Tin Quân Sự - Blog tin tức Quân sự Việt Nam: Hồ sơ mật

Paracel Islands & Spratly Islands Belong to Viet Nam !

Quần Đảo Hoàng Sa - Quần Đảo Trường Sa Thuộc Về Việt Nam !

Hiển thị các bài đăng có nhãn Hồ sơ mật. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Hồ sơ mật. Hiển thị tất cả bài đăng

Chủ Nhật, 29 tháng 4, 2012

>> "Không đầu hàng, chúng ta sẽ dùng vũ khí hạt nhân"


Nhiều người vẫn được nghe kể chuyện MiG-25R khuấy đảo bầu trời Tel Aviv (1973) bằng tốc độ siêu kinh hoàng Mach 3. Tuy nhiên, nguồn gốc phi vụ ấy lại ít được biết đến.




Nhiều người vẫn còn nhớ như in cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba (1962) đặt nhân loại trước bờ vực thảm họa hạt nhân. Tuy nhiên, vẫn còn một cuộc khủng hoảng khác có nguy cơ biển thành thảm họa quy mô toàn cầu nếu không được ngăn chặn kịp thời. Đó là cuộc khủng hoảng Trung Đông, diễn ra cách đây vừa tròn 35 năm.

Thời kỳ đối đầu giữa khối XHCN và TBCN đã được gọi tên là “Chiến tranh lạnh”. Sự đối đầu không chỉ diễn ra giữa Mỹ và Liên Xô mà còn ở những đất nước, hoặc những khu vực cách Moscow và Wasington rất xa. Trung Đông là một trong những khu vực chịu ảnh hưởng của bối cảnh địa chính trị như vậy.

Israel ngủ quên sau chiến thắng

Chiến thắng vang dội trước Quân đội Ai cập trong cuộc chiến tranh Sáu ngày (năm 1967) làm mê muội ban lãnh đạo cao cấp nhất của Israel, chính họ đã đi đến kết luận, người Arab đã mất khả năng tấn công và trong tương lai gần không có khả năng khôi phục lại lực lượng vũ trang của mình.

Tâm lý say sưa với chiến thắng nhanh chóng chuyển sang tự mãn. Không ít các thông báo của các điệp viên về sự phục hồi nhanh chóng của các lực lượng vũ trang Ai Cập bị cho là không chính xác, thậm chí còn bị coi là "thất bại chủ nghĩa".

http://nghiadx.blogspot.com
Israel giành được những vùng lãnh thổ rộng lớn sau cuộc chiến 6 ngày. (Phần lớn vùng đất này được trao trả trong giai đoạn 1975-1982).

 Thủ tướng Israel khi đó là bà Golda Meir, dưới sự bảo trợ của "ông anh" Mỹ, càng tin tưởng vững chắc vào khả năng bách chiến bách thắng của đất nước và bỏ qua các nguyên tắc của Niccolo Machiavelli, bậc thầy về ngoại giao bí mật thời trung cổ châu Âu. Theo đó, “Các chính trị gia của đất nước chiến bại có nhiều điểm chung với những đứa trẻ con: tự mình gây ồn ào để chứng minh, trong căn phòng của trẻ con mọi thứ đều theo trật tự, sự im lặng của chúng thường lại gây nên nghi ngờ”.

Thật vậy, chính phủ của Nasser, và sau đó là Sadat, mặc dù mất bán đảo Sinai và mất kiểm soát kênh đào Suez, thậm chí không sử dụng diễn đàn Đại hội đồng Liên Hợp Quốc để vận động cho quyền lợi của mình.

Trong khi đó, các cố vấn tình báo Liên Xô tại Ai Cập đã phát triển một kế hoạch thông tin đánh lừa người Israel. Kể từ năm 1970, người Ai Cập đã bắt đầu triển khai kế hoạch. Mỗi ngày họ cung cấp cho các nhà báo phương Tây đang có mặt ở Cairo những thông tin sai lệch về tình hình quân đội, tình trạng tâm lý của binh sĩ, đặc biệt nhấn mạnh tới việc họ không có khả năng làm chủ và kiểm soát các trang thiết bị quân sự của Liên Xô.

Mục đích của hoạt động kể trên là nhằm tạo cho ban lãnh đạo Israel sự hình dung sai lệch về mối nguy hiểm thật sự và thuyết phục người Israel tin rằng, người Arab cam chịu thất bại và sẽ hành động theo điều răn của Đấng tiên tri Mohammed: "Cứ ngồi trên bậc thềm nhà mình và hãy chờ đợi rằng, nước của con mương sẽ cuốn hết đi xác chết kẻ thù của bạn…"

Người Ai Cập đã kiên trì "giả ốm đau" suốt 6 năm, để tới năm 1973, họ khôi phục hoàn toàn và trang bị thêm các vũ khí tấn công hiện đại nhất của Liên Xô. Cùng với đó, nhiều sĩ quan Liên Xô từng cố vấn tại Việt Nam, trực tiếp tham gia chỉ huy các đơn vị Quân đội Ai Cập.

Tháng 9/1973 Giám đốc cơ quan tình báo quân sự Israel Elia Zeira bỏ qua thông tin tình báo về sự sẵn sàng báo thù của quân đội Ai Cập và Syria. Giám đốc CIA William Colby cũng có hành động tương tự như vậy, bất chấp thực tế là các vệ tinh quân sự ghi nhận sự di chuyển các đơn vị Quân đội Ai Cập tới biên giới Israel.

"Không đầu hàng, chúng ta sẽ dùng vũ khí hạt nhân"

Sáng ngày 5/10/1973 bắt đầu chiến dịch được hoạch định bởi các tướng lĩnh Ai Cập và Bộ Tổng tham mưu các Lực lượng Vũ trang Liên Xô dưới mật danh “Ubur” (băng qua thác nước).

Quân đội Ai Cập vượt qua kênh đào Suez, còn Quân đội Syria tấn công các đơn vị Israel tại cao nguyên Golan. Cả hai đội quân tiến về Tel-Aviv và tạo thành gọng kìm bao vây chặt thủ đô của Israel.

Không phải tình cờ mà ngày này được chọn làm ngày mở màn chiến dịch tấn công. Ngày 5/10 là ngày lễ truyền thống của người Do Thái (Day of Judgment – Ngày phán xét). Vào ngày này, tất cả tín đồ Do Thái chính giáo đều phải đến nhà thờ sám hối cho những tội lỗi đã gây ra trong năm.

Nhờ nắm được yếu tố bất ngờ, quân đội Arab đã gây tổn thất lớn cho các đơn vị quân đội Israel: 3.000 binh lính và sĩ quan bị giết, hơn 900 xe tăng và khoảng 200 máy bay bị phá hủy. Đối với Israel đây là mất mát ngoài sức tưởng tượng về vật chất và nhân mạng.

http://nghiadx.blogspot.com
Cuộc chiến "Ngày phán xét" (Yom Kippur) năm 1973, Israel ở vào thế "lưỡng đầu thọ địch".


Sau ba ngày giao tranh đẫm máu, con đường đã mở ra ở phía trước xe tăng Syria. Tình thế nguy cấp tới mức tại cuộc họp khẩn diễn ra tối ngày 7/10, Bộ trưởng Quốc phòng Israel Moshe Dayan trong cơn hoảng loạn đã quay sang bà Thủ tướng Golda Meir với một đề nghị đầu hàng.

Tuy nhiên, Thủ tướng Israel, người mà người dân nước này mô tả: "Trong chính phủ có một người đàn ông, và ông là một người phụ nữ có tên là Golda", đã không tán thành vẻ sợ hãi của tướng Dayan.

Sáng sớm ngày 8/10 tại một cuộc họp khẩn cấp, bà Thủ tướng công bố phán quyết cuối cùng: "Không đầu hàng. Chúng ta sẽ sử dụng vũ khí hạt nhân và phá hủy Cairo và Damascus".

Thật vậy, lúc đó, trong tay Israel đã có 18 quả bom hạt nhân. Các Bộ trưởng hiểu rằng “người đàn bà thép” đã mất kiềm chế và không ai có thể thuyết phục bà ấy. Cả phòng họp im lặng như chết.

Golda Meir lặng lẽ đánh giá sự im lặng của các đồng nghiệp của mình. Không một giây do dự, bà ra lệnh cho Tướng Moshe Dayan đặt toàn bộ kho vũ khí hạt nhân vào trạng thái sẵn sàng chiến đấu.

http://nghiadx.blogspot.com
Israel chưa bao giờ khẳng định sở hữu vũ khí hạt nhân nhưng cũng chưa bao giờ ra tuyên bố phủ nhận khả năng này. Trong ảnh là biếm họa về kho vũ khí hạt nhân của Israel.


Cũng trong ngày hôm đó, các chi nhánh tình báo của KGB và GRU (tình báo quân sự) tại Trung Đông từ các điệp viên có ảnh hưởng đã thâm nhập vào các tầng cao của chính quyền Israel, đã biết quyết định của Thủ tướng Meir.

Ngày 10/10 Bộ Chính trị BCH TƯ Đảng cộng sản Liên Xô tán thành “Kế hoạch hành động buộc Israel từ bỏ việc tiến hành tấn công hạt nhân” (Kế hoạch cưỡng bức) do Giám đốc KGB Iury Andropov đệ trình lên.

Ngày 11/10, Tham tán công sứ Đại sứ quán Liên Xô tại Wasington Georgy Kornieko đã trao cho Ngoại trưởng Henry Kissinger thư của các nhà vật lý hạt nhân nổi tiếng thế giới như: Iury Khariston, Yakova Zeldovicha, Iliy Vivshitsa, gửi tới Tổng thống Mỹ.

Trong thư, các Viện sĩ Liên Xô gọi quyết định của Thủ tướng Israel là tự sát. Và nhấn mạnh, ném bom hạt nhân xuống Cairo và Damascus sẽ là thảm họa không chỉ cho Trung Đông mà còn cho toàn bộ nền văn minh thế giới.

Các nhà khoa học cũng khéo léo ám chỉ rằng, Liên Xô có ràng buộc với Ai Cập và Syria về hợp tác quân sự, không ngồi nhìn và sẽ có biện pháp tương ứng với hành động tấn công hạt nhân của Israel. Đồng thời, họ nhấn mạnh, tất cả trách nhiệm về hậu quả của sự đáp trả tương ứng như vậy chính phủ Israel sẽ phải hứng chịu.

Do chính quyền Mỹ nhiều lần trì hoãn thời hạn đưa ra câu trả lời, Ban lãnh đạo Liên Xô quyết định tiến hành “Kế hoạch cưỡng bức”.

http://nghiadx.blogspot.com
MiG-25 là một phần trong "kế hoạch cưỡng bức" của Liên Xô.


Chuyến bay khuấy đảo bầu trời Tel Aviv

Ngày 13/10/1973, Phó chỉ huy của trung đoàn không quân tiêm kích, Thiếu tá Vertievets, trực chiến đấu tại sở chỉ huy sân bay quân sự Vladimirovka tại tỉnh Volgograd.

Lúc 6h15’, người mang thư hỏa tốc từ Bộ Tham mưu quân khu Privolzhsky trao cho viên Thiếu tá một túi hồ sơ được đóng dấu: “Mật. Mở ngay!”.

http://nghiadx.blogspot.com
MiG-25R trong một chuyến bay.

15 phút sau, Vertievets cùng người đưa thư và đội kỹ thuật đi vào nhà chứa máy bay, nơi để những chiếc máy bay chiến đấu mới nhất được bảo quản đặc biệt.

Thiếu tá Vertievets nhanh chóng lên khoang lái và người đưa thư lại tiếp tục đưa cho anh ta một gói nữa có đóng dấu mật “Đặc biệt quan trọng. Tiêu hủy ngay sau khi đọc!”

Vào lúc 8h12’, theo giờ địa phương, màn hình radar phòng không ở Tel Aviv xuất hiện một điểm sáng. Còi báo động bật liên hồi.

Điểm sáng nhanh chóng di chuyển từ phía đông bắc sang khu vực phía tây nam, tiếp cận không phận của thành phố, và viên sĩ quan trực chiến ra lệnh đánh chặn kẻ xâm phạm vùng trời bằng một biên đội máy bay chiến đấu siêu âm Mirage.

Giọng của người chỉ huy biên đội vang lên từ loa phóng thanh, ông ta chỉ thị cho kẻ xâm phạm phải hạ cánh. Đáp lại là sự im lặng. Lần tiếp theo, yêu cầu lại vang lên bằng tiếng Arab. Và đáp lại vẫn là sự im lặng và im lặng. Chỉ huy chuyển sang dùng tiếng Anh. Nhưng cũng không hiệu quả.

Viên sĩ quan trực chiến theo dõi trên màn hình radar thấy rằng, ba chiếc Mirage đang di chuyển song song cùng hướng với kẻ xâm phạm. Nhưng tại sao họ không vượt lên trên? Quả thật, biên đội Mirage đang ở một số “tầng” thấp hơn đường bay của máy bay lạ, nhưng tại sao? Tại sao, cuối cùng, khoảng cách giữa biên đội ba chiếc Mirage với chiếc máy bay lạ kia cứ tăng lên sau mỗi giây? Điều này có nghĩa là các đặc tính bay lạ tốt hơn nhiều so với Mirage?

“Chết tiệt! – viên chỉ huy biên đội bay hét lên, chúng tôi không bắt được nó. Nó bay trên chúng tôi 6.000 feet ... và di chuyển nhanh gấp 2 lần!”

Tiếp theo trên màn hình xuất hiện những màu sọc trắng: hình ảnh biên đội Mirage bắn tên lửa không đối không Hokami. Nhưng tất cả tên lửa bắn ra đều biến mất vào chân trời màu xanh, không tiêu diệt được mục tiêu, trong khi nó bung ra tốc độ đáng kinh ngạc, đạt đến độ cao 69.000 feet.

Không ! Nó lại quay trở lại lần nữa ! Nó đang tạo ra một, hai, ba ... (!) sáu vòng tròn trên bầu trời thành phố - đây là chuyện hoang đường chăng! Và nó không sợ bị bắn hạ!

Sĩ quan trực chiến yêu cầu thêm một biên đội Phantom lên trợ giúp biên đội Mirage đang tỏ ra bất lực. Than ôi! Không có bất kỳ chiếc Phantom hay tên lửa nào của nó có thể “bắt được” máy chiếc bay lạ kia... Bắt được gì đây? Thậm chí không biết phải gọi tên chiếc máy bay đó là gì? Nó là một vật thể bay chuyển động ngoài giới hạn của tốc độ và đạt đến độ cao đáng kinh ngạc.

Liệu đây có phải là một chiếc máy bay hay là một UFO? Nếu những suy luận trên là đúng thì nó từ đâu đến? Người Arab cho đến thời điểm này không thể có được cỗ máy tương tự. Như vậy có nghĩa là nó đến từ Nga.

Bộ trưởng Quốc phòng Israel đã tới gặp Thủ tướng Meir cùng với một báo cáo về “sự cố” trên bầu trời Tel Aviv, và bắt gặp bà Thủ tướng đang đọc lá thư của các nhà khoa học hạt nhân Liên Xô.

Sau khi nghe Tướng Dayan báo cáo, bà Golda Meir ngay lập tức hiểu ra, những sự kiện này, lá thư và cuộc xâm nhập của chiếc máy bay lạ, thực chất là một vở kịch mà đạo diễn chính là Moscow.

http://nghiadx.blogspot.com
Golda Meir, "người đàn bà thép" của Nhà nước Do Thái.

 “Người đàn thép” buộc phải “điều chỉnh lại cuộc hành quân”. Bà Thủ tướng yêu cầu Ngoại trưởng Henry Kissinger và các quan chức cấp cao Mỹ tăng viện trợ quân sự bổ sung. Kết quả, dưới những áp lực lớn của các cuộc vận động hành lang của giới lobby Do Thái ở Washington đã tác động tới Tổng thống Nixon và một “cầu hàng không” giữa Mỹ và Tel Aviv đã được thiết lập ngay lập tức. Nhờ vậy, Israel nhanh chóng có các thiết bị quân sự mới nhất, gồm máy bay, xe tăng và tên lửa...

Các công ty Mỹ thuộc sở hữu của người Do Thái, trong vòng một tuần đã đầu tư vào nền kinh tế Israel 2,5 tỉ USD. Đồng thời, các nhà ngoại giao Israel bắt đầu "làm việc" với Vua Jordan Hussein và Vua Morocco Hassan II, để thông qua họ thuyết phục ban lãnh đạo Ai Cập và Syria ký kết một hiệp ước đình chiến.

Đối mặt với thất bại thực tế của Israel trong cuộc chiến "Ngày phán xét", Kissinger đã thực hiện một nỗ lực vô cùng lớn để cứu vãn Tel Aviv ít nhất không phải đầu hàng nhục nhã. Ông đóng vai trò trung gian hòa giải trong cuộc xung đột, tìm kiếm loại bỏ các lực lượng Ai Cập và Syria và tạo ra một vùng đệm với Israel. Tuy nhiên, sáng kiến ​​của ông không nhận được sự ủng hộ của các thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc.

Theo yêu cầu của các nhà ngoại giao Liên Xô, một nghị quyết về thành lập lực lượng khẩn cấp sẽ tạo nên một khu vực tách biệt giữa các đơn vị quân đội Ai Cập và Israel, đã được thông qua.

Vụ xâm nhập của vật thể bay bí ẩn trên bầu trời Tel Aviv, không chỉ làm tan vỡ huyền thoại bách chiến bách thắng của Israel, mà còn buộc bà Golda Meir từ bỏ sử dụng đòn tấn công nguyên tử vào Thủ đô của Ai Cập và Syria.

Vào tháng 4/1974, "người đàn bà thép" Meir và Dayan đã buộc phải ra đi sau thất bại tại cuộc bầu cử. Sau đó không lâu, người đứng đầu cơ quan tình báo quân sự Israel Zeir Elia cũng mất chức.

MiG-25R là sản phẩm trí tuệ của Cục Thiết kế Mikoyan và Gurevich, đến cuối thập niên 1970, nó đã vượt qua tất cả các đối thủ cùng loại trên thế giới. Trần bay thực tế là 23 km, tốc độ ​​- 3.600 km/h, gần ba lần tốc độ âm thanh (Mach 3). Như vậy, máy bay chiến đấu của Liên Xô hoàn toàn nằm ngoài tầm với của máy bay tiêm kích đánh chặn và hệ thống phòng không của đối phương!

Năm 1973, Alexander Danilovich Vertievets, người đã thực hiện chuyến bay khuấy đảo bầu trời Tel Aviv, đã được trao danh hiệu Anh hùng Liên Xô.

Thứ Tư, 25 tháng 4, 2012

>> 6 chiến dịch đặc nhiệm nổi tiếng


Trước chiến dịch tiêu diệt Osama bin Laden năm 2011, lịch sử đã biết đến các chiến dịch đặc nhiệm nổi tiếng có những nét tương đồng.


Gần 10 năm sau khi các tòa tháp của Trung tâm Thương mại Thế giới (WTC) ở hạ Manhattan sụp đổ, một phân đội biệt kích SEAL của Hải quân Mỹ đã đột kích khu nhà ở Abbottabad, Pakistan và giết chết kẻ cầm đầu al-Qaeda chủ mưu vụ khủng bố Osama bin Laden.

Từ Thế chiến II đến nay, đã có nhiều chiến dịch đặc biệt và chiến dịch nhỏ nổi bật tạo ra những dấu ấn rất kịch tính trong lịch sử quân sự đương đại. Chúng cũng có những nét giống với những gì đã xảy ra ở Pakistan và những bài học giúp chiến dịch tiêu diệt bin Laden thành công. Dưới đây là 6 chiến dịch đặc biệt xuất sắc nhất.

Chiến dịch Chariot (28/3/1942)

Nhiệm vụ: Nỗ lực của quân Anh phá hủy một ụ tàu của phát xít Đức ở St Nazaire, Pháp thời bị Đức tạm chiếm.

Kết quả: Thành công, song tổn thất nặng nề.

Các sử gia đã gọi nó là “Cuộc tập kích vĩ đại nhất”. Quân Anh đã xếp chất nổ tự kích nổ lên tàu khu trục HMS Campbletown, một tàu chiến cổ lỗ thời Thế chiến và nó đã xóa sổ ụ tàu khô của quân Đức ở St. Nazaire, Pháp. Vụ nổ làm cho ụ tàu khô vô dụng trong suốt thời gian còn lại của cuộc chiến, buộc tàu chiến phát xít phải quay về Đức để sửa chữa.

http://nghiadx.blogspot.com


Do thời đó kỹ thuật điều khiển bom còn rất sơ đẳng nên nếu dùng máy bay tấn công phá hủy ụ tàu từ trên không thì có thể san phẳng cả thành phố. Và chiến dịch Chariot cũng xảy ra ở thời kỳ đầu chiến tranh khi mà quân đồng minh quan tâm đến việc giảm thương vong cho dân thường hơn sau này. Vì vậy, người Anh đã phát động một chiến dịch mạo hiểm, phái đi 18 tàu khác (2 tàu khu trục, 16 tàu nhỏ hơn) để hộ tống tàu Campbletown và đưa những người trên tàu này trở về.

Bộc phá trên tàu Campbletown được cài nổ chậm để binh lính Anh sau khi lao tàu vào trong ụ tàu kịp chạy trốn sang các tàu khác. Campbletown chỉ dừng ở đó một lát nên quân Đức không thể biết con tàu chất đầy thuốc nổ, cho đến khi nó nổ tung với tiếng nổ long trời.

Tuy nhiên, do cuộc đột kích không được yểm trợ bằng không quân đủ mạnh nên quân Đức thoải mái bắn vào đội tàu Anh bằng toàn bộ lực lượng pháo binh vây quanh St. Nazaire. Chỉ có 3 tàu sống sót trở về Anh; tổ tấn công sống sót đã phải trốn chạy bằng đường bộ qua nước Pháp. Trong số 622 lính tham gia chiến dịch, cuối cùng chỉ có 228 người trở về nhà.

Đây là chiến dịch có độ rủi ro cao giống như cuộc tập kích tiêu diệt Osama bin Laden. Có tin Tổng thống Mỹ Barack Obama đã xem xét phương án ném bom khu nhà của bin Laden khi ông biết chắc chắn trùm khủng bố có mặt ở đó. Song Obama lại muốn thử ADN của bin Laden để biết đích xác là trùm al-Qaeda đã chết thực sự nên ông đã phê chuẩn chiến dịch mạo hiểm hơn với sự tham gia của SEAL.

Chiến dịch Eiche (12/9/1943)

Nhiệm vụ: Giải cứu nhà độc tài Italia Benito Mussolini.

Kết quả: Quân Đức giải thoát được Mussolini mà không bị tổn thất nào.

Ngày 25/7/1943, Đại hội đồng phát xít của chính phủ Italia hạ lệnh thay thế và bắt giữ nhà độc tài Italia Benito Mussolini. Không muốn mất một đồng minh quý giá, Adolph Hitler đã hạ lệnh cho lính dù Đức giải cứu hắn.

http://nghiadx.blogspot.com


Phân đội dù Đức do đại úy SS Otto Skorzeny khét tiếng chỉ huy đã dùng tàu lượn đổ bộ vào nơi giam giữ Mussolini là khách sạn Campo Imperatore trên đỉnh núi Gran Sasso.

12 tàu lượn do máy bay kéo đã được thả phía trên Gran Sasso. Một tàu lượn bị tai nạn khi hạ cánh làm binh sĩ trên tàu bị thương. Nhưng đó là cản trở duy nhất trong chiến dịch thành công rực rỡ mà không cần bắn một phát đạn này. Sau khi quân SS đột kích khách sạn, chiến dịch chấm dứt chỉ trong vòng 4 phút. Mussolini sau đó trở lại nắm quyền tại khu vực Đức tạm chiếm ở Italia. Cuối cuộc chiến, Mussolini lại mất quyền lực và bị treo cổ ngày 28/4/1945.

Sử gia chuyên nghiên cứu về SEAL và các chiến dịch đặc nhiệm William McRaven viết rằng, cuộc giải cứu Mussolini thành công vì nó “thể hiện đầy đủ cả ba yếu tố bất ngờ: thời gian, nghi binh và khai thác những điểm yếu trong phòng thủ”. Trong chiến dịch của Mỹ tiêu diệt Osama bin Laden có những tiếng súng. Song việc nó cũng nhấn mạnh vào tính bất ngờ đã giúp không một lính Mỹ nào bị thương tổn.

Cuộc tập kích ở Cabanatuan (30/1/1945)

Nhiệm vụ: Giải cứu hơn 500 tù binh Mỹ khỏi trại tù binh gần thành phố Cabanatuan ở Philippines.

Kết quả: Thành công với tổn thất tối thiểu.

Sau cuộc di chuyển cưỡng bức chết chóc Bataan ở Philippines năm 1942 do quân đội Nhật thực hiện đối với tù binh 76.000 tù binh Mỹ và Philippines sau trận đánh Bataan kéo dài 3 tháng làm chế hàng ngàn tù binh, một số tù binh Mỹ sống sót đã bị giam giữ tại trại tù binh ở gần thành phố Cabanatuan.

Điều kiện ở trại thật kinh khủng, các vụ hành quyết hàng loạt là chuyện thường. Lo ngại các tù binh sẽ bị hành quyết hết giống như ở các trại tù binh khác của Nhật, các nhà lãnh đạo Mỹ đã chấp thuận tiến hành chiến dịch giải cứu.

http://nghiadx.blogspot.com


Đại úy Kenneth Schrieber đã thực hiện một hành động nghi binh độc đáo bằng cách lái một máy bay tiêm kích đánh chặn P-61 Black Widow bay qua trên trại tù binh, bằng cách vừa tắt rồi lại khởi động động cơ tạo ra những tiếng nổ lớn khiến người ta tưởng là chiếc máy bay đang bay thấp của anh bị hỏng và sắp rơi đến nơi.

Thủ đoạn đánh lạc hướng này đã thu hút sự chú ý của lính gác Nhật Bản để đội quân 133 lính Mỹ cùng khoảng 250 người Philippines tấn công trại tù binh. Trong cuộc tập kích, chỉ có 4 người Mỹ gồm 2 tù binh và 2 lính thuộc lực lượng giải cứu bị thiệt mạng.

Giống như chiến dịch hạ sát bin Laden ở Pakistan, công tác lập kế hoạch chiến dịch ở Philippines năm 1945 cũng được thực hiện rất thận trọng và chu đáo. Lực lượng Mỹ đã kiếm được các bức ảnh chụp trại tù binh và tiến hành quan sát trại giam. Trong 5 giờ đồng hồ, họ đã vẽ được sơ đồ trại giam để chuẩn bị trước khi tấn công.

Chiến dịch Kingpin (21/11/1970)

Nhiệm vụ: Chiến dịch giải cứu 61 tù binh phi công Mỹ bị giam ở miền Bắc Việt Nam.

Kết quả: Thành công về chiến thuật (người Mỹ khoe), song thất bại không thể giải cứu được tù binh nào.

Tình báo Mỹ đã định vị được một trại tù binh ở gần Sơn Tây, miền Bắc Việt Nam. Tổng thống Mỹ Nixon đã phê chuẩn chiến dịch và lựa chọn một lực lượng gồm 56 binh lính. Giống như chiến dịch triệt hạ Osama bin Laden, lực lượng tham gia chiến dịch Kingpin đã diễn tập cuộc đột kích trong nhiều tháng tại một mô hình trại giam được xây dựng tại căn cứ không quân Eglin ở Florida. Nhờ được huấn luyện kỹ càng, đội giải cứu tiến vào và rút ra khỏi trại giam mà chỉ có 1 người bị thương.

http://nghiadx.blogspot.com


Dù thành công về chiến thuật, chiến dịch này là thất bại tình báo đau đớn: Toàn bộ tù binh đã được đưa khỏi trại tù binh từ hơn 4 tháng trước khi diễn ra chiến dịch giải cứu. Nguyên nhân không hẳn là tình báo yếu kém mà là do thiếu sự trao đổi, phối hợp giữa các lực lượng, nhóm điều phối kỹ thuật liên quân làm nhiệm vụ lập kế hoạch chiến dịch đã không hợp tác chặt chẽ với các cơ quan tình báo Mỹ khác.

Trái lại, cuộc tập kích hang ổ của bin Laden lại là thành công chói sáng của chia sẻ tình báo. Có tin các cơ quan tình báo hàng đầu như Cục Tình báo Trung ương CIA, Cục An ninh Quốc gia NSA và Cục Tình báo Không gian địa lý Quốc gia (NGA) đều tham gia đóng góp cho chiến dịch.

Chẳng hạn NSA đã phát hiện ra là khu nhà của bin Laden không có kênh liên lạc Internet và điện thoại, còn NGA chịu trách nhiệm về các bản đồ và phần mềm nhận dạng để hỗ trợ cho lực lượng SEAL trong chiến dịch.

Chiến dịch Entebbe (4/7/1976)

Nhiệm vụ: Giải cứu các con tin là hành khách chuyến bay Air France Flight 139.

Kết quả: 103 con tin được giải cứu, 3 con tin và chỉ huy đặc nhiệm Israel giải cứu bị thiệt mạng.

Ngày 27/6/1976, một chuyến bay của hãng Air France bị không tặc trên đường bay từ Tel Aviv đến Paris. Bọn khủng bố bắt các phi công hạ cánh xuống sân bay Entebbe, Uganda, và thả toàn bộ các hành khách không phải là người Do Thái sau khi hạ cánh.

http://nghiadx.blogspot.com


Dưới sự chỉ huy của Trung tá Yonatan Netanyahu (anh trai của Thủ tướng Israel đương nhiệm Benjamin Netanyahu), một chiến dịch giải cứu hơn 100 con tin còn lại bị giam giữ tại nhà ga sân bay Entebbe bắt đầu hôm 4/7/1976.

Một toán biệt kích Israel đi trên các xe Mercedes giống như xe của quan chức Uganda đến nhà ga sân bay, khiến binh lính Uganda bối rối giây lát, sử gia McRaven cho hay. Đặc nhiệm Israel đã gần như thành công trong việc tiếp cận nhà ga mà không bị phát hiện, song họ đã để lọt một sơ xuất tai hại: các quan chức Uganda đi xe Mercedes tay lái thuận. Hai lính gác Uganda đã phát hiện ra sự khác lạ này. Toán đặc nhiệm Israel nhanh chóng tiêu diệt các lính gác, song yếu tố bất ngờ đã mất.

Entebbe được lập kế hoạch tỉ mỉ và giống như cuộc tập kích Sơn Tây năm 1970 và cuộc tập kích khu nhà của bin Laden năm 2011, những người lập kế hoạch đã xây dựng một mô hình để lính đặc nhiệm luyện tập. Bài học của chiến dịch Entebbe là bất kỳ chiến dịch đặc nhiệm nào, dù được chuẩn bị kỹ lưỡng đến đâu cũng là hành động có độ mạo hiểm cao. Biệt kích Israel đã tiêu diệt được toàn bộ 4 tên khủng bố, nhưng chỉ huy lực lượng giải cứu Netanyahu và 3 con tin đã bị bắn chết trong khi đấu súng với binh lính Uganda.

Cuộc tập kích tàu Maersk Alabama (12/4/2009)

Nhiệm vụ: Giải cứu 20 thành viên thủy thủ đoàn tàu Maersk Alabama bị hải tặc Somalia cướp.

Kết quả: Toàn bộ các thành viên thủy thủ đoàn được giải thoát, 3 hải tặc Somalia bị giết bằng súng bắn tỉa.

Cuộc tập kích hạ sát Osama bin Laden không phải là lần đầu tiên Tổng thống Obama sử dụng biệt đội SEAL để tiêu diệt kẻ thù. Ngày 8/4/2009, 4 cướp biển Somalia xông lên tàu chở container Maersk Alabama của Mỹ.

http://nghiadx.blogspot.com


Cuộc đối đầu căng thẳng kéo dài 4 ngày bắt đầu giữa bọn hải tặc tàu khu trục USS Bainbridge của Hải quân Mỹ được cử đến để giải cứi thủy thủ đoàn tàu Alabama. Luống cuống và lo sợ vì bị truy đuổi và sự phản kháng của thủy thủ đoàn tàu Alabama vốn được huấn luyện và chuẩn bị tốt cho tình huống bị hải tặc tấn công và mới tham gia một cuộc diễn tập đầy đủ một ngày trước, bọn cướp biển tìm cách chuồn về Somalia trên chiếc xuồng cứu sinh cùng với con tin là thuyền trưởng tàu Alabama Richard Phillips.

Đặc nhiệm SEAL truy kích chiếc xuồng bỏ trốn với mệnh lệnh nổ súng nếu tính mạng của Phillips bị đe dọa. Cảm thấy Phillips đang bị nguy hiểm cận kề và biết rõ hầu như không thể giải cứu được Phillips nếu bọn cướp biển đặt chân được lên mặt đất, đội biệt kích SEAL đã bắn chết 3 tên cướp biển. Tên thứ tư là tên từng lên tàu USS Bainbridge đàm phán với phía Mỹ đã bị bắt và đưa về Mỹ để xét xử.

Thứ Bảy, 14 tháng 4, 2012

>> Âm mưu khai chiến hạt nhân của Mỹ đã bị phá vỡ như thế nào ?


Thời chiến tranh lạnh, hai vợ chồng đại tá tình báo Liên Xô lỗi lạc là Vladimir V. Fedorov và Galina Fedorova đã góp phần ngăn chặn âm mưu của Mỹ phát động cuộc chiến hạt nhân.



Kế hoạch chiến tranh hạt nhân chớp nhoáng

Tháng 12/1950, Tổng thống Mỹ Harry S. Truman ký sắc lệnh đệ trình kế hoạch tấn công hạt nhân Liên Xô. Đây không phải là văn kiện đầu tiên dạng này. Mùa thu năm 1945, Mỹ đã bắt đầu soạn thảo các kế hoạch chiến tranh nguyên tử chống Liên Xô.

Xuất phát điểm cho việc xây dựng kế hoạch chiến tranh là học thuyết “đòn đánh đầu tiên” - tấn công nguyên tử Liên Xô. Các kế hoạch đầu tiên được soạn thảo năm 1945 trù tính ném bom nguyên tử xuống 20 thành phố của Liên Xô.

Còn theo các kế hoạch có mật danh Charioteer và Fleetwood soạn thảo năm 1948, Mỹ dự định trong tháng đầu tiên của chiến tranh ném 133 quả bom nguyên tử xuống 70 thành phố Liên Xô, giết chết không dưới 6,7 triệu người trong số 28 triệu dân các thành phố đó, điều này, theo suy tính của bộ chỉ huy Mỹ, sẽ buộc Liên Xô đầu hàng.

Dĩ nhiên điếu đó mới chỉ là phần lý thuyết của việc lập kế hoạch. Nhưng cũng có những bước đi thực tế được thực hiện: ở Mỹ đã triển khai không quân chiến lược, xung quanh Liên Xô đã dựng lên các căn cứ quân sự Mỹ, các khối quân sự được thành lập.

Tháng 9/1949, Liên Xô chế tạo được vũ khí nguyên tử. Sự độc quyền tạm thời của Mỹ đối với vũ khí này bị kết liễu, điều đó đã gây ra sự hoảng loạn, đồng thời cơn hiếu chiến đột phát trong giới quân sự Mỹ. Phản ứng trước tiên của Lầu Năm góc là lập tức tấn công nguyên tử Liên Xô. Họ đã vội vã thông qua kế hoạch Trojan - ném khoảng 300 quả bom nguyên tử và hàng chục ngàn tấn bom thông thường xuống 100 thành phố Liên Xô. Để lập kế hoạch, người ta đã xác định ngày mở màn cuộc chiến chống Liên Xô là ngày 1/1/1950.

Kế hoạch Trojan đã được kiểm tra trong các cuộc tập trận tham mưu với kết quả nặng nề. Họ phát hiện ra là kế hoạch chỉ có thể thực hiện được 70%, nhưng họ cũng tổn thất không dưới 55% số máy bay ném bom. Thế là lại ra đời kế hoạch chiến tranh liên quân chống Liên Xô (Operation Dropshot). Kế hoạch này trù tính các nước NATO và nhiều nước châu Âu và châu Á khác sẽ huy động chống Liên Xô tổng cộng 20 triệu quân và toàn bộ sức mạnh hạt nhân của Mỹ. Âm mưu khủng khiếp này đã bị các tình báo viên Liên Xô khám phá.

Nguồn tin Brig

Nhờ lực lượng điệp viên Liên Xô, Moskva đã kịp thời nhận được các tín hiệu cảnh báo nên ban lãnh đạo chính trị-quân sự Liên Xô đã nắm được các kế hoạch tác chiến của giới tướng lĩnh NATO.

Đại tá tình báo Liên Xô Vladimir Fedorov đã lấy được thông tin này nhờ có sự giúp đỡ của một nguồn tin rất quan trọng trong tổng hành dinh NATO (điệp viên này có mật danh là Brig). Tình báo Liên Xô tuyển mộ Brig dựa trên động cơ lý tưởng và điệp viên này không bao giờ nhận tiền hỗ trợ của Liên Xô.

Brig thường xuyên cung cấp thông tin giá trị về việc tái vũ trang và hiện đại hóa quân đội CHLB Đức, các tài liệu của ủy ban kế hoạch thuộc bộ tham mưu NATO về các nhiệm vụ của các đơn vị quân đội riêng biệt, tình trạng trang bị chiến đấu của chúng, về hệ thống chỉ huy quân đội, chiến lược và chiến thuật.

Giới lãnh đạo chóp bu NATO hồi đó (Adolf Heusinger - Chủ tịch Ủy ban Quân sự NATO, Hans Speidel - Tư lệnh lục quân NATO ở Trung Âu, tướng Heinrich “Heinz” Trettner - Cục trưởng Cục Hậu cần, Bộ chỉ huy Tối cao các cường quốc đồng minh ở châu Âu (SHAPE), bộ chỉ huy quân sự trung ương của các lực lượng quân sự NATO) đã soạn thảo các kế hoạch mật, trong đó trù tính tiến hành cả hành động quân sự bằng vũ khí hạt nhân chống CHDC Đức, Tiệp Khắc trong những tình huống nhất định.

Bằng chứng khẳng định cho thông tin nhận được từ trước là hàng loạt các cuộc tập trận của quân đội NATO. Trong các cuộc tập trận đó, NATO đã tập dượt các kịch bản tấn công khác nhau ở hướng đông. Chiếm vị trí không nhỏ trong luồng thông tin là những tin tức về các nhân vật trong các cấp lãnh đạo các cơ quan, tổ chức của NATO. Ví dụ Trung ương tình báo Liên Xô biết rõ về Heinz Trettner gần như tất cả với tư cách một con người, cũng như một nhà hoạt động chính trị-quân sự, cho đến tận những chi tiết nhỏ nhất như ông ta làm gì lúc rỗi việc, quan hệ với họ hàng, người thân, bạn bè ra sao, những mặt mạnh, yếu của cá nhân con người ông ta.

Brig cũng cung cấp thông tin về lập trường của một số nước Tây Âu riêng lẻ hay thậm chí của các nhóm nước về các vấn đề chính trị lớn. Ví dụ, về kết quả các cuộc đàm phán liên quốc gia, về thái độ của tây Âu đối với quá trình thành lập các quốc gia độc lập ở châu Phi. Ngay trước các kỳ họp thường niên của Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc, Brig lại chuyển thông tin mật về lập trường sắp tới của các quốc gia châu Âu hàng đầu về các vấn đề chủ chốt trong chương trình nghị sự. Những tin tức đó rất có giá trị đối với phái đoàn Liên Xô đi dự kỳ họp.

Phát hiện các đầu đạn hạt nhân ở châu Âu

Một lần Sep nhận được từ Brig tín hiệu gọi gặp khẩn cấp. Họ gặp nhau ở địa điểm quy ước.

“Brig lập tức vào việc. Té ra máy ảnh của anh ấy hỏng, trong khi cần phải chụp lại các tài liệu đặc biệt quan trọng. Các tài liệu này đã được chuyển cho một số chuyên gia, trong đó có Brig để soạn thảo kết luật cho kỳ họp sắp tới của NATO. Các tài liệu này nói về trang bị vũ khí hạt nhân của một số đơn vị NATO ở châu Âu. Brig đã cảnh báo rằng, anh ấy có thể giữ lại tài liệu trong không quá một giờ. Nhận được gói tài liệu, tôi đi xe ra ngoài thành phố, đến một khu có nhiều rừng, tìm lấy một chỗ thuận tiện, yên tĩnh ở bìa rừng, nơi điều kiện ánh sáng ban ngày hoàn toàn đủ để chụp ảnh tài liệu lên phim có độ nhạy cao, việc này trước đây tôi đã từng phải làm trong ô tô ở một nơi hẻo lánh nào đó. Thông thường, khi gặp gỡ các điệp viên của mình, tôi thường cầm theo một máy ảnh nhỏ Minox. Chụp xong, tôi đã kịp thời trả lại gói tài liệu, lên xe và đi nhanh. Tôi phải vội vì trên đường tôi bắt buộc phải rẽ vào chỗ nhà cung cấp hàng hóa cho hãng của tôi để đặt lô vải láng lụa mới. Tôi dùng giao dịch làm ăn này để giải thích cho sự vắng mặt của mình ở hãng. Do tin tức quả thực là khẩn cấp nên tôi lập tức gửi về Trung ương tình báo cuộn phim ở dạng chưa hiện theo kênh liên lạc có sẵn, còn trong phiên liên lạc điện đài ban đêm, tôi đánh đi bức điện: “Gửi Trung ương. Hôm nay, trong cuộc gặp, Brig đã chuyển các tài liệu đặc biệt khẩn cấp liên quan đến trang bị chiến đấu của các đơn vị chiến đấu riêng lẻ của NATO. Hộp chứa cuộn phim chưa hiện được gửi về cho các anh theo kênh Mark. Sep”, Đại tá Mikhail Vladimirovich Fedorv kể lại.


http://nghiadx.blogspot.com


Ngăn chặn ngày tận thế

Có giá trị nhất là các tài liệu có độ mật cao nhất Cosmic, các bản sao các tài liệu mật về hoạt động chuẩn bị chiến tranh của NATO chống Liên Xô và các nước dân chủ nhân dân. Đó trước hết là kế hoạch tác chiến SIOP (Single Integrated Operational Plan) tấn công hạt nhân Liên Xô. Nó được Lầu Năm góc soạn thảo vào tháng 12/1950 và được NATO chấp nhận sử dụng. Nhờ có vợ chồng Fedorov và điệp viên Brig, Moskva đã nhanh chóng nhận được phần giá trị nhất này trong kế hoạch răn đe hạt nhân của phương Tây. Sau này, kế hoạch đã được chỉnh lý, bổ sung và mở rộng về chủng loại phương tiện và quy mô hủy diệt, trong khi bản chất của nó vẫn không thay đổi, vẫn là kế hoạch tấn công, xâm lược, tàn bạo, rất tàn bạo.

Theo kịch bản của các chiến lược gia NATO, nếu như một cuộc xung đột nổ ra ở châu Âu thì nhiều khả năng nhất là bắt đầu ở lãnh thổ CHLB Đức, nơi tập trung các lực lượng chủ lực trên chiến trường châu Âu của NATO, các đơn vị tuyến đầu, các kho chứa đầu đạn hạt nhân và hóa học. Trong kế hoạch, các lực lượng “kiềm chế” được giao nhiệm vụ “lâm chiến với đối phương trên biên giới chính trị của CHLB Đức và tác chiến nhằm chặn đứng đối phương càng xa ở phía đông càng tốt, làm suy giảm sức chiến đấu của đối phương đến mức không thể nối lại cuộc tấn công”.

NATO trù tính những phương pháp nào để “kiềm chế” đối phương tiềm tàng? Các cuộc oanh kích hạt nhân còn gọi là “các đòn tấn công có lựa chọn trên chiến trường”, tức là vào lãnh thổ CHLB Đức.

Người ta khuyến nghị 4 phương án tấn công: “tổng lực”, “có lựa chọn”, “hạn chế” và “khu vực”. Một đòn tấn công “nhẹ” sẽ biến các công trình thành mảnh vụn, đòn đánh “trung bình” khiến chúng chỉ còn là những hạt cát, còn đòn tấn công “nặng” thì các thành phố sẽ bị quét sạch như bụi.

Tuy nhiên, Tây Đức đâu phải là hoang mạc Tây Sahara. Mật độ dân cư ở CHLB Đức rất cao nên việc sử dụng vũ khí hạt nhân tất yếu sẽ làm hàng trăm ngàn phụ nữ, người già, trẻ em mất mạng, hủy diệt các di sản văn hóa, bảo tàng và nhà thờ. Liệu các tướng lĩnh NATO và Đức có nhận thức được điều đó không? Hóa ra, họ nhận thức được và chấp nhận số phận tất yếu khi nghĩ ra một thuật ngữ để bào chữa cho lập trường của họ là thuật ngữ “các khu vực dễ bị tổn thương”. Tức là các khu vực mà đối phương tiềm tàng có thể đánh chiếm. Tất cả đã được tính toán và nêu cực kỳ tỉ mỉ trong kế hoạch thành các mục tiêu phải tiêu diệt bằng các lực lượng hạt nhân NATO trên lãnh thổ CHLB Đức.

Trong tài liệu Northzig C 75/145/68, các thành phố lớn như Hamburg, Bremen, Hannover, Göttingen và hàng chục thành phố nhỏ hơn khác được nêu trong các kế hoạch của NATO như các mục tiêu để chính NATO oanh tạc hạt nhân khi nổ ra xung đột quân sự ở Tây Âu. Dân chúng các thành phố này thật vô phúc khi lọt vào “khu vực dễ bị tổn thương” và sẽ bị hủy diệt mà không hề biết vũ khí “răn đe” của NATO đang rơi xuống đầu họ.

Tài liệu viết: “Rõ ràng là không thể chống chọi với cuộc tấn công chủ yếu của đối phương trong một thời gian quá dài mà không dùng đến vũ khí hạt nhân, và hoàn toàn có thể phỏng đoán tư lệnh tối cao liên quân NATO ở châu Âu sẽ hạ lệnh sử dụng vũ khí hạt nhân”. Trong văn bản không hề nói gì đến việc trước khi bấm nút hạt nhân, các đồng minh phương Tây định tổ chức các cuộc tư vấn chính trị nào đó hay nhận được sự phê chuẩn của các quốc hội, nghị viện cho các hành động của họ. Vì không có thời gian để làm việc đó nên chỉ một viên tướng Mỹ sẽ đưa ra quyết định cá nhân!

Nhờ các tài liệu này bị vạch trần trong nhữn năm đó nên các kế hoạch của NATO đã mất đi yếu tố bất ngờ. Và chúng đã được thay thế bằng các kế hoạch khác mà có lẽ các tình báo viên và điệp viên Nga hiện nay đang làm việc để “giải mật".


http://nghiadx.blogspot.com
Mikhail Vladimirovich Fedorov (1916-2004). Ảnh: svr.gov.ru

http://nghiadx.blogspot.com
Galina Ivanovna Fedorova (1920-2010)Ảnh: svr.gov.ru


Các tình báo viên bất hợp pháp lỗi lạc đó mà tên tuổi cũng đã được giải mật chính là Mikhail Fedorov và Galina Fedorova. Sau 15 năm hoạt động ở nước ngoài trong điều kiện đặc biệt, họ đã quay trở về Nga trót lọt.

Đại tá tình báo Galina Ivanovna Fedorova (mật danh là Jeanne) tâm sự: “Tôi vào làm cho tình báo một cách có ý thức, hiểu rõ tầm quan trọng của cơ quan này đối với quốc gia và trách nhiệm mà tôi nhận về mình. Nét khác biệt của một tình báo viên bất hợp pháp là sự tự kiểm soát ngặt nghèo: từng giờ, từng ngày, dù thức hay ngủ. Một sai lầm dù nhỏ nhất hay một việc làm sơ hở có thể dẫn đến những hậu quả không thể khắc phục. Nhưng hồi đó, cũng như sau này, tôi không hề có sự dao động dù là nhỏ nhất hay những ngờ vực muộn màng vào tính đúng đắn của con đường tôi chọn khi còn trẻ. Tôi hạnh phúc vì tình báo đã trở thành sự nghiệp của đời tôi”.

Trong những năm dài hoạt động tình báo bất hợp pháp, Galina và chồng bà Mikhail (từng có bí danh Sep, ông dùng bí danh này để ký các bức điện gửi về Trung ương), đã làm được rất nhiều. Họ đã bảo đảm liên lạc thông suốt với Moskva, lựa chọn các địa điểm hộp thư mật và tiến hành các phiên liên lạc bỏ thư và lấy thư. Họ nghiên cứu các đối tượng, tuyển mộ họ, khôi phục liên lạc với điệp viên ở các nước Tây Âu. Và dĩ nhiên là họ đã thu thập thông tin về rất nhiều vấn đề, cũng như tiến hành các phiên liên lạc với điệp viên và gửi tin tức của điệp viên về Trung ương tình báo. Họ đã thực hiện hơn 300 phiên liên lạc mật, hơn 200 phiên liên lạc điện đài với Moskva. Những con số đó nói lên cường độ làm việc căng thẳng của họ.

Họ đã chuyển qua các kênh mật về Trung ương tình báo hơn 400 tài liệu quan trọng. Những thông tin đi qua tay họ chủ yếu liên quan đến khía cạnh hoạt động của NATO, trong đó có cơ quan quân sự của khối này. Ví dụ như về các kế hoạch sử dụng vũ khí hạt nhân đánh phủ đầu Liên Xô, các phương pháp mang phóng vũ khí hạt nhân đến các mục tiêu cụ thể trên lãnh thổ Liên Xô, các cuộc tập trận tham mưu của NATO sát tối đa với tình huống chiến đấu thực tế. Tất cả đều được Sep và Jeanne báo cáo chính xác và kịp thời về Moskva.

Thứ Sáu, 30 tháng 3, 2012

>> Hồ sơ mật : Bóng ma Mossad (Kỳ 3)


Khi nhậm chức Giám đốc Mossad, Dagan đưa ra hai mục tiêu lớn cần phải trừ khử: Chương trình vũ khí hạt nhân Iran và các đối tượng khủng bố thuộc Hezbollah; Hamas và Islamic Jihad…

>> Hồ sơ mật : Bóng ma Mossad (Kỳ 1)
>> Hồ sơ mật : Bóng ma Mossad (Kỳ 2)

>> Những cú đấm của Dagan

Tháng 8/2002, Thủ tướng Ariel Sharon bổ nhiệm Meir Dagan ghế Giám đốc Mossad (thay Ephraim Halevy). Từng chịu trách nhiệm thành lập đội đặc nhiệm khét tiếng Trung Đông Sayeret Rimon, có mặt trong cuộc chiến 6 ngày, 2 lần bị thương, Dagan nổi tiếng là sĩ quan quân đội Israel liều lĩnh.

Bóp chết công nghiệp vũ khí hạt nhân Iran

Một số điệp viên Mossad thuật rằng, các sát thủ trước khi được phái đi thực hiện một chiến dịch nguy hiểm và tối mật đều được triệu tập vào phòng Giám đốc Meir Dagan. Tại đó, sếp Dagan chỉ vào tấm chân dung to treo trên tường, chụp một người Do Thái để râu và quấn tấm khăn nguyện, trong tư thế quỳ gối với hai tay giơ cao và nắm chặt. Mắt ông ta quắc lên. Cạnh bên là hai sĩ quan SS Đức Quốc xã. “Người này” - Dagan nói - “Là ông nội tôi, cụ Dov Ehrlich”. Dagan cho biết, không lâu sau khi bức hình được chụp ngày 5/10/1942, Dov Ehrlich cùng gia đình, tương tự hàng ngàn người Do Thái khác, đã bị Đức Quốc xã giết chết tại thị trấn nhỏ Lukow ở Ba Lan. “Bức hình này sẽ dẫn lối chúng ta để hành động vì Nhà nước Israel. Tôi nhìn vào tấm hình và thề rằng, tôi sẽ làm bất cứ gì để bảo đảm rằng chuyện như thế không bao giờ xảy ra” - Dagan nói…

Một trong những chuyện mà Dagan sẽ chẳng bao giờ để xảy ra là việc bóp chết chương trình nghiên cứu và chế tạo bom nguyên tử của Iran. An ninh và sự sống còn của Nhà nước Do Thái là phụ thuộc vào khả năng chặn đứng nguy cơ này…

Tần suất xuất hiện các sự kiện kỳ lạ liên quan chương trình vũ khí hạt nhân Iran ngày càng tăng từ năm 2003: hai vụ tai nạn hàng không bí hiểm gây tử vong các nhà nghiên cứu hạt nhân Iran; hai phòng thí nghiệm quan trọng bỗng vô cớ bị hỏa hoạn làm hỏng các máy ly tâm rồi hai khoa học gia hạt nhân Iran bị mất tích và tiếp đó một số người bị giết. Đó là chưa kể vụ nổ bí hiểm tại một nhà máy Syria, nơi dàn tên lửa Scud đang được lắp đầu đạn hóa học. Song song là một loạt gương mặt cộm cán của các nhóm khủng bố cũng bị tiêu diệt. Mossad được tin là nơi tung ra sát thủ giết chết tướng Mohammed Suleiman, tùy viên thân cận của Tổng thống Syria Bashar Al-Assad. Suleiman bị giết tại Tartus (Syria) vào tháng 8/2008, bởi viên đạn bắn tỉa ghim trúng phóc giữa ngực khi đương sự đứng trên ban công hóng nắng sau khi vừa bơi…



http://nghiadx.blogspot.com


Tay thanh niên, với mái tóc chải cẩn thận và vận chiếc sơmi mới là thẳng thóm, ngồi trước ống kính truyền hình trả lời có vẻ thành thật. “Tên tôi là Majid Jamali Fash” - đương sự tự giới thiệu với khán giả truyền hình Iran trong buổi phát hình trung tuần tháng 1/2011 - “Lần đầu tiên tôi móc nối với tình báo Israel tại Istanbul là cách đây 3 năm. Một gã tên Radfur đến gặp đã đề nghị tôi ghé qua Lãnh sự quán Israel”… Jamali Fash cho biết anh ta là hung thủ sát hại nhà vật lý hạt nhân Massoud Ali Mohammadi bằng quả bom được điều khiển từ xa vào ngày 12/1/2010.

Theo lời khai Jamali Fash, đương sự nhận những chỉ thị đầu tiên từ Lãnh sự quán Israel ở Istanbul. “Tôi nói chuyện với một số người ở đó” - Jamali Fash kể - “Họ ngồi đằng sau cánh cửa kính tối đen. Họ hỏi tôi và yêu cầu tôi thu thập một số thông tin…”. Trong lần gặp thứ hai, Jamali Fash giao 30 trang tài liệu viết tay cho phía Israel. Tiếp đó, Jamali Fash trải qua cuộc huấn luyện thật sự. Sau nhiều lần gặp ở châu Âu và Thái Lan, đương sự nhận khoản “đặt cọc” đầu tiên, 30.000USD, trong số tiền được trả cho vụ ám sát. Số còn lại, 20.000USD, sẽ được thanh toán nốt sau khi công việc hoàn thành.

Chương trình huấn luyện được thực hiện tại Israel, nơi Mossad làm mô hình như thật về ngôi nhà của Mohammadi và khu vực xung quanh, tại một doanh trại quân đội nằm giữa Tel Aviv và Jerusalem. Mossad cũng cung cấp một chiếc gắn máy Honda 125 - loại phương tiện phổ biến ở Tehran - để Jamali Fash thực tập cách cài bom vào xe. Đương sự cũng được dạy cách bắn súng và tự hóa trang. Ở giai đoạn cuối đợt huấn luyện, Jamali Fash được làm thử ba lần…

http://nghiadx.blogspot.com
Chuyên gia vật lý hạt nhân Fereydoon Abbasi (trái): thoát chết trong gang tấc

Trở về Tehran, Jamali Fash được cung cấp mọi thứ cần thiết, trong đó có hai điện thoại vệ tinh dùng để nhận lệnh vào sáng sớm ngày 12/1/2010. Thực hiện đúng kịch bản kế hoạch, Jamali Fash cài bom vào chiếc xe gắn máy rồi đậu cạnh xe hơi Mohammadi bên vệ đường và kích nổ khi nạn nhân vào trong xe. Sức công phá khối thuốc nổ mạnh đến mức nó làm bật tróc những phiến đá to lát căn nhà bốn tầng phía đối diện và làm vỡ nát toàn bộ cửa sổ. Tất nhiên nạn nhân Mohammadi chết tức thì!

Bằng cách tương tự, Mossad thực hiện vụ ám sát hai khoa học gia hạt nhân Majid Shahriari và Fereydoon Abbasi. Ngày 29/11/2010, Shahriari và Abbasi đều đang trên đường đến trường đại học, theo lịch làm việc bình thường gần như mỗi ngày của họ. Không lâu sau, khi ngồi trong chiếc sedan Peugeot cùng vợ bắt đầu đi vào xa lộ Artesh ở mạn Bắc thành phố, Shahriari không màng để ý khi một chiếc gắn máy cặp sát xe mình. Đường phố Teheran vào giờ cao điểm sáng nào mà chẳng thấy xe gắn máy lạng lách vượt ẩu ép cả xe hơi như thế này!

Tuy nhiên, tên tài xế chiếc gắn máy đã lẹ tay gắn khối thuốc nổ vào cửa tài xế của xe hơi (bằng nam châm) và phóng vù mất dạng. Vài giây sau, quả bom nổ tung. Shahriari gục chết tức thì (vợ bị thương nặng). Trong cùng thời gian, sát thủ Mossad cũng thực hiện cuộc ám sát Abbasi. Khi lái xe chở vợ ra khỏi nhà, Abbasi chợt thấy có một tay lái xe gắn máy áp sát vào hông cửa tài xế của xe hơi. Từng là thành viên Vệ binh Cách mạng Hồi giáo Iran, Abbasi, bằng trực giác, biết ngay có chuyện bất thường. Ông vội thắng xe và kéo thốc vợ mở cửa nhảy ra ngoài, chỉ vài giây trước khi quả bom nổ tung! Loạt ảnh chụp chiếc xe cháy đen của Abbasi xuất hiện trên trang nhất nhiều tờ báo thế giới vài ngày sau. Trong cùng ngày, Thủ tướng Benjamin Netanyahu tuyên bố ông chuẩn bị cho sếp Mossad Dagan nghỉ hưu. Tờ Israel HaYom lập tức đăng bài viết với bức ảnh vụ tấn công cùng tựa: “Cú đòn cuối cùng của Dagan?”.

Cuộc săn đuổi Imad Mughniyeh

Gây ân oán giang hồ với Mossad sớm hay muộn chỉ có nước chết. Mossad cũng là nơi nghĩ ra cách thức giết người đa dạng và “phong phú” nhất thế giới. Năm 1978, điệp viên Mossad đã dùng kem đánh răng tẩm thuốc độc để giết Wadih Haddad, thủ lĩnh một phân nhánh thuộc Mặt trận nhân dân giải phóng Palestine (PFLP).

7 năm sau, họ nhét thuốc nổ nén vào quyển kinh Koran và “trân trọng” với “tất cả lòng thành kính cùng sự ngưỡng mộ” gửi cho Ali-Akbar Mohtashamipur, Đại sứ Iran tại Syria. Vài năm gần đây, Mossad đặc biệt quan tâm đến Syria, bởi vai trò nước này trong quan hệ với Iran; khi đất Syria trở thành “hang ổ” của các nhóm khủng bố Trung Đông; và thực tế rằng, Syria luôn ngầm giúp tuồn súng lậu vào Gaza và Bờ Tây. Tháng 8/2004, Mossad từng giết chết Izz El-Deen Sheikh Khalil, gương mặt cấp cao của Hamas tại Damascus. Hôm đó, chiếc SUV Pajero mà Sheikh Khalil vừa xoay chìa khóa khởi động đã bị nổ tung và bốc cháy. Thi thể đối tượng bị nám đen và co quắp biến dạng đến mức không thể nhận ra. Kính chắn gió của chiếc xe đối diện cũng như cửa sổ các căn nhà gần hiện trường bị vỡ từng mảnh vụn. Ba người đi đường gần đó bị thương.

Mossad nói rằng, vụ giết Izz El-Deen Sheikh Khalil là hành động đáp trả cho vụ đánh bom hai chiếc xe bus làm chết 16 thường dân tại Beersheba (Israel) mà Sheikh Khalil liên quan. Cần nhắc lại, thập niên 60 của thế kỷ trước Mossad từng thành công trong việc cài điệp viên Eli Cohen vào bộ máy Chính phủ Syria sâu đến mức trở thành bạn thân của Tổng thống Syria và thậm chí sắp được bổ nhiệm lên ghế Bộ trưởng Quốc phòng nước này! Với vị trí trên, Eli Cohen đã tuồn cho Mossad toàn bộ kế hoạch phòng thủ Syria tại cao nguyên Golan cũng như danh sách chi tiết kho vũ khí Syria. Eli Cohen còn đề nghị (và được nghe theo) việc trồng cây cao tại mọi vị trí đồn trại “để mang lại bóng mát cho binh sĩ Syria”. Thế là sau đó không quân Israel cứ nhắm vào những vị trí đánh dấu này mà nện bom, trong cuộc chiến 6 ngày!

Năm 1965, điệp viên huyền thoại Eli Cohen bị phát hiện, được Syria và Liên Xô xử trong bí mật và bị trục xuất.

Majid Jamali Fash thú nhận trên truyền hình Iran (vụ ra tay ám sát khoa học gia hạt nhân Massoud Ali Mohammadi)

Trong lịch sử hơn 60 năm của Mossad, chẳng cơ quan tình báo nước ngoài nào thực hiện các cuộc tiêu diệt đối thủ bên ngoài lãnh thổ mình nhiều bằng điệp viên Israel. Bất luận kẻ thù trốn ở chân trời góc bể nào, Mossad cũng mò ra và giết cho bằng được. Trường hợp Imad Mughniyeh là một điển hình… Nói đến xung đột Trung Đông, ngoài những cái tên huyền thoại đi vào lịch sử như Yasser Arafat, người ta còn phải kể đến Imad Mughniyeh! Lực lượng an ninh - tình báo phương Tây từng dày công truy tìm Mughniyeh trong 25 năm. Những gì Mughniyeh làm được đã trở thành “bài học kinh điển” cho Al-Qaeda sau này và cá nhân Mughniyeh cũng được đánh giá là một trùm khủng bố có lối sống kỷ luật và nguyên tắc, thậm chí đáng nể hơn Osama bin Laden.

Được mệnh danh “người không bao giờ ngủ”, Mughniyeh đã thoát chết không biết bao nhiêu lần, khi liên tục thay đổi chỗ trốn bằng việc âm thầm lên đường mà không thông báo cho cận vệ hoặc tài xế riêng, với khẩu súng luôn dắt bên thắt lưng…

Khoảng 23h, ngày 12/2/2008, Mughniyeh rời ngôi nhà an toàn tại khu Kfar Soussa thuộc Damascus, nơi có nhiều cao ốc giống nhau được sử dụng như địa điểm làm việc bí mật của tình báo Syria. Trước đó ít phút, Mughniyeh đã có cuộc gặp với một sếp tình báo Syria và chuẩn bị cuộc hội kiến Tổng thống Syria Bashar Assad. Chỉ vài giây sau khi Mughniyeh ngồi sau vôlăng chiếc xe thể thao của mình, một tiếng nổ kinh thiên động địa vang lên. Mughniyeh chết tức thì, khi mới 45 tuổi.

Cần biết, cái tên Mughniyeh bắt đầu gắn liền với hầu hết vụ khủng bố nghiêm trọng trong thập niên 80 và 90 với mục tiêu chủ yếu là Israel và Mỹ; trong đó có vụ tấn công Đại sứ quán Mỹ tại Beirut ngày 18/4/1983 làm chết 63 người trong đó có 17 người Mỹ. Mughniyeh cũng bị quy kết thực hiện vụ khủng bố ngày 23/10/1983 với loạt tấn công bằng bom xe tại doanh trại thủy quân lục chiến Mỹ làm thiệt mạng 58 lính Pháp và 241 lính Mỹ. Washington tin rằng, Mughniyeh chính là kẻ đứng sau vụ không tặc chiếc TWA Flight 847 ngày 14/6/1985; và là nhân vật thực hiện vụ bắt cóc và giết William Buckley (Chánh văn phòng CIA tại Beirut) năm 1985. Thập niên 90, Mughniyeh tiếp tục thực hiện vô số vụ khủng bố, trong đó có vụ tấn công Tòa đại sứ Israel ở Buenos Aires vào tháng 3/1992.

http://nghiadx.blogspot.com
Imad Mughniyeh

Theo cựu viên chức CIA Robert Baer, “Mughniyeh có lẽ là nhân vật thông minh nhất, có khả năng nhất mà chúng tôi từng đối mặt, hơn cả những điệp viên KGB hoặc bất kỳ ai khác. Hắn đi vào bằng cánh cửa này nhưng thoát ra bằng cửa khác; đổi xe hàng ngày; không bao giờ thực hiện cuộc hẹn bằng điện thoại và chúng tôi chẳng bao giờ có thể đoán trước được Mughniyeh chuẩn bị làm gì. Chúng tôi chỉ biết hắn qua những chi tiết miêu tả chẳng hạn “cao, đẹp trai, với đôi mắt cuốn hút, biết tiếng Anh nhưng nói tiếng Pháp giỏi hơn…”.

Danny Yatom - nguyên giám đốc bộ phận tình báo hải ngoại của Mossad - thậm chí không giấu vẻ nể nang khi nói “hắn là một trong những kẻ khủng bố nguy hiểm và thông minh nhất thế giới”. Mỹ từng cố bắt Mughniyeh nhiều lần nhưng bất thành. Lần đầu tiên xảy ra vào năm 1995 khi Mughniyeh đi trên chuyến bay dự kiến hạ cánh tại Saudi Arabia. Tuy nhiên, khi điệp viên CIA được rải đầy ở sân bay thì Chính phủ Saudi Arabia lại không đồng ý cho chiếc máy bay đáp xuống. Năm sau, quân đội Mỹ lên kế hoạch thộp Mughniyeh từ một con tàu ở Doha (Qatar) nhưng chiến dịch này cuối cùng bị hủy. Kế hoạch thộp Mughniyeh lần đó, mang mật danh RETURN OX, là một chiến dịch quy mô, với sự phối hợp giữa 3 tàu chiến (USS Tarawa, USS Duluth, USS Rushmore); Đơn vị thủy quân lục chiến viễn chinh số 13 cùng đơn vị SEAL thuộc Hạm đội 5. Sở dĩ kế hoạch bị hủy vì vào giờ chót có tin rằng, Mughniyeh đã “biến mất” khỏi chiếc tàu tình nghi!

Có tin, vào ngày đám tang Mughniyeh, Thủ tướng Israel Ehud Olmert đã gặp riêng sếp Mossad Meir Dagan để chúc mừng. Tuy nhiên, như hầu hết vụ ám sát nghiêm trọng, Mossad lẫn Chính phủ Israel không bao giờ thừa nhận chính thức việc giết Mughniyeh…

Thứ Ba, 27 tháng 3, 2012

>> Hồ sơ mật : Bóng ma Mossad (Kỳ 2)


Gần như chẳng ai từng gây thù chuốc oán với Israel mà Mossad để yên.

>> Hồ sơ mật : Bóng ma Mossad (Kỳ 1)
Những kẻ đó sẽ được Mossad xếp vào nhóm đối tượng "Trang Đỏ" và một khi "Trang Đỏ" được sang trang thì có nghĩa đã đến thời điểm thích hợp thực hiện cuộc trả thù "máu trả bằng máu", bất luận là 10 hoặc 20 năm sau hay thậm chí dài hơn!

Vụ giết sát thủ lừng danh Mahmoud al-Mabhouh của Hamas năm 2010 tại Dubai là một điển hình… “Màn hình tinh thể lỏng”

Ngay khi ra tay bắn chết hai người lính Israel năm 1989, anh ta đã biết số phận mình như thế nào. Trước sau gì Mossad cũng dai dẳng bám theo đến cùng để thực hiện cuộc trả thù. Suốt 20 năm, Mahmoud al- Mabhouh luôn tự hỏi chẳng biết bao giờ mình trở thành nạn nhân của bóng ma Mossad. Thế rồi trưa ngày 20/1/2010, nhân viên khách sạn 5 sao Al Bustan tại Dubai phát hiện thi thể tím tái của một người đàn ông trung niên trong phòng 230. Theo biên bản khám nghiệm tử thi ban đầu, ông ta tử vong bởi “xuất huyết não”. Tên nạn nhân là Mahmoud al-Mabhouh, một trong những nhân vật cộm cán chuyên đặc trách các thương vụ mua vũ khí của Hamas, kẻ đã “gây thù chuốc oán” với Israel năm 1989…



http://nghiadx.blogspot.com
Thủ tướng Benjamin Netanyahu buộc lòng phải để Giám đốc Mossad Meir Dagan (trái) ra đi


Mỗi ngày có hơn 100.000 hành khách đến Sân bay Quốc tế Dubai. Nơi thuộc Tiểu vương quốc Arập thống nhất (UAE) này đã trở thành địa điểm du lịch nổi tiếng thế giới với bãi biển đẹp lộng gió và thiên đường mua sắm hoạt động bất kể ngày đêm. Tuy nhiên, với 27 hành khách trên những chuyến bay khác nhau từ những địa điểm khởi hành khác nhau, họ đến Dubai chẳng phải để du lịch hay nghỉ đông. 12 người trong số họ mang thông hành Anh; 6 thông hành Ireland; 4 thông hành Pháp; 4 thông hành Úc và một thông hành Đức. Tất cả đều là thông hành giả với những cái tên giả.

Họ là nhóm sát thủ Mossad thuộc đơn vị đặc biệt “Caesarea”, đặt theo tên một thành cổ Palestine nơi thời xưa một nhóm lãnh đạo Do Thái nổi dậy chống Rome đã bị hành hình thê thảm. Họ đang bình tĩnh chờ mục tiêu, kẻ được đặt mật danh là “Màn hình tinh thể lỏng”. Một số người trong nhóm Caesarea thật ra đã đến Dubai vài lần để thực hiện nhiệm vụ khảo sát, vào tháng 2, tháng 3 và tháng 6/2009; và làm quen với cách mở những ổ khóa điện tử dùng phổ biến tại các khách sạn Dubai…

Sáng sớm thứ Ba, ngày 19/1/2010, Al-Mabhouh bắt đầu ra Sân bay Quốc tế Damascus (Syria) để chuẩn bị đáp chuyến Dubai. Đương sự đi một mình. Đầu năm trước, Al-Mabhouh đã đồng ý nhận lời mời phỏng vấn Hãng Truyền thông Al-Jazeera với nội dung về vụ ám sát 2 người lính Israel năm 1989. Khi lên sóng, Al-Jazeera đã che mặt Al-Mabhouh nhưng Mossad chẳng lạ gì giọng nói của đương sự. Kể lại từng chi tiết, “Màn hình tinh thể lỏng” thuật rằng, mình cùng một đồng bọn cải trang làm người Do Thái chính thống giáo để bắt cóc, giết chết và chôn hai người lính Israel (Avi Sasportas và Ilan Saadon). Được hỏi rằng, có hối hận về vụ thảm sát trên hay không?

Al-Mabhouh cười khỉnh nói rằng, mình chỉ tiếc sao lúc đó không bắn thẳng vào mặt nạn nhân thứ hai. Sau vụ trên, cái tên Mahmoud al-Mabhouh đã được đưa vào “Trang Đỏ”. Những kẻ nằm trong “Trang Đỏ” không nhất thiết được trả thù ngay. Họ là nhóm đối tượng nằm trong “danh sách chờ”, để được giết vào lúc thích hợp…

Sinh tại trại tị nạn Jabaliya (Gaza) năm 1960, Al-Mabhouh (có nghĩa là “kẻ cục cằn”) gia nhập lực lượng Huynh đệ Hồi giáo lúc còn trẻ, từng bị Israel bắt cuối thập niên 80 của thế kỷ trước và bị tù 1 năm.

Sau khi được thả, Al-Mabhouh tham gia cánh quân sự của Hamas. Năm 1988, Al-Mabhouh được đưa lên vị trí chỉ huy “Đơn vị 101” chuyên thực hiện các chiến dịch giết lính Israel. Năm 1989, nhóm Al-Mabhouh bắt và giết 2 người lính Israel (kể ở trên) tại sa mạc Negev.

Sau vụ này, Al-Mabhouh trốn vài tháng tại Gaza rồi chuồn sang Ai Cập. Chính phủ Cairo thoạt đầu tính đưa Al-Mabhouh ra tòa rồi dẫn độ cho Israel, nhưng sợ rằng điều đó khiến tổ chức Huynh đệ Hồi giáo nổi giận trả đũa nên cuối cùng trục xuất Al-Mabhouh sang Libya.

Từ nơi này, Al-Mabhouh đến Jordan, lập một căn cứ Hamas chuyên nhiệm vụ tuồn vũ khí lậu vào Bờ Tây và tổ chức các cuộc tấn công vào du khách Israel. Năm 1995, Al-Mabhouh bị Jordan trục xuất (tương tự toàn bộ thành phần lãnh đạo Hamas tại nước này không lâu sau đó).

Đến Damascus, Al-Mabhouh móc nối với lực lượng Vệ binh Iran, thực hiện các phi vụ mua vũ khí Iran cũng như tổ chức quyên tiền tại các nước vùng Vịnh. Trước đó, Hamas chỉ có thể tấn công bằng hỏa tiễn tầm ngắn nhưng sau nhờ Al-Mabhouh nên chiến binh Hamas đã có thể bắn phá Israel bằng hỏa tiễn tầm trung.

Tháng 2/2009, Al-Mabhouh suýt chết khi một máy bay không người lái Israel xịt tên lửa vào đoàn xe của Al-Mabhouh tại Sudan. Đó là đoàn vận tải chở đầy hỏa tiễn Fajr của Iran.

Với hoạt động ngày càng mạnh của Al-Mabhouh, Mossad cho rằng, đã đến lúc cần lật “Trang Đỏ”! Al-Mabhouh thường xuyên đi lại giữa Trung Quốc, Iran, Syria, Sudan và UAE. Dù vậy, Mossad quyết định rằng, Dubai là nơi tốt nhất cho điệp vụ ám sát. Đó là địa điểm luôn rộng cửa đón du khách và việc xin thị thực bằng thông hành phương Tây chẳng khó khăn gì. Thật ra, sau vụ bắn hụt đương sự tại Sudan, Mossad đã mưu sát Al-Mabhouh lần thứ hai vào tháng 11/2009.

Tuy nhiên, do liều thuốc độc cho vào thức ăn tại khách sạn, nơi đối tượng lưu trú không đủ mạnh nên vụ ám sát bất thành. Lần này, nhóm Caesarea thề rằng, họ sẽ không bao giờ rời Dubai cho đến khi chính mắt nhìn thấy Al-Mabhouh “chết không kịp trăng trối”…

Cuộc hạ sát

1h10’ sáng ngày 19/1/2010, hai điệp viên Caesarea cuối cùng, Gail Folliard và Kevin Daveron đáp xuống Dubai từ chuyến bay Paris. Cả hai nhập bọn với Peter Elvinger, cũng vừa hạ cánh từ Zurich. Trưa ngày 19/1/2010, Al-Mabhouh đến Dubai từ chuyến bay Emirates Flight EK 912, với thông hành Palestine mang tên “Mahmoud Abd al-Rauf Mohammed Hassan”. Al-Mabhouh khai với hải quan rằng, mình là “nhà buôn”. Một toán Mossad cắm ở sân bay đã xác định mục tiêu và báo với những người còn lại.

Hai điệp viên Mossad mặc trang phục thể thao với vợt tennis và khăn lông quấn cổ đã ngồi chờ sẵn tại sảnh khách sạn Al Bustan từ lúc 14h12’. Hai người cùng vào thang máy với Al-Mabhouh để biết chính xác phòng đối tượng là phòng 230 ở tầng hai. Họ nhắn tin cho Peter Elvinger; và người này (còn ở sân bay) lập tức gọi đến khách sạn Al Bustan để đặt trước phòng 237, đồng thời đặt trước luôn vé trở về Zurich qua ngả Doha (Qatar)…

http://nghiadx.blogspot.com
Nhóm sát thủ lần lượt đến sân bay


18h34’ ngày 19/1/2010, nhóm sát thủ Caesarea có mặt đầy đủ tại khách sạn Al Bustan. 4 người bọn họ chia làm hai cặp. Tất cả đều đội mũ lưỡi trai để che khuất mặt trước ống kính an ninh khách sạn. Trong khi đó, hai nhóm thám sát cũng bắt đầu rời Al Bustan để tránh gây chú ý và được “đổi ca” bằng hai điệp viên khác.

20h, 6 sát thủ Mossad có mặt đầy đủ trên hành lang bên ngoài phòng Al-Mabhouh. Trước đó, trong thời gian 4 tiếng Al-Mabhouh ra khỏi khách sạn, một chuyên gia khóa của nhóm Caesarea đã chỉnh lại ổ khóa điện tử của phòng 230 sao cho thẻ mở khóa của phòng 237 (đối diện) có thể mở được phòng đối tượng. Gail Folliard và Kevin Daveron được phân công “trực” an ninh hành lang.

Lúc này, họ đã hóa trang và đội tóc giả, đeo ria giả, Daveron mặc trang phục nhân viên khách sạn… 20h24’, Al-Mabhouh trở về khách sạn. Cầm chiếc túi trong đó có đôi giày mới mua, đương sự vào thang máy lên tầng hai, không để ý đến gã “nhân viên khách sạn” có bộ ria mép và sau đó là cô gái đội mớ tóc giả đen đang lúi húi hút bụi thảm hành lang (từ trước đó cả nửa tiếng đồng hồ)…

Mở cửa vào phòng, Al-Mabhouh chẳng hề biết rằng, bên trong đã có 4 sát thủ ngồi rung đùi uống trà chờ mình! Dấu hiệu cho thấy có một trận “đấu vật” ngắn trong phòng là vài mảnh vỡ của chiếc khung giường. Một cách chính xác, chẳng ai trừ nhóm sát thủ biết được Mahmoud al-Mabhouh chết như thế nào.

Khám nghiệm tử thi cho thấy đương sự bị tiêm succinylcholine - hóa chất có thể làm tê liệt cơ trong vòng không đến một phút. Nó còn làm vỡ mạch máu mắt và nứt toác môi. Al-Mabhouh còn bị bịt miệng bằng gối - theo cảnh sát Dubai. Saeed Hamiri thuộc Phòng Giám định pháp y Dubai cho biết, cảnh sát Dubai phát hiện một vệt máu trên gối; những vết bầm tím trên mũi, mặt, cổ và một vết tiêm bên hông phải của Al-Mabhouh.

Làm sao có thể biết chắc nhóm sát thủ là điệp viên Mossad?

Băng hình an ninh cho thấy, lúc 20h46’ (sau khi hành sự), hai sát thủ Mossad đứng canh ở thang máy bắt đầu đi xuống sảnh. Rõ ràng họ rất phấn khích, cứ nhảy tới nhảy lui liên tục như vận động viên quyền anh. Một người trong bọn họ vẫn còn mang găng tay - điều hoàn toàn không bình thường đối với khách lưu trú khách sạn.

Nhóm sát thủ rời Al Bustan từng cặp một. Họ đón taxi ra sân bay. Nữ điệp viên Gail Folliard rời khách sạn, tay trong tay như đôi tình nhân với một điệp viên khác. Kevin Daveron lĩnh nhiệm vụ chặn hậu nên là người cuối cùng rời phòng 237. Không lâu sau, Daveron và Folliard đã ngồi trên chiếc máy bay lên đường đến Paris trong khi hai người khác bay đến Nam Phi… Thi thể tím ngắt của “Màn hình tinh thể lỏng” vẫn nằm co quắp trong phòng 230, cho đến khi nhân viên khách sạn phát hiện vào trưa hôm sau.

Và phải gần một tuần sau đó, Trung tướng Dahi Khalfan Tamim, người được mệnh danh “siêu cảnh sát Dubai”, mới biết được tin về cái chết của một viên chức cấp cao Hamas ngay tại nơi cách văn phòng ông chỉ khoảng 3km.

Nhóm lãnh đạo Hamas tại Damascus bắt đầu nhận thấy có gì bất thường khi không liên lạc được với Al-Mabhouh. Cuối cùng, Hamas gọi điện cho cảnh sát Dubai, thú nhận rằng họ có cho một viên chức cấp cao của mình đến Dubai bằng tên và thông hành giả.

Biết chuyện, Tư lệnh Cảnh sát Dubai Tamim nổi giận. Ông gào lên qua điện thoại: “Bọn người mấy ông có thể cuốn gói, rút tiền khỏi nhà băng, ôm theo hết vũ khí và cả mớ thông hành giả nữa rồi biến khỏi xứ tôi ngay lập tức”. Tamim có lý do để nổi khùng. Vụ điệp viên Mossad lẻn vào rồi lẻn ra một cách êm ru, bất chấp thực tế rằng, Dubai được trang bị hệ thống giám sát an ninh phức tạp và hiện đại nhất thế giới Arập, rõ ràng chẳng khác nào là sự sỉ nhục đối với Tamim. Thật là một scandal đầy tai tiếng của cảnh sát Dubai đối với thế giới. Thế này thì còn ai dám đến thiên đường du lịch Dubai nữa!

http://nghiadx.blogspot.com
Thi thể Mahmoud al-Mabhouh tại sở cảnh sát Dubai


Một cuộc điều tra quy mô được tiến hành. Danh sách du khách tại Al Bustan được xăm xoi, cũng như băng hình được ghi lại từ hơn 1.000 camera trong khách sạn, kể cả băng hình của hệ thống camera tại toàn bộ các khách sạn khác cũng như siêu thị và sân bay! Manh mối đầu tiên xuất hiện khi cảnh sát Dubai nhận thấy nhóm sát thủ trả tiền khách sạn bằng tiền mặt và bằng thẻ tín dụng trả trước do Hãng Mỹ Payoneer phát hành. Do thẻ Payoneer được dùng bởi hầu hết 27 thành viên nhóm sát thủ nên nhân viên điều tra có thể dễ dàng khoanh hẹp danh sách tình nghi.

Còn một chi tiết đáng lưu ý nữa: Tổng giám đốc điều hành Payoneer, Yuval Tal, là một cựu thành viên lực lượng đặc nhiệm quân đội Israel! Nhóm sát thủ còn phạm thêm một sai lầm khi họ dùng kênh trung gian tại Áo để liên lạc với nhau. Theo đó, một điệp viên sẽ gọi một số ở Vienna để có thể được nối máy với điện thoại di động của một điệp viên khác. Xem xét danh sách cuộc gọi của một đối tượng tình nghi (trong nhóm sát thủ), cảnh sát Dubai dễ dàng tìm ra được danh tính những kẻ cũng liên lạc với các số điện thoại ở Áo.

Với một tay mà năm 19 tuổi đã tốt nghiệp Học viện Cảnh sát Hoàng gia ở Amman-Jordan (học viện cảnh sát số 1 thế giới Arab), rồi 10 năm sau (1980) được bổ nhiệm làm Cảnh sát trưởng Dubai như Tamim, việc khẳng định nhóm sát thủ là ai chẳng phải là chuyện chơi có thể nói càn. Cuối cùng, ngày 15/2/2010, Tamim tổ chức cuộc họp báo. Tay cầm mảnh giấy in hình và tên các đối tượng tình nghi đồng thời cung cấp báo chí thế giới đoạn băng hình, Tamim đoan chắc rằng, Mossad đích thị là thủ phạm. Vụ bắt điệp viên Alexander Varin (trong nhóm sát thủ giết Al-Mabhouh) ngày 4/6/2010 tại Ba Lan đã khẳng định thêm quy kết trên…

Scandal điệp vụ Dubai nổ tung như một quả bom trong quan hệ ngoại giao đối với Israel. Viên chỉ huy trưởng đơn vị đặc biệt Caesarea đệ đơn từ chức, nhưng không được chấp nhận. Tuy nhiên, để giảm sức ép lên quan hệ ngoại giao, Thủ tướng Benjamin Netanyahu đã đồng ý cho Meir Dagan, Giám đốc Mossad, ra đi.

Ngày 6/1/2011, Meir Dagan rời Mossad, được thay bằng Tamir Pardo (sinh năm 1953), người từng có mặt trong lực lượng đặc nhiệm Sayeret Matkal của quân đội Israel, từng thuộc đơn vị nằm dưới sự chỉ huy Yonatan Netanyahu (anh của Benjamin Netanyahu) trong chiến dịch lừng danh Entebbe (giải cứu các con tin Israel trên chiếc máy bay Air France bị các tay súng Palestine cướp và đỗ xuống Entebbe, Uganda năm 1976; Yonatan chết trong chiến dịch này)…

Thứ Bảy, 24 tháng 3, 2012

>> F-86 Sabre và MiG-15 : Những tiêm kích xuất sắc mọi thời đại


Một trong những nhiệm vụ ưu tiên của tình báo luôn là chiếm giữ các mẫu vũ khí hiện đại của đối phương.


http://nghiadx.blogspot.com
F-86 Sabre và MiG-15 bị săn lùng ráo riết trong cuộc chiến Triều Tiên (1950-1953)


Trong cuộc đối đầu KHKT thời chiến tranh lạnh, mỗi hồ sơ kỹ thuật, các sơ đồ, bản vẽ vũ khí, thiết bị quân sự, động cơ lấy được của đối phương có giá trị đặc biệt. Hàng ngàn nhà khoa học và chuyên gia kỹ thuật làm việc trong các viện nghiên cứu và các phòng thí nghiệm bí mật đã nghiên cứu tỉ mỉ các mẫu vũ khí trang bị của kẻ thù, tìm kiếm các phương thức đối phó hiệu quả bằng các giải pháp kỹ thuật mới hoặc đơn giản là sao chép để chế tạo các mẫu vũ khí của mình. Dĩ nhiên, khi nắm được trong tay cả một xe chiến đấu, hệ thống tên lửa hay máy bay đầy đủ, nguyên vẹn thì công việc tiến triển nhanh hơn.

Nga cũng trộm cắp như ai

Từ lâu, tình báo Liên Xô/Nga đã ‘quan tâm sát sao” đến các loại vũ khí nước ngoài. Nhiều người đã biết đến vai trò của tình báo Liên Xô trong việc đánh cắp bí mật bom nguyên tử. Nhưng ngoài ra, còn có nhiều câu chuyện khác.

Năm 1951, với sự hỗ trợ của các phi công Liên Xô chiến đấu ở Triều Tiên, Liên Xô đã lấy về được một tiêm kích tối tân nhất của Mỹ F-86 Sabre. Năm 1953, các xe tăng Mỹ М24 Chaffee và М46 Patton I đã được đưa về Moskva. Các xe tăng này hiện vẫn còn ở Viện bảo tàng xe tăng ở Kubinka.

Năm 1967, điệp viên tình báo quân sự Liên Xô GRU Manfred Ramminger lấy được tên lửa không đối không siêu mật Sidewinder của Mỹ từ căn cứ không quân ở Neuburg, Đức. Sau đó, anh ta bay đến Moskva mang theo hai thùng chứa quả tên lửa được dỡ tung mà anh ta đưa lên máy bay mà không qua hải quan khám xét. Một năm sau, mấy người này lại đánh cắp được một phương tiện đạo hàng thiên văn của hãng Mỹ Teldix ngay từ triển lãm và đưa đến Moskva trong hành lý cá nhân.

Tuy nhiên, không phải mọi thứ đều diễn ra ngon lành. Và thường là do sự điều phối kém của bộ máy nhà nước Liên Xô. Một lần, các tình báo viên lấy được 2 cơ cấu phóng tên lửa. Họ chi cho mỗi thiết bị 4.000USD. Đến phút cuối trước khi gửi về nước thì có chỉ thị từ Trung ương tình báo: trả lại một cơ cấu phóng vì không cần thiết, chúng tôi không duyệt kinh phí. Ấy vậy mà khi hỏi đến bộ phận Thương vụ đại sứ quán thì lập tức nhận được câu trả lời: “Hãy áp dụng các biện pháp khẩn cấp để mua thêm 5 bộ nữa vì rất cần cho các viện thiết kế của chúng tôi”.

Chính vì thế, việc điều phối hoạt động trong lĩnh vực này đã được giao cho Ủy ban Công nghiệp quốc phòng. Ủy ban này tập hợp các yêu cầu từ các bộ thuộc ngành công nghiệp quốc phòng, lên kế hoạch tình báo và tính toán số tiền tiết kiệm được. Hoạt động thu thập thông tin KHKT không bao giờ ngừng nghỉ. Ví dụ, một báo cáo gửi Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Liên Xô có viết rằng, trong số 3.617 nhiệm vụ, có 1/3 được hoàn thành, tức là rất nhiều đối với tình báo. Các thông tin này đã được sử dụng trong 3.396 dự án khoa học và thiết kế-thử nghiệm của Liên Xô, trong đó có chế tạo máy tính điện tử, tên lửa SS-20...

“Còn bây giờ thì sao?” Các cán bộ tình báo Nga khiêm tốn trả lời: “Chúng tôi vẫn đang làm!”...

http://nghiadx.blogspot.com
F-86 Sabre và MiG-15


Bắt sống F-86 Sabre

Để chiếm giữ các mẫu vũ khí của đối phương không nhất thiết phải cài cắm điệp viên lâu dài và tốn công như trong trường hợp phi công Liên Xô Belenko, kẻ đã lái một chiếc MiG-25 hiện đại chạy sang Nhật Bản hay mạo hiểm tuyển mộ binh sĩ đối phương. Người ta có thể chiếm giữ vũ khí trang bị đối phương tại các điểm nóng trên thế giới, nơi vũ khí Liên Xô và vũ khí NATO đối đầu nhau.

Cuộc săn lùng bí mật quân sự quy mô lớn bắt đầu từ thời chiến tranh Triều Tiên 1950-1953. Ở đó, các sĩ quan, binh sĩ Liên Xô được chỉ thị chiếm giữ “bất kỳ vũ khí trang bị nào của Mỹ, và trước hết là vũ khí trang bị không quân”. Không quân Mỹ thời đó sử dụng các tiêm kích tối tân F-86 Sabre, tương đương MiG-15 của Liên Xô, nhưng F-86 có thiết bị hiện đại hơn.

Các công trình sư máy bay Liên Xô đã gửi thư mật đến Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô đề nghị “kiếm cho họ dù là một chiếc máy bay còn nguyên vẹn để cải thiện công tác nghiên cứu chế tạo tiêm kích tiên tiến”.

Cuộc săn lùng Sabre bắt đầu trên bầu trời Triều Tiên. Phía Liên Xô quyết định tìm cách chặn một máy bay trên không và ép nó hạ cánh. Với mục đích đó, người ta đã thành lập một nhóm đặc nhiệm có mật danh Nord gồm 12 phi công sừng sỏ dưới sự chỉ huy của Thiếu tướng không quân Blagoveshchensky.

Từ tháng 4.1951, các phi công của nhóm Nord đã bắt đầu liên tục xuất kích từ sân bay Andun của Trung Quốc để chặn đánh máy bay Mỹ.

http://nghiadx.blogspot.com
F-86 Sabre và MiG-15 được chọn là hai trong những tiêm kích xuất sắc nhất mọi thời đại


Nhưng mãi đến ngày 6.10.1951, Liên Xô mới tóm được chiếc Sabre đầu tiên. Trung tá, phi công Liên Xô E. Pepelyaev trong một trận không chiến đã bắn bị thương một máy bay Mỹ khiến nó phải hạ cánh bắt buộc trên bờ biển Hoàng hải.

Chiếc máy bay chiến lợi phẩm được đưa bằng đường sắt qua Trung Quốc về Moskva. Một chiếc Sabre khác lọt vào tay quân đội Liên Xô vào ngày 13.5.1952. Máy bay này bị pháo phòng không bắn bị thương và phi công đã buộc phải hạ cánh trên đất Trung Quốc. Phi công đã được phía Mỹ cứu thoát, còn chiếc Sabre hầu như nguyên vẹn đã lọt vào tay Trung Quốc, sau đó họ chuyển máy bay cho Liên Xô.

Ngày 7.2.1952, tại khu vực Gensan (tức Wonsan), dưới sự chỉ huy của các cố vấn quân sự Liên Xô, đã xây dựng và tiến hành chiến dịch chiếm giữ một trực thăng chiến đấu của Không quân Mỹ. Với chiến công này, theo Sắc lệnh của Đoàn Chủ tịch Soviet Tối cao Liên Xô ngày 22.2.1952, Đại tá A. Glukhov đã được tặng thưởng Huân chương Lenin, Đại tá L. Smirnov được tặng thưởng Huân chương Cờ Đỏ.

http://nghiadx.blogspot.com
F-86 Sabre và MiG-15 được chọn là hai trong những tiêm kích xuất sắc nhất mọi thời đại


Săn Én bạc MiG-15

MiG-15 là cơn ác mộng, gây tổn thất rất lớn cho Không quân Mỹ trong cuộc chiến Triều Tiên (1950-1953). Vì thế, Mỹ đặt ra mục tiêu lấy bằng được máy bay này để nghiên cứu đối phó.

Trong chiến tranh Triều Tiên, F-86 Sabre (Mỹ) và MiG-15 (Liên Xô) là kỳ phùng địch thủ và nằm trong số các tiêm kích tốt nhất mọi thời đại.

http://nghiadx.blogspot.com
MiG-15


Mỹ nhiều lần mưu toan lấy các mẫu tiêm kích phản lực của Liên Xô. Không quân Mỹ đã mở hẳn một chiến dịch có tên Moolah nhằm kêu gọi các phi công chiến đấu bên phía Bắc Triều Tiên lái MiG-15 chạy sang phía quân Mỹ với phần thưởng 50.000 USD cho mỗi máy bay, riêng phi công đầu tiên đào ngũ với MiG-15 được nhận thêm 50.000 USD nữa, đồng thời được tỵ nạn chính trị.

Tháng 7.1951, họ đã bắn rơi một chiếc MiG-15 trên bờ biển phía Tây của Bắc Triều Tiên. Máy bay rơi xuống vùng biển nông gần đảo Sinbito và bị các phi công Anh nằm trong lực lượng Mỹ ở Triều Tiên phát hiện. Hạm đội Mỹ đã đổ đến khu vực máy bay rơi và tiến hành chiến dịch trục vớt chiếc MiG-15. Nhưng chiếc tiêm kích bị hư hỏng trầm trọng, không thể tháo dỡ để nghiên cứu được.

Sau đó, mùa hè năm 1952, Mỹ lấy được một chiến lợi phẩm khác. Lực lượng đặc nhiệm Mỹ phát hiện trong vùng núi Bắc Triều Tiên các mảnh vỡ thân máy bay MiG-15 của Liên Xô phải hạ cánh bắt buộc tại đây. Với sự hỗ trợ của một trực thăng hạng nặng, người Mỹ đã lấy đi được chiếc MiG đã hư hỏng khá nhiều. Song cái mà Bộ chỉ huy Không quân Mỹ muốn là cả một máy bay Liên Xô còn nguyên vẹn để nghiên cứu kỹ càng các tính năng bay-kỹ thuật của nó.

Nỗ lực tiếp theo đã thành công vào ngày 21.9.1953. Trung úy phi công Bắc Triều Tiên No Kum-Sok mà tình báo Mỹ tuyển được và được hứa hẹn 100.000USD cho một máy bay Liên Xô còn mới tinh, đã lái chiếc MiG-15bis chạy trốn đến căn cứ không quân Mỹ ở Kimpo, Triều Tiên.

Chiếc máy bay đã được chuyển về căn cứ Eglin Field, ở Mỹ và được tháo tung đến từng chiếc đinh vít, sau đó được lắp lại và dùng trong các trận đánh tập trên không với chính các máy bay Sabre. Sau này, sử dụng các máy bay Liên Xô chiến lợi phẩm lấy được ở các điểm nóng trên thế giới, Mỹ đã thành lập một phi đội bí mật chuyên làm nhiệm vụ kiểm tra tính năng bay-kỹ thuật của máy bay Liên Xô.

http://nghiadx.blogspot.com
MiG-15


Vụ cướp chiếc MiG-15 ở Triều Tiên đã ảnh hưởng nhiều đến việc Liên Xô ngừng trang bị các tiêm kích tối tân nhất thời bấy giờ là MiG-17 cho các đơn vị Liên Xô ở Triều Tiên. Mặc dù các phi công thuộc quân đoàn không quân Liên Xô chiến đấu ở Triều Tiên đã nhiều lần xin cung cấp thêm các máy bay này để đối phó hiệu quả với các máy bay Sabre cải tiến của Mỹ. Cũng vì lý do này mà Liên Xô chủ yếu cung cấp các vũ khí trang bị lạc hậu cho nhiều nước thế giới thứ ba.

Những vũ khí hiện đại nhất, có khả năng chống chọi với các mẫu vũ khí tối tân nhất của Mỹ và Tây Âu chỉ được cung cấp cho các nước đang ở tuyến đầu chống đế quốc như Angola, Afghanistan, Việt Nam, Ai Cập, Ethiopia hay những nước có thể trả nhiều tiền như Libya, Iran, Iraq.

Trong cuộc chiến tranh Ai Cập-Israel đầu những năm 1970, các đơn vị Không quân Liên Xô làm nhiệm vụ bảo vệ bầu trời bán đảo Sinai theo hiệp ước với Ai Cập đã nhận được các máy bay tiêm kích tối tân nhất của Liên Xô là М-500 (biến thể trinh sát của MiG-25).

Các công trình sư Liên Xô cần có các số liệu thử nghiệm máy bay này trong điều kiện chiến đấu. Máy bay này có tính năng vượt trội so với hầu hết các máy bay tương tự của nước ngoài. Mỹ và Israel đã mở cuộc săn lùng thực sự đối với M-500.

MiG-15

Hàng chục máy bay F-4 Phantom (Con ma) đã tham gia các âm mưu chặn đánh chiếc máy bay Liên Xô vào mùa hè năm 1970 ở khu vực kênh đào Suez. Nhưng các phi công Liên Xô đã khôn khéo tận dụng ưu thế của máy bay mới về tốc độ và độ cao bay nên dễ dàng thoát khỏi sự truy đuổi. Sau khi hoàn thành chương trình thử nghiệm, tất cả các máy bay М-500 đã được tháo dỡ và đưa về Liên Xô cho an toàn.

Cuối cùng, Mỹ cũng lấy được bí mật của MiG-25 khi trung úy Không quân Liên Xô Belenko đào thoát sang Nhật Bản cùng một chiếc MiG-25.

>> Hồ sơ mật : Bóng ma Mossad (Kỳ 1)


Những điệp vụ trong bóng tối

Mossad - một trong những tổ chức tình báo bí mật nhất thế giới có thể được xem là cơ quan gián điệp vấy máu nhiều nhất lịch sử tình báo thế giới. Chẳng gì mà Mossad không làm, từ bắt cóc, cứa cổ, tiêm thuốc độc đến bắn vỡ sọ nạn nhân…


Trong số ra ngày 2/8/2011, tờ Der Spiegel (Đức) cho biết, Cơ quan Tình báo Israel Mossad là thủ phạm tổ chức hàng loạt vụ giết các nhà khoa học gia hạt nhân Iran gần đây, trong đó có vụ bắn toác cổ nhà khoa học hạt nhân Darioush Rezaei ngay tại thủ đô Tehran ngày 23/6/2011.



http://nghiadx.blogspot.com
"Đồ chơi" của điệp viên Mossad


Bàn tay vấy máu

Vụ hạ sát TS vật lý hạt nhân Darioush Rezaei 35 tuổi (bởi hai kẻ lạ mặt phóng môtô nã 5 phát súng vào chiếc xe nạn nhân khi Rezaei đang chở vợ và con gái) là vụ mới nhất liên quan đến Mossad. Rezaei là nhà vật lý hạt nhân thứ ba của Iran bị khử thời gian gần đây, trong chiến dịch bắt đầu từ năm 2010.

http://nghiadx.blogspot.com
Darioush Rezaei - một trong những nạn nhân mới nhất của Mossad


Ngày 12/1/2010, nhà vật lý hạt nhân Masoud Ali Mohammadi, người được giới chuyên gia năng lượng hạt nhân thế giới đánh giá là một trong những nhà khoa học hạt nhân số một Iran, bị giết bởi quả bom điều khiển từ xa cài trong chiếc môtô đậu cạnh xe hơi của ông. Gần một năm sau, ngày 29/11/2010, GS vật lý hạt nhân Majid Shahriari bị nổ tan xác khi chiếc xe hơi của ông bị cài bom; trong khi đồng nghiệp Fereidoun Abbasi (Giáo sư Đại học Shahid Beheshti) cũng bị ám sát suýt chết (sau vụ trên, Tổng thống Iran Mahmoud Ahmadinejad bổ nhiệm Abbasi làm Phó chủ tịch Cơ quan Nguyên tử Iran).

Trước đó, năm 2007, TS Ardeshir Hosseinpour (làm việc tại Nhà máy hạt nhân Isfahan) cũng bị chết một cách bí hiểm bởi “nhiễm phóng xạ”. Năm 2007 cũng là năm mà Trung tướng, Thứ trưởng Quốc phòng Iran Ali-Reza Asgari “biến mất” một cách kỳ lạ. Ngày 7/2/2007, sau khi đến Istanbul (Thổ Nhĩ Kỳ) từ Damascus (Syria) trong chuyến công du, Ali-Reza Asgari đột nhiên mất tích suốt từ đó đến nay (tháng 8/2011), để lại vô số tin đồn đoán về tông tích mình, rằng ông bị Mossad hay CIA bắt cóc để khai thác thông tin về chương trình hạt nhân quân sự Iran; hay ông đào thoát bởi bất đồng với Tổng thống Ahmadinejad…

http://nghiadx.blogspot.com
Khalid Meshal, hiện là thủ lĩnh quốc tế của Hamas,người suýt chết trong một vụ ám sát của Mossad


Cư dân giàu có tại khu biệt lập Afeka ở bắc Tel-Aviv chẳng lạ gì Rafael Eitan - gã trung niên béo lùn thích để ngực trần và bị điếc đặc tai phải. Người ta vẫn thường thấy Eitan đi đâu đó, trở về với mớ sắt vụn rồi lụi hụi hàn lại thành những hình thù khác nhau như một thú tiêu khiển. Ít người biết rằng, trong gần 1/4 thế kỷ, Eitan là Phó giám đốc Mossad đặc trách các chiến dịch đặc biệt. Trong suốt thời gian làm điệp viên, Eitan đã lăn lộn khắp các thành phố châu Âu, trong những điệp vụ tìm diệt. Eitan giết nhiều người đến mức không thể nhớ chính xác bao nhiêu, có khi bằng khẩu Beretta gắn ống hãm thanh, có khi bằng sợi dây điện siết cổ hoặc có lúc bằng một cú vặn cổ nạn nhân cực mạnh, nhanh và gọn như xoắn cổ vịt! Khi Menachem Begin đắc cử Thủ tướng năm 1977, Eitan được chỉ định làm cố vấn riêng về chống khủng bố.

Việc đầu tiên Eitan thực hiện ở cương vị này là tổ chức chiến dịch thanh trừng nhóm khủng bố giết 11 vận động viên Israel tại Thế vận hội Munich năm 1972. Những gì đạo diễn Mỹ Steven Spielberg miêu tả trong bộ phim về đề tài này (Munich, sản xuất năm 2005) chẳng thấm vào đâu so với thực tế. Nạn nhân đầu tiên bị khử khi đang đứng trong hành lang căn hộ tại Rome (bị bắn 11 phát với mỗi viên được xem như trả thù cho một vận động viên Israel). Nạn nhân thứ hai bị giết khi trả lời điện thoại từ căn hộ ở Paris (cái đầu bị vỡ toác như quả dưa bởi khối thuốc nổ cài trong ống nghe và được kích hoạt bằng thiết bị điều khiển từ xa). Kẻ khủng bố thứ ba bị giết bằng bom trong căn hộ tại Nicosia (Cyprus)…

http://nghiadx.blogspot.com
Rafael Eitan (1929-2004) - một trong những huyền thoại của lịch sử Mossad


Để tạo thêm mùi vị kinh hoàng cho các thành viên còn lại của nhóm khủng bố "Tháng Chín Đen", Mossad cho đăng một loạt cáo phó trên nhiều tờ báo Arab địa phương và gửi hoa đến viếng gia đình họ, trước khi họ lần lượt bị giết! Riêng thủ lĩnh nhóm khủng bố (trực tiếp thực hiện vụ giết vận động viên Israel) Ali Hassan Salameh - mệnh danh “Hoàng tử đỏ”, thì chính Eitan đã đích thân ra tay. Sau nhiều lần theo dõi và mất dấu đối tượng, Eitan cuối cùng phát hiện Salameh tại Beirut. Thuộc Beirut như lòng bàn tay, Eitan cải trang thành thương nhân Hy Lạp và theo dõi đường đi nước bước Salameh. Trở về Tel Aviv, Eitan phái ba điệp viên Mossad vào Li-băng.

Một kẻ thuê xe; một người cài bom vào khung xe; và kẻ còn lại đỗ xe tại con lộ mà “Hoàng tử đỏ” đi ngang mỗi sáng. Dùng thiết bị điều khiển từ xa, nhóm điệp viên Mossad đã giết banh xác “Hoàng tử đỏ”! (vụ thanh trừng nhóm Tháng Chín Đen từng gây chấn động thế giới và Eitan thậm chí được tiểu thuyết gia truyện gián điệp John Le Carré lấy làm hình mẫu cho một nhân vật trong quyển The Little Drummer Girl).

Giết kẻ thù đã đành, Mossad cũng giết luôn kẻ không thể mua chuộc được. Vụ TS Gerald Bull (Canada) là điển hình. Khoa học gia Bull từng là một trong những chuyên gia vũ khí đạn đạo số một thế giới. Israel nhiều lần tiếp cận và mua chuộc đương sự nhưng bất thành. Trong khi đó, Bull muốn bán kỹ thuật cho Iraq. Cốt lõi kỹ thuật Bull là mẫu pháo siêu hạng (được đặt tên Supergun) có nòng dài 148m được chế từ 32 tấn thép Anh.

Cuối năm 1989, Supergun đã khai hỏa thử tại Mosul (Iraq) và Baghdad đặt Bull chế 3 khẩu Supergun với giá 20 triệu USD. Dự án chế tạo Supergun có mật danh Babylon. Công ty Space Research Corporation (SRC) của Bull có trụ sở tại Brussels chịu trách nhiệm mua thiết bị từ các nước châu Âu láng giềng.

Ngày 17/2/1990, một điệp viên nằm vùng Mossad ở Brussels vớ được tài liệu về Dự án Babylon. Tại Mossad, hồ sơ Bull ngày càng dày, từ lúc đương sự được trao bằng tiến sĩ năm 22 tuổi đến lúc (năm 1976) chế được khẩu “bích kích pháo” 45 mm có thể bắn được mục tiêu cách xa 40km, ở thời điểm mà khẩu đại bác tốt nhất của NATO chỉ bắn được 27km… Trưa ngày 20/3/1990, Thủ tướng Israel Yitzhak Shamir đã thống nhất với Giám đốc Mossad Nahum Admoni, rằng Bull phải chết!

Hai ngày sau, hai điệp viên Mossad có mặt tại Brussels, nơi một điệp viên Mossad khác rành rẽ mọi động tĩnh của Bull đang đón chờ. 18 giờ 45 phút ngày 22/3/1990, ba điệp viên Mossad đánh chiếc xe thuê đến khu phố Bull sống; mỗi người lận một khẩu súng trong bụng. 20 phút sau, khi mở cửa, ông già Bull 61 tuổi bị ghim 5 phát vào đầu và cổ bằng loạt đạn 7,65 mm. Bull lảo đảo đổ gục chết ngay ở bậc cửa. Khi nhóm sát thủ trở về an toàn, Ban tâm lý chiến Mossad tung ra dư luận Bull bị Baghdad giết bởi tội bội tín…

Những điệp vụ ám sát rợn tóc gáy

Năm 2003, (cựu) Thủ tướng Ariel Sharon bắt đầu bật đèn xanh cho chiến dịch “bắt rắn chặt đầu”, với chiến dịch quân sự lẫn tình báo nhằm tiêu diệt các đối tượng thủ lĩnh Hamas cũng như những nhóm Hồi giáo quá khích khác. Thật ra chiến dịch này không mới. Nhiệm vụ thường trực của Mossad vẫn luôn là tiêu diệt thủ lĩnh các nhóm Hồi giáo vốn máu me cực đoan.

Vụ giết Fathi Shkaki là một ví dụ. Ngày 24/10/1995, hai thanh niên ở độ tuổi 20 với mật danh Gil và Ran rời Tel Aviv trên hai chuyến bay riêng. Ran đến Athens còn Gil hạ cánh xuống Rome. Tại sân bay, họ đều nhận thông hành Anh. Sau đó, hai người khởi hành đến Malta và cùng đăng ký tại khách sạn Diplomat nhìn ra cảng Valletta thơ mộng đầy nắng. Chiều hôm đó, một chiếc xe gắn máy được giao cho Ran. Chẳng ai trong nhân viên khách sạn nhớ Ran và Gil có nói chuyện với nhau. Hầu hết thời gian trú tại khách sạn họ đều ở rịt trong phòng riêng.

Có lần một nhân viên phục vụ ca cẩm về cái samsonite nặng chình chịch, Gil nhăn mặt cười, nói đùa rằng nó chứa vàng thỏi. Trước đó một ngày, nhóm điệp viên Mossad cũng đến Malta bằng phà, liên lạc với Gil qua thiết bị vô tuyến cực mạnh giấu trong chiếc samsonite. Ổ khóa samsonite được thiết kế mở ngược theo chiều kim đồng hồ để không kích hoạt ngòi nổ bên trong. Vô phúc kẻ nào lấy trộm samsonite và mở theo kiểu thông thường (theo chiều đồng hồ), chắc chắn nạn nhân sẽ bị chết banh xác. Anten trong samsonite là sợi cáp quang 400m được cuốn gọn, tạo thành cái đĩa đường kính 15cm. Suốt đêm, Gil nhận chỉ thị từ con phà với cái samsonite này.

Cuối cùng, đối tượng xuất hiện: Fathi Shkaki đến Malta với một cận vệ Libya. Cạo râu nhẵn nhụi, Shkaki khai với hải quan Malta mình tên Ibrahim Dawish. Sau khi đăng ký khách sạn Diplomat, Shkaki ngồi nhâm nhi tại quầy cà phê nhìn ra biển và gọi vài cú điện. Sáng hôm sau, Shkaki đi mua vài chiếc sơmi hứa tặng cậu con trai rồi tản bộ ra bãi biển. Ông không biết rằng, sau lưng có hai gã đi theo từ hồi nào trên chiếc xe gắn máy. Bất ngờ, một gã nã 6 phát vào đầu Shkaki. Tay thủ lĩnh Islamic Jihad chết tức thì. Tại Iran, giới giáo sĩ tuyên bố quốc tang cho Shkaki; và tại Tel Aviv, khi hỏi về cái chết Shkaki, Thủ tướng Yitzhak Rabin nói: “Tôi chẳng có gì để buồn”. Vài ngày sau, 4/11/1995, Yitzhak Rabin cũng bị ám sát…

Đi đêm gặp ma

Không phải lúc nào sát thủ Mossad cũng có thể tàng hình như bóng ma và thực hiện thành công điệp vụ ám sát.

Ngày 31/7/1997, ngày mà hai kẻ khủng bố liều chết Hamas giết 15 người và làm bị thương 157 nạn nhân tại một ngôi chợ Jerusalem, Giám đốc Mossad Danny Yatom được vời khẩn cấp đến văn phòng Thủ tướng Benyamin Netanyahu. Được yêu cầu lập tức lập danh sách tất cả thủ lĩnh Hamas và tông tích của họ, Yatom tung điệp viên đến khắp các nước Arab và tất nhiên không thể không kể Gaza lẫn Bờ Tây. Netanyahu liên tục chất vấn Yatom về chiến dịch do thám Hamas. Đến tháng 9/1997, Netanyahu đã gần như mất kiên nhẫn và gọi Yatom bất kể giờ giấc nào, kể cả ban đêm.

Ngày 9/9, Hamas lại khủng bố, làm bị thương hai cận vệ Israel của tùy viên văn hóa ở Đại sứ quán Israel mới khánh thành tại Amman (thủ đô Jordan). Ba ngày sau, trong bữa cơm trưa tại nhà Netanyahu, Yatom mới cung cấp một cái tên: Khalid Meshal (có tài liệu viết là Khaled Mashaal). Và kế hoạch giết Meshal lập tức được tiến hành. Không như nhiều vụ ám sát trước, lần này Mossad không dùng súng mà cũng chẳng phải sợi dây câu cá để xiết cổ đương sự. Vũ khí được chọn là bình xịt hóa chất gây tổn hại thần kinh trung ương.

Ngày 24/9/1997, các điệp viên Mossad lần lượt đến Amman từ Athens, Rome và Paris. Hai sát thủ trực tiếp thực hiện điệp vụ đều mang thông hành Canada với tên Barry Beads và Sean Kendall. Họ đăng ký tại khách sạn Intercontinental và nhóm còn lại trú trong Đại sứ quán Israel cách đó không xa. 9 giờ sáng hôm sau, Beads có mặt ở tiền sảnh và đăng ký thuê chiếc Toyota xanh ngọc; ít phút sau, Kendall thuê chiếc Huyndai xanh lá cây.

10 giờ, Meshal được tài xế chở đi; ở băng ghế sau, có ba đứa con nhỏ của ông. Beads lẳng lặng đánh vôlăng theo sau và những tay điệp viên Mossad khác cũng có mặt rải rác trên đường. Khi đến quận Garden, tay tài xế báo Meshal biết họ bị bám đuôi. Meshal dùng điện thoại xe hơi gọi cảnh sát Jordan. Barry Beads và Sean Kendall cũng nhận thấy bị lộ và vượt lên mất hút. Ít phút sau, cảnh sát Jordan gọi Meshal, cho biết hai xe trên chỉ là du khách Canada.

Không lâu trước 10 giờ 30 phút, khi tài xế của Meshal đánh xe vào đường Wasfi Al-Tal, đã có một đám đông đứng trước trụ sở Hamas. Barry Beads và Sean Kendall có mặt trong số đó. Chẳng ai nghi ngờ họ bởi du khách nước ngoài vẫn thường tò mò đến trụ sở xem các thủ lĩnh Hamas. Sau khi Meshal hôn con và ra khỏi xe, Beads tiến thẳng đến trong khi Kendall kè sát vai đối tượng.

“Ông là Meshal?” - Beads hỏi, cùng lúc Kendall lôi ra chiếc bình và xịt vào tai trái nạn nhân. Thủ lĩnh Hamas hoảng hốt tháo chạy và chùi liên tục vào vành tai. Kendall tính xịt lần nữa nhưng đám đông bắt đầu chú ý khiến Beads phải kêu la tẩu thoát. Lúc đó, Meshal bắt đầu nôn mửa và choáng váng. Đám đông gọi xe cứu thương. Và trong lúc hỗn loạn tháo chạy, nhóm điệp viên Mossad đã chuồn mất, không “vớt” kịp Kendall và Beads. Tại đồn cảnh sát, đích thân Samith Batihi - chỉ huy phản gián Jordan - tiếp Beads và Kendall. Trước đó, chỉ huy cứ điểm Mossad đã gọi điện cho Batihi!

Trước khi Giám đốc Mossad Yatom đến văn phòng Thủ tướng, Netanyahu đã nhận cú điện từ Vua Hussein của Jordan trên đường dây nóng. Vua Hussein cáu đến mức ông nói mình có cảm giác giống như một thằng bạn thân dám hành xử tồi đến mức hiếp cả con gái bạn mình; rằng Netanyahu đừng có chối biến bởi hai tên điệp viên Mossad đã khai tuốt tuồn tuột trước ống kính video; và rằng cuộn băng đó đang trên đường đến Washington để Ngoại trưởng Mỹ Madeleine Albright thực mục sở thị.

Khi Netanyahu đề nghị đến Amman để “làm cho rõ vấn đề” nhằm “tránh gây hiểu lầm đáng tiếc”, Vua Hussein bác ngay, nói rằng “quý vị không cần phải tốn thời gian như thế”.

Như bị trời sập xuống đầu, Netanyahu còn được yêu cầu thả giáo sĩ Ahmed Yassin (thủ lĩnh tinh thần và là người đồng sáng lập Hamas; bị Israel giết vào tháng 3/2004), đồng thời phải đưa thuốc giải cho Meshal để đổi lấy mạng Beads và Kendall. Một giờ sau, thuốc giải được chuyển đến Amman trên một chuyên cơ của quân đội Israel. Meshal bình phục vài ngày sau và thậm chí đủ sức tổ chức buổi họp báo chế nhạo Mossad. Hôm sau, Madeleine Albright gọi hai cú điện ngắn cho Netanyahu với ngôn ngữ xát muối không kém Vua Hussein. Trong vòng một tuần sau sự kiện, Israel thả Ahmed Yassin.

Tháng 2/1998, sếp Mossad Yatom từ chức. Netanyahu thậm chí không gửi thư cảm ơn vì những “đóng góp và cống hiến đất nước” cho Yatom (như thủ tục hành chính thông lệ). Gần 10 năm sau vụ việc, Israel vẫn còn “hận” vụ Meshal.

Năm 2006, Bộ trưởng Tư pháp Israel Haim Ramon tiếp tục yêu cầu cộng đồng quốc tế can thiệp để Syria trục xuất Meshal (sau vụ ám sát Meshal năm 1997, quan hệ giữa Jordan và Hamas căng thẳng, Meshal bị trục xuất đến Qatar rồi sau đó đương sự đến Damascus lưu trú từ năm 2001 và ở đó suốt đến nay, với tư cách là “thủ lĩnh quốc tế” của Hamas).
Copyright 2012 Tin Tức Quân Sự - Blog tin tức Quân Sự Việt Nam
 
Lên đầu trang
Xuống cuối trang