Trong chuyến thăm tới Cục thiết kế KBP ở Tula, Phó Thủ tướng Nga Dmitry Rogozin được giới thiệu về tổ hợp phòng không Pantsir-S1 nâng cấp mới.
Do đã có nhiều kinh nghiệm, một nhóm kỹ sư và chuyên gia đến từ KBP (Phòng khí cụ và Cục Thiết kế chế tạo máy Trung ương, Tula) đã cùng nâng cấp hệ thống phòng không Pantsir-S1, theo thiết kế module.
Theo các chuyên gia, hệ thống mới được phát triển và thử nghiệm thành công với module radar mảng pha mới nhất, và được gọi là "trạm radar theo dõi, bám bắt mục tiêu" S-band. Module này band được thiết kế với mặt phẳng hình bát giác (radar cũ hình chữ nhật) có thể theo dõi các mục tiêu bay hiện đại, gồm cả các đội hình mục tiêu có gây nhiễu chủ động và thụ động. Dưới đây là một số hình ảnh trong chuyến tới thăm KBP của ông Rogozin: Đặc điểm của radar S-band: Phạm vi phát hiện/theo dõi mục tiêu có diện tích phản xạ hiệu dụng 1 m2 là trên 40 km; theo dõi đồng thời >40 mục tiêu; độ cao phát hiện mục tiêu từ 5 m đến 20 km; Góc phương vị (chức năng quét điện tử) 0 - 360 độ. Góc ngẩng radar: 0 - 60 độ. Khả năng phản ứng và xử lý xác nhận sau khi phát hiện mục tiêu: 4 giây. Khối lượng module: 950 kg. Cận cảnh một số hệ thống pháo/tên lửa phòng không tầm gần và tầm trung cùng với xe chiến đấu bộ binh BMP-3 được KBP trưng bày trong nhà máy. Trong ảnh là hệ thống pháo/tên lửa phòng không Pantsir-S1 đặt trên gầm xe bánh xích. Phó Thủ tướng Rogozin cùng các quan chức của Cục thiết kế KBP và quan chức của thành phố Tula tham quan nhà máy. Phía sau là một góc nhìn khác của hệ thống Pantsir-S1 nâng cấp. Ông Rogozin được KBP giới thiệu chi tiết về hệ thống phòng không Pantsir-S1 mới. Trong ảnh là khoang điều khiển của một tổ hợp Pantsir-S1 đặt trên khung gầm xe bánh hơi. KBP giới thiệu một số loại tên lửa phòng không của hệ thống Pantsir-S1 và một biến thể tên lửa Hermes cho máy bay trực thăng. Các nhân viên của KBP chào mừng chuyến đến thăm nhà máy của Phó Thủ tướng Rogozin. Tổ hợp phòng không Pantsir-S1 hiện đại hóa với hệ thống radar mảng pha RLM SOC S-band trong một đợt kiểm tra thử nghiệm trong tháng 5 - 7/2011. Cận cảnh module radar mảng pha RLM SOC S-band của tổ hợp phòng không Pantsir-S1. So sánh về hình ảnh giữa tổ hợp Pantsir-S1 trước đó và tổ hợp sau nâng cấp. Có thể nhận thấy sự khác biệt về bên ngoài là module radar 1RS1 (khoanh hình ô vuông) với module radar S-band mới . |
Hiển thị các bài đăng có nhãn Tổ hợp pháo phòng không. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Tổ hợp pháo phòng không. Hiển thị tất cả bài đăng
Thứ Ba, 21 tháng 2, 2012
>> Hệ thống Pantsir-S1 nâng cấp của Nga
Thứ Tư, 28 tháng 12, 2011
>> Pháo phòng không 'hồi sinh' (kỳ 2)
Kỳ 2: Sánh vai cùng tên lửa
Tên lửa phòng không gặp nhiều khó khăn khi đối phó với tên lửa hành trình bởi chúng có diện tích phản xạ sóng radar nhỏ, trần bay thấp, khó bị phát hiện. Tuy nhiên, ưu điểm lại khiến chúng trở thành “mồi ngon” trước hỏa lực pháo phòng không.
Ngày nay, thay vì tiếp tục phát triển cỡ nòng lớn hay tầm bắn xa, các nhà kỹ thuật quân sự tập trung nâng cao khả năng tự hành, tốc độ bắn cũng như tích hợp khí tài trinh sát hiện đại, thậm chí “lai ghép” với tên lửa nhằm “hồi sinh” vị thế của pháo phòng không. Nhanh và chính xác hơn Theo đó, một số pháo phòng không được đưa khung gầm xe thiết giáp như hệ thống ZSU-23-4 Shilka do Liên Xô chế tạo từ những năm 1960. ZSU-23-4 được đặt trên xe bánh xích bọc thép GM-575, có 4 nòng pháo cỡ 23mm đạt tốc độ bắn 3.400 phát/phút, tầm bắn 2.500m. Không chỉ vậy, hệ thống còn được trang bị radar theo dõi và bám bắt mục tiêu RPK-2 có khả năng đối phó tốt với gây nhiễu điện tử đối phương. Đối thủ của ZSU-23-4 là M163 Vulcan do Mỹ chế tạo. Pháo đặt trên khung thân xe thiết giáp M113, lắp pháo quay 6 nòng cỡ 20mm M168, đạt tốc độ bắn 3.000 viên/phút. M163 bị cho là kém hơn so với ZSU-23-4 ở một số điểm như không có radar, pháo thủ phải phải ngồi trong tháp pháo mở… Do đó, M162 bị hạn chế khả năng đánh đêm, và pháo thủ tuy quan sát bên ngoài tốt hơn nhưng chịu nhiều nguy hiểm trong tác chiến. Pháo phòng không tự hành ZSU-23-4 của Việt Nam tham gia diễn tập bắn đạn thật TB1. Ở Ba Lan, các nhà kỹ thuật quân sự phát triển pháo phòng không Loara dùng 2 pháo cỡ 35mm, với radar có tầm phát hiện 24km, theo dõi và nhận diện đồng thời 64 mục tiêu, tác chiến tốt trong môi trường chế áp gây nhiễu điện tử. Đặc biệt nhất, năm 2009 Thụy Sỹ trình làng pháo phòng không không cần pháo thủ Skyranger, trang bị tháp pháo cỡ nòng 35mm. Tháp pháo của Skyranger lắp cảm biến quang điện tự động theo dõi mục tiêu hoặc chịu điều phối từ trung tâm chỉ huy. “Lai ghép” pháo – tên lửa Ngoài pháo phòng không tự hành cơ động cao, tốc độ bắn nhanh, độ chính xác lớn. Một xu thế nữa đang phát triển, kết hợp pháo - tên lửa vừa đảm bảo tạo màn đạn dày, vừa tăng tầm tiêu diệt mục tiêu, tiêu diệt mục tiêu bay tốc độ cao vì nhiều loại tên lửa hành trình ngày nay đạt tốc độ siêu thanh. Điển hình là hệ thống pháo – tên lửa phòng không 2S6 Tunguska do Nga thiết kế sản xuất. Tháp pháo 2S6 trang bị 2 pháo cỡ 30mm đạt tốc độ bắn cực nhanh 5.000 phát/phút (tầm bắn 4km, xác suất trúng mục tiêu 80%) và 8 tên lửa 9M331 có thể tiêu diệt mục tiêu bay tốc độ 500m/giây (tầm bắn 8km, xác suất đánh trúng 65%). Radar của 2S6 phát hiện mục tiêu bay ở cự ly 17km và theo dõi ở tầm 11-16km. Hệ thống pháo - tên lửa phòng không Pantsyr S1 phóng tên lửa. Cải tiến 2S6, người Nga cho ra đời hệ thống Pantsyr S1, đặt trên khung thân xe vận tải bánh lốp, vũ trang 2 pháo siêu tốc 30mm cùng 12 tên lửa đối không 57E6 đạt tốc độ 1.000m/giây, tầm bắn xa 20km. Pantsyr S1 lắp radar theo dõi bám bắt mục tiêu đa băng tần (phát hiện 30km, theo dõi từ 24km). Được thiết kế tiêu chuẩn hiện đại, hệ thống có khả năng kháng nhiễu cao. Không chịu thua kém Nga, phương Tây cũng phát triển loại vũ khí phòng không hiệu quả này. Hãng Thales (Pháp) giới thiệu hệ thống pháo – tên lửa GMS trang bị 2 pháo 40mm và 6 tên lửa Starstreak có tốc độ 1.190m/giây đủ sức đánh chặn mục tiêu bay vượt âm, tầm bắn 7km. Tuy sức mạnh hỏa lực của pháo phòng không phương Tây không bằng hệ thống của Nga, nhưng khí tài trinh sát của họ rất mạnh. Cụ thể, GMS lắp radar SHIKRA-60 phát hiện mục tiêu xa tới 80km vượt trên radar của 2S6 và Pantsyr S1. “Tự lực cánh sinh” Với điều kiện kinh tế đất nước, Việt Nam chủ trương khai thác, sử dụng tối đa trang bị hiện có, tự lực cải tiến đáp ứng tình hình mới. Trong những năm qua, chúng ta bắt đầu cải tiến một phần, khẩu đội pháo được trang bị khí tài đánh đêm, máy nạp đạn tự động, hệ thống thông tin liên lạc lắp tới từng khẩu đội,... Đặc biệt với việc áp dụng “cò điện” sẽ giảm hiện tượng các khẩu đội bắn không đồng loạt, sẽ tạo ra mật độ hỏa lực dày, nâng cao xác suất trúng mục tiêu. Đối với việc tự hành pháo, Viện Kỹ thuật Cơ giới quân sự đã triển khai đề tài “Nghiên cứu lắp đặt pháo 2 nòng 37mm lên xe vận tải bánh lốp”. Theo phương án bố trí pháo trên xe, toàn bộ được đặt trên sàn công tác và nâng hạ bằng 4 chân chống thủy lực. Sau một thời gian nghiên cứu, cán bộ viện đã hoàn thành công trình, chế tạo thiết bị tự động điều khiển sàn công tác cho tổ hợp pháo phòng không 37mm hai nòng lắp trên xe Ural-375D. Qua thử nghiệm, thiết bị điều khiển sàn công tác hoạt động ổn định, bảo đảm độ cứng vững, tự động điều khiển lấy thăng bằng sàn công tác sau mỗi phát bắn, rút ngắn thời gian triển khai và thu hồi tổ hợp. Đặc biệt, thời gian tự động triển khai không quá 3 phút, tự động thu hồi không quá 2 phút, thời gian tự lấy thăng bằng sau mỗi loạt bắn không quá 30 giây. Khi tác xạ ở các tư thế khác nhau đều đạt độ chụm tương đương với pháo bắn trên mặt đất. Ngoài pháo 37mm, Việt Nam đã cải tiến thành công đưa súng máy phòng không 14,5mm lên xe thiết giáp BTR-152. Pháo phòng không xe kéo ngày nay gần như không còn phát triển. Tuy nhiên, gần đây Iran giới thiệu hệ thống pháo xe kéo Mesbah-1 chuyên trị tên lửa hành trình. Có lẽ do hạn chế kỹ thuật chưa đủ khả năng thiết kế pháo siêu tốc nên họ đã dùng tới 8 nòng pháo 23mm, qua đó tốc độ bắn đạt 4.000 phát/phút. Mesbah-1 được hỗ trợ dẫn bắn từ radar điều khiển. Ảnh phụ chú: Pháo phòng không "hỏa thần" 6 nòng M163. Pháo phòng không tự hành Otomatic 76mm của Italia. Pháo phòng không tự hành Gepard của Đức. Pháo phòng không tự hành Loara của Ba Lan. Pháo phòng không tự hành Skyranger của Thụy Sỹ. Hệ thống pháo - tên lửa phòng không 2S6 Tunguska. |
Thứ Hai, 26 tháng 12, 2011
>> Pháo phòng không 'hồi sinh' (kỳ 1)
Trong tác chiến phòng không, sự xuất hiện của tên lửa gần như đưa pháo cao xạ về “dĩ vãng”. Nhưng không phải lúc nào tên lửa cũng là lựa chọn tối ưu./ Kỳ 1: "Chọc mù" radar, "bẻ gãy" cánh sóng
Trong lịch sử tác chiến đường không, pháo phòng không là phương tiện đối phó ra đời sớm nhất đáp ứng yêu cầu chống máy bay. Sự phát triển của pháo phòng không đạt tới đỉnh điểm trong cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai với đủ chủng loại cỡ nòng, từ pháo 23mm, 37mm, 40mm tới pháo cỡ nòng “lớn” 90mm, 100mm, 128mm, 130mm có tầm bắn xa, trần bay diệt mục tiêu cao.
Tuy nhiên, sau thế chiến hai, hàng không thế giới bước vào thời đại phản lực, những chiếc phi cơ chiến đấu có thể đạt tốc độ vượt âm, trần bay lên tới 10.000 - 20.000m. Đồng thời, sự xuất hiện của kỹ thuật tên lửa – tên lửa đối không có điều khiển đạt độ chính xác cao khiến pháo phòng không ngày càng ít được quan tâm. Thực tế kể từ những năm 1960, thế giới bắt đầu ngừng phát triển loại vũ khí này. Điểm tựa để không quân tung hoành Dựa dẫm vào không lực để chiếm ưu thế trong các cuộc chiến, người Mỹ tìm mọi cách để đối phó với tên lửa nói riêng và các hệ thống phòng không nói chung. Trong đó, thủ đoạn phổ biến là chế áp điện tử, dùng khí tài gây nhiễu, tên lửa chống radar. Cách thức này từng được áp dụng ở Việt Nam và dần được bổ sung, hoàn thiện sử dụng ở quy mô lớn từ cuộc chiến tranh vùng Vịnh 1991. Trong cuộc chiến tranh vùng Vịnh 1991, Không quân Mỹ và NATO đã tấn công phá hủy lực lượng phòng không Iraq nặng nề. Dù vào lúc đó, hệ thống phòng không nước này được đánh giá khá mạnh, với mạng lưới radar cảnh giới tầm xa gồm các loại P-35M (tầm hoạt động 350km), P-37 (tầm xa 250km), P-12 (tầm hoạt động 200km), P-15 (tầm hoạt động 150km). Tên lửa đối không SA-2 rời bệ phóng. Hệ thống tên lửa phòng không bảo vệ thành phố, các căn cứ quân sự quan trọng mang tính chiến lược ở Iraq có: tên lửa tầm xa SA-2 (20 tiểu đoàn, 120 bệ phóng), SA-3 (25 tiểu đoàn, 100 bệ phóng – mỗi bệ 2-4 quả tên lửa); tên lửa tầm trung di động SA-6. Bổ trợ cho các đơn vị phòng không tầm cao, vừa tham gia bảo vệ thành phố tầm thấp, bảo vệ đơn vị bộ binh – tăng thiết giáp mặt đất là các hệ thống tên lửa phòng không cơ động cao như SA-8, SA-9, Roland, tên lửa vác vai SA-7, pháo phòng không đủ kích cỡ. Để xuyên thủng mạng lưới dày đặc của Iraq, Mỹ và NATO tiến hành chiến dịch chế áp hệ thống phòng không đối phương quy mô lớn với sự tham gia nhiều phương tiện khí tài hiện đại nhằm phá hủy, tê liệt đài trạm radar cảnh giới tầm xa, ngăn chặn sự liên kết giữa trạm radar đó đơn vị tên lửa, pháo phòng không. Cụ thể, Mỹ sử dụng máy bay chiến đấu F-4G, F-16C, F/A-18A, mang tên lửa chống radar AGM-88 Harm lần theo sóng radar tấn công đài trạm phát sóng. Máy bay EF-111A và EA-6B trang bị hệ thống gây nhiễu điện tử tích cực. Máy bay EC-130 gây nhiễu hệ thống thông tin liên lạc UHF/VHF làm đơn vị phòng không Iraq không liên kết được với nhau. Ngoài ra, Mỹ còn dùng UAV BQM-74A “giả máy bay” đánh lừa, buộc tên lửa phòng không Iraq lộ diện để tên lửa AGM-88 lần theo tấn công trạm radar. Kết quả, trong cuộc chiến, Không quân Mỹ và NATO khống chế làm chủ hoàn toàn bầu trời Iraq. Các hệ thống phòng không Iraq không thể tự bảo vệ chính mình, chưa nói tới việc bảo vệ căn cứ quân sự, đơn vị chiến đấu mặt đất. Hàng nghìn xe tăng – thiết giáp Iraq phải phơi mình trước hỏa lực từ trên không (A-10, AH-64 Apache) mà không nhận được sự hỗ trợ từ lực lượng phòng không. Ngược lại, phía Iraq bắn rơi một số máy bay Mỹ và NATO nhưng số lượng đó là quá ít ỏi. Máy bay EA-6B phóng tên lửa chống radar AGM-88 . Lần gần đây nhất, năm 2011 khi Mỹ và đồng minh thực hiện “nghị quyết của Liên Hợp Quốc thiết lập vùng cấm bay” trên lãnh thổ Libya, tiến hành chiến dịch không kích nhắm vào Quân đội của Tổng thống Gaddafi. Lực lượng phòng không Libya được xếp hàng mạnh trong khu vực hoàn toàn “im hơi lặng tiếng” để mặc cho máy bay đối phương dạo chơi trên bầu trời, các đơn vị thiết giáp không có sự hỗ trợ mặc nhiên trở thành “con mồi béo bở”. Dễ hiểu, phòng không Libya bị chế áp hoàn toàn bởi các thiết bị gây nhiễu điện tử, tên lửa chống radar, vũ khí chính xác cao. Khi lực lượng radar bị “chọc mù”, tên lửa phòng không coi như bị “bịt mắt”, không thể phát huy sức mạnh. Tên lửa tiên phong Trong cả ba cuộc chiến kể trên, một loại vũ khí luôn luôn được lựa chọn khai hỏa và đồng thời là nhân tố quan trọng trong các chiến dịch chế áp điện tử là tên lửa hành trình tầm xa BGM-109 Tomahawk. Đi vào phục vụ từ những năm 1980, BGM-109 thiết kế để tấn công mục tiêu cố định như hệ thống phòng không, trạm radar, căn cứ chỉ huy. Minh họa hoạt động của tên lửa Tomahawk. >> Chiến thuật chế áp phòng không hiện đại (kỳ 1) >> Chiến thuật chế áp phòng không hiện đại (kỳ 2) Tên lửa có khối lượng phóng 1,6 tấn, lắp đầu đạn thuốc nổ thường 450kg, trang bị hai động cơ (động cơ rocket đưa tên lửa rời bệ phóng, đạt độ cao ổn định động cơ tuốc bin phản lực cánh quạt đẩy khởi động đưa tên lửa bay tới mục tiêu), tốc độ bay tốc đa 880km/h, tầm bay tùy từng biến thể từ 1.000km tới hơn 2.000km. Tomahawk có độ chính xác cao nhờ được trang bị hệ dẫn đường tiên tiến với hệ định vị quán tính, hệ thống so sánh ảnh quang học kỹ thuật số về vị trí mục tiêu mà nó tấn công. Đặc biệt, nó có trần bay thấp (khoảng 15m) nhờ hệ thống dẫn đường đối chiếu so sánh theo biên dạng địa hình TERCOM. Tên lửa hành trình đối đất tầm xa BGM-109 Tomahawk. Lần đầu được đưa vào thực chiến ở Iraq 1991, Mỹ đã dùng BGM-109 làm “quân tiên phong” đánh vào đài radar cảnh giới, sở chỉ huy, cơ sở thông tin liên lạc của Iraq. Theo một báo cáo tổng kết được đưa ra thì Mỹ đã phóng 297 tên lửa, trong đó có 282 tên lửa trúng đích, số còn lại rơi do trục trặc kỹ thuật và chỉ có…2 quả bị bắn rơi. Xuyên suốt trong nhiều cuộc chiến sau này, Tomahawk luôn mở đầu trận đánh. Ở Nam Tư năm 1999, 218 tên lửa Tomahawk được phóng đi từ tàu ngầm Anh và tàu chiến Mỹ. Cuộc chiến Iraq 2003, 725 Tomahawk được bắn vào các mục tiêu ở Iraq. Còn tại cuộc chiến Libya 2011, chỉ trong ngày đầu 19/3 Mỹ - Anh phóng tới 124 quả, ngày 22/3 phóng tiếp 159 quả. Có thể nói, BGM-109 Tomahawk thực sự trở thành kẻ thù nguy hiểm đối với hệ thống phòng không đối phương. Dù vậy, đối với bất kỳ loại vũ khí nào cũng luôn có cách khắc chế, nhược điểm của Tomahawk có tốc độ bay chậm, trần bay nằm ở tầm mà pháo phòng không phát huy tối đa hiệu quả. Đó là cơ sở để trong chiến tranh hiện đại, pháo tiếp tục có thể sánh vai bên tên lửa bảo vệ bầu trời. |
Thứ Hai, 22 tháng 8, 2011
>> Sức mạnh tổ hợp Mark 15 Vulcan Phalanx CIWS trên hạm của Mỹ
Tổ hợp pháo phòng không Mark 15 Vulcan Phalanx CIWS được phát triển bởi chi nhánh Pomona thuộc công ty General Dynamics của Mỹ từ cuối những năm 1960 thế kỷ trước.
Tổ hợp lần đầu tiên thử nghiệm vào năm 1973, bắt đầu sản xuất hàng loạt năm 1978, đến năm 1980 được đưa vào trang bị. Tổ hợp trong trạng thái sẵn sàng chiến đấu Mark 15 Vulcan Phalanx CIWS là hệ thống vũ khí tự động, cho phép tự động sục sạo, phát hiện mục tiêu ở các dải bắn cho trước, đánh giá mức độ nguy hiểm của mục tiêu, lựa chọn các mục tiêu nguy hiểm nhất, đánh chặn, bám và xác định các tham số cơ động của mục tiêu, tiến hành khai hỏa, tự động hiệu chỉnh bắn trong chu trình khép kín, ngăn chặn hỏa lực và đánh chặn mục tiêu mới. Tự động sục sạo và phát hiện mục tiêu Tổ hợp gồm 2 tiểu hệ thống đa năng, được chế tạo theo kết cấu module (bệ pháo và tiểu hệ thống radar điều khiển hỏa lực). 5 module (pháo М61А1 với hộp đạn kèm theo, giá xoay với cơ cấu dẫn hướng và chân giá, bệ súng, anten radar với cơ cấu trợ dẫn, giá để hộp máy tính điện tử cá nhân) được lắp đặt trong một khối gọn cao 4,7m chiếm diện tích 5,5m2 trên trên boong tàu. Trong thành phần tổ hợp còn có tiểu hệ thống điều khiển từ xa với bảng điều khiển và thiết bị hiển thị, được lắp đặt ở vị trí trắc thủ. Có thể ngẩng với một góc 85 độ Pháo 6 nòng 20mm М61А1 của công ty General Electric được chế tạo theo sơ đồ đa nòng với khối nòng có thể xoay liên tục khi bắn. Pháo và module anten được lắp đặt trên giá xoay được làm từ nhôm lá có khả năng dẫn động và dẫn hướng trên 2 mặt phẳng. Radar xung hiệu ứng dople làm việc trong dải tần sóng vô tuyến 2cm. Máy thu phát của radar được kết nối với 2 anten ở các vị trí khác nhau. Khả năng bắn đến tầm cao 1.470m Anten cao được sử dụng khi radar làm việc trong chế độ phát hiện mục tiêu trong khu vực cho trước, còn anten thấp sử dụng khi radar làm việc trong chế độ theo dõi và hiệu chỉnh bắn. Sau khi mục tiêu nguy hiểm nhất bị phát hiện với sự hỗ trợ của máy tính điện tử cá nhân, mục tiêu này bị chặn bắt bằng kênh phát hiện và truyền kênh theo dõi đến anten, cho phép xác định chính xác tọa độ góc và vận tốc cơ động. Hiện nay tổ hợp này được trang bị cho tàu chiến hiện đại của nhiều nước trên thế giới Trên cơ sở các dữ liệu này, máy tính điện tử cá nhân của tiểu hệ thống điều khiển hỏa lực tính toán điểm ngắm bắn và truyền mệnh lệnh chỉ huy đến cơ cấu dẫn hướng pháo. Khi mục tiêu tiếp cận phạm vi tiêu diệt giới hạn tiến hành tự động khai hỏa. Trong những năm 1990, tổ hợp Mark 15 Vulcan Phalanx CIWS đã được lắp đặt trên hơn 404 tàu hải quân của các quốc gia trên thế giới như Mỹ, Anh, Canada, Hy Lạp, Nhật Bản, Đài Loan... Các đặc tính cơ bản: Loại vũ khí: pháo tự động 6 nòng Kích thước: 20x12mm Nguyên tắc làm việc của hệ thống tự động: dẫn động từ bên ngoài Tốc độ bắn: 3.000 phát/ phút Góc ngẩng tối đa: 85 độ Vận tốc dẫn hướng trên mặt phẳng đứng: 92 độ/s Vận tốc dẫn hướng trên mặt phẳng ngang: 126 độ/s Thời gian phản ứng: 2-3s Cự ly bắn hiệu quả: 1,47km Khả năng đạt đến tầm cao: 1.470m Loại đạn: OFZ, Z-T, BPS-T Trọng lượng đạn: 0,102kg Trọng lượng bệ phóng: 5,42 tấn Xem tổ hợp Mark 15 Vulcan Phalanx CIWS tiêu diệt mục tiêu: |
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)
Chuyên mục Quân Sự
Hải quân Trung Quốc
(263)
Hải quân Mỹ
(174)
Hải quân Việt Nam
(171)
Hải quân Nga
(113)
Không quân Mỹ
(94)
Phân tích quân sự
(91)
Không quân Nga
(83)
Hải quân Ấn Độ
(54)
Không quân Trung Quốc
(53)
Xung đột biển Đông
(50)
Không quân Việt Nam
(44)
tàu ngầm
(42)
Hải quân Nhật
(33)
Không quân Ấn Độ
(16)
Tàu ngầm hạt nhân
(15)
Hải quân Singapore
(12)
Xung đột Iran - Israel
(12)
Không quân Đài Loan
(9)
Siêu tên lửa
(8)
Quy tắc ứng xử ở Biển Đông
(7)
Tranh chấp biển Đông
(7)
Xung đột Trung - Mỹ
(4)
Xung đột Việt-Trung
(2)