Tàu ngầm Trung Quốc phải nổi lên mặt nước hoặc thả phao thông tin mới có thể liên lạc với trung tâm chỉ huy, nên dễ bị tấn công. >> Kịch bản Mỹ tấn công Trung Quốc bị lộ Tờ “StrategyPage” Mỹ cho biết, Hải quân Mỹ có kế hoạch điều chỉnh nhiệm vụ của lực lượng tàu ngầm, ra sức phát triển tàu ngầm hạt nhân kiểu tấn công đất liền. Tàu ngầm USS Michigan tại cảng Busan, Hàn Quốc. Loại tàu ngầm này được trang bị tên lửa hành trình và máy bay không người lái phóng ngầm, có thể áp sát vùng biển xung quanh Trung Quốc, tiến hành do thám và tấn công đối với các mục tiêu trên bờ. Để phối hợp với chiến lược quay trở lại châu Á-Thái Bình Dương của Mỹ, Hải quân Mỹ quyết định tiến hành điều chỉnh đối với nhiệm vụ của tàu ngầm hạt nhân. Nhiệm vụ chính của chúng không còn là tập trung đề phòng hạm đội của Trung Quốc, mà là tận dụng tính tàng hình áp sát duyên hải Trung Quốc, tiến hành do thám đối với các mục tiêu trên bờ, đồng thời phát động tấn công khi cần thiết. Do trước đây nhiệm vụ chính của lực lượng tàu ngầm quân Mỹ là tấn công tàu chiến của kẻ thù, vì vậy phần lớn tàu ngầm đều lấy ngư lôi làm hệ thống vũ khí chủ yếu. Quân Mỹ bắt đầu từng bước đổi sang trang bị tên lửa hành trình tấn công đất liền cho những tàu ngầm này, biến chúng thành những tàu ngầm tấn công đất liền, có thể lặng lẽ ra vào duyên hải Trung Quốc,uy hiếp các mục tiêu ở ven bờ. Trong 18 tàu ngầm hạt nhân lớp Ohio hiện có của quân Mỹ, đã có 4 chiếc được đổi thành tàu ngầm hạt nhân trang bị tên lửa hành trình, mỗi chiếc mang theo 154 quả tên lửa hành trình Tomahawk có tầm phóng 1.600 km, những tên lửa phóng ngầm này có thể điều chỉnh hướng bay trong quá trình bay, bắn trúng chính xác hơn đối với các mục tiêu trên bờ. Quân Mỹ cho rằng, hoả lực mạnh của tên lửa hành trình cộng với tính năng lặng lẽ kinh ngạc, làm cho tàu ngầm hạt nhân tấn công đất liền có thể bất ngờ gây hỗn loạn cho duyên hải của nước đối phương, phát động tấn công chí tử đối với hơn 100 mục tiêu trên đất liền có giá trị cao. Một chức năng quan trọng khác của tàu ngầm hạt nhân tấn công đất liền là mang theo 66 lính đột kích Seal (báo biển), từ đó có thể tiến hành do thám và thâm nhập bờ biển. Tàu ngầm hạt nhân USS Florida SSGN728 tại căn cứ Diego Garcia của quân Mỹ. 3 tàu ngầm hạt nhân kiểu tấn công đất liền của quân Mỹ gồm USS Michigan, USS Ohio và USS Florida từng lần lượt xuất hiện ở căn cứ Busan, Hàn Quốc, căn cứ vịnh Subic của Philippines và căn cứ Diego Garcia ở Ấn Độ Dương. Nhà phân tích Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế Mỹ, Glaser cho rằng, những tàu ngầm hạt nhân này có thể chạy tới bất cứ vùng biển nào trên thế giới để thực hiện nhiệm vụ tấn công đất liền. Ngoài ra, 4 tàu ngầm hạt nhân tấn công đất liền của quân Mỹ sẽ nghỉ hưu trước sau năm 2025. Hải quân Mỹ đã bắt đầu chế tạo trang bị thay thế - tàu ngầm hạt nhân lớp Virginia phiên bản cải tiến trang bị hệ thống phóng tên lửa hành trình. Nó là sự kết hợp giữa tàu ngầm hạt nhân tấn công và tàu ngầm hạt nhân trang bị tên lửa hành trình, sẽ trở thành tàu ngầm hạt nhân tấn công đất liền thế hệ mới của quân Mỹ. Ngoài ra, trong nhiều năm qua, Hải quân Mỹ luôn bí mật nghiên cứu chế tạo máy bay không người lái phóng ngầm. Hải quân Mỹ cho rằng, tàu ngầm hạt nhân có thể ẩn nấp, mai phục lâu dài ở vùng biển xung quanh nước thù địch. Máy bay không người lái được phóng từ dưới nước lên để tác chiến, mang tính bí mật và tính bất ngờ. Máy bay không người lái phóng ngầm trang bị radar và hệ thống hình ảnh quang học được sử dụng cho tiến hành do thám đối với trận địa trên bờ của đối phương. Chúng còn có thể thông qua vệ tinh đưa tin tức tình báo truyền về tàu chiến quân Mỹ. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, máy bay không người lái phóng ngầm có thể quay trở về khu vực lân cận tàu ngầm hạt nhân và lặn xuống nước, tiếp tục đi qua ống phóng tên lửa quay trở vào bên trong tàu ngầm. Tàu ngầm hạt nhân USS Michigan lớp Ohio của Hải quân Mỹ. Bài viết dẫn báo cáo của Lầu Năm Góc cho rằng, lực lượng tàu ngầm Trung Quốc mặc dù có quy mô lớn, hơn nữa không thiếu tàu ngầm thông thường và tàu ngầm hạt nhân tiên tiến, nhưng khi lặn ở dưới nước, tàu ngầm Trung Quốc không thể duy trì liên lạc bất cứ lúc nào với Trung tâm chỉ huy ở phía sau. Chúng phải nổi lên mặt nước hoặc thả phao thông tin, mới có thể liên lạc với trung tâm chỉ huy, nhưng hai cách làm này sẽ khiến chúng dễ bị phát hiện và bị tấn công. >> Chiến lược phát triển tàu ngầm hạt nhân của Hải quân các nước Vì vậy, nhóm tàu ngầm quân Mỹ có thừa khả năng “gây sóng gió” ở vùng biển xung quanh Trung Quốc. Tàu ngầm hạt nhân USS Ohio, Hải quân Mỹ. Tàu ngầm hạt nhân USS Florida, Hải quân Mỹ. Máy bay không người lái phóng ngầm Cormorant của quân Mỹ (ý tưởng). Máy bay không người lái phóng ngầm Switch Blade của quân Mỹ. Tàu ngầm hạt nhân 092 của Hải quân Trung Quốc. Tàu ngầm hạt nhân chiến lược 094 của Hải quân Trung Quốc. (Nguồn :: Báo Giáo Dục VN) |
Hiển thị các bài đăng có nhãn Tàu ngầm Trung Quốc. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Tàu ngầm Trung Quốc. Hiển thị tất cả bài đăng
Chủ Nhật, 12 tháng 8, 2012
>> Tàu ngầm Trung Quốc : quy mô lớn nhưng dễ bị tiêu diệt
Thứ Sáu, 8 tháng 6, 2012
>> Tàu ngầm 094 - "công trình thể diện" của Trung Quốc ?
Trung Quốc có thể chủ yếu vẫn dựa vào khả năng đáp trả hạt nhân bằng tên lửa triển khai trên đất liền, chứ không phải tàu ngầm hạt nhân. >> Trận địa tàu ngầm của Trung Quốc ở Tam Á >> Thực hư về sức mạnh tàu ngầm Trung Quốc Tàu ngầm hạt nhân tên lửa chiến lược 094 của Hải quân Trung Quốc. Ngày 4/6, tờ “Thời báo Eo biển” Singapore có bài viết nhan đề “Vấn đề gai góc chi phối chiến lược tàu ngầm của Trung Quốc”. Theo bài viết, vào thập niên 1980, Quân đội Trung Quốc (PLA) đã hạ thủy tàu ngầm hạt nhân tên lửa đạn đạo lớp Hạ. Nhưng, tàu ngầm lớp Hạ có tốc độ chậm chạp, tiếng ồn lớn, tính năng không ổn định, rất dễ bị tấn công. Để giải quyết vấn đề này, Trung Quốc xúc tiến đưa ra tàu ngầm hạt nhân chiến lược lớp Tấn kiểu mới và tên lửa đạn đạo JL-2. Hiện có 2 tàu ngầm lớp Tấn đã bàn giao sử dụng, ít nhất còn có 2 tàu đang chế tạo. Nhưng, muốn chuyển hóa những tài sản này thành khả năng tấn công lần hai, Bắc Kinh ít nhất còn phải đối mặt với 2 vấn đề quan trọng. Một là vấn đề công nghệ, hai là vấn đề chính trị nghiêm túc hơn. Trên phương diện công nghệ gồm có khả năng thông tin. Một bản báo cáo 2 năm trước của Lầu Năm Góc cho biết, tàu ngầm trên biển của PLA có khả năng thông tin hạn chế, đồng thời cũng không có kinh nghiệm quản lý hạm đội tàu ngầm hạt nhân thực hiện nhiệm vụ tuần tra chiến lược. Tóm lại, khi hoạt động dưới biển, tàu ngầm Trung Quốc không thể tiến hành liên hệ thông tin với Bộ tổng tư lệnh. Nó phải nổi lên mặt nước hoặc phóng phao thông tin, hai cách làm này sẽ khiến cho nó dễ bị phát hiện và tấn công. Một nguồn tin đáng tin cậy trong lĩnh vực này cho rằng, giải quyết vấn đề này không dễ dàng, nhưng cuối cùng sẽ được khắc phục. Tuy nhiên, trước đó, PLA thậm chí không thể huấn luyện hiệu quả tàu ngầm hạt nhân tiến hành tuần tra chiến lược. Mặt khác, còn tồn tại vấn đề kiểm soát mệnh lệnh, tức là sự ràng buộc chính trị. Hệ thống trên mặt đất là bộ phận chính của kho vũ khí hạt nhân Trung Quốc, đầu đạn và tên lửa được giữ tách rời. Chúng được kiểm soát bởi hệ thống tập trung rất cao, từ Quân ủy Trung ương đến Bộ Chính trị, rồi đến Bộ Tổng tham mưu và Tổng bộ Pháo binh 2, cuối cùng mới là lực lượng chiến đấu có trách nhiệm phóng. Trong khi đó, tàu ngầm hạt nhân tuần tra cần đồng thời trang bị đầu đạn và tên lửa. Quyền quyết sách quan trọng để cho chỉ huy Hải quân nắm lấy là điều mà Bắc Kinh chưa cho phép. Hans Kristensen, Giám đốc chương trình thông tin hạt nhân, Hiệp hội Nhà khoa học Mỹ cho rằng: “Nếu triển khai khả năng tấn công lần hai trên biển, Bắc Kinh phải có sự điều chỉnh quan trọng đối với chính sách và thực tiễn hạt nhân”. Ông nói: “Quân ủy Trung ương phải giải quyết các vấn đề phức tạp như làm thế nào duy trì kiểm soát mệnh lệnh đối với tàu ngầm hạt nhân trên biển. Nếu ở trong thời điểm khủng hoảng, các nhà lãnh đạo Trung Quốc dành đầu đạn hạt nhân cho Hải quân, nhưng triển khai vũ khí hạt nhân sẽ gây ra rất nhiều vấn đề gai góc, nếu xảy ra tình hình tàu ngầm mất tích hoặc không thể liên lạc được thì phải ứng phó với khủng hoảng thế nào, Bắc Kinh phải chăng sẽ cho rằng tàu ngầm đã bị chìm và coi đây là tín hiệu Trung Quốc bị tấn công, theo đó sử dụng vũ khí hạt nhân?”. Tên lửa phóng từ tàu ngầm mang tên JL-2. Ngoài ra, tầm bắn dự kiến của tên lửa JL-2 là 7.400 km, tức là nó không thể bắn được tới lãnh thổ Mỹ khi triển khai ở duyên hải Trung Quốc. Tàu ngầm hạt nhân phải vượt qua thành công một vài điểm ngăn chặn, hoạt động ở khu vực Thái Bình Dương thoải mái hoàn toàn không dễ dàng. Xét tới những tính toán trên, các nguồn tin cho biết, tàu ngầm hạt nhân mới có thể nhiều nhất là Trung Quốc đưa ra sự mơ hồ chiến lược với mức độ nào đó. Hans Kristensen cho rằng, chúng là “công trình thể diện”, “Trung Quốc có thể tập trung khả năng đáp trả hạt nhân vào tên lửa mặt đất (cơ động), chúng có thể được che giấu ở trên đất liền rộng lớn của Trung Quốc”. |
Thứ Hai, 4 tháng 6, 2012
>> Tàu ngầm Trung Quốc tập trung gần Vịnh Bắc Bộ
Trung Quốc đã hoành thành việc xây dựng căn cứ tàu ngầm hạt nhân chiến lược ở Tam Á, đảo Hải Nam. Căn cứ tàu ngầm Tam Á Tạp chí Khán Hòa (Kanwa) đưa tin, căn cứ tàu ngầm hạt nhân chiến lược của Hải quân Trung Quốc ở Tam Á, đảo Hải Nam đã được hoàn tất. Nơi đây có thể sẽ là nơi tập trung lực lượng tàu ngầm chiến lược của nước này. >> Trận địa tàu ngầm của Trung Quốc ở Tam Á >> Tàu chiến Trung Quốc rợp biển Đông Tàu ngầm tấn công lớp Thương và tàu ngầm hạt nhân chiến lược lớp Tấn có thể ở trong khu vực gần Vịnh Bắc Bộ để thực hiện các đòn tấn công bằng tên lửa hạt nhân chiến lược. Trong vùng biển này, tàu lớp Tấn hoàn toàn có thể đảm bảo được an toàn cho chính mình khi tham gia các hành động tác chiến hạt nhân chiến lược. Nơi tập trung lực lượng tàu ngầm hạt nhân chiến lược Bài báo viết, sau 10 năm xây dựng, căn cứ tàu ngầm hạt nhân thứ hai của Trung Quốc tại Tam Á, Hải Nam đã hoàn thành. Các hình ảnh vệ tinh mới nhất cho thấy, tại căn cứ này người ta cho xây dựng hàng loạt các kho lớn cực kì kiên cố, các cầu cảng neo đậu tàu ngầm cũng được tăng lên thành 4, mỗi cầu này dài 230m. Điều này có nghĩa trong tương lai số lượng tàu ngầm hạt nhân chiến lược sẽ tăng lên ít nhất là bằng với số cầu cảng. Các nguồn tin bên ngoài chủ yếu dựa vào các hình ảnh vệ tinh và thông tin tình báo được tiết lộ để phỏng đoán về tình hình trang bị ở hai căn cứ tàu ngầm hạt nhân của Trung Quốc. Hình ảnh vệ tinh mới nhất cho thấy, có hai tàu ngầm hạt nhân của hạm đội Nam Hải đang neo đậu ở Tam Á. Trong đó, chắc chắn 1 chiếc là tàu ngầm tiến công lớp Thương, chiếc còn lại rất có khả năng là tàu ngầm hạt nhân chiến lược lớp Tấn. Việc nhận diện dựa vào việc trên tàu có 1 thiết bị định vị thủy âm (sonar) đặt ở phía sau đuôi. Loại sonar này gióng hệt như những loại khác trang bị cho các tàu ngầm hạt nhân chiến lược trước đây của Liên Xô. Đây chính là loại sonar mà Hải quân Trung Quốc dùng cho tàu ngầm hạt nhân chiến lược của mình, công nghệ này có thể Trung Quốc lấy được từ Belarus. Bài viết giả thuyết rằng, sau khi hoàn thành việc xây dựng căn cứ ở Tam Á, lực lượng tàu ngầm của Trung Quốc sẽ chuyển dần về đây. Hiện ở đây chỉ có 1 chiếc tàu lớp Tấn, nhưng nhiều khả năng nó sẽ rời căn cứ Thanh Đảo để chuyển về Tam Á, ý đồ chiến lược của việc di chuyển quân này rất rõ ràng: lợi dụng điều kiện nước sâu của Vịnh Bắc Bộ và biển Đông, gây khó khăn cho Mỹ và các nước khác trong việc trinh sát tàu ngầm hạt nhân chiếc lược của Trung Quốc. Căn cứ che giấu tiếng ồn tàu ngầm Tại căn cứ tàu ngầm hạt nhân thứ nhất của Trung Quốc ở Thanh Đảo, độ sâu trung bình vào khoảng 100m, đối với sự ồn ào của tàu ngầm hạt nhân chiến lược mà nói, độ sâu này rất khó để có thể tránh đi được sự phát hiện của sonar đối phương. Khi vận hành, nếu thời tiết không có mây, nắng to, tàu ngầm lớp Tấn thậm chí có thể bị phi hành đoàn trên máy bay chống ngầm P3-C nhìn thấy bằng mắt thường. Với căn cứ Tam Á lại hoàn toàn khác, trong vòng bán kính 80km từ căn cứ này, độ sâu trung bình của nước biển vào khoảng 200m, rất có lợi cho việc ẩn mình của tàu ngầm. Tàu ngầm hạt nhân chiến lược của Trung Quốc trước đây được gọi là tàu ngầm “Vịnh Bột Hải”, bởi vì chủ yếu xuất phát từ khu vực vịnh Bột Hải, Đông Bắc Trung Quốc. Hiện nay, tàu ngầm lớp Tấn có thể gọi là tàu ngầm “Vịnh Bắc Bộ”. Bởi vì chúng có thể từ khu vực vịnh Bắc Bộ tiến hành các đòn công kích hạt nhân chiến lược. Ngoài ra, căn cứ Tam Á là cửa ngõ tiến vào biển Đông của Trung Quốc. Tàu ngầm tấn công và tàu nổi có thể từ đây thực hiện các nhiệm vụ hành quân và tác chiến ở khu vực biển Đông, cũng như đối phó với các cuộc xung đột bất ngờ. Các chuyên gia phân tích vũ khí phương Tây cho rằng, Trung Quốc mới chỉ đưa vào biên chế 1 tàu ngầm hạt nhân lớp Tấn, ngoài ra còn 2 tàu nữa đang trong quá trình thử nghiệm, và 1 chiếc đang được đóng. Loại tàu này có thể mang phóng tên lửa hạt nhân chiến lược Cự Lãng 2 (JL-2). Căn cứ Tam Á cách đảo Guam gần 4.000 km, khoảng cách này hoàn toàn nằm trong tầm bắn của tên lửa JL-2. Với lợi thế về địa hình vùng nước ở biển Đông, tàu ngầm Trung Quốc hoàn toàn có thể im lặng tiến ra biển Đông từ đó thực hiện các đòn tấn công vào Alaska hoặc Hawaii. Bài viết dự đoán, để đảm bảo sự an toàn tuyệt đối, tàu ngầm lớp Tấn sẽ hoạt động trong phần lãnh hải Trung Quốc thuộc Vịnh Bắc Bộ. Trong trường hợp xảy ra chiến tranh, Trung Quốc sẽ điều thêm 2 tàu ngầm hạt nhân lớp Thương và 4 tàu ngầm chạy bằng diesel thuộc lớp Kilo Type 636M thực hiện phong tỏa các lối vào vịnh nhằm bảo vệ cho tàu lớp Tấn. |
Thứ Bảy, 2 tháng 6, 2012
>> Hải quân Trung Quốc: Tham vọng và thực lực (kỳ 1)
Tham vọng bá chủ đại dương thế giới của Trung Quốc hiện thực đến đâu? >> Thực hư về sức mạnh tàu ngầm Trung Quốc >> Trận địa tàu ngầm của Trung Quốc ở Tam Á Tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa đường đạn lớp Tấn 094. Ảnh: military-today.com Trả lời câu hỏi này, hai chuyên gia quân sự Nga GS, TS KHKT Vladislav Nikolsky; PTS KHKT Nikolai Novichkov đã viết bài "Hải quân Trung Quốc: Hôm nay và ngày mai" và đăng trên tờ "Người đưa tin Công nghiệp quốc phòng" (VPK, Nga) ngày 23/5/2012. Dưới đây là nội dung bài viết: Cơ sở của chiến lược hải quân Trung Quốc hiện nay vốn bắt đầu được xây dựng vào cuối thập niên 1980 và được công bố chính thức vào năm 1995 là Chiến lược Phòng thủ tích cực xác định xây dựng hải quân có khả năng đánh lui cuộc xâm lược từ hướng biển, đồng thời không loại trừ khả năng thực hiện các đòn tấn công phủ đầu vào đối phương. Khái niệm phát triển Trong các bài báo viết về chủ đề quân sự đang xuất hiện trên báo chí Trung Quốc thường có những yêu sách đối với hơn 5 triệu km2 “lãnh thổ Trung Quốc bị nước ngoài xâm chiếm”, khu vực an ninh biển được tuyên bố của Trung Quốc trải rộng 2000 hải lý vào sâu không gian rộng lớn của Thái Bình Dương, mà có thể còn hơn nữa. Chính ủy Viện nghiên cứu khoa học quân sự Quân giải phóng nhân dân Trung Hoa, tướng Wen Zongren trong một báo cáo về sức mạnh quân sự của Trung Quốc đã tuyên bố: “Trung Quốc phải chọc thủng sự bao vây phong tỏa từ phía các thế lực quốc tế chống lại an ninh biển của mình. Chỉ khi chúng ta chọc thủng được nó thì chúng ta mới có thể nói về sự trỗi dậy của Trung Quốc. Để sự trỗi dậy được nhanh chóng, Trung Quốc cần phải đi qua các đại dương và vượt ra khỏi chúng trong tương lai phát triển của mình”. Các thành tố chính sử dụng hải quân trong tác chiến trong khuôn khổ chiến lược hiện hành là các khái niệm sau đây: tác động tích cực đối với đối phương ở cự ly tối đa với việc chuẩn bị cho hải quân tác chiến ở toàn bộ chiều sâu chiến trường đại dương (biển), phản kích hạt nhân hạn chế nhằm tự vệ với sự tham gia của hải quân trong việc giáng đòn hạt nhân vào đối phương bằng các tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa đường đạn trong thành phần các lực lượng hạt nhân chiến lược Trung Quốc. Theo chiến lược hải quân hiện đại Trung Quốc, trong cuộc chiến tranh tương lai, hải quân sẽ được giao giải quyết các nhiệm vụ chủ yếu sau đây: tiêu diệt tàu chiến và tàu vận tải của đối phương, quấy rối các tuyến giao thông trên biển của đối phương, thực hiện các đòn tấn công bất ngờ vào các căn cứ hải quân, hải cảng và các mục tiêu quan trọng trên bờ của đối phương nhằm làm suy yếu tiềm lực quân sự đối phương, tiến hành các chiến dịch đổ bộ đường biển với sự tham gia của lục quân và không quân, cũng như đối phó với đổ bộ đường biển của đối phương, bảo đảm an ninh cho các tuyến giao thông trên biển, nghề cá, khai thác khoáng sản và nghiên cứu khoa học, và nhiều nhiệm vụ khác. Chiến lược hải quân Trung Quốc xác định 3 giai đoạn phát triển hải quân. Ở giai đoạn đầu, Trung Quốc đã xác định xây dựng các cụm lực lượng có khả năng duy trì hình thế tác chiến đã định ở trong phạm vi khu vực được giới hạn bởi “chuỗi đảo thứ nhất” (quần đảo Ryukyu và quần đảo Philippines), bao gồm các vùng biển thuộc Hoàng hải, biển Hoa Đông, Biển Đông và đồng thời đóng vai trò một “Vạn lý trường thành trên biển”. Hiện nay, giai đoạn này đã hoàn thành. Ở giai đoạn 2 (đến năm 2020) dự định có những hoạt động tích cực của hải quân trong phạm vi khu vực được giới hạn bởi “chuỗi đảo thứ hai” (quần đảo Kurils, Hokkaido, quần đảo Nanpō, các quần đảo Mariana và Caroline, New Guinea) và bao gồm các vùng biển Nhật Bản và biển Philippines, các biển thuộc quần đảo Indonesia. Ở giai đoạn 3 (đến năm 2050) dự kiến xây dựng một hạm đội đại dương hùng mạnh, có khả năng giải quyết các nhiệm vụ đặt ra hầu như ở mọi khu vực của đại dương thế giới. Bởi vậy, xây dựng các lực lượng tàu sân bay và tàu ngầm hạt nhân thực thụ ngay vào đầu thế kỷ XXI được coi là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất trong phát triển hải quân Trung Quốc. Tổng số tàu xuồng chiến đấu trong hạm đội Trung Quốc trong 4 năm gần đây đã tăng khoảng từ 570 đến 700 chiếc. Tuy nhiên, điều đó đã diễn ra không chỉ nhờ việc đóng mới mà cả nhờ việc đưa nhiều tàu xuồng khỏi lực lượng dự bị vốn đang quản lý một số lượng lớn tàu ngầm, xuồng chiến đấu và xuồng đổ bộ. Còn việc cắt giảm số lượng tàu xuồng vào năm 2015-2020 có thể thực hiện bằng cách chuyển một phần các tàu ngầm, xuồng chiến đấu và xuồng đổ bộ vào lực lượng dự bị. Các chương trình đóng tàu quân sự Trong 10 năm qua, Trung Quốc đã tăng mạnh khối lượng đóng tàu quân sự. Trọng tâm chú ý trong đó đã dịch chuyển từ các tàu có lượng giãn nước hạn chế sang các tàu thuộc các lớp cơ bản (tàu ngầm nguyên tử, tàu sân bay, tàu frigate). Đồng thời, họ tiếp tục đóng các xuồng tên lửa [tàu tên lửa nhỏ]). Lực lượng tàu ngầm Tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa đường đạn Trong biên chế chiến đấu của hải quân Trung Quốc có 1 tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa đường đạn Trường Chinh-6, lớp Hạ 092 (năm 1995-2001, đã được hiện đại hóa và được trang bị lại bằng tên lửa đường đạn xuyên lục địa JL-1A) và 2 tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa đường đạn lớp Tấn 094. Trung Quốc bắt tay vào đóng serie tàu ngầm lớp 094 vào năm 2001. Tàu đầu tiên Tấn gia nhập chính thức biên chế hải quân từ năm 2007, còn tàu ngầm sản xuất loạt đầu tiên - vào năm 2009, nhưng việc thử nghiệm các tên lửa đường đạn xuyên lục địa mới dành cho nó vẫn tiếp tục trong năm 2011. Sự chậm trễ của chương trình chế tạo vũ khí tiến công cho các tàu ngầm này là tất yếu. Ví dụ, tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa đường đạn lớp 092 Chang Zheng-6 được đưa vào biên chế hải quân Trung Quốc vào tháng 8/1983, nhưng mãi đến ngày 15/9/1987 mới phóng thử thành công lần đầu tiên tên lửa đường đạn xuyên lục địa dành cho nó. Việc thực sự đưa vào biên chế chiến đấu hạm đội Trung Quốc 2 tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa đường đạn lớp Tấn rõ ràng sẽ xảy ra trong năm nay. Theo giới lãnh đạo Trung Quốc, việc đóng loạt tàu ngầm mang tên lửa đường đạn này là nhằm bảo đảm khả năng kiềm chế chiến lược đối với lực lượng hạt nhân trên biển của Mỹ. Lần đầu tiên, tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa đường đạn lớp 094 bị vệ tinh Quickbird chụp ảnh vào cuối năm 2006 khi đang đậu tại căn cứ Xiaopindao gần thành phố Đại Liên. Các chuyên gia lập tức xác định được rằng, tàu ngầm này giống các tàu lớp Projekt 667BDRM của Nga. tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa đường đạn mới này của Trung Quốc được trang bị 12 tên lửa đường đạn xuyên lục địa JL-2 mang đầu đạn tách (MIRV). Tên lửa này là biến thể thu nhỏ của tên lửa đường đạn xuyên lục địa triển khai trên mặt đất DF-31 vốn đã được thử nghiệm từ năm 1999. Tầm bắn tối đa đến 8.000 km khi mang đầu đạn đơn khối có đương lượng nổ 0,35 МT. tên lửa đường đạn xuyên lục địa nhiên liệu rắn này có trọng lượng 42 tấn, chiều dài gần 12 m, đường kính 2 m, sử dụng hệ dẫn quán tính. Tên lửa có thể mang đầu đạn MIRV. Hiện nay, Trung Quốc đang đóng 3 tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa đường đạn lớp 094 và dự định đóng thêm 1 tàu ngầm nữa loại này. Tuy nhiên, theo thông tin hiện có, các tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa đường đạn đang đóng đã là tàu thuộc lớp 096 và sẽ được trang bị mỗi tàu 24 tên lửa đường đạn xuyên lục địa. Ngoài ra, CIA Mỹ vào giữa năm 2011 đã nhận được một bức ảnh vệ tinh chụp một trong các tàu ngầm này đang chạy thử trên biển. Theo các chuyên gia, các kích thước được công bố của tàu ngầm này (dài 150 m, rộng 20 m) là không đáng tin. Trước hết là chiều rộng của tàu bởi vì điều đó phụ thuộc vào chất lượng thép và độ dày vỏ chính của tàu. Ít có khả năng Trung Quốc đã làm chủ được công nghệ sản xuất và luyện loại thép đó và có thể vượt qua được Mỹ, Nga, Anh và Pháp trong lĩnh vực luyện kim. Tuy nhiên, kiểu gì thì sau năm 2016, Trung Quốc có lẽ sẽ sở hữu 6 tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa đường đạn mới và 1 tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa đường đạn cũ. Hơn nữa, vũ khí trang bị trên 4 tàu sẽ không kém các tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa đường đạn của Mỹ. Một số báo chí khẳng định, Trung Quốc đã sử dụng các công nghệ Nga khi thiết kế và đóng các tàu ngầm lớp Tấn. Tuy nhiên, đa số các chuyên gia cho rằng, về phần động lực hạt nhân và tên lửa đường đạn xuyên lục địa thì ít có khả năng vì các lý do chính trị. Bởi lẽ, tại thời điểm bắt đầu thiết kế các tàu này (cuối thập niên 1980), quan hệ của Moskva với Washington tốt hơn là với Bắc Kinh. Ngoài ra, các công nghệ được ứng dụng ở hệ thống động lực hạt nhân và trong sản xuất tên lửa đường đạn xuyên lục địa có đặc điểm là việc từ bỏ các quá trình công nghệ đã làm chủ và chuyển sang các quá trình công nghệ khác đòi hỏi mất nhiều thời gian và tốn phí khổng lồ. Các chuyên gia cho rằng, nhiều khả năng nhất là Trung Quốc vẫn sử dụng các công nghệ của Pháp để chế tạo hệ thống động lực hạt nhân cho tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa đường đạn lớp 94. Do đó, không loại trừ khả năng, hệ thống động lực hạt nhân với 2 lò phản ứng cải tiến từ thiết kế thời thập niên 1970-1980 của Pháp vẫn được sử dụng làm hệ thống động lực chính. Trong khi đó, một số chuyên gia cho rằng, tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa đường đạn mới của Trung Quốc được trang bị hệ thống động lực hạt nhân bình thường. Không loại trừ, 2 tàu ngầm thông thường lớp Projekt 877EKM nhận được từ Nga vào giữa thập niên 1990 chắc chắn đã cho phép Trung Quốc ứng dụng một số công nghệ Nga ở lĩnh vực giảm độ bộc lộ thủy âm và các loại vũ khí trang bị tối tân (thủy âm, ngư lôi, tên lửa chống hạm) vào các tàu ngầm lớp Tấn (ở mức độ đầy đủ hơn cả ở tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa đường đạn lớp 096). Tuy nhiên, sự hiện diện của một số lượng lớn các lỗ xả thoát nước nhỏ ở phần thượng tầng các tàu ngầm lớp 094 cho thấy, các chuyên gia Trung Quốc vẫn chưa hiểu và ứng dụng được hết tất cả các công nghệ giảm độ bộc lộ cho tàu ngầm. Các bài báo nêu mức ồn của các tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa đường đạn các lớp 094 (115 dB) và 096 (95-100 dB) chẳng nói lên điều gì vì không dẫn ra tốc độ chạy của tàu ngầm. Lượng giãn nước nêu trên báo của lớp 094 là 9.000 tấn rõ ràng là bị giảm bớt. Với 2 lò phản ứng và 12 tên lửa đường đạn xuyên lục địa (với trọng lượng phóng 42 tấn mỗi tên lửa), lượng giãn nước không thể dưới 11.000-12.000 tấn. Thậm chí lượng giãn nước khi nổi cũng lớn hơn và theo các chuyên gia là 9.500 tấn. Đánh giá lượng giãn nước của tàu ngầm lớp 096 thực tế hơn và là gần 16.000 tấn. Tàu ngầm hạt nhân tấn công Trong biên chế hải quân Trung Quốc có 5 tàu ngầm hạt nhân tấn công: 3 chiếc lớp Hán 091 đóng năm 1980-1990 (2 tàu đầu tiên của lớp này đã bị loại bỏ) và 2 chiếc lớp Thương 093. Xét đến việc tiến hành sửa chữa tại nhà máy, các tàu ngầm lớp 091 sẽ bị rút dần khỏi biên chế hạm đội Trung Quốc vào năm 2012-2020. Hiện nay, Trung Quốc đang đóng tàu ngầm hạt nhân tấn công đa năng lớp 093, có tính năng tương đương tàu ngầm hạt nhân lớp Projekt 671RTM của Nga. Đến năm 2020, Trung Quốc dự định đóng đến 8 tàu ngầm hạt nhân lớp này. Toàn bộ thông tin nêu trên về tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa đường đạn lớp 094 liên quan đến các công nghệ động lực hạt nhân của Nga, theo khẳng định của các chuyên gia, cũng đúng với các tàu ngầm lớp 093. Ngoài ra, các chuyên gia còn cho rằng, lượng giãn nước của tàu ngầm này được nêu trên báo chí sát với thực tế hơn. Việc tàu đầu tiên lớp 093 đã đóng trong 13 năm trời gián tiếp nói lên rằng: các công nghệ Nga đã được sử dụng khi chế tạo tàu ngầm này (thiết kế đã bị sửa đổi lại sau khi Trung Quốc có tàu ngầm thông thường Projekt 877EKM). Trên 6 tàu ngầm hạt nhân tấn công tiếp theo, việc ứng dụng đầy đủ các công nghệ mới đã dẫn đến những thay đổi trong thiết kế đến mức số hiệu của lớp cũng thay đổi thành 095. Ngoài ra, chương trình đóng tàu bị tạm thời ngắt quãng sau khi đóng 2 tàu đầu tiên theo thiết kế 093. Chắc chắn, việc nối lại chương trình đóng các tàu ngầm hạt nhân tấn công sẽ thực hiện theo thiết kế 095 và chỉ sau khi làm chủ được các công nghệ giảm độ bộc lộ mới nhất. Các công nghệ về giảm độ bộc lộ âm thanh và các loại vũ khí trang bị tối tân (thủy âm, ngư lôi, tên lửa chống hạm) đã cho phép giảm mức ồn đi hơn 3 lần do với tàu ngầm nguyên tử tấn công lớp 091. Tuy vậy, các chuyên gia Trung Quốc vẫn còn khuya mới đạt được trình độ mức ồn của các tàu ngầm nguyên tử tấn công mới của các nước hàng đầu thế giới. Ngoài ra, có thể thấy việc hệ thống động lực hạt nhân của tàu ngầm Trung Quốc có độ tin cậy tương đối thấp chứng tỏ rằng, ngay cả các công nghệ của Pháp ở mức độ nhất định hiện vẫn nằm ngoài tầm với đối với công nghiệp Trung Quốc. Các đánh giá nêu trong bảng về mức ồn dải rộng được dẫn kèm với tốc độ chạy không quá 15 hải lý/h. Bởi vậy, những so sánh này không thể cho là hoàn toàn đáng tin cậy. So sánh khả năng chiến đấu của tàu ngầm nguyên tử tấn công của Trung Quốc và các nước hàng đầu thế giới Tuy nhiên, các chuyên gia từ lâu hiểu rằng, để hoàn toàn khắc phục được sự lạc hậu trong lĩnh vực đóng tàu ngầm, Trung Quốc sẽ cần không chỉ kỹ năng sao chép các mẫu tàu ngầm nước ngoài, mà còn nắm vững nhiều nghiên cứu lý thuyết có liên quan đến các ngành khoa học cơ bản. Nhưng để làm thế cần có những khoản tiền lớn và kinh nghiệm mà các cường quốc hải quân hàng đầu tích lũy được trong 100 năm gần đây. Ít có khả năng các nước đó sẽ chia sẻ kinh nghiệm này với Trung Quốc. Khả năng chuyển giao (bán) một vài tàu ngầm nguyên tử tấn công các lớp Projekt 949А và Projekt 971 cũng khó lòng giúp Trung Quốc đạt đến trình độ đóng tàu ngầm cần thiết trong thời gian sắp tới. Ban lãnh đạo mới của hải quân Trung Quốc nhận thức được điều đó và đã hãm bớt phần nào tốc độ phát triển chính các tàu ngầm hạt nhân tiến công để có thời gian nắm vững, làm chủ các công nghệ mới, còn các nỗ lực chính hiện tập trung vào việc đóng hay mua các tàu ngầm thông thường của nước ngoài. Tàu ngầm thông thường Tính đến đầu năm 2012, trong biên chế hải quân Trung Quốc còn 48 tàu ngầm thông thường (các lớp 041, 039/039G, 035, 877EKM/636). Trung Quốc hiện chỉ tiếp tục đóng tàu ngầm lớp 041. Hiện nay, trong biên chế có 4 tàu ngầm lớp 041, 1 tàu đang ở giai đoạn đóng và 3 tàu dự định đóng. Tàu ngầm lớp 041 thực tế là bản sao chép đầy đủ tàu ngầm thông thường lơp Projekt 636 chỉ có sự thay đổi ở cách bố trí các cánh lái mũi và đuôi. Các cánh lái ngang ở mũi gắn vào phần thượng tầng, còn ở các cánh lái đứng ở đuôi có thêm phần trên. Ngoài ra, hệ thống động lực chính cũng có những thay đổi, nay chuyển thành động cơ điện-diesel và động cơ không cần không khí (AIP). AIP được chế tạo dựa trên động cơ Stirling, có lẽ được mua từ Thụy Điển cho các tàu ngầm này. Đa số các chuyên gia cho rằng, Trung Quốc sẽ khó lòng làm chủ được công nghệ sản xuất AIP dựa trên công nghệ hydro (các máy phát điện-hóa đang được sản xuất ở Nga và Đức). Nhưng việc chế tạo AIP dựa trê động cơ Stirling (công nghệ do Thụy Điển và Nhật Bản làm chủ) là hoàn toàn có khả năng vì trong những năm gần đây, Trung Quốc tăng cường hợp tác kỹ thuật với Thụy Điển. Cần lưu ý rằng, việc Trung Quốc mua sắm ồ ạt tàu ngầm thông thường của Nga (đã mua 12 tàu ngầm các lớp Projekt 877EKM và Projekt 636 trong khi số tàu ngầm đóng theo thiết kế nội địa 039 chỉ là 13) chứng tỏ lãnh đạo hải quân Trung Quốc không hài lòng với chất lượng của không chỉ các tàu ngầm nguyên tử nội địa mà cả tàu ngầm hạt nhân thông thường nội địa. Đa số các chuyên gia cũng hoàn toàn nhất trí rằng, tàu ngầm lớp 041 (sao chép tàu ngầm thông thường của Nga) kể cả được trang bị AIP cũng sẽ không thể sánh nổi các tàu ngầm mới của Nga hay của Pháp về khả năng chiến đấu vì Trung Quốc không có khả năng sao chép nhiều công nghệ. Tình thế đó sẽ thúc đẩy Trung Quốc tiếp tục mua các tàu ngầm thông thường tối tân của Nga hay của Pháp. |
Thứ Hai, 28 tháng 5, 2012
>> Trận địa tàu ngầm của Trung Quốc ở Tam Á
Trung Quốc có thể đã xây dựng trận địa phóng tên lửa của tàu ngầm hạt nhân 094 tại khu vực vịnh Bắc Bộ và tương lai coi đây là nơi triển khai chính. Tàu ngầm hạt nhân chiến lược 094 của Hải quân Trung Quốc. Gần đây, tạp chí “Kanwa Defense Review” Canada cho biết, Quân đội Trung Quốc đã xây dựng xong căn cứ tàu ngầm hạt nhân kiểu mới ở Tam Á, đảo Hải Nam, tàu ngầm hạt nhân tấn công 093 và tàu ngầm hạt nhân chiến lược 094 tiên tiến có thể đã được xây dựng xong trận địa phóng tên lửa chiến lược (phóng từ tàu ngầm) ở vùng biển vịnh Bắc Bộ. >> Bí mật thiết kế tàu sân bay Nga trong tương lai >> Bí mật siêu tên lửa Nga lọt vào tay ai? >> Chiến lược 'chống tiếp cận' của Trung Quốc đã bị hóa giải Ở vùng biển này, tàu ngầm hạt nhân 094 có thể tiến hành các hành động phản kích/đáp trả chiến lược có hiệu quả trong khi vẫn đảm bảo được an toàn cho chúng. Bài viết cho rằng, căn cứ tàu ngầm hạt nhân thứ hai của Quân đội Trung Quốc, được xây dựng trong thời gian dài tới 10 năm, nằm ở Tam Á, đảo Hải Nam, đã cơ bản được xây dựng xong. Các hình ảnh vệ tinh cho thấy, căn cứ này đã được bố trí nhà kho cỡ lớn tương đối kiên cố, cầu tàu dùng cho tàu ngầm hạt nhân bỏ neo cũng tăng lên tới 4 chiếc (so với 3 chiếc ban đầu), độ dài mỗi cầu tàu đều lên tới 230 m. Điều này có nghĩa là sẽ có tương đối nhiều tàu ngầm hạt nhân đồn trú ở căn cứ này. Dư luận bên ngoài luôn phỏng đoán về tình hình triển khai của căn cứ tàu ngầm hạt nhân Tam Á thông qua các hình ảnh vệ tinh và tin tức tình báo khác. Những bức ảnh vệ tinh mới nhất cho thấy, 2 tàu ngầm hạt nhân của Hạm đội Nam Hải đang cập cảng tại căn cứ Tam Á. Trong đó có một chiếc có thể được xác định là tàu ngầm hạt nhân tấn công 093, chiếc khác có thể là tàu ngầm hạt nhân chiến lược 094. Tàu ngầm hạt nhân tấn công 093 của Hải quân Trung Quốc. Sở dĩ có sự phỏng đoán như vậy là do chiếc tàu ngầm hạt nhân này có đặc điểm rõ rệt của tàu ngầm hạt nhân chiến lược 094: Ở phần đuôi có gắn thiết bị sonar kiểu thu phát, tương tự sonar được trang bị cho tàu ngầm hạt nhân chiến lược của Liên Xô. Hệ thống sonar mà Quân đội Trung Quốc sử dụng cho tàu ngầm hạt nhân chiến lược 094 là kiểu Liên Xô, công nghệ của nó có thể có liên quan đến Belarus. Theo bài viết, sau khi xây dựng xong căn cứ tàu ngầm hạt nhân Tam Á, việc triển khai lực lượng tàu ngầm của Quân đội Trung Quốc sẽ tập trung cho căn cứ này. Hiện nay Tam Á mới chỉ xuất hiện 1 tàu ngầm hạt nhân 094, còn tàu ngầm hạt nhân 094 khác của Quân đội Trung Quốc cũng có thể rời căn cứ tàu ngầm hạt nhân Thanh Đảo, đến Tam Á để triển khai. Ý đồ chiến lược của việc điều chỉnh bố trí này tương đối rõ ràng: Đó chính là tận dụng điều kiện nước sâu ở vịnh Bắc Bộ, biển Đông, gia tăng độ khó cho quân đội nước ngoài như Mỹ khi tiến hành do thám tàu ngầm hạt nhân chiến lược của Trung Quốc. Bài viết cho rằng, ở căn cứ tàu ngầm hạt nhân đầu tiên của Quân đội Trung Quốc tại Thanh Đảo, nước sâu bình quân bên ngoài căn cứ này chỉ khoảng 100 m, đối với tàu ngầm hạt nhân có tiếng ồn tương đối lớn, thì việc tránh khỏi sự theo dõi của thiết bị sonar đối phương là tương đối khó. Khi lặn xuống hoạt động dưới biển, nếu gặp phải tình hình đầy đủ ánh nắng mặt trời, tàu ngầm hạt nhân 094 khổng lồ thậm chí còn bị mắt thường của phi công máy bay tuần tra chống tàu ngầm P-3C của đối phương phát hiện. Biên đội tàu ngầm Trung Quốc. Nhưng tình hình của căn cứ tàu ngầm hạt nhân thứ hai của Quân đội Trung Quốc ở Tam Á thì hoàn toàn khác. Nước sâu trước căn cứ này lên tới 200 m, có lợi cho tăng cường “tính tàng hình” của tàu ngầm hạt nhân. Trước đây, tàu ngầm hạt nhân chiến lược Trung Quốc luôn bị dư luận bên ngoài cho là “tàu ngầm hạt nhân vịnh Bột Hải”, bởi vì nó coi vịnh Bột Hải là khu vực triển khai chủ yếu. Hiện nay, tàu ngầm hạt nhân 094 có thể được gọi là “tàu ngầm hạt nhân vịnh Bắc Bộ”. Bởi vì chúng có thể lấy vịnh Bắc Bộ làm trận địa phóng tên lửa chiến lược. Ngoài ra, căn cứ Tam Á là cửa ngõ để Hải quân Trung Quốc phóng ra biển Đông. Tàu ngầm hạt nhân tấn công và tàu chiến mặt nước (tàu nổi) triển khai ở đây có lợi cho việc hỗ trợ cho tàu thuyền Trung Quốc đi lại trên các tuyến đường hàng hải ở biển Đông và đòi hỏi nguồn tài nguyên dầu khí tại biển Đông, rất có lợi cho việc Trung Quốc đối phó với các cuộc xung đột bất ngờ xảy ra. Các nhà phân tích vũ khí phương Tây phỏng đoán, Trung Quốc có thể đã triển khai một tàu ngầm hạt nhân chiến lược 094, hai tàu ngầm phiên bản cải tiến khác đang ở trong giai đoạn thử nghiệm, còn một chiếc vẫn đang chế tạo. Loại tàu ngầm hạt nhân này có thể mang theo nhiều tên lửa phóng ngầm JL-2. Tên lửa phóng ngầm JL-2 trang bị cho tàu ngầm hạt nhân Trung Quốc. Khoảng cách từ duyên hải phía nam Trung Quốc đến căn cứ quân Mỹ ở Guam là 3.930 km. Tên lửa JL-2 trang bị cho tàu ngầm hạt nhân 094 triển khai tại đây hoàn toàn có thể tấn công căn cứ Guam. Nếu muốn tấn công Alaska và Hawaii của Mỹ, tàu ngầm hạt nhân 094 phải rời khỏi vùng biển ven bờ, lặn xuống vùng nước sâu ở biển Đông, đương nhiên tiền đề là phải có sự ẩn náu chiến lược hiệu quả. Bài viết phỏng đoán, để bảo đảm “an toàn tuyệt đối”, tàu ngầm hạt nhân 094 sẽ hoạt động ở phần biển vịnh Bắc Bộ thuộc về Trung Quốc. Trong thời chiến, Hải quân Trung Quốc sẽ triển khai 2 tàu ngầm hạt nhân tấn công 093 và 4 tàu ngầm diesel 636M Kilo xây dựng thành mạng lưới phong tỏa nhằm ngăn chặn tàu ngầm quân đội nước ngoài xâm nhập vịnh Bắc Bộ, từ đó bảo đảm cho tàu ngầm hạt nhân chiến lược 094 có thể thực hiện các hành động đáp trả chiến lược một cách an toàn và hiệu quả. |
Chủ Nhật, 27 tháng 5, 2012
>> Thực hư về sức mạnh tàu ngầm Trung Quốc
Chỉ hoạt động gần bờ, phát ra quá nhiều tiếng ồn là những điểm yếu cơ bản của lực lượng tàu ngầm Trung Quốc tưởng chừng như rất mạnh với số lượng đông. Máy bay săn ngầm (ASW) Trung Quốc không thể được sử dụng khi tàu ngầm của PLAN hoạt động ở vùng nước nông 5 năm vừa qua đã có quá nhiều các cuộc thảo luận liên quan đến sự phát triển nhanh chóng, mạnh mẽ của Hải quân Trung Quốc (PLAN). Lực lượng này đã bổ sung thêm nhiều lớp tàu mới thuộc các chủng loại khác nhau: tàu khu trục, tàu ngầm, tàu đổ bộ và thậm chí là tàu sân bay đầu tiên hiện đạng chạy thử trên biển. Có vẻ như Hải quân Trung Quốc đang trên đà phát triển. >> Tàu ngầm Trung Quốc lọt top 8 >> Chiến lược mới về tàu ngầm của Hải quân Trung Quốc >> Điểm yếu chí tử của tàu ngầm hạt nhân Trung Quốc Tuy nhiên, xây dựng lực lượng hải quân và phát triển một khả năng hải quân mạnh là hai câu chuyện hoàn toàn khác nhau. Kỹ năng hải quân là lĩnh vực rất phức tạp và tinh xảo, khó phát triển nhưng lại dễ bị tổn thương. Một trong những kỹ năng đó là tác chiến ngầm. Ngay từ những năm 1960, Trung Quốc đã có một lực lượng tàu ngầm to lớn. Vì vậy, nhìn bề ngoài đội quân này có vẻ hùng hậu nhưng thực tế lại tiềm ẩn nhiều điểm yếu nghiêm trọng. Những đánh giá chuyên môn gần đây đang chứng minh thực tế đó. Loanh quanh gần bờ Để đạt được sự tinh thông trên đại dương rộng lớn, lực lượng tàu ngầm thông thường mới của Trung Quốc phải đối phó được với các kẻ thù tiềm tàng, hạm đội 60 tàu ngầm có vẻ hiện đại ấy phải thực hiện nhiều hơn nữa các hoạt động tuần tra. Thế nhưng đây lại là con dao hai lưỡi. Tàu ngầm lớp Kilo mua của Nga là những tàu ngầm tốt nhất của Trung Quốc Gần đây nhất, giai đoạn 2005 – 2007, lực lượng tàu ngầm của PLAN chẳng làm gì nhiều hơn ngoài huấn luyện cơ bản hàng ngày ở những vùng nước nông ngay ngoài khơi các căn cứ. Theo thống kê, năm 2007, các tàu ngầm hạt nhân và thông thường của PLAN không thực hiện nhiều hơn 7 đợt tuần tra. Còn năm 2005 chỉ đúng 1 lần. Mỗi đợt tuần tra như vậy, tàu ngầm của Trung Quốc đều bị phát hiện và đều bị các tàu đồng minh của Mỹ (cả hạt nhân và thông thường) theo dõi thu thập thông tin tình báo thủy âm (ACINT). Mặt khác, khi lực lượng tàu ngầm của PLAN hoạt động ở những vùng nước duyên hải gần căn cứ, người ta không thể biết được khả năng thực tế của chúng. Máy bay săn ngầm (ASW), tàu chiến mặt nước, hệ thống giám sát thủy âm (SOSUS) không thể được sử dụng ở những vùng nước như vậy. Quá nhiều tiếng ồn Cho tới nay, những tàu ngầm tốt nhất của Trung Quốc là những tàu ngầm lớp Kilo do Nga chế tạo và những mẫu xuất khẩu này gây nhiều tiếng ồn hơn là loại tàu cùng lớp trang bị cho Hải quân Nga. Tàu ngầm thường bị phát hiện bởi các biện pháp thụ động qua việc lắng nghe âm thanh phát ra từ chúng. Tàu ngầm càng tạo ra nhiều tiếng ồn thì càng dễ phát hiện và một khi đã bị định vị, chiếc tàu phát ra tiếng động rất dễ bị tấn công. Kết quả là, một số lượng lớn tàu ngầm hoàn toàn mới của PLAN có thể bị phát hiện bằng phương pháp thụ động trong vòng hội tụ đầu tiên, nghĩa là ở khoảng cách 20-30 dặm so với vị trí tàu ngầm. Đó là khu vực các tàu ngầm rất dễ bị phát hiện bởi một tàu nổi hay phao âm. Trong Chiến tranh Lạnh, những tàu ngầm Liên Xô có tiếng ồn lớn thường bị phát hiện ngay ở vùng hội tụ đầu tiên, thứ hai hoặc thậm chí thứ ba. Hải quân Mỹ hiện nay hoàn toàn có thể phát hiện các tàu ngầm thông thường của Trung Quốc. Tàu ngầm hạt nhân của họ thậm chí còn tồi tệ hơn, có thể kém xa công nghệ hiện tại đến 50 năm và hầu như không tốt hơn thế hệ tàu ngầm hạt nhân thứ nhất của Hải quân Mỹ. Hậu quả từ một cú lừa ngoại mục Quay trở lại những năm 1990. Theo Defence Review Asia, khi đó, Trung Quốc đã bí mật tiếp cận các nhà sản xuất động cơ tàu ngầm diesel của Đức với một đề nghị: Họ muốn mua một bộ thiết bị tàu ngầm diesel chạy yên nhất, tiên tiến nhất của Đức và đưa ra một khoản hối lộ hậu hĩnh để đạt được điều đó. Tất nhiên, người Đức nhận ra chiêu thức hoạt động của họ. Trung Quốc muốn mua một bộ thiết bị để rồi sau đó tháo tung, nghiên cứu và bắt chước – một thủ thuật đánh cắp quyền sở hữu trí tuệ và thương mại mà họ vẫn thường làm. Tàu ngầm tấn công chạy bằng điện – diesel lớp Tống (Type 039) của PLAN Một kịch bản đã được dàn dựng. Người Đức lập tức liên lạc với Hải quân Mỹ về cách tiếp cận này của Trung Quốc. Một kế hoạch hành động được lập ra với sự tham gia của nhiều cơ quan khác nhau nhưng trong đó có lực lượng tàu ngầm Hải quân Mỹ và các chuyên gia tàu ngầm đặc biệt của Văn phòng tình báo Hải quân. Ban đầu, người Đức từ chối nhưng sau đó lại tỏ ra “dao động”, nói rằng họ sẽ xem xét một đơn hàng lớn hơn, khoản hối lộ lớn hơn nếu Trung Quốc đưa ra mức độ hoạt động thủy âm cụ thể mà họ mong muốn. Sau đó, Đức sẽ chế tạo những động cơ đáp ứng tiêu chí này, tất nhiên với một mức giá khác. Trung Quốc cảm nhận được điều này. Sau nhiều lần thương thảo bí mật, họ đã đưa ra một yêu cầu về thủy âm mà họ cho là ở mức độ gai góc nhất về vật lý thời đó. Công ty Đức nhận yêu cầu này với những ca thán rằng thật “quá khó” để đáp ứng tiêu chuẩn “quá cao” mà PLAN đặt ra. Điều mà Trung Quốc đã tiết lộ chính là sự hiểu biết của họ về độ phản âm trong tàu ngầm đương thời. Thế nhưng, thực tế đó lại là công nghệ của những năm 1970! Hải quân Mỹ và đồng minh thì tỏ ra hể hả còn Đức cũng không kiềm chế được sự tức cười. Trung Quốc đã để lộ ra một điểu yếu cực kỳ quan trọng và mang tầm chiến lược dài hạn, điểm yếu chí tử đối với lực lượng tàu ngầm của họ trong bất kỳ cuộc xung đột nào. Người Đức sau đó đã giới thiệu cho Trung Quốc loại động cơ diesel có sẵn. Rất nhiều thông tin cho rằng đó là những bộ phận rất cơ bản hay những động cơ cũ được nâng cấp trang bị cho các tàu ngầm lớp Type 209 thuộc mẫu cổ điển. Chúng là những động cơ đã lỗi thời so với thời điểm đó 25 năm, chẳng hơn gì hệ thống thủy âm giữa những năm 1960. Thế nhưng, những thiết bị này lại được chuyển giao cho Trung Quốc một cách rất bí mật, như thể đó là “cuộc đảo chính công nghệ” của PLAN. Giới trong ngành đồn rằng Trung Quốc ngay lập tức sao chép các hệ thống thủy âm đó và đã phải chứng kiến quá nhiều khó khăn. Được biết, vài tàu lớp Tống đầu tiên chạy ồn hơn mong đợi, có thể đã sử dụng thông tin lấy được từ những hệ thống mà người Đức cung cấp. PLAN không có sự lựa chọn nào khác. Họ phải chung sống với các mẫu thiết kế tàu ngầm hiện tại của mình và điều đó có nghĩa là họ đạng ở trong một cái bẫy mà sẽ rất khó khăn và tốn kém nếu muốn thoát ra, trừ phi họ có thể xâm nhập các bí mật công nghệ của phương Tây vốn được bảo vệ cẩn trọng nhất. Chẳng cần nói thì cũng biết đây rõ ràng là một lợi thế giành chiến thắng trong chiến tranh. Ở bất kỳ cuộc chiến tranh tương lai nào, các tàu ngầm hạt nhân của Mỹ và tàu ngầm thông thường của đồng minh cũng đủ khả năng gây nên những tổn thất to lớn cho lực lượng tàu ngầm của PLAN ngoài biển khơi. Tàu ngầm Trung Quốc sẽ không thể phát hiện được các tàu ngầm đồng minh, khiến bờ biển Trung Quốc dễ dàng bị tấn công bởi các tên lửa phóng đi từ tàu ngầm và đặt hạm đội mặt nước của họ trước nguy cơ tổn thất cao. |
Thứ Hai, 5 tháng 3, 2012
>> Tàu ngầm Trung Quốc lọt top 8
Tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa đạn đạo Type-094 của Trung Quốc đã lọt vào top 8 tàu ngầm mạnh nhất thế giới do các chuyên gia quân sự Nga xếp hạng.
Hãng thông tấn vũ khí Nga Arms-expo vừa thực hiện bảng xếp hạng danh sách các loại vũ khí và thiết bị quân sự hiện đại nhất trên thế giới, trong đó, các chuyên gia quân sự Nga đã so sánh hiệu quả của các tàu ngầm hạng nặng mang tên lửa đạn đạo chiến lược của tất cả các cường quốc quân sự.
Sau khi đánh giá và xếp hạng, các loại tàu ngầm của Mỹ, Nga, Anh, Pháp, Trung Quốc và Ấn Độ đã lần lượt chiếm lĩnh các vị trí quan trọng. Trong danh sách 8 loại tàu ngầm hạt nhân mạnh nhất thế giới của 6 quốc gia, Mỹ vẫn là cường quốc số 1, trong khi đó, dù đứng ở vị trí số hai, nhưng Hải quân Nga lại có tới 3 đại diện tàu ngầm. Điều bất ngờ nhất, tàu ngầm hạt nhân lớp Tấn, Type-094 của Hải quân Trung Quốc đã được đánh giá khá cao và lọt vào vị trí số 7. Điểm xếp hạng các tàu ngầm SSBN do các chuyên gia Nga. Sức mạnh tấn công của tất cả các vũ khí trên tàu (số lượng đầu đạn, tầm bắn cực đại của tên lửa đạn đạo liên lục địa, độ chính xác tấn công mục tiêu). Cấu trúc, các chỉ số hoàn hảo khi hoạt động (lượng giãn nước, các thông số về kích thước, hiệu suất, độ bền) Độ tin cậy (thời gian thực hiện một loạt bắn tên lửa, thời gian giữa các loạt bắn liên tiếp, xác suất phóng thành công tên lửa, xác suất hỏng của hệ thống trên tàu). Hiệu suất hoạt động (tốc độ di chuyển trên mặt nước và dưới nước, mức độ tự động hóa khi vận hành và khả năng hoạt động dài ngày). Trước năm 1991, Ấn Độ tuy không tự chế tạo được tàu ngầm hạt nhân nhưng họ đã thuê của Liên Xô loại tàu ngầm tên lửa đa năng Project 670, riêng tàu ngầm hạt nhân chiến lược đầu tiên của họ, tàu INS Arihant vẫn đang trong quá trình hoàn thiện chế tạo. Vị trí của các tàu ngầm Kết quả trong danh sách các tàu ngầm hạt nhân tên lửa chiến lược mạnh nhất đã không có bất ngờ với sự chiếm lĩnh ngôi vị số một thuộc về loại tàu ngầm hạt nhân lớp Ohio của Hải quân Mỹ, đạt tổng số điểm 49,4. Sau Mỹ là Nga với 3 đại diện tàu ngầm là tàu ngầm lớp Dolphin thuộc Project 667BDRM (NATO gọi là tàu ngầm lớp Delta IV) với tổng điểm 47,7. Tàu ngầm Project 941, lớp Akula (định danh NATO là Typhoon) đạt 47,1 điểm và tàu ngầm Project 955 Borey đạt 41,7 điểm. Cả ba tàu ngầm này của Nga lần lượt xếp vị trí từ 2 đến 4. Xếp thứ năm là tàu ngầm lớp Vanguard của Anh với 35,9 điểm. Tàu ngầm lớp Le Triomphant của Pháp đứng thứ sáu (33,4 điểm). Đặc biệt, tàu ngầm Type-094 của Trung Quốc đã lọt vào vị trí thứ 7 với tổng 30,1 điểm, số điểm này của Type-094 bỏ xa tàu ngầm INS Arihant của Ấn Độ xếp thứ 8 (17,7 điểm). Ohio vẫn luôn được đánh giá là tàu ngầm hạt nhân số 1 thế giới. Tàu ngầm tấn công hạt nhân mang tên lửa chiến lược Ohio của Hải quân Mỹ luôn được xếp hạng cao nhất kể từ năm 2002 tới nay. Tàu ngầm lớp Ohio có thể di chuyển với tốc độ 17 hải lý/h khi di chuyển trên mặt nước và đạt tới tốc độ 25 hải lý/h, khả năng hoạt động hiệu quả ở độ sâu 365 m, và có thể tới mức độ giới hạn là 550 m. Tàu được biên chế 14 - 15 sỹ quan và 140 thủy thủ. Lượng giãn nước là 16.746 tấn khi nổi và 18.750 tấn khi chìm, chiều dài 170,7 m, rộng 12,8 m, và cao 11,1 m. Tàu ngầm Ohio được trang bị 1 lò phản ứng hạt nhân được làm nguội bằng nước nén General Electric GE PWR S8G với hai động cơ turbine hơi (tổng công suất 60.000 mã lực), 2 động cơ turbine (mỗi động cơ có công suất 4 MW), một động cơ diesel (công suất 1,4 MW), một động cơ chân vịt dự trữ (công suất 325 mã lực). Vũ khí chính bao gồm 4 ống phóng ngư lôi 533 mm và 24 tên lửa đạn đạo Trident IID5. Tàu ngầm xếp hạng 2, tàu ngầm hạt nhân chiến lược Project 667BDRM có tốc độ di chuyển khi nổi là 14 hải lý/h và khi lặn là 24 hải lý/h (thấp hơn so với Ohio), tàu có thể hoạt động ở độ sâu 400 m, và độ sâu giới hạn là 650 m, khả năng hoạt động liên tục trên biển trong thời gian 90 ngày, thủy thủ đoàn 140 người, lượng giãn nước khi nổi là 11.740 tấn, khi lặn 18.200 tấn, chiều dài 167,4 m, rộng 11,7 m và cao 8,8 m. Tàu ngầm hạt nhân Project 677BDRM của Hải quân Nga. Tàu ngầm Project 667BDRM được trang bị kết hợp 2 lò phản ứng hạt nhân ВМ-4СГ (VM-4SG) công suất 180 MW, 2 tua-bin công suất 60.000 mã lực, 2 tua-bin phát điện ТГ-300 (TG-300) công suất 3 MW, 2 động cơ Diesel công suất 460 kW. Vũ khí chính bao gồm 4 ống phóng ngư lôi 533 mm và 16 tên lửa đạn đạo R-29RM. Tàu ngầm hạt nhân lớp Tấn (Type-094) hiện vẫn đang là tàu ngầm hiện đại nhất trong biên chế của Hải quân Trung Quốc. Tàu có chiều dài 133 m, lượng choán nước khi nổi 8.000 tấn, khi lặn 9.000 tấn. Các đặc điểm khác vẫn chưa được công bố. Vũ khí tấn công chủ lực của tàu là 12 tên lửa đạn đạo liên lục địa phóng từ tàu ngầm JL-2 có tầm bắn tối đa từ 7.000 - 8.000 km cùng với 6 ống phóng ngư lôi 533 mm. |
Thứ Năm, 1 tháng 3, 2012
>> Bài học từ cuộc chiến Falklands
“Trung Quốc có thể dùng nhiều tên lửa hành trình, chiến thuật “tấn công bão hòa” để phá vỡ mạng lưới phòng thủ của tàu chiến Mỹ” – theo chuyên gia Mỹ. Ngày 21/2, trang mạng “Nhà ngoại giao” Nhật Bản đã đăng bài viết của James Holmes – phó giáo sư Học viện Chiến tranh Hải quân Mỹ cho biết, hiện nay Trung Quốc có thể rút ra bài học kinh nghiệm từ cuộc chiến tranh quần đảo Falkland (Argentina gọi là Malvinas), trong xung đột trên biển tương lai ở Thái Bình Dương, sử dụng rất nhiều tên lửa hành trình, dùng chiến thuật “tấn công bão hòa”, phá vỡ mạng lưới phòng thủ cùa tàu chiến Mỹ và có thể tiến hành đánh chặn giữa đường đối với tàu tiếp tế của quân Mỹ, ngăn chặn quân Mỹ tiếp viện cho Đài Loan hoặc khu vực bùng phát xung đột khác. Bài viết cho rằng, trong dịp tròn 30 năm Chiến tranh quần đảo Falkland, cựu Tham mưu trưởng Lục quân Anh Michael Jachson tuyên bố, do ảnh hưởng của cắt giảm ngân sách quốc phòng, nếu Argentina tiếp tục chiếm đóng đảo Falkland, Hải quân Anh “hầu như không thể” tiếp tục đoạt lại. Tàu sân bay HMS Queen Elizabeth của Anh trong tương lai, áp dụng phương án cất cánh kiểu nhảy cầu. Mọi người đều biết, năm 2011, tàu sân bay Ark Royal của Hải quân Anh đã về hưu, khiến cho khả năng điều động máy bay cánh cố định bị thiếu hụt, trước khi tàu sân bay HMS Queen Elizabeth đi vào hoạt động vào trước sau năm 2019, sẽ không có năng lực điều động này. Hơn nữa, London còn bán máy bay chiến đấu cất/hạ cánh thẳng đứng Harrier cho lực lượng lính thủy đánh bộ Mỹ, khiến cho trước khi trang bị máy bay tấn công liên hợp F-35 (trước sau năm 2019), Hải quân Anh sẽ không có lực lượng trên không có thể điều động. Bài báo cho biết, trong tình hình khả năng đoạt lại đảo Falkland của Anh giảm xuống, Argentina lại đang tăng cường đòi hỏi chủ quyền đối với quần đảo này, nó có thể không phải hoàn toàn trùng hợp. Argentina với sự suy thoái về kinh tế, rất khát khao khai thác tài nguyên thiên nhiên ở vùng biển và đáy biển khu vực xung quanh quần đảo Falkland. Gần đây một loạt phát hiện về dầu mỏ như mỏ dầu “Sư tử biển” cách đảo Falkland 80 km về phía bắc, ở nam Thái Bình Dương đã xảy ra một cuộc tranh luận về “cơn sốt vàng đen”. Tổng thống Argentina Cristina lên án Anh đã làm kiệt quệ tài nguyên thiên nhiên của Argentina và tuyên bố sẽ chiếm lại Falklands. Hạm đội quân Anh trong chiến tranh quần đảo Falkland có thực lực mạnh, nhưng tiếp tế kém. Đồng thời, sự suy yếu khả năng viễn chinh của Anh cũng làm cho số lượng các quan chức Anh có giữ thái độ lạc quan như chỉ huy quân Anh ở nam Thái Bình Dương để làm như Bill Aldridge liên tục giảm xuống. Những quan chức này cho rằng, vấn đề Anh có thể đoạt lại Falklands hay không không phải nói đến, hơn nữa Anh cơ bản không thể mất được Falklands. Aldridge từng nói: “Tôi cho rằng, Anh sẽ không để Falklands cho người khác, và do đó đặt chúng ta vào tình huống buộc phải chiếm lại nó”. Bài viết cho rằng, tranh chấp quần đảo Falkland giữa Anh và Argentina gần đây đã gây sự chú ý của các nước khác. Chắc chắn rằng, các nhà chiến lược Trung Quốc đang quan tâm chặt chẽ tới tình hình xảy ra ở nam Thái Bình Dương. Trung Quốc từng nghiên cứu kỹ lưỡng cuộc chiến tranh quần đảo Falkland năm 1982, phát hiện cả Anh và Argentina đều có rất nhiều chỗ để khen và chê, đồng thời từ đó rút ra được rất nhiều bài học kinh nghiệm. Điều này cho thấy, Bắc Kinh cho rằng, chiến tranh quần đảo Falkland có ý nghĩa định hướng cho chiến lược hiện đại của Trung Quốc. Tàu khu trục Sheffield của Anh bị tên lửa Exocet của Argentina bắn chìm trong chiến tranh quần đảo Falkland năm 1982. Nhìn vào bản đồ có thể phát hiện: một cường quốc biển phương Tây đã phát động một cuộc chiến tranh trong thời gian ngắn, đã chiếm được hòn đảo từ một nước tương đối yếu trong khu vực. Do bị ảnh hưởng bởi yếu tố địa lý, cường quốc ngoài khu vực này phải đi qua đại dương hàng nghìn dặm Anh, phát động các chiến dịch quân sự nhằm vào mục tiêu của họ, trong khi đối phương có các ưu thế về chiến trường, nhân lực vật lực đầy đủ và hiểu rõ môi trường xung quanh. Từ trong hoàn cảnh lúc đó và hiện nay của Anh, Trung Quốc rút ra được kinh nghiệm như thế nào về các phương diện chiến lược, chiến thuật và cơ cấu lực lượng? Đáp án này là: nếu các nước trong khu vực sẵn sàng hơn trả giá cho rủi ro chiến tranh, sử dụng đầy đủ ưu thế “sân nhà”, đồng thời có đầy đủ vũ khí chuyên dụng, thì các nước trong khu vực có thể chiến thắng cường quốc đến từ bên ngoài. Chẳng hạn, nhà bình luận Trung Quốc đã nhấn mạnh đến những biểu hiện của tên lửa hành trình chống hạm Exocet trong chiến tranh, được phóng từ máy bay chiến đấu phản lực Super Etendard của Argentina. Ý tưởng của dân mạng về tên lửa hành trình của Trung Quốc trong tương lai. Trong chiến tranh quần đảo Falkland, tên lửa hành trình chống hạm Exocet đã đánh chìm thành công tàu khu trục Sheffield của Anh, cho thấy các tên lửa lướt biển có thể tránh được hệ thống phòng không của tàu chiến hiện đại, gây ra tổn thất chí tử cho tàu nổi. Chiến tranh quần đảo Falkland phải chăng là nguồn cảm hứng cho Hải quân Trung Quốc đưa ra chiến thuật “tấn công bão hòa” có thể công phá mạng lưới phòng thủ của tàu chiến đối phương? Vấn đề này vẫn chưa biết được. Điều có khả năng hơn là, kết quả chiến đấu của tên lửa Exocet đã tiếp tục khẳng định quan điểm của các nhà chiến thuật Trung Quốc về sử dụng tên lửa hành trình trong các cuộc xung đột trên biển. Các nhà quan sát Trung Quốc cho rằng, nếu trước đây phi công Argentina có khả năng điều động nhiều hơn tên lửa Exocet, thì kết cục của chiến trường có thể sẽ khác rất nhiều. Tên lửa thế hệ mới hiện nay của Trung Quốc có tầm phóng xa. Bài báo viết, ngoài ra, cuộc chiến dưới nước trong chiến tranh quần đảo Falkland cũng không thể xem thường. Hai bên Anh và Argentina coi tàu ngầm là vũ khí tấn công hiệu quả, đưa vào chiến trường, nhưng đều có hiệu quả rất kém trong việc tìm kiếm và bắn chìm tàu chiến đối phương. Tuy nhiên, sau khi một chiếc tàu ngầm của Hải quân Anh nhanh chóng bắn chìm được tàu tuần dương ARA General Belgrano của Argentina, hạm đội tàu nổi của Argentina sau đó đã cố thủ ở khu vực an toàn. Do không thể phân biệt rõ tín hiệu giữa sona (máy định vị bằng sóng âm thanh) và địa từ, cho nên binh sĩ Anh đã phóng đạn chống tàu ngầm đối với tất cả các mục tiêu có tín hiệu hơi giống với tàu chiến của Argentina. Cách làm sai lầm này đã làm nảy sinh hiệu quả chiến lược tiêu cực: Khi đó đúng vào giai đoạn giữa của cuộc Chiến tranh Lạnh, Hải quân Anh gần như tiêu hao hết dự trữ vũ khí trang bị cho cuộc chiến tranh quần đảo Falkland. Là một thành viên trong hạm đội của NATO, Hải quân Anh có nhiệm vụ giám sát tàu chiến của Liên Xô ở vùng biển bắc Đại Tây Dương. Một khi tiêu hao hết dự trữ đạn dược chống tàu ngầm trong chiến tranh quần đảo Falkland, thì Hải quân Anh rất khó hoàn thành được nhiệm vụ này. Do đó, cho dù là lực lượng hải quân tiên tiến nhất trên thế giới, chiến tranh chống tàu ngầm cũng là một vấn đề nan giải. Tàu sân bay Mỹ nhận tiếp tế trên biển Đông. Bài viết cho rằng, trong các cuộc xung đột tương lai, lực lượng trên biển của Trung Quốc làm thế nào áp dụng bài học kinh nghiệm này? Các sĩ quan chỉ huy giỏi có thể lựa chọn vùng biển cách xa duyên hải châu Á để giao chiến, nửa đường đánh tan lực lượng tiếp viện của Hải quân Mỹ trên Thái Bình Dương. Argentina đã bỏ lỡ cơ hội, không nắm được tình hình chiến tranh trước khi lực lượng đặc nhiệm Anh đến khu vực giao chiến. Trung Quốc phải chăng giẫm lên vết xe đổ này là điều đáng nghi ngờ. Chẳng hạn, tấn công tàu tiếp tế hỗ trợ cho tàu sân bay và lực lượng đổ bộ Mỹ sẽ có thể dễ dàng ngăn chặn quân Mỹ tiếp viện cho Đài Loan hoặc khu vực xảy ra xung đột khác. Số lượng tàu tiếp tế ít đi, bố trí trang bị phòng thủ không nhiều, và thông thường cũng không có tàu hộ tống. Vì vậy, những tàu chiến này rất dễ trở thành mục tiêu tấn công của Trung Quốc. Sau khi loại bỏ được tàu chở dầu, tàu đông lạnh và tàu đạn dược, thực lực của hạm đội Mỹ sẽ dần dần bị thu nhỏ lại. Vì vậy, các nhà chiến lược Mỹ đang xem xét làm thế nào để vượt qua được phòng thủ “chống can dự” của Trung Quốc, đồng thời triển khai nghiên cứu những nhận xét của Trung Quốc về cuộc chiến tranh Falklands. |
Thứ Sáu, 25 tháng 11, 2011
>> Trung Quốc bí mật đóng thêm tàu ngầm Type-041
Các trang mạng Trung Quốc vừa đăng hình một chiếc tàu ngầm diesel-điện được cho thuộc lớp Yuan (Nguyên), đóng tại nhà máy Giang Nam và đang chuẩn bị được hạ thủy. Trang China - Defense vừa mới đăng hình ảnh về một tàu ngầm Type-041 lớp Nguyên được đóng tại nhà máy đóng tàu Giang Nam, Thượng Hải và chuẩn bị thử nghiệm. Trước đó, tàu ngầm Type-041 lớp Nguyên đầu tiên của Trung Quốc đã được hạ thủy vào năm 2004 ở nhà máy đóng tàu Vũ Hán. Như vậy, Trung Quốc đang có tới 2 nhà máy cùng đóng tàu lớp Nguyên. Ngoài ra, một số hình ảnh ghi lại được tại nhà máy đóng tàu Giang Nam trong tháng 7/2011 cũng đã chứng minh rằng nhà máy đóng tàu này đang đóng loại tàu ngầm Type-041 lớp Nguyên cho Hải quân Trung Quốc. Hình ảnh mới được đăng tải cho thấy 1 tàu ngầm Type-041 tại nhà máy đóng tàu Giang Nam đã hoàn thành và việc còn lại chỉ là hạ thủy. Việc huy động tới 2 nhà máy cùng đóng một loại tàu ngầm lớp cho thấy Trung Quốc đang muốn sớm sở hữu số lượng lớn các tàu ngầm hiện đại để tăng cường cho các hạm đội của mình. Hình ảnh của tàu ngầm Type-041 lớp Nguyên xuất hiện lần đầu tiên vào năm 2004 và sự xuất hiện này đã gây ra bất ngờ lớn đối với các nhà phân tích tình báo phương Tây, họ cho rằng, thiết kế của tàu ngầm lớp Nguyên cho thấy một sự pha trộn giữa thiết kế tàu ngầm Trung Quốc và tàu ngầm Nga. Các nguồn tin tình báo Mỹ thì miêu tả, tàu ngầm lớp Nguyên như là "một tàu ngầm Kilo đặc sắc của Trung Quốc hay một tàu ngầm lớp Tống (Type-039) với các đặc điểm của tàu ngầm Nga". Theo đó, tàu ngầm lớp Nguyên được cho là "hoạt động yên tĩnh" so với các tàu ngầm trước đó mà Trung Quốc từng sản xuất. 1 tàu ngầm đang được đóng tại nhà máy đóng tàu Giang Nam. 2 hình ảnh chụp từ tháng 7/2011 tại nhà máy đóng tàu Giang Nam cho thấy, nhà máy này đang đóng 1 tàu ngầm Type-041 lớp Nguyên. Theo tạp chí Jane' Defense, Trung Quốc từng sản xuất loạt tàu ngầm lớp Tống (Song) Type-039/039G nhưng ngừng đóng vào năm 2005 và chuyển sang sản xuất tàu Type-041 lớp Nguyên. Các chuyên gia quân sự Trung Quốc mới đây cũng đã tự tin tuyên bố rằng, tàu ngầm Type-041C lớp Nguyên của họ còn hiện đại hơn cả tàu ngầm lớp Lada của Nga. Trên thực tế, cấu hình khí động học của tàu ngầm lớp Nguyên rất giống với tàu ngầm lớp Lada của Nga. Điều này cho thấy người Trung Quốc vẫn “gặp khó khăn” trong việc tạo ra một mẫu thiết kế mang "màu sắc" Trung Quốc. Tàu ngầm lớp Nguyên cũng được cho là sử dụng hệ thống đẩy sử dụng không khí độc lập AIP, được phát triển bởi Viện 711, song chính giới quân sự nước này cũng chưa xác nhận thông tin trên. Đặc điểm của tàu ngầm Type-041 lớp Nguyên Tàu ngầm lớp Nguyên được trang bị 6 ống phóng ngư lôi 533 mm, ngoài ra còn có khả năng phóng các tên lửa chống hạm YJ-8X (C-80X). Các tên lửa này sử dụng hệ dẫn đường quán tính kết hợp với radar dẫn hướng chủ động ở giai đoạn cuối. Tên lửa mang theo đầu đạn nặng 165 kg và có tầm bắn tối đa 80 - 120 km với tốc độ bay dưới âm (Mach 0,9). Việc Trung Quốc bí mật đóng thêm tàu ngầm Type-041 ở nhà máy đóng tàu Giang Nam cho thấy nước này đang muốn tăng cường đóng số lượng lớn các tàu ngầm mới để cung cấp cho các Hạm đội. Tàu ngầm Type-041 cũng được cho là có khả năng bắn tên lửa chống ngầm CY-1 từ dưới nước, với tầm bắn tối đa là 18km. Tuy nhiên, thông tin về quá trình sản xuất của loại tên lửa này vẫn chưa được xác nhận. Liệu loại vũ khí này có được trang bị trên tàu ngầm lớp Nguyên hay không vẫn là một ẩn số. Tàu được trang bị hệ thống sonar TSM 2233 ELEDONE / DSUV-22 hoặc TSM 2255 / DUUX-5 của Thales, Pháp trong những năm 1980 và đầu những năm 1990. Tàu ngầm Type-041 cũng có thể sử dụng công nghệ của các hệ thống sóng siêu âm hiện đại Nga như MG-519 MOUSE Roar hay MGK-500 SHARK GILL thông qua việc mỗ xẻ và nghiên cứu các tàu ngầm Kilo mua từ Nga. Tàu ngầm lớp Nguyên cũng được cho là có thể được trang bị một radar tìm kiếm trên mặt nước và trên không. Tương tự hệ thống MRK-50 SNOOP TRAY được trang bị trên các tàu ngầm của Nga. |
Chủ Nhật, 13 tháng 11, 2011
>> Mỗi năm Trung Quốc triển khai thêm ít nhất 2 chiếc tàu ngầm
Trong 16 năm qua, hải quân Trung Quốc triển khai trên 2 tàu ngầm/năm, và đến nay sơ hữu trên 60 tàu ngầm tấn công và họ chưa dừng lại. Ngày 6/9, tạp chí “Nhà ngoại giao” Mỹ đăng bài viết cho rằng, do ngân sách chi phí quân sự của Mỹ đối mặt với khả năng cắt giảm, vì vậy điểm yếu về vũ khí của Mỹ trong tương lai ngày càng lớn, hơn nữa khoảng cách so với Trung Quốc cũng sẽ ngày càng là mối lo ngại. Bài viết đặc biệt nhấn mạnh, trong 16 năm qua, Trung Quốc bình quân mỗi năm triển khai hơn 2 tàu ngầm. Tàu ngầm hạt nhân 094 của hải quân Trung Quốc Cựu Thứ trưởng Ngoại giao Mỹ James Steinberg từng cho biết, thực lực quân sự và đòi hỏi chủ quyền không ngừng tăng lên của Trung Quốc ở biển Đông làm cho Washington và các đồng minh đã nghi ngờ về ý đồ của Trung Quốc. Trên thực tế, người chỉ ra điểm này không chỉ có một mình Steinberg. Các nhà lãnh đạo ngoại giao và quân sự Mỹ cũng từng bày tỏ sự lo ngại tương tự. Cựu Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Robert Gates đã từng bày tỏ sự lo ngại đối với sự phát triển sức mạnh quân sự của Trung Quốc. Ông nói, quân sự của Trung Quốc “rõ ràng có tiềm lực làm cho khả năng của chúng ta rơi vào nguy hiểm… Chúng ta cần phải có phản ứng thích hợp trong chương trình quân sự của chúng ta”. Tàu ngầm hạt nhân mới 095 của hải quân Trung Quốc Cuối tháng 6/2010, khi nói về quân sự Trung Quốc, Chủ tịch Hội đồng tham mưu trưởng liên quân Mỹ Mike Mullen nói: “Tính tò mò của tôi đã biến thành mối quan tâm thực sự”. Mạng tin quân sự của Trung Quốc viết rằng: "Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton cũng từng đề cập đến vấn đề này. Để đáp trả các hoạt động của Trung Quốc gây phiền phức cho tàu thuyền của Mỹ, Nhật Bản, Việt Nam và Philippinese, tại Hà Nội năm 2010, Hillary đã tuyên bố: Mỹ “có lợi ích quốc gia về tự do hàng hải, khai thông biển quốc tế ở châu Á và tôn trọng luật pháp quốc tế ở biển Đông"". Đây là sức ép bằng con đường ngoại giao của Mỹ để nói cho Trung Quốc biết rằng, Mỹ sẽ tiếp tục hoạt động tích cực ở biển Đông, kiên trì quản lý quốc tế, bảo đảm chắc chắn cho các đồng minh châu Á của Mỹ có khả năng đối phó với Trung Quốc. Trung Quốc triển khai trên 2 tàu ngầm/năm tại khu vực Đông Á và Đông Nam Á Tổ chức nghiên cứu 2049 U.S. Think Tank gần đây cho rằng, vấn đề lớn nhất được phóng viên kiêm nhà văn Traub đặt ra là: Làm theo đề nghị của Robert Gates và Hillary Clinton (tức là phản ứng bằng chương trình quân sự của Mỹ, bảo đảm tự do hàng hải và mở ra con đường giành lấy nguồn tài nguyên trên biển ở châu Á) sẽ phải trả giá đắt. Quả thực, những chi tiêu dốc sức cho an ninh quốc gia là rất đắt. Nhưng, lịch sử trước đây (trước sự kiện Trân Châu Cảng, trước chiến tranh Triều Tiên) cho thấy, khi đối mặt với mối đe dọa mới, sự yếu kém về quân sự sẽ phải trả giá cao hơn, bao gồm sinh mạng và tài sản. Cụ thể, hiện nay Mỹ có 284 tàu chiến, trong khi đó hải quân Mỹ cần 328 chiếc trong thời gian tới, nhưng Văn phòng Ngân sách Quốc hội cho biết mục tiêu này khó đạt được. Về tàu ngầm tấn công hạt nhân, hải quân Mỹ có sức ép lớn hơn, họ cần 48 tàu ngầm. Nhưng, nếu kế hoạch chế tạo tàu chiến 30 năm của hải quân Mỹ không có ngân sách đặc biệt, số lượng chế tạo tàu ngầm chắc chắn sẽ giảm mạnh. Trung Quốc hiện có hơn 60 tàu ngầm, nhưng họ không muốn dừng lại. Trong khi đó, Trung Quốc không ngừng mua tàu ngầm. Trong 16 năm qua, hàng năm hải quân Trung Quốc triển khai trên 2 chiếc tàu ngầm. Đến nay, hạm đội của họ có hơn 60 tàu ngầm tấn công và họ còn muốn có nhiều hơn. Hơn nữa, khác với việc Mỹ phân tán các hạm đội ở Đại Tây Dương, Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, tàu ngầm của Trung Quốc đều được triển khai ở Đông Á và Đông Nam Á. Đồng thời, theo đánh giá của không quân Mỹ, trong mấy năm tới, Mỹ sẽ thiếu đến 800 máy bay. Cùng thời gian, hải quân và thủy quân lục chiến của Mỹ cũng sẽ thiếu 200 máy bay chiến đấu. Trong khi đó, Trung Quốc không ngừng chế tạo máy bay chiến đấu, đặc biệt là đã cho bay thử máy bay chiến đấu tàng hình mới J-20. Mỹ đang đối mặt với cắt giảm mạnh chi tiêu quốc phòng, còn Trung Quốc không ngừng nghiên cứu phát triển vũ khí tiên tiến mới như máy bay tàng hình J-20, tên lửa diệt tàu sân bay Đông Phong-21D Bộ Quốc phòng Mỹ đã trình lên chính phủ Obama bản báo cáo về sự thiếu hụt vũ khí, trong khi đó Quốc hội lại có kế hoạch cắt giảm chi tiêu quốc phòng lên đến 1000 tỷ USD trong 10 năm tới. Sự cắt giảm mạnh này khiến cho các kế hoạch đầu tư hiện nay của Bộ Quốc phòng không thể thực hiện được. Nếu kế hoạch cắt giảm mới được thực hiện thì trong tương lai quân Mỹ sẽ rơi vào nguy hiểm trong tất cả các hệ thống (như máy bay ném bom mới. hệ thống không gian, thậm chí có thể ảnh hưởng đến tàu sân bay). Những người ủng hộ cắt giảm chi tiêu quốc phòng chưa bao giờ trả lời câu hỏi dưới đây: Kế hoạch của Mỹ và sự phân phối nguồn lực chiến lược không thỏa đáng, sẽ làm cho họ phải trả giá thế nào? Cam kết nào mà Mỹ không thể thực hiện được và sẽ làm thế nào? Đài Loan? Nhật Bản? vấn đề Biển Đông? Mỹ làm sao mới có thể cắt nhượng châu Á cho Trung Quốc? Mỹ có thể làm được điều này không trong tình hình không kích động chạy đua vũ khí hạt nhân? Là một quốc gia, nếu Mỹ phải được Trung Quốc cho phép mới có thể bước vào con đường thương mại của châu Á, thì Mỹ có thể phồn vinh, thịnh vượng được không? |
Thứ Năm, 15 tháng 9, 2011
>> Nghị sĩ Mỹ: TQ quyết cạnh tranh về sức mạnh quân sự với Mỹ
Trung Quốc không ngừng tăng cường sức mạnh hải quân, đầu tư vũ khí công nghệ cao, vươn ra đại dương, làm các tướng lĩnh hải quân Mỹ mất ngủ. Ngày 12/9, Chủ tịch Ủy ban Quân sự Hạ viện Mỹ Buck McKeon cho biết, Trung Quốc đang nỗ lực cạnh tranh sức mạnh quân sự với Mỹ, tấn công hệ thống máy tính của chính phủ Mỹ diễn ra hàng ngày. Khi phát biểu tại Viện nghiên cứu Doanh nghiệp Mỹ ở Washington, nghị sĩ Đảng Cộng hòa McKeon cho rằng: “Thực tế hiện nay là, Trung Quốc làm cho các tướng lĩnh hải quân của chúng ta "mất ngủ", không phải là không có nguyên nhân”. Tên lửa đạn đạo Đông Phong-21D tạo ra mối đe dọa cho tàu sân bay Mỹ ở khu vực Thái Bình Dương Ông nói: “Tôi muốn hòa bình, tôi cầu nguyện cho hòa bình, nhưng chúng ta phải thông minh để duy trì hòa bình”. Hiện nay, chính phủ Mỹ yêu cầu các bộ ngành đều phải thắt lưng buộc bụng, giảm chi tiêu. Nhưng, McKeon chủ trương quốc phòng Mỹ cần tránh tiếp tục cắt giảm chi tiêu. McKeon chỉ ra, Ủy ban Quân sự do ông lãnh đạo gần đây đã nhận được báo cáo của quân đội Mỹ. Báo cáo này cảnh báo rằng, sức mạnh hải quân của Trung Quốc không ngừng được tăng cường, đồng thời đầu tư cho vũ khí công nghệ cao, gia tăng khả năng vươn ra Thái Bình Dương và các khu vực khác. Trung Quốc tăng cường đầu tư cho vũ khí công nghệ cao như máy bay chiến đấu tàng hình J-20 AFP dẫn lời McKeon cho biết: “Báo cáo của Lầu Năm Góc đã mô tả là một nước đã ngang ngược làm liều do tăng trưởng về sức mạnh quân sự, bị choáng váng bởi sức mạnh kinh tế. Phía Trung Quốc xác nhận, do chúng ta hiện nay rơi vào khủng hoảng tài chính, họ đã có được một khâu đột phá”. Ông cũng nhấn mạnh: “Bắc Kinh lần đầu tiên tin rằng, họ có thể ngồi ngang hàng với Mỹ về quân sự. Trung Quốc đang chế tạo máy bay chiến đấu tàng hình và tàu ngầm. Quy mô hải quân của họ lớn hơn chúng ta. Họ điều tàu chiến đến lãnh hải của đồng minh chúng ta”. Tàu ngầm hạt nhân mới 095 của hải quân Trung Quốc Chủ tịch Ủy ban Quân sự Hạ viện McKeon còn nói: “Quân đội Trung Quốc hàng ngày đều tấn công hệ thống máy tính của chính phủ chúng ta, đe dọa các nước bạn bè của chúng ta ở ven bờ Thái Bình Dương”. “Bất kỳ nhà sử học thực sự nào cũng đều biết, việc phát triển sức mạnh quân sự quy mô lớn là diễu võ dương oai nói về vận mệnh dân tộc, sự kết hợp của chúng sẽ rất nguy hiểm”. Trong cuối tháng này, McKeon có kế hoạch dẫn đầu một đoàn đại biểu Hạ viện Mỹ sang thăm Trung Quốc, Đài Loan và Hàn Quốc. |
Thứ Hai, 15 tháng 8, 2011
>> Hồ sơ tàu ngầm Đông Bắc Á (kỳ 4)
Nhìn tổng thế ở Đông Á, thập kỷ vừa qua đã chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ của binh chủng tàu ngầm tiếp sau binh chủng tàu mặt nước.
>> Hồ sơ tàu ngầm Đông Bắc Á (kỳ 1) >> Hồ sơ tàu ngầm Đông Bắc Á (kỳ 2) >> Hồ sơ tàu ngầm Đông Bắc Á (kỳ 3) Tàu ngầm "khủng" Dmitry Donskoy của Hải quân Nga. Thực tế này đã tạo ra nhưng thay đổi về tương quan lực lượng trong khu vực và trên thế giới. Kỳ 4: Thay đổi về tương quan lực lượng Nền tảng của sức mạnh biển Trong 5 binh chủng của một quân chủng hải quân hiện đại: tàu mặt nước, tàu ngầm, không quân hải quân, hải quân đánh bộ, pháo tên lửa bờ biển thì tàu ngầm cùng tàu mặt nước hợp thành lực lượng tác chiến cơ bản của hải quân. Tàu ngầm được phân thành 2 lớp chính là lớp chiến lược có tên lửa đạn đạo mang đầu đạn hạt nhân hoặc thông thường, chạy bằng năng lượng hạt nhân (SSBN). Lớp chiến thuật có 2 loại: tàu ngầm động lực hạt nhân (SSN - Tàu ngầm hạt nhân, SSGN – Tàu ngầm hạt nhân có tên lửa hành trình) và tàu ngầm diesel (SSK). Đối với Nga, Mỹ, Pháp, Anh, SSBN là thành phần không thể thiếu trong “bộ ba vũ khí chiến lược”, cùng với tên lửa đạn đạo mang đầu đạn hạt nhân đặt trên mặt đất (trên xe, hầm), máy bay ném bom hạt nhân chiến lược. Trong đó, Nga kế thừa tư duy quân sự Liên Xô, lấy việc xây dựng lực lượng tàu ngầm tiến công làm chiến lược. Hiện Nga sở hữu 67 tàu ngầm gồm 15 SSBN và 52 tàu ngầm chiến thuật (24 SSN, 28 SSK). Tên lửa chiến lược trên SSBN có 253 quả, gồm 96 SS-N-18, 60 SS-N-20, 96 SS-N-23 và 1 SS-N-30. Mỗi tên lửa này mang nhiều đầu đạn. Tàu ngầm Dmitry Donskoy của Nga có lượng giãn nước 50.000 tấn mang 20 tên lửa Akula – Cá mập, mỗi tên lửa mang 10 đầu đạn hạt nhân. Khi đồng thời phóng đánh vào 200 mục tiêu lớn trên diện tích 7.000km2. Ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương, Hạm đội Thái Bình Dương của Nga có 24 tàu ngầm thì 4 chiếc là loại SBBN. Với chủ trương phát triển cụm chiến đấu tàu sân bay làm nòng cốt cho sức mạnh hải quân, Mỹ có tới 12 tàu sân bay nhưng không vì thế nước này quên phát triển tàu ngầm. Hiện Mỹ có 71 tàu ngầm, trong đó có 14 chiếc loại SSBN và 57 tàu ngầm chiến thuật (4 chiếc SSGN, 53 chiếc SSN). Dù tàu ngầm có lượng giãn nước lớn nhất của Mỹ là Ohio 18.700 tấn nhưng tổng số tên lửa đạn đạo xuyên lục địa phóng từ tàu ngầm SSBN của Mỹ gấp đôi Nga (432 tên lửa), gồm 240 UGM-133A Trident-5, 192 UGM-93A Trident C-4 với 3.616 đầu đạn hạt nhân. Ngoài Nga, Mỹ các cường quốc quân sự khác như Đức, Pháp, Anh đều xây dựng và phát triển tàu ngầm hiện đại, hùng mạnh. Vai trò của tàu ngầm đối với sức mạnh trên biển của các quốc gia này nếu không phải là “xương sống” cũng làm “nền tảng”, vừa là đội tiên phong, vừa là lực lượng phòng thủ, đảm bảo cho các lực lượng hải quân khác (cụm chiến đấu tàu sân bay) an tâm tung hoành. Cuộc đua trên đường đua dưới mặt biển khiến các đại gia này tiêu tốn nhiều tiến của nhưng cũng thu được nhiều kiến thức và kinh nghiệm quý báu về tàu ngầm. Cũng nhờ vậy mà họ đang làm giàu bằng việc xuất khẩu và chuyển giao công nghệ tàu ngầm cho các nước khác, bởi vai trò của phương tiện này trong tổng thể sức mạnh biển không hề khác nhau với các quốc gia hàng hải dù lớn hay nhỏ. Minh họa hoạt động phóng tên lửa chiến lược từ tàu ngầm USS Ohio. Nhận được sự “dìu dắt” của các nước lớn qua nhiều giai đoạn và hình thức hợp tác, khu vực Đông Bắc Á và rộng hơn với Australia, Ấn Độ, đang phát triển và sẽ tăng số lượng lẫn chất lượng tàu ngầm thời gian tới theo cả 2 xu hướng thông thường và hạt nhân. Trừ Nhật bị ràng buộc bởi hiến pháp hòa bình (không được phát triển vũ khí hạt nhân), sẽ hiện đại hóa SSK hiện có cùng như các căn cứ tàu ngầm Kure và Yokosuka trên đảo Honsu. Các nước khác đều bắt tay xây dựng và hoàn thiện lực lượng tàu ngầm hạt nhân (gồm SSN và SBBN). Trung Quốc, bên cạnh việc phát triển tàu SSK loại Tống, Nguyên, Kilo để loại bỏ các tàu lớp Romeo, Minh sẽ phát triển SSN lớp Hán, Thương và thử nghiệm loại SSBN Hạ, Tấn, Đường... Lực lượng SSK và SSN của Trung Quốc ngoài tác chiến độc lập sẽ hiệp đồng trong cụm chiến đấu tàu sân bay đang hình thành. Trung Quốc cũng sẽ nâng cấp hệ thống vũ khí trên tàu ngầm, đặc biệt là tên lửa và tên lửa mang đầu đạn hạt nhân nhằm đánh nhiều mục tiêu. Hàn Quốc chậm hơn một chút, mới có hơn một chục chiếc SSK, đang hoàn thiện kế hoạch đóng SSN trong tương lai. Australia vốn có 6 chiếc SSK sẽ chi 35 tỷ USD đóng 12 tàu ngầm mới. Nhiều khả năng, loại đóng mới này là SSGN. Dự kiến, đến năm 2020, chiếc đầu tiên loại trang bị tên lửa Tomahawk làm cả nhiệm vụ tự phòng lẫn răn đe trên biển lớn. Ấn Độ ngoài việc hạ thủy thêm 1 tàu sân bay (hiện có 1) sẽ phát triển mạnh mẽ tên lửa trên tàu ngầm để có SSGN. Điểm đáng chú ý, Australia có căn cứ Strirling tiếp giáp Biển Đông và Ấn Độ có căn cứ Colkata đều là những “cánh cửa” hướng tới Đông Nam Á. Ngoại trừ Lào và chưa tính Đông Timor, 9 quốc gia còn lại ở Đông Nam Á đều có biển nên yêu cầu phát triển hải quân là tất yếu, trong đó có tàu ngầm. Tàu ngầm hiện có hoặc sắp có trong khu vực thuộc loại cỡ vừa, lượng giãn nước trên 1.000 tấn đến 2.000 tấn, lớn nhất là Kilo 4.000 tấn. Các tàu này được trang bị tương đối hiện đại đến hiện đại, ngoài ngư lôi, thủy lôi, có tên lửa tầm bắn 50km như SM-39 Exocet (ở tàu ngầm Scorpene) hay Club-S tầm bắn 220km (trang bị cho tàu ngầm Kilo). Tuy nhiên, vấn đề lớn mà các quốc gia này phải đối mặt không phải ở các thông số kỹ thuật hay mức độ hiện đại mà là làm thế nào sớm làm chủ công nghệ, bắt phương tiện phục vụ cho chiến thuật của mình. Điều này không phải cứ có tiền là mua được. Như vậy, tổng thể ở Đông Á, thập kỷ này có sự phát triển mạnh mẽ binh chủng tàu ngầm tiếp sau sự phát triển của binh chủng tàu mặt nước, hải quân các nước có lực lượng đa dạng hơn. Có thể coi đây là giai đoạn thứ 2 về sự phát triển tàu ngầm của toàn khu vực. Giai đoạn này làm cho hoạt động ngầm dưới nước ở biển Đông Bắc Á vốn đã sôi động nhất thế giới nay có sự “tấp nập” ở vùng biển Đông Nam Á. Tag: Hải quân các nước trên thế giới Thống kê tàu ngầm một số nước trên thế giới Anh có 12 tàu ngầm: 4 SSBN, 6 SSN; Pháp có 11 tàu ngầm: 5 SSBN, 6 SSN. Trong đó 5 SSBN mang 64 tên lửa SLBM với 384 đầu đạn hạt nhân; Đức có 12 SSK: 8 Type 206A, 4 Type 212A; Ấn Độ có 16 SSK (2 Vela, 4 Shishumar, 10 Shindhugos dạng Kilo) đang thử nghiệm tên lửa tầm 300km bắn từ tàu ngầm; Iran có 10 SSK: 3 loại 877EKM Kilo, 4SSC Ghadir và 3 SDV Al Sabehat (tàu ngầm mini); Israel có 3 SSK loại Dolphin; |
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)
Chuyên mục Quân Sự
Hải quân Trung Quốc
(263)
Hải quân Mỹ
(174)
Hải quân Việt Nam
(171)
Hải quân Nga
(113)
Không quân Mỹ
(94)
Phân tích quân sự
(91)
Không quân Nga
(83)
Hải quân Ấn Độ
(54)
Không quân Trung Quốc
(53)
Xung đột biển Đông
(50)
Không quân Việt Nam
(44)
tàu ngầm
(42)
Hải quân Nhật
(33)
Không quân Ấn Độ
(16)
Tàu ngầm hạt nhân
(15)
Hải quân Singapore
(12)
Xung đột Iran - Israel
(12)
Không quân Đài Loan
(9)
Siêu tên lửa
(8)
Quy tắc ứng xử ở Biển Đông
(7)
Tranh chấp biển Đông
(7)
Xung đột Trung - Mỹ
(4)
Xung đột Việt-Trung
(2)