Tin Quân Sự - Blog tin tức Quân sự Việt Nam: Tên lửa đối hải

Paracel Islands & Spratly Islands Belong to Viet Nam !

Quần Đảo Hoàng Sa - Quần Đảo Trường Sa Thuộc Về Việt Nam !

Hiển thị các bài đăng có nhãn Tên lửa đối hải. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Tên lửa đối hải. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Tư, 30 tháng 3, 2011

>> Tên lửa chống hạm của Nga (kỳ 1)



Tên lửa đối hải, vũ khí chủ công để tiêu diệt các mục tiêu trên biển, luôn là mối đe dọa đáng sợ đối với các tàu chiến hiện đại.

>> Tên lửa chống hạm của Nga (kỳ 2)
>> Tên lửa chống hạm của Nga (kỳ 3)
>> Tên lửa chống hạm của Nga (kỳ cuối)

Tên lửa đối hải là vũ khí của các tàu chiến, hầu hết bay ở tầm thấp, có thể bay với vận tốc dưới âm hay vượt âm.


Tên lửa đối hải thường sử dụng hệ thống dẫn đường kết hợp giữa hệ dẫn quán tính và rada chủ động hay hệ thống hồng ngoại thụ động, viết tắt là ASM (Anti-Ship Missile), nhưng cũng thường được gọi là AShM để tránh nhầm lẫn với các tên lửa không đối đất.

Trước đây, loại tên lửa này thường được chú trọng vì có tầm bắn xa, đầu nổ có sức công phá lớn hơn nhiều so với các loại hỏa lực trên tàu khác như pháo tàu, ngư lôi.




Ảnh khu trục hạm Eilat chụp 3 tháng trước khi bị bắn chìm. Việc tầu khu trục Eilat của Israel bị tên lửa SS-N-2 bắn hạ trong cuộc chiến với Ai Cập đánh dấu một bước ngoặt mới đối với tác chiến trên biển.

Tên lửa đối hải là một mối đe dọa đáng kể đối với các tàu chiến hiện đại và nó được sử dụng rộng rãi. Ngày nay, với sự phát triển của khoa học và công nghệ, kỹ thuật điều khiển thông minh được ứng dụng rộng rãi thì việc sử dụng các tên lửa đối hải tầm xa lại càng được các nước quan tâm để trang bị cho hải quân của mình.

Tên lửa đối hải có thể được phóng từ nhiều trạm phóng khác nhau, gồm: tàu chiến (các loại tàu tham chiến trên mặt nước); tàu ngầm, máy bay chiến đấu, máy bay trực thăng và các phương tiện cơ giới trên bộ.

Nga là nước nghiên cứu chế tạo nhiều loại tên lửa đối hải để sử dụng cho hải quân và xuất khẩu.

Một số loại tên lửa đối hải của Nga qua các thời kỳ gồm:

Họ tên lửa SS-N-2

SS-N-2 (NATO gọi là Styx) có tên thiết kế đặt theo các phiên bản khác nhau là P-15, P-20, P-21, P-22 và P-27. SS-N-2 là tên lửa hành trình, đối hải đầu tiên của Nga. SS-N-2 được thiết kế từ đầu những năm 1950 và chính thức được đưa vào trang bị trong quân đội Liên Xô vào năm 1967.

SS-N-2 tham chiến lần đầu vào năm 1967 trong cuộc chiến giữa Ai Cập và Israel. Trong cuộc chiến này, Ai Cập đã bắn ba tên lửa SS-N-2, đánh chìm khu trục hạm Eilat của Israel.

Thông số kỹ thuật

SS-N-2 sử dụng động cơ đẩy nhiên liệu lỏng, có tầm hoạt động từ 40 đến 80 km, vận tốc đạt 0,9M (0,9 lần tốc độ âm thanh). Tên lửa được thiết kế có chiều dài 5,8 m, chiều rộng 0,76 m và sải cánh rộng 2,4 m. Khối lượng của tên lửa phụ thuộc vào từng phiên bản khác nhau, 2.125 kg (kiểu SS-N-2A), 2.500 kg (kiểu P-20); đầu nổ 480 kg (kiểu SS-N-2A), 500 kg (kiểu P-20).


Với khối lượng đầu nổ lên tới 500kg, SS-N-2 trở thành nỗi ám ảnh của các loại tàu chiến nổi.Các phiên bản khác nhau của SS-N-2


P-15M Termit: đây là phiên bản cải tiến của P-15, được trang bị hệ thống dẫn đường mới và các cánh của tên lửa có thể gập lại.

P-20 Rubezh cũng là một biến thể của P-15 thông qua việc tăng tầm bắn bằng cách sử dụng một loại nhiên liệu mới. Một số tính năng khác cũng được cải tiến trên phiên bản này, gồm: tăng tầm hoạt động của radar, cải tiến hệ thống khóa mục tiêu và bổ sung tính năng chống nhiễu do Ấn độ sản xuất.

P-20 Rubezh sử dụng đầu dò MS-2A, là một loại rada có tầm hoạt động rộng, khả năng chính xác cáo, khó bị phát hiện bởi đối phương và chống phân mảnh.

P-21 Rubezh cũng là một biến thể của P-15, được trang bị thêm đầu dò hồng ngoại.

P-22 Rubezh được cải tiến từ phiên bản P-20M, trang bị đầu dò hồng ngoại, được đặt ở mũi của tên lửa. Đầu dò này được sử dụng dự phòng trong trường hợp đầu dò radar bị gây nhiễu.

P-27 Rubezh cũng được cải tiến từ P-20M, trang bị đầu dò hoạt động ở dải tần L.

Cơ chế hoạt động

SS-N-2 thường được trang bị cho các tàu lớp Osa-Il, Tarantul I. Đây là loại tên lửa được điều khiển theo chế độ “bắn và quên”, đầu tự dẫn chủ yếu dùng radar chủ động, có loại dùng hồng ngoại.

Khi tên lửa được phóng từ tầu, trong thời gian đầu, tên lửa sẽ hoạt động ở chế độ tự dẫn cho đến khi đến gần mục tiêu, rada tích cực sẽ kích hoạt, giúp điều khiển tên lửa tấn công chính xác mục tiêu.


SS-N-2 thường được trang bị cho các tàu lớp Osa-Il, Tarantul I. Ảnh nạp tên lửa trên tàu chiến lớp Tarantul I.

Điểm yếu lớn nhất của loại tên lửa này là thay vì dùng động cơ phản lực dùng không khí thì nó lại dùng động cơ tên lửa nhiên liệu lỏng, điều này làm ảnh hưởng rất lớn đến tầm bắn của nó.

Ngày nay, với tốc độ chậm, kích thước lớn và thiết kế khí động kém không cho phép cơ động gấp, các tên lửa dòng P-15 dù được nâng cấp hệ dẫn đường tiên tiến cùng thiết bị chống nhiễu mới nhất cũng khó còn đảm đương được nhiệm vụ nguyên thủy của nó là chống chiến hạm được nữa do quá dễ bị phát hiện từ xa và bắn hạ dễ dàng nhưng bù lại nó có khung thân rất rộng cùng đầu đạn lớn nên rất thuận lợi cho việc hoán cải công năng thành tên lửa hành trình tấn công mặt đất.

Họ tên lửa SS-N-3

SS-N-3 là loại tên lửa được chế tạo từ thời Liên Xô, nhằm chống lại các hạm đội tàu sân bay. SS-N-3 (NATO gọi là Shaddock và SS-C-1) có tên thiết kế theo các phiên bản khác nhau là P-5, P-6, P-35 và S-35. SS-N-3 có kích thước 0,96x11,85 m; sải cánh rộng 3,2 m; tầm hoạt động từ 460-500 km; đầu tự dẫn dùng radar chủ động kết hợp điều khiển bằng lệnh; trọng lượng tùy theo phiên bản, giao động từ 4.600-5.400 kg; đầu nổ nặng 900 kg; động cơ đẩy dùng động cơ nhiên liệu lỏng.


Tên lửa Shaddock được Liên Xô chế tạo nhằm tiêu diệt các cụm tàu sân bay của đối phương.


Phiên bản đầu tiên của SS-N-3 là P-5, sử dụng hệ dẫn đường bằng quán tính, được trang bị cho các tàu ngầm loại Echo II, Whiskey Conversion và Juliett. P-5 sử dụng loại cánh gập được, do đó có thể trang bị cho các loại tầm ngầm loại nhỏ.

P-5 có tầm bắn lên tới 500 km, hoạt động ở độ cao từ 100-400 m và hành trình ở tốc độ 0.9 M. Vào những năm 1960, P-5 có thể xuyên thủng qua hệ thống phòng thủ bờ biển của Mỹ.

Phiên bản P-6 được thiết kế với độ chính xác cao hơn so với P-5 và sử dụng vào mục đích tấn công các tàu sân bay của Mỹ. P-6 được trang bị cho các tàu ngầm loại Echo II và Juliett, sử dụng hệ dẫn đường bằng rada tích cực. P-6 có thể mang đầu đạn hạt nhân hoặc đầu đạn thông thường.


Tàu ngầm Juliett được trang bị tên lửa Shaddock mang đầu đạn hạt nhân hoặc đầu đạn thông thường


Phiên bản P-35 (NATO gọi là SEPAL), cũng sử dụng hệ dẫn đường bằng radar, được trang bị cho các tàu khu trục lớp Grozny và Sevastopol. P-35 có thể sử dụng đầu đạn hạt nhân hoặc đầu đạn thông thường, hoạt động với vận tốc 1,2 M, đây là loại tên lửa có tốc độ vượt âm.

Phiên bản S-35 được trang bị cho lực lượng phòng thủ bờ biển, đặt trên xe chuyên dùng.


Phiên bản S-35 được khai hỏa.


Để phóng P-5, tàu ngầm bắt buộc phải nổi lên mặt nước, kích hoạt radar dẫn đường để điều khiển tên lửa hướng tới mục tiêu.

Sau khi phóng, tên lửa leo lên tầm cao, tăng tốc tới vận tốc cực đại, và bắt đầu tìm kiếm vùng phía trước với radar dẫn đường. Hình ảnh kết quả được truyền tới tàu phóng thông qua 1 kênh TV.

Khi một mục tiêu được xác định, thao tác viên trên tàu xác minh liệu có phải đó là mục tiêu mong muốn hay không. Thao tác viên điều khiển tên lửa bằng cách bật hệ thống tìm đường của nó sang chế độ tự động.

Kế đó, tên lửa đi xuống tầm thấp (nhưng vẫn ở tốc độ siêu âm) rồi chui xuống nước 10 - 20 m trước khi tới mục tiêu và phát nổ để phá hoại mục tiêu dưới nước, tăng mức độ thiệt hại cho đối phương.


Copyright 2012 Tin Tức Quân Sự - Blog tin tức Quân Sự Việt Nam
 
Lên đầu trang
Xuống cuối trang