Tin Quân Sự - Blog tin tức Quân sự Việt Nam: mao trạch đông

Paracel Islands & Spratly Islands Belong to Viet Nam !

Quần Đảo Hoàng Sa - Quần Đảo Trường Sa Thuộc Về Việt Nam !

Hiển thị các bài đăng có nhãn mao trạch đông. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn mao trạch đông. Hiển thị tất cả bài đăng

Chủ Nhật, 7 tháng 8, 2011

>> Lý Quang Diệu bàn về 'sự thách thức từ TQ'



Bài phân tích "Thách thức ở Thái Bình Dương: Sự trỗi dậy của Trung Quốc" của nguyên thủ tướng Singapore Lý Quang Diệu được đăng tải trên tạp chí Forbes.

Trong suốt hơn nửa thập kỷ qua – kể từ khi cuộc chiến tranh ở Hàn Quốc vào năm 1953 và chiến tranh ở Việt Nam vào năm 1975 kết thúc – sự hiện diện của Mỹ ở Tây Thái Bình Dương được nhiều người đánh giá là đã mang lại sự ổn định và an ninh cho khu vực. Đây cũng là động lực kích thích phát triển kinh tế với nhiều nguồn đầu tư và thương mại. Singapore là một ví dụ điển hình. Từ những năm 1960, Đảo quốc Sư tử này đã có những sự phát triển nhanh chóng. Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) tăng từ 974 triệu USD vào năm 1965 lên 223 tỷ USD vào năm 2010. Trong cùng giai đoạn, thu nhập đầu người tăng từ 516 USD lên gần 44.000 USD.

http://nghiadx.blogspot.com

Ông Lý Quang Diệu.


Tuy nhiên, vị trí thống trị của Mỹ trong khu vực đang gặp phải thách thức lớn từ phía Trung Quốc, một đất nước mà sự tăng trưởng về kinh tế thời gian qua được đánh giá là sự kiện ấn tượng nhất của thế kỷ 21. Với sự kết thúc của cuộc Cách mạng văn hóa (1966-76), thời kỳ khó khăn triền miên của Mao Trạch Đông nhằm tạo ra một sự nhiệt tình cách mạng mang tính bất diệt đã dần đi vào quên lãng. Chính Đặng Tiểu Bình, nhà lãnh đạo theo chủ nghĩa thực dụng vốn được ví như kiến trúc sư của những cải cách kinh tế ở Trung Quốc, mới được coi là người phục lại sự ổn định và phát triển của đất nước này. Khi còn là Phó thủ tướng, ông này đã từng có chuyến thăm Singapore vào năm 1978. Đây là chuyến thăm bổ ích vì ở đây, ông đã khám phá ra lý do tại sao một hòn đảo không có tài nguyên thiên nhiên như Singapore lại có thể phát triển nhanh chóng nhờ vào việc bắt tay hợp tác với các nước phát triển, thu hút đầu tư từ các tập đoàn đa quốc gia và thiết lập các trung tâm hậu cần và ngành dịch vụ, trong đó bao gồm những dịch vụ tài chính tối quan trọng.

Khi Đặng Tiểu Bình trở về Trung Quốc vào tháng 12, Chính phủ Trung Quốc đã cho thông qua chính sách “mở cửa”. Đây là tiền đề cho việc hình thành bốn đặc khu kinh tế ven biển vào năm 1980, trong đó đầu tư nước ngoài và tự do thương mại được khuyến khích. Các đặc khu kinh tế này đã mang lại những thành công to lớn cho nền kinh tế TQ và là động lực để thủ tướng Chu Dung Cơ đưa ra chính sách mở cửa đất nước nhằm thu hút đầu tư và thương mại vào năm 2001, thời điểm Trung Quốc trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới.
Mỹ hiện nay đang phải đối mặt với một Trung Quốc mà theo dự đoán GDP của nước này có thể sẽ vượt qua Mỹ trong vòng 20 năm tới. Nhiều người cho rằng, Mỹ nên chào đón Trung Quốc để nước này tham gia vào việc giải quyết các vấn đề của thế giới, đặc biệt là việc giải quyết vấn nạn nghèo đói của các nước đang phát triển.

Mỹ và Trung Quốc cũng đã thiết lập Đối thoại Chiến lược và Kinh tế Mỹ - Trung nhằm đưa ra các biện pháp chống lại sự cạnh tranh ở khu vực Châu Á Thái Bình Dương. Mỗi nước cũng chủ động tìm kiếm đồng minh ở khu vực, trong khi vẫn tái khẳng định cam kết về một mối quan hệ bền chặt và hợp tác. Mỹ đã và đang tăng cường mối quan hệ với Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc và ASEAN. Trong khi đó, mặc dù Nhật Bản, Ấn Độ và Australia tỏ ra quan ngại trước những tham vọng và sự cương quyết của Trung Quốc, nhưng các nước này cũng muốn duy trì mối quan hệ tích cực với Trung Quốc.

Các chuyên gia còn cho rằng, để đi đến sự ổn định ở Thái Bình Dương sẽ cần phải có một sự cân bằng về quyền lực, khi mà Mỹ và Nhật ở cùng một phe trong khi Trung Quốc lại ở một phe khác. Bên cạnh đó, Ấn Độ cũng là một trong những nước mới nổi đáng chú ý nhất tại khu vực. Dân số Ấn Độ hiện nay vào khoảng 1,2 tỷ người và sẽ dân số Ấn Độ sẽ vượt qua Trung Quốc trong khoảng 20 năm nữa. Tốc độ phát triển kinh tế của Ấn Độ thời gian vừa qua khá ấn tượng, và cùng với Trung Quốc, Nhật Bản và các nước ASEAN, trung tâm kinh tế sẽ dần chuyển dịch từ Đại Tây Dương sang Thái Bình Dương. Thương mại và đầu từ giữa Mỹ và các nước Đông Á (Trung Quốc, Nhật Bản, ASEAN và Ấn Độ) sẽ vượt qua thương mại và đầu tư giữa Mỹ và Châu Âu.

Mỹ sẽ tiếp tục giữ vị thế dẫn đầu trong lĩnh vực công nghệ cao. Trong khi đó, Trung Quốc sẽ cần phải tiếp cận thị trường, thương mại, đầu tư, công nghệ cũng như xã hội mở và các trung tâm giáo dục đại học của Mỹ. Trung Quốc đưa hàng nghìn nhân tài tới Mỹ để nghiên cứu, sống và làm việc tại các viện nghiên cứu của Mỹ. Nước này muốn thiết lập những viện tương tự, thúc đẩy sáng tạo và đổi mới, ở Trung Quốc. Nhưng Trung Quốc cũng sẽ phải mất hàng thập kỷ mới có thể theo kịp Mỹ.

Năm 1949, sau 250 năm hỗn loạn, Mao Trạch Đông đã thống nhất Trung Quốc và tuyên bố “Người Trung Quốc đã đứng lên”. Nếu Trung Quốc có thể duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình hơn 10% mỗi năm thì nước này sẽ sớm vươn lên ngang hàng cán cân quyền lực với các nước lớn.

Chủ Nhật, 17 tháng 7, 2011

>> Cách tiếp cận chiến tranh của Trung Quốc (P1)



"Chiến lược ngoại biên tổng thể" trong trường hợp Trung Quốc nghĩa là những hành động quân sự chủ động được tiến hành dọc theo một số chiến trường, trong đó bao gồm cả các quốc gia có biên giới biển.


"Chiến lược quân sự ngoại biên tổng thể" (da zhoubian guojia junshi zhanlue) là một thuật ngữ mới được các nhà nghiên cứu Trung Quốc thường xuyên sử dụng. Lần đầu tiên, thuật ngữ này xuất hiện trong một bài viết đăng trên tờ báo xuất bản hàng ngày bằng tiếng Trung Quốc, Đại Công báo (Ta Kung Pao) vào ngày 24/9/2009. Nó thể hiện thái độ hồ nghi về năng lực thực sự của Quân Giải phóng Nhân dân trong việc bảo vệ các biên giới xa xôi.

Những quan điểm này sau đó còn được thể hiện lại trên một tờ báo hàng ngày xuất bản bằng tiếng Trung khác có trụ sở đặt ở Hồng Công, Jing Bao vào ngày 29/1/2010.

Bởi nội dung này liên quan đến yếu tố địa chính trị của nhiều quốc gia có chung đường biên giới với Trung Quốc, nên nó đòi hỏi phải có một sự nhận thức đúng đắn trong lĩnh vực học thuật.

Ba tháng sau, khái niệm này tiếp tục được đề cập đến trong một bài thuyết trình của Chen Xiangyang, một nhà nghiên cứu của Viện Quan hệ Quốc tế Đương đại Trung Quốc (CICIR). Ông lý giải động cơ và tính cấp thiết của việc xây dựng một chiến lược cho Trung Quốc trong bối cảnh địa chính trị đang có những thay đổi chóng mặt ở khu vực Trung Á, Nam Á, Đông Nam Á, và Đông Bắc Á. Sau này, ông tìm thấy độc giả trong hàng ngũ những sĩ quan cấp cao cả đang phục vụ và đã nghỉ hưu của Quân Giải phóng Nhân dân (PLA), trong đó bao gồm cả những đại biểu đến dự cuộc họp thường niên vừa mới bế mạc của Ủy ban quốc gia về Tư vấn Chính trị của Nhân dân Trung Quốc (CPPCC). Đáng chú ý trong số các đại biểu này có Phó Đô đốc Yin Zhou và Thiếu tướng Luo Yuan.



Ảnh China Daily


Một vài nhà quan sát Trung Quốc, trong đó có cả Christina Lin nhìn nhận động thái của Trung Quốc trong việc mở rộng các tuyến đường sắt cao tốc, và trang bị cho trên 1.000 nhà ga xe lửa với các phương tiện vận tải quân sự như là một bước đi theo định hướng này.

Các nhà phân tích dường như coi sự dính líu của Tổng cục Hậu cần (GLD) của PLA đến việc thiết kế, lên kế hoạch và thực hiện các dự án đường sắt chạy qua các khu vực chiến lược là một minh chứng cụ thể.

Quyết định sử dụng chuyến tàu tốc hành Thượng Hải - Nam Kinh của PLA để vận chuyển binh lính trở lại đơn vị vào tháng 11/2010 được đánh giá như là một bước thử nghiệm của ý định triển khai nhanh trong vài giờ.

"Chiến lược ngoại biên tổng thể" trong trường hợp Trung Quốc nghĩa là những hành động quân sự chủ động được tiến hành dọc theo một số chiến trường, trong đó bao gồm cả các quốc gia có biên giới biển. Bất chấp những tuyến đường sắt cao tốc đã được xây dựng ở Tây Tạng và dự kiến sẽ được kết nối với Nepal, trong vấn đề này, các kế hoạch mở rộng mạng lưới đường sắt trong tương lai đến các quốc gia khác nằm trong phạm vi ngoại biên của Trung Quốc sẽ chỉ thu được những kết quả nghèo nàn bởi một số lý do. Bởi vậy, người ta kêu gọi một sự cải cách trong lĩnh vực học thuyết. Trong một thế giới đa cực tương lai, điều này chỉ có thể thực hiện được thông qua sự đầu tư mạnh mẽ. Bởi Trung Quốc hiện nay đang đứng bên phải của cán cân quyền lực quốc tế đang biến đổi, những thay đổi trong giải pháp quân sự đơn phương không thể bị loại trừ hoàn toàn.

Bài viết này đi sâu vào tìm hiểu động cơ mà Trung Quốc xây dựng "Chiến lược ngoại biên tổng thể", cũng như tất cả những hàm ý chiến lược của chiến lược này. Được thừa kế một văn hóa chiến lược đặc trưng, xây dựng dựa trên nền tảng khái niệm của Shi, được coi là một biện pháp để làm dịch chuyển cán cân quyền lực chiến lược, các học giả Trung Quốc hiếm khi có những phát ngôn thiếu chính xác. Do vậy, việc các phương tiện truyền thông đề cập đến vấn đề này theo cách thức đó là kiểu "đánh lừa chiến lược" (Zhanlue Zhali) của Trung Quốc đối với thế giới nói chung. Phương pháp này rất giống với quan điểm chiến lược "đánh lừa đối phương" (bing yi zha li) của Tôn Tử.

Văn hóa chiến lược này của Trung Quốc cũng là một trong những nội dung được thể hiện qua các câu chuyện dân gian kể về Gia Cát Lượng (Zhuge Liang). Sự im lặng, bao gồm cả việc thiếu vắng một khái niệm trong cuốn Sách Trắng vừa mới được công bố, "Quốc phòng Trung Quốc năm 2010", là điều không thể chấp nhận được.

Cứ lần nào mà Trung Quốc đạt được thành tựu về kinh tế và quân sự, nước này lại sửa đổi học thuyết. Sự tâng bốc mà các phương tiện truyền thông giành cho khái niệm này vì vậy có thể được nhìn nhận như là một kết quả tất yếu nhưng đầy toan tính của quá trình trỗi dậy của Trung Quốc cả với tư cách của một cường quốc kinh tế và quân sự.

Nói tóm lại, bài viết này tập trung vào: Cơ sở học thuyết và động cơ của chiến lược này; những nhược điểm trong quá trình chuyển hướng chiến lược; và những biện pháp đối phó với ý đồ chiến lược này của Trung Quốc. Những giả thiết của nghiên cứu này gồm: sự chuyển hướng chiến lược của Trung Quốc từ phòng thủ sang tấn công là một sản phẩm của quá trình phát triển về kinh tế và quân sự; giới lãnh đạo đất nước Trung Quốc đều nhận thức được những sai lầm nên phần lớn các bài viết trên các phương tiện truyền thông hiện nay đều thiếu cơ sở để đi đến các kết luận cuối cùng; và các nước ở khu vực ngoại biên không có đủ điều kiện để tham gia chiến lược.

Cơ sở học thuyết và động cơ của chiến lược

Các thế hệ lãnh đạo kế tiếp nhau của Trung Quốc trong đó gồm cả Hồ Cẩm Đào được cho là tiếp tục phát triển văn hóa chiến lược sẵn sàng cho chiến tranh (parabellum). Trong văn hóa chiến lược này, khái niệm tuyệt đối linh hoạt (Quan Bian) là một yếu tố quyết định quan trọng. Nó được khắc họa tinh tế trong các nguyên tắc căn bản trong khái niệm của Shi (lợi thế chiến lược).

Khái niệm này mang lại cho giới lãnh đạo Trung Quốc một cách thức linh hoạt trong việc hoạch định chiến lược liên quan đến các yếu tố thời gian, địa điểm, sử dụng lực lượng và kế sách để khuếch trương các nguồn lực còn hạn chế và ngăn chặn đối phương chiếm mất lợi thế thông qua tấn công quân sự hoặc xóa bỏ hệ tư tưởng.

Khái niệm này được phát triển dựa trên quan điểm của Tôn Tử "chiến tranh là một chức năng quan trọng của nhà nước".

Theo như một nghiên cứu của Michael D. Swaine và Ashley J. Tellis đã chỉ ra, Trung Quốc cố gắng sử dụng các biện pháp răn đe và/hoặc hòa bình để hoặc tăng cường bảo vệ nước này trước nguy cơ ngoại xâm hoặc thôn tính các nước ở ngoại biên trong kỷ nguyên của quyền lực và hiện đại dựa trên sự tính toán toàn bộ các lợi thế so sánh của nước này. Sự phát triển và suy tàn của quyền lực và ảnh hưởng đối với các nước ở sát biên giới và khu vực ngoại biên đã luôn là một nhân tố dẫn đến sự thăng trầm của sức mạnh tổng hợp của Trung Quốc (CNP).

Trong lịch sử, nước này đã từng sử dụng vũ lực quân sự trong khi đang đứng ở một vị thế mạnh để giải quyết những bất đồng trong quan hệ, để xâm chiếm các khu vực lãnh thổ và để ngăn chặn hoặc đánh bại các cuộc tấn công từ khu vực ngoại biên.

Văn hoá chiến lược tạo ra các khuynh hướng hay xu hướng. Vì vậy, rõ ràng nó có vai trò trong việc hình thành thái độ và hành vi. Đây là lý do giải thích tại sao đất nước Trung Quốc dưới thời Quốc dân đảng hay Đảng Cộng sản đều không có sự khác biệt trong vấn đề này. Cho dù chỉ đạt được những thành công hạn chế trong giai đoạn 1911-1935, Trung Quốc dưới thời Quốc dân đảng đã tiến hành các chiến dịch quân sự ở Tây Tạng, Tân Cương và Mông Cổ để xây dựng các vùng đệm vững chắc chống lại các cường quốc Anh và Nga ở khu vực ngoại biên.

Đi ngược lại với tất cả các yếu tố xã hội, văn hoá, ngôn ngữ và lịch sử hiện thời, những người theo chủ nghĩa dân tộc lấy cớ có quyền thống trị và/hoặc quyền cai quản nhất định của hoàng đế cuối cùng triều Thanh để bào chữa cho hành động phiêu lưu của mình.

Trong những năm 1950, 1960, và 1970, dưới thời kỳ chủ nghĩa cộng sản, Trung Quốc lại một lần nữa tiến hành các chiến dịch tương tự ở khu vực ngoại biên với một loạt những mục tiêu quân sự và chính trị, từ chính thức thành lập một khu vực ngoại biên mà đã tồn tại trong suốt triều đại nhà Thanh và giai đoạn đầu nền Cộng hoà đến xâm lược chủ quyền nước khác như Ấn Độ và Việt Nam.

Dẫu vậy, người ta có thể thấy những khác biệt trong trường hợp của chính sách, một chức năng của một loạt những yếu tố bao gồm cả công nghệ. Những theo đuổi liên tục của Trung Quốc trong việc cải cách chiến lược quân sự trong sáu thập kỷ qua đã chứng minh cho giả thiết này.

Trong khi là một bộ phận không thể thiếu được của tư duy chiến lược của Trung Quốc, vỏ bọc học thuyết của "chiến lược ngoại biên" của Trung Quốc đang dần cho thấy tính không rõ ràng của nó. Đây lại là một bước đi có tính toán của giới lãnh đạo Trung Quốc, gắn liền quá khứ chiến lược của họ, được thể hiện qua hai phép ẩn dụ, Vạn lý Trường Thành và Thành trống (kong yanwuting), những biểu tượng của sự kết hợp giữa những cái yếu và cái mạnh.

Có một sự thay đổi rõ ràng về nghĩa của những khái niệm chính trong các công trình nghiên cứu của các học giả Trung Quốc ở cả bốn cấp độ dự báo chiến lược - tư tưởng quân sự (junshi sixiang), chiến lược quân sự (junshi zhanlue), chiến dịch quân sự (junshi Zhanyi) và chiến thuật quân sự (junshi zhanshu).

Trong suốt một thời gian dài cho đến tận các nghị quyết năm 1985 của Quân uỷ Trung ương (CMC) mà đã thể hiện sự ủng hộ với quan điểm của Đặng Tiểu Bình lấy "chiến tranh cục bộ" (jubu zhanzheng) để đối phó với chiến tranh tổng lực (quanbu zhanzheng), các nhà nghiên cứu Trung Quốc đã không dự báo vượt ra khỏi khuôn khổ của những quy tắc của Chiến tranh nhân dân (renmin zhangzheng) và Phòng ngự tích cực (jiji fangyu). Có lẽ cũng không còn giải pháp thay thế nào khác.

Nền kinh tế yếu kém của Trung Quốc chắc hẳn không đủ khả năng trang bị thích hợp cho 2,8 triệu quân của Quân giải phóng nhân dân (PLA). Chiến lược chiến tranh nhân dân kêu gọi sự ủng hộ của đông đảo quần chúng nhân dân và một chiến lược ba giai đoạn được tiến hành kết hợp với lấy chiến tranh du kích (youji zhanzheng) làm phương thức đấu tranh chính.

Mao Trạch Đông định nghĩa Phòng ngự tích cực trái với Phòng ngự bị động. Trong tác chiến, Phòng ngự tích cực nghĩa là giành thế chủ động tấn công trước. Căn cứ vào cách phân tích "mạnh-yếu" của Tôn Tử, chiến lược này cho phép Trung Quốc làm cái điều bất đắc dĩ phải làm.

Tất cả các chiến dịch quân sự của Trung Quốc trong quá khứ, kể cả Chiến tranh Trung-Ấn năm 1962, về mặt lý thuyết đã đặt nền móng cho sự ra đời của chiến lược ngoại biên này. Hiện tượng thay đổi, kéo theo sự minh bạch tương đối trong lời nói và hành động, là kết quả của một cuộc tranh luận khốc liệt khi đứng trước một loạt những phát triển, mặc dù chỉ diễn ra trong phạm vi của các mục tiêu quân sự quốc gia đã được định sẵn.

Khoa học Chiến lược Quân sự (zhanluexue), do Học viện Khoa học Quân sự (AMS) giới thiệu năm 1987, là một phương thức tiếp cận chiến lược "chiến tranh cục bộ" với mục đích tấn công, dựa trên Chiến tranh nhân dân trong điều kiện mới, kết hợp giữa chiến tranh chiến hào và chiến tranh chớp nhoáng với tác chiến phối hợp quân binh chủng để đối phó với cuộc xâm lược có thể xảy ra từ phía Liên Xô.

Ngược lại, phiên bản năm 1999 của Khoa học Quân sự đã đề cập đến một phương thức tiếp cận chiến lược bao trùm hơn dựa trên việc chuẩn bị tiến hành một loạt những "cuộc chiến tranh cục bộ trong điều kiện công nghệ hiện đại" (gaojishu tiaojian xia jubu zhanzheng) mà rất khác nhau về mục đích, cường độ và tính chất ác liệt. Hai công trình nghiên cứu khác trong năm đó, một của Đại tướng Zhang Wannian và một của Đại tướng Ma Baoan lần lượt có tiêu đề là Các vấn đề quân sự thế giới đương đại và Quốc phòng Trung Quốc (Dangdai Shijie Junshi Yu Zhongguo Guofang) và Hướng dẫn nghiên cứu lý thuyết chiến lược (Zhanlue Lilun Xuexi Zhinan), là những sự bổ sung khía cạnh công nghệ cho luận điểm này.

Những bài phê bình về Chiến tranh vùng Vịnh 1991 và Kosovo 1999 thay vào đó sẽ là những minh chứng sống động. Việc Mỹ tăng cường "chiến lược con trăn" và tranh giành những gì tốt đẹp nhất của hai thế giới thông qua việc sử dụng có chọn lựa "Học thuyết Monroe", chính sách "Mở cửa", và "Học thuyết Truman" được các giảng viên trích dẫn như là một ví dụ tiêu cực trong việc xác định mục tiêu cho chiến lược. Hướng dẫn nghiên cứu lý thuyết chiến lược (Zhanlue Lilun Xuexi Zhinan), do Đại học Quốc phòng Trung Quốc xuất bản năm 2002, thể hiện quan điểm nhất quán của các nhà nghiên cứu Trung Quốc về bản chất và đặc điểm của khái niệm "chiến tranh cục bộ trong điều kiện công nghệ cao hiện đại".

[TuanVietnamnet news]


Thứ Năm, 17 tháng 2, 2011

>> Vì sao Trung Quốc chậm tiến công đảo Hải Nam?



Tháng 4/1950, PLA đổ bộ lên đảo Hải Nam đuổi quân quân đội của Tưởng Giới Thạch chạy về Đài Loan. PLA đã mất hơn 6 tháng để chuẩn bị cho trận đánh này.

Năm 1949, sau khi kết thúc hai trận chiến tại Quảng Đông và Quảng Tây, Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA) xây dựng căn cứ tại Bán đảo Lôi Châu nhằm chuẩn bị cho việc giải phóng đảo Hải Nam. Vấn để đặt ra là tại sao phải đến 3/1950 mới có thể tiến hành giải phóng đảo Hải Nam trong khi đó hai trận Quảng Đông và Quảng Tây lại kết thúc một cách nhanh chóng.

Một chuyên gia quân sự Trung Quốc đưa ra ba luận điểm chính để giải thích điều này:

Thiếu tàu vượt biển
Khi PLA đến đảo Lôi Châu thì tất cả các tàu thuyền đã bị Quốc Dân Đảng lấy đi hoặc phá hủy, dọc bờ biển chỉ còn lại đống đổ nát. Mặc dù tàu thuyền của các ngư dân trong khu vực đã giải phóng có thể đáp ứng một phần nhưng những ngư dân này chưa giác ngộ cách mạng nên không cung cấp tàu thuyền cho quân giải phóng.



Thuyền gỗ vượt biển của PLA. Ảnh tư liệu.
Trước tình hình đó, Sư đoàn số 43 PLA đã tổ chức các đội tìm kiếm, chế tạo tàu thuyền để làm phương tiện di chuyển quân.

Vào thời điểm đó thì đây là một nhiệm vụ khó khăn vì thời gian gấp, thiếu kinh phí, kinh nghiệm, rào cản ngôn ngữ cũng hạn chế việc thực thi nhiệm vụ và bộ máy làm việc vẫn chưa được kiện toàn…

Mất một khoảng thời gian dài lực lượng bộ đội ở đây mới tạo được một số tàu để phục vụ việc đổ bộ quân. Sau đó lại mất thêm một khoảng thời gian nữa để sửa chữa cải tiến các con tàu này. Mặc dù chất lượng tàu vẫn không cao.

Thiếu kinh nghiệm tác chiến trên biển
Đại đa số lực lượng của PLA tham gia tiến công đảo Hải Nam đến từ phương bắc, chưa từng chiến đấu trên biển, không tinh thông thủy tính, không có các công cụ cơ giới phục vụ chiến đấu trên biển do đó phụ trách chiến dịch, tư lệnh BNinh đoàn 15, Đặng Hoa đã phải tổ chức một cuộc họp. Thông qua đó, ngày 27/12/1949 đã liên lạc với Mao Trạch Đông xin chỉ thị lùi thời gian giải phóng. Đồng thời, bày tỏ ý định đưa một bộ phận không quân hiệp đồng tác chiến.

Ngày 31/12/1949, Mao Trạch Đông đồng ý và quyết định tạm hoãn nhưng đến trước Tết âm lịch phải giải phóng đảo Hải Nam. Tuy nhiên, Đặng Hoa cảm thấy thời gian chuẩn bị vẫn chưa đủ, đặc biệt là không có sự giúp đỡ của lực lượng không quân càng làm cho vấn đề thêm phức tạp.


Quân đội Trung Quốc tập luyện chiến thuật trên biển trước khi tiến hành giải phóng đảo Hải Nam. Ảnh tư liệu
Căn cứ theo tin tình báo, Đặng Hoa biết rằng, quân đội Quốc Dân Đảng có 40 máy bay chiến đấu, có thể hỗ trợ trực tiếp từ không trung điều này càng làm tăng thêm sự khó khăn trong quá trình vượt biển.

Lực lượng pháo binh không những không di chuyển được mà còn không thể kiểm soát được vùng biển. Trong khi đó lực lượng Quốc Dân Đảng có tàu chiến, máy bay chiến đấu trên biển.

Đặng Hoa nhận đinh, cơ hội thành công gần như không có vì: Không có sự hỗ trợ của không quân, vượt biển bằng thuyền gỗ, khoảng cách lại quá xa, thủy tính không tinh thông, lực lượng lục quân đơn độc chống lại sự kết hợp ba quân chủng của Quốc Dân Đảng.

Trước tình hình này, Đặng Hoa cử Hồng Học Trí xuống phương bắc báo cáo tình hình với Lâm Bưu và yêu cầu hoãn lại thời gian giải phóng.

Tâm lí nặng nề sau trận Kim Môn
Ngày 15/10/1949, Binh đoàn số 10 tiến hành tấn công Hạ Môn, trải qua 2 ngày đêm chiến đấu quân Quốc Dân Đảng đã thất thủ, Hạ Môn được giải phóng. Đối với Trận đánh Hạ Môn mà nói, đây là thắng lợi lớn nhất trong lịch sử, sĩ khí của binh lính được nâng cao tạo tiền đề cho cuộc giải phóng đảo Kim Môn.

Do người phụ trách tiền tuyến của binh đoàn 28 không nắm bắt được rằng đại đa số các thuyền viên không phải là người bản địa, không thông thạo địa hình biển, cũng không nắm bắt được khả năng và trang bị của lực lượng quân Quốc Dân Đảng nên đã đưa ra một sự lựa chọn sai lầm, tổ chức chia quân đổ bộ thành 6 nhóm khoảng 13.000 người di chuyển theo từng lớp, lớp trước thiệt hại thì lớp sau có thể sử dụng tàu thuyền còn lại.


Thất bại tại Kim Môn đã ảnh hưởng nặng nề tới việc giải phóng đảo Hải Nam. Ảnh tư liệu.
Quân Quốc Dân Đảng đã sớm bố trí tại Kim Môn khoảng 30.000 người cùng với sự hỗ trợ của nhiều xe tăng bọc thép chống đổ bộ do Mỹ cung cấp. Việc tấn công Kim Môn hoàn toàn thất bại.

Sự thất bại này đã tạo thành ảnh hưởng to lớn tới tâm lí quân giải phóng khi chiến đấu trên biển. Do vậy lực lượng quân đóng tại Lôi Châu đã phải tiến hành huấn luyện các chiến thuật tác chiến trên biển như: Huấn luyện bơi, thực hành đánh tàu, các chiến thuật đổ bộ…

Ba lí do trên đã làm cho việc giải phóng đảo Hải Nam bị trì hoãn tới tháng 3/1950.

(Military Ouhua)

Copyright 2012 Tin Tức Quân Sự - Blog tin tức Quân Sự Việt Nam
 
Lên đầu trang
Xuống cuối trang