách dài các tổ chức đã bị đột nhập trong thời gian qua”, phó giám đốc Mc Affe – ông Dmitri Alperovitch cho biết. “Điều gì đã xảy ra với lượng thông tin khổng lồ này…vẫn là một bí ẩn. Tuy nhiên, những mảnh nhỏ thông tin đó có thể ghép thành một bức tranh lớn, giúp kẻ nắm giữ có thể giành chiến thắng trong các cuộc đàm phán. Những thông tin này rất có giá trị về mặt kinh tế”, ông Alperovitch nói thêm. Theo ông Alperovitch, McAfee đã đề nghị cơ quan luật pháp điều tra các vụ xâm nhập đối với 72 tổ chức và quốc gia này. Trung Quốc – điểm đến của mọi sự nghi ngờ Chuyên gia an ning mạng Jim Lewis của Trung tâm chiến lược và nghiên cứu quốc tế tin rằng nhiều khả năng Trung Quốc đứng sau chiến dịch này vì tất cả các thông tin bị khai thác đều mang lại lợi ích đặc biệt cho quốc gia này. Ví dụ trong trường hợp hệ thống mạng của hiệp hội Olympic thế giới và hiệp hội Olympic của các quốc gia thành viên bị đột nhập vào trước kỳ đại hội Olympic Bắc Kinh vào năm 2008. Hay các cơ quan của Đài Loan bị đột nhập khi Trung Quốc vẫn là mối đe dọa lớn nhất và luôn coi Đài Loan là một tỉnh lẻ của mình. “Mọi dấu hiệu đều hướng tới Trung Quốc. Nhưng cũng có thể là người Nga, tuy nhiên thì vẫn không đáng nghi bằng Trung Quốc”, ông Lewis nói. “Lại nói về Trung Quốc, chúng tôi đã báo cáo với quốc hội vào năm 2010 là Trung Quốc đang theo đuổi khả năng mạng với mục tiêu tập trung vào khai thác thông tin. Một trong các mục tiêu của họ là các cơ sở quân đội chiến lược”, Trung tá Không quân April Cunningham cho biết. Theo những nguồn tin không chính thức, tổng thống Mỹ coi an ninh mạng là một vấn đề chủ chốt và đang huy động mọi nguồn lực để tăng cường độ bảo mật cho chính phủ và các công ty Mỹ. Những vùng đang nằm trong “thời kỳ đồ đá” Chuyên gia mạng Vijay Mukhi của Ấn Độ cho rằng chính phủ các quốc gia Đông Nam Á rất dễ bị hacker Trung Quốc tấn công. “Tôi không ngạc nhiên trước những gì Trung Quốc đang làm. Họ đang dần dần chiếm thế thượng phong trong thế giới ảo. Tôi có thể nói rằng các hacker truy cập vào thông tin của chính phủ Ấn Độ “dễ như trở bàn tay”. Thực sự thì chúng ta đang ở trong thời kỳ đồ đá”, ông nói. Theo quan chức bộ phận bảo mật của bộ thương mại Nhật Bản, việc xác nhận chính xác một quốc gia đứng đằng sau các cuộc tấn công là rất khó khăn. Tuy nhiên, các công ty an ninh mạng có thể tìm ra nguồn gốc máy tính mà hacker sử dụng để thực hiện hành vi phạm pháp. |
Thứ Ba, 2 tháng 8, 2011
>> Murena-E trong biên chế Hải quân Hàn Quốc
Murena-E là tàu đổ bộ đệm không khí đa năng hiện đại. Cấu trúc thân tàu của Murena-E làm từ hợp kim tiên tiến. Tàu được trang bị nhiều vũ khí hơn so với các tàu đổ bộ cỡ nhỏ hiện nay. Murena-E thuộc dự án 12061E được phát triển dựa trên dự án 1206 cũ. Tàu rất phù hợp để kiểm soát cũng như bảo vệ khu vực ven biển. Các nước có tiếp giáp biển như Mỹ Latinh và khu vực Đông Nam Á…là những khách hàng tiềm năng có thể sở hữu Murena-E. Tàu được chế tạo để vận chuyển quân và vũ khí để bảo vệ ven bờ, các cảng biển và các căn cứ hải quân [BDV news] |
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)
Chuyên mục Quân Sự
Hải quân Trung Quốc
(263)
Hải quân Mỹ
(174)
Hải quân Việt Nam
(171)
Hải quân Nga
(113)
Không quân Mỹ
(94)
Phân tích quân sự
(91)
Không quân Nga
(83)
Hải quân Ấn Độ
(54)
Không quân Trung Quốc
(53)
Xung đột biển Đông
(50)
Không quân Việt Nam
(44)
tàu ngầm
(42)
Hải quân Nhật
(33)
Không quân Ấn Độ
(16)
Tàu ngầm hạt nhân
(15)
Hải quân Singapore
(12)
Xung đột Iran - Israel
(12)
Không quân Đài Loan
(9)
Siêu tên lửa
(8)
Quy tắc ứng xử ở Biển Đông
(7)
Tranh chấp biển Đông
(7)
Xung đột Trung - Mỹ
(4)
Xung đột Việt-Trung
(2)