Tin Quân Sự - Blog tin tức Quân sự Việt Nam: Lá chắn phòng thủ

Paracel Islands & Spratly Islands Belong to Viet Nam !

Quần Đảo Hoàng Sa - Quần Đảo Trường Sa Thuộc Về Việt Nam !

Hiển thị các bài đăng có nhãn Lá chắn phòng thủ. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Lá chắn phòng thủ. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Tư, 20 tháng 2, 2013

>> Sức mạnh 'lá chắn thép' Bastion trấn giữ biển Đông

Việt Nam sở hữu Tổ hợp tên lửa phòng thủ bờ biển có khả năng tấn công mục tiêu xa đến 300 km và bảo vệ một tuyến bờ biển chống tác chiến đổ bộ của đối phương lên đến 600 km.

>> Hệ thống tên lửa Bastion-P
>> Bộ ba ‘lá chắn biển’ của Hải quân Việt Nam


Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Tổ hợp tên lửa phòng thủ bờ biển Bastion Việt Nam đang sở hữu.
'
Đoàn 681 Hải quân, Quân chủng Hải quân được trang bị Tổ hợp tên lửa bờ Bastion và Tổ hợp ra đa bờ Monolit-B. Bastion-P là một trong những hệ thống tên lửa phòng thủ bờ biển cơ động hiện đại nhất trên thế giới hiện nay.

Cùng với các loại vũ khí hiện đại khác như các phi đội máy bay SU-27/30 tác chiến không và biển; tàu ngầm kilo phục kích dưới mặt nước; các loại tàu hộ vệ tên lửa cao tốc trang bị mạnh như Molniya 'tia chớp' và hộ vệ hạm tàng hình Gepard 3.9 tác chiến trên mặt nước; các hệ thống tên lửa có thể cất giấu trong các containner như Club-K hay Kh-35 đảm bảo yếu tố bí mật bất ngờ, nhất là tổ hợp tên lửa Bastion-P có sức mạnh hủy diệt ghê gớm... Có thể giúp Việt Nam xây dựng chiến lược 'chống tiếp cận' hết sức hữu hiệu trước các nguy cơ đến từ hướng biển, đồng thời tạo sức mạnh răn đe với bất kỳ kẻ thù nào dám manh động xâm phạm chủ quyền biển đảo của nước ta.

Tổ hợp tên lửa phòng thủ bờ biển Bastion được bắt đầu thiết kế và phát triển trong thời kỳ Xô Viết vào những năm 80. Nhưng chỉ vào thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 21 mới được đưa vào trong biên chế và xuất khẩu ra nước ngoài. Một số tổ hợp đã được Việt Nam và Syria đặt mua. Khách hàng tiềm năng tiếp theo là Velezuela.

Đầu năm 2011, Hạm đội Biển Đen, Lữ đoàn pháo binh - tên lửa số 11 (tên gọi Anapa) nhận được tổ hợp tên lửa bảo vệ bờ biển cơ động thứ 3 "Bastion". Hai tổ hợp trước đã được biên chế vào lữ đoàn vào năm 2010. Lữ đoàn 11 được trang bị trong biên chế trước đây là: Pháo tự hành phòng thủ bờ biển SU-130mm A-222 và tổ hợp tên lửa chống tàu "Redoubt".

Đây là tổ hợp vũ khí rất mạnh, một trong những tổ hợp tên lửa bảo vệ bờ biển tốt nhất, có khả năng cơ động cao, sử dụng tên lửa chống tàu có tốc độ siêu âm 3M55 "Yakhont" ("Onyx").



Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Tổ hợp tên lửa Bastion.

Tổ hợp tên lửa bảo vệ bờ biển cơ động Bastion có khả năng tiêu diệt tất cả các tàu chiến, tàu vận tải, tàu xuống các loại, tấn công các mục tiêu đơn lẻ hoặc tấn công các cụm tầu thuyền chiến đấu, đồng thời có thể tấn công các cụm binh lực đổ bộ đường biển, đường không, các cụm binh lực trang bị nặng cho các hoạt động đột phá. Tổ hợp có thể hoạt động trong điều kiện hỏa lực đối phương rất mạnh, khả năng gây nhiễu điện từ và chế áp điện tử của đối phương cao nhất. Tổ hợp tên lửa Bastion có khả năng tấn công mục tiêu xa đến 300 km và bảo vệ một tuyến bờ biển chống tác chiến đổ bộ của đối phương lên đến 600 km.

Biên chế của tổ hợp: Tên lửa chống tàu K-130 "Yakhont" trong các thùng phóng dạng container; Xe phóng đạn (SPM K340P) trên thân xe Kamaz- 43101, với biên chế kíp xe là 5 chiến sĩ, hoặc trên xe MZKT-7930 kíp xe 3 người; Xe điều khiển tên lửa MBU K380P trên thân xe MZKT-65 273 với kíp xe điều khiển là 4 người; Thiết bị quản lý thông tin kỹ thuật đầu đạn tên lửa với thiết bị điều khiển bay trên tên lửa đất đối biển; Hệ thống điều khiển hỏa lực tự động ASBU; Tổ hợp trang bị hậu cần kỹ thuật; Xe vận tải và nạp đạn TLV K342P được trang bị cần cẩu có trọng tải 5,9 tấn dùng để tiếp đạn cho xe K340P; Xe hỗ trợ trực sẵn sàng chiến đấu; Hệ thống huấn luyện; Hệ thống máy bay trực thăng chỉ thị mục tiêu.

Bên cạnh cấu hình Tổ hợp nêu trên, còn thiết bị hỗ trợ ngắm bắn như: Hệ thống ra-đa ngắm bắn bờ biển tự hành Monolit-B, hay hệ thống ngắm bắn đường không 1K130E (gồm ra-đa Oko băng sóng đề-xi-mét gắn trên máy bay trực thăng Ka-31).

Biên chế tiêu chuẩn của tổ hợp Bastion: 4 ống phóng tên lửa thẳng đúng trên hai xe vận tải-bệ phóng đạn "Yakhont", kíp lái 3; 1-2 xe điều khiển hỏa lực (kíp lái 5 người); 1 xe hỗ trợ trực sẵn sàng chiến đấu; 4 xe vận tải nạp đạn; Bổ sung cho tổ hợp Bastion có thể có rada tìm kiếm và và phát hiện mục tiêu tầu trên mặt biển, chỉ thị mục tiêu Monolit B trên xe, tầu cơ động và trên máy bay trực thăng chiến đấu.

Thời gian triển khai sẵn sàng chiến đấu 5 phút. Sau đó Tổ hợp có thể tấn công liên tục 8 tên lửa. Cơ số đạn của tổ hợp: max 24 tên lửa "Yakhont" cho 2 bệ phóng. Thời gian phóng liên tiếp là 2,5s cho một tên lửa. Sau khi triển khai sẵn sàng chiến đấu, Tổ hợp sẽ trực chiến đấu trong vòng 24 tiếng không cần sự hỗ trợ của tranh bị dự phòng. Thêm xe hỗ trợ trực sẵn sàng chiến đấu là 30 ngày. Thời gian khai thác sử dụng tổ hợp 10 năm.


Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Sơ đồ tác chiến của hệ thống tên lửa chống tầu Bastion-P.

Tên lửa chống tàu "Yakhont" ("Onyx") được thiết kế và chế tạo theo sơ đồ khí động học với những cách hình thang vuông gấp lại được và mở ra khi phóng, để ổn hướng và điều hướng, đồng thời các van điều hướng luồng phụt, tại phần đáy đạn và hệ thống tạo luồng hút tại chóp mũi đạn, giúp đạn tên lửa tự ổn định và xoay theo hướng phóng dự kiến. Tên lửa có hệ thống dẫn đường tổ hợp (hệ thống đạo hàng quán tính và hệ thống tự dẫn radar ở giai đoạn cuối của quỹ đạo bay của tên lửa. Tên lửa dùng động cơ phản lực công xuất lớn, bay với tốc độ siêu âm (động cơ phản lực dòng khí thẳng với ống phóng tăng tốc sử dụng thuốc phóng dạng rắn. Động cơ có bộ phận nạp khí đồng trục ở đầu tên lửa và ống chụp đầu tên lửa hình nón.

Thông số kỹ thuật tên lửa "Yakhont" ("Onyx"): Chiều dài: 8,0 m; Đường kính: 0,70 m; Sải cánh: 1,7 m; Khối lượng: 3000 kg; Ống phóng container kín chiều dài: 8,9 m; Đường kính: 0,72 m; Khối lượng với ống phóng container TNS: 3.900 kg; Khối lượng đầu đạn: 200 kg; Tốc độ trên cao: 750 m/s (2,6 М); Tốc độ trên mặt nước tầm thấp: 680 m/s (2 М); Tầm bay của tên lửa: Khi tên lửa bay với tầm cao thay đổi theo quỹ đạo bay: (Giai đoạn đường bay cuối- 40 km)- 300 km; Khi tên lửa bay thấp với tầm bay cao là: 15 m - 120 km; Tầm bay cao của tên lửa 10-14.000 m; Động cơ phản lực: SPVRD; Lực đẩy: (кН) 4000; Khối lượng dầu T-6, 200 kg; Ống tăng tốc phản lực: Thuốc phóng dạng rắn; Khối lượng động cơ phản lực, 500 kg.

Hệ thống điều khiển:

Trong giai đoạn bay hành trình - Đạo hàng quán tính; Trong giai đoạn cuối của quỹ đạo - dẫn đường bằng radar đơn xung, hoạt động trong mọi điều kiện thời tiết; Tầm phát hiện mục tiêu của radar: 50 - 70 km; Góc tìm kiếm và phát hiện mục tiêu ± 45°; Thời gian sẵn sàng hoạt động của radar khi bật: 2 phút; Khối lượng của radar - 85 kg; Điều kiện hoạt động của radar tự dẫn - biển động cấp 7.

Những đặc điểm kỹ chiến thuật của tên lửa "Yakhont" ("Onyx"): Tấn công mục tiêu ngoài đường chân trời; Chế độ tự động hóa hoàn toàn (bắn - quên); Có nhiều quỹ đạo bay khác nhau (thấp; cao và thấp); tốc độ bay siêu âm trên tất cả các tầm bay khác nhau; Khó nhận biết bằng radar trên boong tầu do sử dụng công nghệ tàng hình (stealth); Có thể sử dụng trên mọi phương tiện mang: tầu nổi, tầu ngầm và các phương tiện phóng trên mặt đất.

Tên lửa chống tàu "Yakhont" ("Onyx") lúc đầu được chế tạo như một tên lửa đa dụng, được lắp trên máy bay, tàu chiến nổi, tàu ngầm, đồng thời trên các bệ phóng trên mặt đất: Tổ hợp tên lửa bảo vệ bờ biển Bastion; Tàu ngầm dự án 885 "Ash";
Tàu phóng tên lửa cỡ nhỏ dự án 1234.7 "Rolling"; Các tàu tuần biển dự án 22350 "Đô đốc Gorskov", kế hoạch đóng 20 chiếc tàu loại này (10 tàu trong 10 năm).


Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Sơ đồ hoạt động của tên lửa chống tàu Yakhont.

Nguyên tắc hoạt động của tên lửa "Yakhont"

Sau khi tên lửa được phóng khỏi ống phóng, động cơ tăng tốc sử dụng nhiên liệu rắn khởi động, ống khởi động được đặt trong buồng đốt của động cơ tên lửa, trong vòng vài giây, ống tăng tốc sẽ tăng tốc tên lửa lên đến 2M. Sau khi cháy hết, ống tăng tốc được đẩy ra ngoài bằng luồng khí và bắt đầu hoạt động của động cơ hành trình chính. Động cơ đẩy tên lửa bay với tốc độ 2,5M theo quỹ đạo đường đạn đã được nạp trong máy tính trên tên lửa.

Radar tự dẫn trên đầu đạn có thể khóa mục tiêu như tầu tuần dương trên khoảng cách đến 75 km. Sau khi phát hiện và khóa mục tiêu. Máy tính sẽ hạ độ cao của tên lửa xuống còn 5-10 m so với mặt nước biển, làm giảm đến tối thiểu khả năng đánh chặn của hệ thống phòng không trên tầu đối phương trong trường hợp địch phát hiện ra.

Chế độ hạ độ cao bay của tên lửa thấp hơn độ cao phát hiện của radar làm gián đoạn khả năng bám tên lửa của các loại vũ khí phòng không, tốc độ siêu âm và độ cao thấp trong giai đoạn bám và tự dẫn tấn công mục tiêu làm cho đối phương không thể chặn đánh được tên lửa.

Lần thứ hai radar được bật lên để bắt mục tiêu trong giai đoạn cuối, dẫn đường và đưa tên lửa vào mục tiêu. Thời gian ngắn và tầm xa của radar cho phép sử dụng các radar đơn xung có độ chính xác không cao. Lần bật radar thứ nhất ở độ cao cho phép xác định mục tiêu, lựa chọn mục tiêu của từng tên lửa theo cụm tàu và loại trừ các mục tiêu giả. Đây là tính năng rất hiệu quả của Yakhont. Tương tự như máy bay cảm tử của Nhật trong thế chiến thứ 2, vụ tấn công của tên lửa Yakhont với số lượng lớn đảm bảo khả năng tiêu diệt các tàu xuồng rất cao. Và do tốc độ cao > 2M. Khả năng tiêu diệt tên lửa ở tầm gần là không thể.

Một trong những đặc trưng của Yakhont là chương trình phần mềm nhân tạo chạy trên máy tính đầu đạn. Nó cho hiệu quả chiến đấu rất cao khi bắn loạt tên lửa. Trong trường hợp bị tấn công ồ ạt với số lượng lớn các tàu, chương trình trên đầu đạn tự chọn và đánh giá độ quan trọng của mục tiêu, lựa chọn tọa độ và phương thức tấn công. Đồng thời, chương trình cũng lựa chọn khả năng chống lại tác chiến điện tử và lựa chọn phương án tránh góc bắn của hỏa lực phòng không đối phương để tấn công tầu.

Khi tiêu diệt mục tiêu trong đội hình, các tên lửa còn lại chuyển hướng sang các mục tiêu khác, loại trừ khả năng 2 tên lửa cùng tiêu diệt một mục tiêu. Tính năng chiến thuật này được đảm bảo bằng máy tính trên tên lửa có hình ảnh của các loại tàu và các thông số khác, cho phép xác định loại cụm tàu và tàu (vận tải, tuần dương, tầu tuần tiễu, tầu sân bay, và tàu xuồng của lực lượng đổ bộ biển, từ đó tấn công mục tiêu quan trọng nhất).

Trong điều kiện phát triển sức mạnh và khả năng sẵn sàng chiến đấu của Hải quân, các tổ hợp tên lửa này cho phép bảo vệ vững chắc vùng biển, bờ biển của quốc gia. Đồng thời, cũng phải sử dụng tác tổ hợp tên lửa có tầm bắn gần, dưới 120 km Bal-E, tên lửa chống tầu Club-M có tầm bắn đến 150 km. Đồng thời phát triển các loại pháo tự hành bờ biển, tạo thành hệ thống phòng thủ lớp vững chắc vùng bờ biển.

(Theo báo Thanh Niên)

Thứ Sáu, 6 tháng 5, 2011

>> 'Lá chắn' tên lửa của châu Âu kiểu Nga



Trung tướng Oleg Ostapenko đã trình bày đề nghị mới của Nga đối với hệ thống phòng thủ tên lửa châu Âu trong tương lai.



Nga và NATO đã đồng ý hợp tác trong kế hoạch lá chắn tên lửa châu Âu trong cuộc họp thượng đỉnh tại Lisbon vào tháng 12/2010.

Tuy nhiên, NATO muốn thiết lập hai hệ thống riêng rẽ trong khi mong muốn của Nga là xây dựng một hệ thống liên hợp với khả năng phối hợp tác chiến toàn diện.

“Chúng tôi đã sẵn sàng cùng với các chuyên gia NATO phát thảo ra “kiến trúc cơ bản” của hệ thống này. Thiết kế sẽ là tập hợp của các ý tưởng và sự chọn lựa kỹ càng những vị trí bố trí radar, tên lửa đánh chặn và trung tâm điều khiển, xử lý dữ liệu”, ông Ostapenko nói trong cuộc họp báo với tờ Nhật Báo Izvestia.



Hệ thống phòng thủ tên lửa tại châu Âu là một vấn đề gây tranh cãi gay gắt trong vài năm trở lại đây.


Theo ông Ostapenko, việc xây dựng hệ thống chung bao gồm nhiều bộ phận nhỏ cấu thành sẽ hợp lý và kinh tế hơn cả. Theo đó, mỗi quốc gia sẽ chịu trách nhiệm đánh chặn và phá hủy tên lửa trong những khu vực được giao.

Nga sẵn sàng xây dựng “lá chắn tên lửa” tại khu vực Đông Âu, biển Đen, biển Barents và Baltic. Thêm nữa, Nga muốn mọi hoạt động triển khai tên lửa đều phải được phối hợp bởi một trung tâm chỉ huy và hệ thống sự lý dữ liệu duy nhất.

“Để đảm bảo sự tin cậy và trao đổi thông tin minh bạch, Việc xây dựng trung tâm xử lý dữ liệu hoạt động song song với trung tâm chỉ huy hoạt động phóng tên lửa là vô cùng cần thiết”, tướng Ostapenko cho biết.

Ngoài ra, một điều kiện của phía Nga đề ra là các chuyên gia của nước này phải được tham gia vào công tác điều hành hai trung tâm đầu nãocủa hệ thống. Nhiệm kỳ điều hành sẽ được luân phiên giữa các quốc gia thành viên.

[BDV news]


Chủ Nhật, 17 tháng 4, 2011

>> Lá chắn phòng thủ cuối cùng trên chiến hạm (kỳ 2)



[BDV news] Mặc dù, các hệ thống pháo bắn nhanh tạo ra “cơn mưa đạn” ngăn chặn mối nguy hiểm từ tên lửa hành trình và máy bay diệt hạm nhưng xét về hiệu quả, hệ thống này khó vượt hệ thống tên lửa tầm ngắn.
>> Lá chắn phòng thủ cuối cùng trên chiến hạm (kỳ 1) 


Các hệ thống vũ khí tầm cực gần (Close in weapon system-CIWS) như AK-630, Type-730, Phalanx… với tốc độ bắn lên tới vài nghìn viên/phút, tạo ra được những cơn mưa đạn bảo vệ tàu chiến nhưng việc đánh chặn ở tầm quá gần nhiều khi lại gây nguy hiểm cho chính những chiến hạm này.

Vì vậy, một số quốc gia trên thế giới đã tiến hành phát triển các hệ thống tên lửa hải đối không tầm ngắn (trên dưới 10km) để đánh chặn một cách có hiệu quả các mối đe dọa từ xa trước khi chúng có thể gây nguy hiểm tới chiến hạm.

Dưới đây là một vài hệ thống tên lửa tầm ngắn:

Hệ thống tên lửa đối không HQ-7 (Trung Quốc)
HQ-7 là hệ thống tên lửa phòng không tầm ngắn do Trung Quốc sản xuất dựa trên công nghệ tên lửa hải đối không Sea Crotale của Pháp. Từ đầu những năm 1990, HQ-7 trở thành tiêu chuẩn hệ thống tên lửa phòng không trên các chiến hạm của Trung Quốc.

Trên các tàu chiến, HQ-7 được bố trí với hệ thống tám ống phóng đặt trên boong tàu phía trước, nằm sau tháp pháo chính. Các tên lửa trong ống phóng luôn trong tình trạng sẵn sàng rời bệ phóng. Hệ thống có tất cả 24 tên lửa dữ trữ và được nạp tự động.




HQ-7 được Trung Quốc sao chép công nghệ từ hệ thống Sea Crotale của Pháp.



Hệ thống tên lửa phòng không tầm ngắn HQ-7 đặt phía sau tháp pháo chính. Tốc độ tên lửa là Mach 2.3 (750m/s). Xác suất đánh trúng mục tiêu khoảng 70-80%.



Hệ thống HQ-7 phóng tên lửa đối không. Hiện nay, Trung Quốc đang cố gắng chế tạo tên lửa phòng không tầm trung đặt trong các ống phóng thẳng đứng để thay thế HQ-7.


HQ-7 sử dụng tên lửa Type-360S dẫn đường bằng radar tìm kiếm trên không/biển, hoạt động trên dải tần số E/F có tầm hoạt động 18,4km. Hệ thống tên lửa và radar kết nối với nhau qua hệ thống kiểm soát dữ liệu ZJK-4, cho phép xử lý 30 mục tiêu và kết hợp với radar Type-360S theo dõi đồng thời 12 mục tiêu khác.

Tên lửa HQ-7 có khả năng tiêu diệt máy bay ở mọi điều kiện thời tiết, kể cả ban ngày và ban đêm với tầm bắn tối đa từ 8 đến 12km. Tuy nhiên, khi dùng để chống lại các tên lửa hành trình đối hạm thì HQ-7 chỉ đánh chặn được ở tầm 4-6km, đây cũng là một yếu điểm lớn nhất của HQ-7 so với các hệ thống tên lửa của Nga, Mỹ.

Hệ thống phòng không Palma (Nga)
Palma là hệ thống phòng không đặt trên tàu chiến được thiết kế để tiêu diệt các loại máy bay cánh cố định, trực thăng, tên lửa hành trình đối hạm, các tàu có lượng giãn nước nhỏ và các mục tiêu ven biển. Hệ thống Palma là người "anh em" với hệ thống phòng không Kashtan.


Hệ thống phòng không Palma. GSh-30K có tầm bắn từ 200m tới 3.000m, tốc độ bắn 4500 viên/phút, sơ tốc đầu đạn 890m/s.



Palma bao gồm hai pháo 30mm sáu nòng và tám tên lửa đối không Sosna-R. Hệ thống Palma đồng thời tấn công sáu mục tiêu cùng lúc ở cự ly 2.000m tới 8.000m.


Hệ thống phòng không Palma bao gồm ba bộ phận: hai pháo GSh-30K, tám tên lửa đối không Sosna-R và radar điều khiển hỏa lực.

- GSh-30K là pháo phòng không sáu nòng cỡ 30mm thiết kế để chống lại máy bay và tên lửa đối hạm. Pháo bắn các loại đạn HE, đạn nổ mảnh.

- Sosna-R là tên lửa hải đối không bay nhanh gấp năm lần vận tốc âm thanh, được thiết kế để tiêu diệt máy bay, bom có dẫn đường, tên lửa đối hạm. Tên lửa tiêu diệt mục tiêu ở khoảng cách 1.300m đến 8.000m, ở độ cao tối đa 3.500m.

- Hệ thống radar điều khiển hỏa lực của Palma bao gồm: camera hồng ngoại, laser đo xa, radar bắt mục tiêu 3Ts-99...

Đây là sự kết hợp hoàn hảo giữa hệ thống vũ khí tầm cực gần (CIWS) và tên lửa tầm ngắn. Nhờ vậy, hệ thống Palma đã "vô tình" thiết lập hai phòng tuyến vững chắc cho các chiến hạm trang bị nó. Tầng thứ nhất, tên lửa siêu âm Sosna-R đánh chặn từ khoảng cách trên dưới 10km, một tầm đủ xa để không gây nguy hiểm cho tàu. Nếu vượt qua Sosna-R, tên lửa đối hạm sẽ vấp phải tầng thứ hai, 'lưới đạn" của hai pháo GSh-30K.

Hiện nay, Palma được trang bị tàu chiến lớp Gepard 3.9 (dự án 11661).

Hệ thống tên lửa đối không Barak (Israel)
Barak là hệ thống tên lửa đối không do Israel phát triển với mong đợi là sẽ tăng cường bảo vệ các tàu chiến chống lại máy bay, tên lửa hành trình đối hạm bay ở độ cao thấp, tốc độ nhanh.


Tên lửa Barak được đặt trong các ống phóng thẳng đứng.



Tên lửa Barak rời bệ phóng.


Tên lửa Barak được xếp trong hệ thống ống phóng thẳng đứng (Vertical Launching System - VLS), đây là một ưu điểm của Barak so với các hệ thống khác khi nó có khả năng bao quát 360 độ, đánh chặn mục tiêu ở nhiều hướng khác nhau, hệ thống VLS cho phép rút gọn thời gian điều chỉnh hướng bắn. Nhờ đó, Barak phản ứng một cách nhanh nhất có thể trước các mối đe dọa đặc biệt là các loại tên lửa đối hạm có tốc độ cao, có đường bay phức tạp.

Ngoài ra, theo các đánh giá, hệ thống Barak có thể hoạt động ở mọi điều kiện thời tiết, bất kể ngày hay đêm, hiệu quả tiêu diệt mục tiêu cao. Hệ thống Barak đánh chặn mục tiêu ở khoảng cách 500m tới 12km, tại độ cao tối đa 5.000m. Tên lửa đạt tốc độ siêu âm Mach 2, nhanh gấp hai lần tốc độ âm thanh.

Hệ thống dẫn đường của Barak bao gồm: radar EL/M-2221 và radar EL/M-2228S. Trong đó:

- Radar điều khiển hỏa lực EL/M-2221 là bộ phận của hệ thống tên lửa đối không Barak. Radar hoạt động trên dải tần số X và K. Thiết kế cho phép theo dõi các mối nguy hiểm trên không trong khi có thể dẫn đường cho tên lửa hoặc pháo đánh chặn mục tiêu. Radar bắt mục tiêu là máy bay ở cự ly 30km, nhưng đối với tên lửa chỉ là 15km.

- EL/M-2228S là radar cảnh báo sớm và tìm kiếm trên không, trên biển thiết kế cho các tàu chiến cỡ nhỏ, cỡ trung. Trong vai trò tự động cảnh báo các mối đe dọa, EL/M-2228S phát hiện một cách hiệu quả các mối nguy hiểm như tên lửa đối hạm, bom dẫn đường TV, tên lửa chống radar ở tầm xa.

Hoạt động trong chế độ tìm kiếm, radar đồng thời theo dõi 100 mục tiêu cả trên không và trên biển. EL/M-2228S phát hiện máy bay ở khoảng cách 70km, trong khi đối với tên lửa là 20km.

Hiện nay, ngoài Israel là nước sử dụng chính, Ấn Độ cũng đang trang bị rộng rãi hệ thống Barak trên các chiến hạm của họ thay thế cho hệ thống vũ khí tầm cực gần AK-630 và tên lửa phòng không SA-N-4 Gecko.

Hệ thống tên lửa đối không SeaRAM (Mĩ)
SeaRAM là hệ thống tên lửa phòng không tầm cực gần do quân đội Mĩ phát triển để thay thế cho hệ thống vũ khí tầm cực gần Phalanx Mk 15. Nếu xét về tầm bắn và độ chính xác thì tên lửa RAM (tên lửa thân qoay) bắn xa tới 7.500m, hơn rất nhiều so với 2.000m của hệ thống Phalanx.

Ngày nay, các tên lửa đối hạm do Nga sản xuất thường có tốc độ bay rất nhanh (vượt âm), sức công phá mạnh. Mặc dù, Phalanx CIWS hoàn toàn có khả năng đánh chặn nhưng như đã nói trên, nhưng ở tầm bắn quá gần những mảnh vỡ của tên lửa có thể văng vào tàu mục tiêu gây thiệt hại không nhỏ. Vì thế, các tên lửa RAM sẽ rất hữu hiệu trong trường hợp này khi tiêu diệt tên lửa ở tầm xa tránh gây hư hại cho tàu.

Đồng thời, các tên lửa RAM luôn luôn nằm trong tư thế sẵn sàng bắn, với 11 tên lửa chúng có khả năng đánh chặn nhiều mục tiêu cùng lúc. Đây là điều mà Phalanx không bao giờ làm được.


Hệ thống tên lửa đối không SeaRAM


Mặc dù phát triển để thay thế cho Phalanx, tuy nhiên SeaRAM vẫn dựa trên nền tảng cơ bản của Phalanx (sử dụng một số thiết bị điện tử của Phalanx). Chỉ có một sự thay đổi lớn nhất đó chính là hệ thống 11 ống phóng chứa tên lửa RIM-116 RAM (Rolling Air Frame) thay cho pháo 20mm.

Tên lửa RIM-116 RAM là sự kết hợp "tinh tế" giữa động cơ, đầu đạn của tên lửa không đối không AIM-9 "Sidewinder" (rắn đuôi chuông) và hệ thống dẫn đường từ tên lửa vác vai Stinger.

Hiện tại, quân đội Mỹ mới chỉ trang bị SeaRAM trên các tàu chiến đấu cỡ nhỏ. Nhưng chắc chắn trong tương lai, chúng sẽ sớm thay thế hệ thống Phalanx đóng vai trò chủ yếu là "lá chắn phòng thủ" trên tàu chiến của hải quân nước này.


Thứ Tư, 13 tháng 4, 2011

>> Lá chắn phòng thủ cuối cùng trên chiến hạm (kỳ 1)



[BDV news] Để ngăn chặn một cách có hiệu quả hiểm họa từ tên lửa diệt hạm và máy bay, nhiều nước phát triển hệ thống vũ khí phòng thủ tầm cực gần (CIWS).

Hệ thống vũ khí tầm cực gần (Close in weapon system - CIWS) là loại vũ khí phòng không trên chiến hạm có khả năng phát hiện và tiêu diệt các loại tên lửa chống hạm hay máy bay chiến đấu ở tầm ngắn, thường bao gồm các thiết bị như: radar, máy tính và pháo bắn nhanh nhiều nòng.

Sau đây là một số hệ thống CIWS được phát triển ở Nga, Mỹ, Trung Quốc:





Hệ thống vũ khí tầm cực gần AK-630 (Nga)


Nằm trong những hệ thống CIWS đầu tiên trên thế giới, AK-630 là loại pháo tự động sáu nòng cỡ 30 mm sử dụng để bảo vệ tàu chiến chống lại các cuộc tấn công của các loại tên lửa chống hạm giống như Harpoon và Exocet.

Ngoài ra, chúng dùng để tiêu diệt các loại máy bay chiến đấu cánh cố định, máy bay trực thăng, tàu chiến cỡ nhỏ và công kích mục tiêu ven biển.

Hệ thống vũ khí tầm cực gần AK-630.
AK-630 được điều khiển bởi hệ thống radar MR-123-02. Loại radar này có khả năng điều khiển đồng thời hai pháo 30 mm hoặc hai pháo 57 mm hoặc một cặp pháo 30 mm và 57 mm. Radar dò tìm mục tiêu trên không ở cự ly 4 km trong khi ở trên biển là 5 km.

Thiết bị theo dõi quang điện tử SP-521 phát hiện mục tiêu mang kích cỡ giống như máy bay MiG-21 ở khoảng cách 7 km hoặc mục tiêu kích cỡ như tàu phóng lôi ở cự ly 70 km.

Hệ thống AK-630 có trọng lượng khoảng 9.114 kg nếu lắp đặt đầy đủ đạn và hệ thống điều khiển. Tốc độ bắn khoảng 5.000 viên/phút, sơ tốc đầu đạn 900 m/giây. Tầm bắn của AK-630 khi chống lại tên lửa chống hạm là 4.000m, đối với mục tiêu trên biển là 5.000m.


AK-630 trên tuần dương hạm lớp Slava.


“Lưới lửa” AK-630 hiện nay có mặt hầu hết trên các chiến hạm của hải quân Nga. Kể cả những tàu chiến được xuất khẩu ra nước ngoài cũng trang bị hệ thống này.

Tổ hợp pháo/tên lửa tầm ngắn Kashtan (Nga)
Tổ hợp pháo – tên lửa phòng không tầm ngắn Kashtan được thiết kế để bảo vệ các tàu chiến trước mối hiểm họa là tên lửa hành trình đối hạm và máy bay. Người ta cũng dùng Kashtan tấn công mục tiêu cỡ nhỏ trên biển.


Tổ hợp pháo/tên lửa phòng không tầm ngắn Kashtan.


Kashtan là hệ thống kiểu mô đun gồm: mô đun chỉ huy và hai mô đun chiến đấu. Mô đun chỉ huy có nhiệm vụ phát hiện và theo dõi các mối nguy hiểm, truyền dữ liệu về mục tiêu cho mô đun chiến đấu. Mô đun chỉ huy bao gồm ra đa dò tìm 3-D và hệ thống điều khiển kết hợp đa tần.

Sau khi tiếp nhận và xử lý dữ liệu từ mô đun chỉ huy, mô đun chiến đấu sẽ tự động tấn công mục tiêu trên không, trên biển bằng pháo và tên lửa. Mô đun này gồm:

- Hai pháo GSh-30k sáu nòng cỡ 30 mm, tầm bắn hiệu quả khoảng 500 - 4.000m, tiêu diệt mục tiêu ở độ cao tối đa 3.000m.

- Hai hệ thống ống phóng tên lửa SA-N-11 (nằm ở hai bên với bốn quả mỗi bên) cùng cơ cấu tái nạp đạn tên lửa (lượng đạn dự trữ lên tới 24 quả). Tên lửa SA-N-11 có tầm bắn từ 1.500 - 10.000m, tiêu diệt mục tiêu ở độ cao 6.000m. Thời gian nạp lại đạn khoảng 90 giây với bốn quả.


Kashtan trang bị hai pháo GSh-30k và 8 tên lửa đối không SA-N-11


Cũng như Ak-630, Kashtan trang bị trên nhiều chiến hạm của hải quân Nga. Nổi bật nhất là trên tuần dương hạm lớp Kirov, tàu chiến lớn nhất thế giới.

Hệ thống vũ khí tầm cực gần Type 730 (Trung Quốc)
Type 730 là hệ thống vũ khí tầm cực gần do Trung Quốc thiết kế và chế tạo trang bị trên các chiến hạm của Hải quân giải phóng nhân dân Trung Hoa (PLAAN).

Type-730 ra đời sẽ thay thế cho các pháo phòng không Type 76A 37mm, vốn trước đây là tiêu chuẩn vũ khí phòng không trên các tàu chiến của PLAAN.


Hệ thống Type 730.


Type 730 làm nhiệm vụ phòng thủ, bảo vệ chống lại tên lửa hành trình đối hạm và các loại máy bay, bao gồm: pháo bảy nòng cỡ 30 mm, cơ cấu nạp đạn và điều khiển pháo, radar điều khiển hỏa lực. Trong đó:

- Pháo 7 nòng cỡ 30mm có khả năng bắn được loại đạn xuyên thép có lõi (APDS) và đạn HE. Tốc độ bắn của pháo lên tới 4.600 - 5.800 viên/phút, tầm bắn khoảng 3.000m. Tuy nhiên, thực sự thì tầm bắn hiệu quả chỉ là khoảng 1.000 - 1.500m.

- Pháo tự động bảy nòng 30 mm có hai hộp tiếp đạn 500 viên.

- Hệ thống radar điều khiển hỏa lực của Type 730 bao gồm: radar TR47C và thiết bị điều khiển quang điện. Radar TR47C phát hiện mục tiêu ở khoảng cách 7 km. Trong khi đó, thiết bị điều khiển quang điện (gồm camera thường, camera hồng ngoại và laser đo xa) cho phép phát hiện mục tiêu ở tầm 5 - 6 km.


Type 730 CIWS trang bị pháo bảy nòng cỡ 30 mm


Hệ thống Type 730 hiện tại đã được lắp đặt trên một số chiến hạm kiểu 051/052/054 của Hải quân Trung Quốc. Trung Quốc còn tự phát triển phiên bản phòng không tầm ngắn trên đất liền của Type 730 được đặt tên là LD 2000.


Hệ thống vũ khí phòng không tầm thấp LD 2000


Hệ thống vũ khí tầm cực gần Mk 15 Phalanx (Mĩ)
Hệ thống vũ khí tầm cực gần Mk 15 Phalanx là loại vũ khí có tốc độ bắn cực nhanh, linh hoạt, cơ động cao thiết kế cho các tàu chiến của hải quân Mỹ. Phalanx đóng vai trò bảo vệ, phòng thủ chống lại sự đe dọa của tên lửa hành trình đối hạm và máy bay ở tầm gần.


Hệ thống phòng không tầm cực gần Phalanx


Phalanx là hệ thống độc lập, tự thực hiện tìm kiếm, phát hiện, theo dõi và tiêu diệt mục tiêu. Mỗi vị trí đặt Phalanx đều có bộ phận điều khiển hỏa lực và một pháo.

Bộ phận điều khiển hỏa lực bao gồm radar tìm kiếm, phát hiện và giám sát mục tiêu sẽ trợ giúp pháo ngắm bắn tấn công. Đặc biệt, Phalanx còn trang bị hệ thống điều khiển bắn chu trình đóng “độc nhất vô nhị” cho phép CIWS đạt độ chính xác cao khi tấn công mục tiêu di chuyển tốc độ nhanh bao gồm cả tên lửa hành trình đối hạm siêu âm.


Phalanx trang bị pháo M61A1 "hỏa thần"


Phalanx sử dụng pháo M61A1 “hỏa thần” 6 nòng cỡ 20 mm. M61A1 bắn với tốc độ 3.000 viên/phút hoặc 400 viên/phút (phiên bản cải tiến). Sơ tốc đầu đạn 1100 m/s. Hệ thống Phalanx bắt đầu phục vụ trong hải quân Mỹ từ đầu những năm 1980.


Copyright 2012 Tin Tức Quân Sự - Blog tin tức Quân Sự Việt Nam
 
Lên đầu trang
Xuống cuối trang