Hiện nay, tất cả các tên lửa S-300 của Việt Nam đều có tốc độ Mach 8.5 và có thể tiêu diệt gọn gàng Su-30MKK của Trung Quốc. >> Bàn về sức mạnh của hệ thống tên lửa phòng không S-300PMU-1 Việt Nam (P1) Gần đây, giới quân sự thế giới cho rằng đang có một cuộc chiến âm thầm bên trong các quốc gia Đông Nam Á, đặc biệt là các quốc gia có đường biên giới biển chung với Trung Quốc. Nhưng ở Việt Nam, những con người nhỏ bé và yêu hòa binh họ không hề “chạy đua” vũ trang mà chỉ dùng nó làm biện pháp răn đe "người anh em" xấu tính của mình mà thôi. S-300 vào vị trí sẵn sàng tác chiến. Hiện nay, S-300 được sử dụng khá nhiều tại các nước đồng minh của Liên bang Xô Viết cũ, bên cạnh đó là những đồng minh chiến lược của Nga trong thế kỷ XXI như Việt Nam, Ấn Độ, Algeria và còn có cả… Trung Quốc. Nga bán khá nhiều vũ khí cho Trung Quốc chỉ vì cuối thế kỷ XX, tình hình của Nga rơi và khủng hoảng nghiêm trọng nên họ bắt buộc phải bán cho Trung Quốc để bù các khoản thâm hụt tài chính. Trên thực tế, người Nga chẳng ưa gì Trung Quốc, nhất là khi họ đã gây ra cuộc chiến biên giới với Liên bang Xô Viết năm 1969. Trung Quốc mua khá nhiều các phiên bản S-300PMU-1 và S-300PMU-2, sau đó còn mua luôn cả giấy phép sản xuất tổ hợp phòng không này và đổi tên lại thành Hongqi-10 (Hồng Kỳ– HQ-10). Họ liên tục khoe khoang rằng HQ-10 và biến thể HQ-18 vượt trội hơn S-300 của Lực lượng phòng không Liên bang Nga. Thế nhưng, thực chất là tất cả hệ thống radar và thiết bị cảnh báo sớm đều được Trung Quốc sao chép copy lại từ S-300 mà thôi. Ngoài ra, còn một điểm thiếu hụt rất lớn cho Hồng Kỳ của Trung Quốc là hệ thống radar Tomb Stone mới, mà chỉ có Việt Nam, Ấn Độ và một vài quốc gia khác có mà thôi. Xe quân dụng chở hệ thống radar 64N6 BIG BIRD. Gần đây, Việt Nam cũng đã mua về 2 tiểu đoàn S-300PMU-1 với 12 phương tiện phóng và các xe chở đầu đạn, xe hậu cần. Thương vụ này tốn khoảng 300 triệu USD. Có rất nhiều tranh cãi về tổ hợp được bán cho Việt Nam bởi một số thành phần điện tử mới rất tinh vi và hiện đại, vượt trội hơn S-300PMU-1 của Trung Quốc rất nhiều. Các quan chức Bộ quốc phòng Trung Quốc vô cùng thèm muốn hệ thống này nhưng câu trả lời của công ty Almaz vẫn là “Không”. Trong năm 2011, Việt Nam đã đề nghị mua thêm tổ hợp S-400. Hiện nay, S-400 được gọi là “bất khả chiến bại”, với khả năng phát hiện các mối đe dọa từ 400 km và có thể tiêu diệt bất kỳ mục tiêu nào ở độ cao 40 và 50 km. Điều này đồng nghĩa với việc các máy bay do thám như U2 và “Black bird” nếu được sử dụng thì cũng trở thành miếng mồi cho S-400. Thương vụ S-400 của Việt Nam và Nga diễn ra khá suôn sẻ, nếu không có thay đổi gì nhiều 2 bên sẽ tiến hành hợp đồng này vào 2014. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng muốn có thêm S-300PMU-2 với những loại tên lửa mới, có khả năng đánh chặn tên lửa đạn đạo tốt hơn nhiều S-300PMU-1. Radar 64N6E BIG BIRD giăng bẫy những kẻ xâm phạm không phận Việt Nam. Được đánh giá là hệ thống phòng không mạnh nhất hiện nay nhưng S-300 chưa một lần xuất trận. Trái ngược hoàn toàn với người đồng cấp Patriot của Hoa Kỳ. Thế nhưng, theo nhận định từ các chiến lược gia quân sự thì S-300 là kẻ “bất khả chiến bại” trong tất cả các hệ thống SAM (Surface to Air Missile) đa năng hiện nay. Vào tháng 4-2005, NATO đã tổ chức tập trận SEAD nhằm đánh giá đúng khả năng của các loại tiêm kích và máy bay cảnh báo sớm của họ, cũng như khả năng đánh chặn của các hệ thống SAM đến từ Hoa Kỳ và Châu Âu. Điều đáng ngạc nhiên là Slovakia đã mang theo hệ thống S-300 của mình được thừa hưởng từ Tiệp Khắc dù nó khá cũ và được sản xuất từ những năm 1980. Thế nhưng, trong tất cả các phi vụ tập trận tại Đức và Pháp thì tất cả các loại tiêm kích từ F-3 “Tornado” đến Dassault Rafale hay Euro Typhoon đều bị nó tóm gọn và không thể trốn tránh được hệ thống này. Một tổ hợp gồm xe chở ống phóng và xe chở radar 64N6 BIG BIRD cơ bản Trước đó, Iran cũng đã mua về khá nhiều tổ hợp S-300PMU-1 với hơn 300 tên lửa từ Belarus. Về sau, Iran mua thêm 1 số tổ hợp khác từ S-300PMU-2. Các nhà lãnh đạo Iran luôn lo sợ về cuộc không kích nhằm vào Tehran và những tổ hợp S-300 đã khiến cho Israel, cũng như Hoa Kỳ mất ăn mất ngủ về những tính năng siêu vượt của nó. Như đã nói, hệ thống radar mới của S-300 là Tomb Stone có thể bắt gọn bất kì chiếc tiêm kích tàng hình nào với công nghệ radar quét pha bị động. Gần đây nhất là rộ tin đồn Nga bán S-300PMU-1/2 cho cả Sirya khiến cho các quan chức quân sự NATO lại thêm một lần nữa mất ăn mất ngủ. Hoa Kỳ đang cáo buộc Syria sử dụng vũ khí hóa học để đàn áp các cuộc biểu tình và phe chống đôi tại Syria nhưng nếu Syria nắm được S-300PMU1/2 thì một cuộc tấn công chớp nhoáng vào Syria của Liên quân Liên hợp quốc sẽ là một cuộc tấn công tự sát trước S-300 hiện đại. Hệ thống dẫn đường trên S-300 có tên 30N6 FLAP LID sử dụng trên bộ, trên các phương tiện phóng hải quân là 3R41 Volna (TOP DOME), sử dụng hệ thống dẫn đường điều khiển với các radar dẫn đường bán chủ động trong giai đoạn cuối. Các phiên bản mới nhất sử dụng 30N6 FLAP LID B hay TOMB STONE dẫn đường cho các tên lửa qua hệ thống điều khiển mặt đất chỉ huy dẫn đường và hệ thống tìm kiếm mục tiêu hỗ trợ (SAAG). Xe hậu cần lo công tác lắp đặt ống phóng và tên lửa. Hệ thống radar FLAP LID cũ trước đây. SAAG là một hệ thống dẫn đường gần giống như thiết bị TVM của Patriot thế nhưng nó lại thể hiện sự vượt trội hơn rất nhiều so với Patriot. Các phiên bản 30N6 FLAP LID A được bán cho Trung Quốc là loại có thể dẫn đường cùng lúc 4 tên lửa và tấn công 4 mục tiêu. Thế nhưng, phía S-300 Việt Nam mua lại được trang bị 30N6 FLAP LID B, có thể dẫn đường cùng lúc cho 12 tên lửa và tấn công 12 mục tiêu. Lại một điểm trừ cho hệ thống của Trung Quốc. Hiện nay, tất cả các tên lửa S-300 của Việt Nam đều có tốc độ Mach 8.5 và có thể tiêu diệt gọn gàng Su-30MKK của Trung Quốc. Trong khi Su30MKK bay với vận tốc Mach 2.0 thì các tên lửa đã áp sát và hạ gục 1 cách nhanh chóng. Các tên lửa của S-300PMU-1 của Việt Nam mua về thuộc vào các loại 5V55KD, 5V55RM, 9M96E1/2 và 48N6E2, tất cả đều có vận tốc bay kinh hoàng là 1.700m/s, thậm chí 48N6E2 đạt tốc độ 2000m/s. Với vận tốc như thế này thì khó có một mục tiêu nào có thể bỏ chạy được như "chim két" SR-71 Black Bird của Mỹ trước kia. Đầu não và là trung tâm xử lý của S-300. Đầu đạn phiên bản 48N6E2 nặng đến 100kg, các đầu đạn khác có trọng lượng từ 133kg đến 143kg, tùy thuộc vào mục đích đánh chặn máy bay hoặc đánh chặn tên lửa đạn đạo. Tất cả cá loại tên lửa đều được trang bị kíp nổ tiếp cận và kíp nổ tiếp xúc, tức là nó có thể nổ ngay khi và chạm với mục tiêu hoặc nổ khi cách mục tiêu một khoảng cách rất nhỏ chỉ chừng vài cm. Điều này giúp giảm thiểu tối đa khả năng bắn trượt mục tiêu và có thể khiến mục tiêu bị đổi hướng (với tên lửa đạn đạo) hoặc khiến mục tiêu bị hư hại khá nhiều hệ thống máy móc (với máy bay tiêm kích). Các tên lửa khi nạp vào ống phóng sẽ được giữ ở trạng thái ổn định và phương thẳng đứng. Sau đó các tên lửa được hệ thống đẩy của ống phỏng đẩy ra bên ngoài, các động cơ sử dụng nhiêu liệu rắn của tên lửa lúc này lập tức được kích hoạt và vận tốc tăng tốc của nó có thể đạt tới 100G nghĩa là 1km/s2, một vận tốc kinh hoàng với bất kì mục tiêu nào bị nó tóm. Một điểm mạnh của hệ thống phóng là không cần ngắm trước khi khai hỏa, các tên lửa được điều khiển hướng bằn cánh đuôi và bộ phun khí chỉnh hướng, tương tự như công việc đi bộ ngoài không gian của các phi hành gia sử dụng một bộ phun khí nén áp suất cao để đẩy mình đi. Trong giai đoạn bay cuối, hệ thống dẫn đường và radar sẽ cung cấp các thông số kĩ thuật và thông số của mục tiêu và dẫn đường 1 cách chính xác để nó tấn công hạ gục mục tiêu. TIN SHIELD, sự bổ sung hoàn hảo cho BIG BIRD. Radar cũng là một thiết bị khá tối tân hiện đại của S-300, nó có những tính năng ưu việt hơn nhiều so với hệ thống dẫn đường và radar TVM của phía Hoa Kỳ và NATO. Ở các phiên bản gốc, nó sử dụng một tổ hợp radar thu và phát sóng doppler liên tục loại 76N6 CLAM SHELL để thám sát mục tiêu và sao đó truyền các thông tin đến radar thám sát trên không và tiếp chiến mạng sử dụng số qua băng tần I/J30N6 FLAP LID A. Cả 2 thiết bị này đều nằm trên các xe tải và được kết nối trực tiếp với nhau, thời gian để triển khai là 2 phút. Bên cạnh đó, các phiên bản mới bítcòn có một trung tâm điều khiển và chỉ huy hai hệ thống radar thám sát và radar dẫn đường, và cuối cùng là được kết nối đến xe phóng chở các bệ phóng. Hiện nay, các phiên bản mới nhất đều sử dụng loại radar băng tầm E/F 64N6 BIG BIRD, bổ sung rất nhiều thiếu sót từ các phiên bản cũ cho hệ thống S-300. Đây là một hệ thống có thể phát hiện ra các tên lửa đạn đạo ở cách xa 1.000km và bay tới tốc độ 10.000km/h, nghĩa là một thiết bị radar BIG BIRD đặt tại miền Bắc của Việt Nam có thể phát hiện ra được 1 tên lửa đạn đạo được phóng đi từ quân khu Chengdu của Trung Quốc và ngay khi nó bay qua không phận của Việt Nam, các tên lửa đánh chặn tên lửa đạn đạo loại 9M96E1/2 sẽ bay đi và tấn công tiêu diệt ngay lập tức. Bên cạnh đó, nó cũng có thể phát hiện các tên lửa hành trình ở khoảng cách 300 km. Hệ thống BIG BIRD sử dụng chùm tia điện tử lái và thực hiện việc quét mỗi pha là 24 giây và mỗi vòng bán kính của nó là 12 giây. Hiện nay còn có thêm một lựa chọn khác thay thế cho radar FLAP LID là 36D6 TIN SHIELD , có thể giúp thám sát được các mục tiêu sớm hơn nhiều so với loại FLAP LID. Theo các chuyên gia từ Almaz – Antey thì TIN SHIELD sẽ là sự hỗ trợ mạnh mẽ cho BIG BIRD làm nên 1 hệ thống phòng thủ là nỗi kinh hoàng trước bất kỳ kẻ thù nào. |
Hiển thị các bài đăng có nhãn Hệ thống S-300PMU-2. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Hệ thống S-300PMU-2. Hiển thị tất cả bài đăng
Chủ Nhật, 23 tháng 6, 2013
>> Bàn về sức mạnh của hệ thống tên lửa phòng không S-300PMU-1 Việt Nam (P2)
Chủ Nhật, 16 tháng 6, 2013
>> Bàn về sức mạnh của hệ thống tên lửa phòng không S-300PMU-1 Việt Nam (P1)
S-300PMU-1 của Việt Nam có thể khiến phi đội gồm 150 máy bay của Không quân Trung Quốc phải 'rụng cánh' bên ngoài lãnh hải Việt Nam trước khi đặt chân vào lãnh thổ trên đất liền của nước ta. >> 'Rồng lửa' giữ trời Việt Nam >> Việt Nam có thể mua S-400 của Nga Trong những năm gần đây, Việt Nam liên tục phải đối đầu với “người hàng xóm” xấu tính Trung Quốc và đỉnh điểm là tuyên bố “Đường lưỡi bò” của Chính phủ nước này. Thêm vào đó, máy bay tiêm kích hiện đại như Sukhoi Su-30MKK của Không quân Nhân dân Trung Hoa (PLAAF) liên tục có những động thái khiêu khích. Để đáp lại, Việt Nam tích cực mua sắm các trang thiết bị quốc phòng mới và đặc biệt là tổ hợp phòng không S-300PMU-1 do Liên bang Nga nghiên cứu và sản xuất. S-300PMU-1 khai hỏa tên lửa đánh chặn tầm xa 9M96E2. S-300 là series các loại tên lửa đánh chặn và tên lửa đất đối không tầm xa và cực xa của Nga. Dự án S-300 được Tập đoàn công nghiệp quốc phòng Almaz nghiên cứu và sản xuất từ những năm 1978. Đứa con đầu tiên của hệ thống này là S-300P được sản xuất từ năm 1978. Sau đó, hệ thống S-300 được phát triển mạnh mẽ để chống máy bay và cả tên lửa hành trình cho Lực lượng phòng không Liên bang Xô Viết. S-300PMU-1trong trạng thái sẵn sàng khai hỏa tiêu diệt mục tiêu. Hiện nay với những biến thể mới nhất, S-300 còn có các phiên bản đánh chặn cả tên lửa đạn đạo chiến thuật. So với hệ thống radar 64N6E, SPY-1 Aegis chỉ là... "đồ trẻ con". Năm 1979, lần đầu tiên S-300 được đưa vào sử dụng trong các sư đoàn phòng không của Liên bang Xô Viết nhằm phòng thủ các vị trí xung quanh Moskva, Leningrad (nay là Sankt-Petersburg) và khu vực bán đảo Kamchatka để đề phòng trước những chiếc tiêm kích của người Mỹ. Bên cạnh đó, hệ thống S-300 đầu tiên còn phòng thủ được trước cả tên lửa hành trình Tomahawk của Hoa Kỳ. S-300 được tập đoàn Almaz thuộc chính phủ Xô Viết nghiên cứu và sản xuất ra hàng loạt các phiên bản khác nhau. Hiện nay, tập đoàn này có tên là Almaz-Antey sau thương vụ sáp nhập 2 tập đoàn quốc phòng danh giá của Liên bang Nga. S-300 là một trong những tổ hợp đầu tiên có khả năng phát hiện và tiêu diệt được máy bay sử dụng công nghệ Stealth (tàng hình). S-300 được xem như là hệ thống phòng thủ hoàn thiện nhất, tối tân và hiện đại nhất trên thế giới. Ngoài ra, phía Hoa Kỳ còn có 1 đối thủ khác của S-300 là hệ thống MIM-104 “Patriot”. Tuy nhiên, Pariot lại không được đánh giá cao như S-300 bởi các thông số kỹ thuật và hiệu quả thua kém rất nhiều so với người đồng cấp đến từ Nga. Theo các thông tin mới nhất thì hiện nay Hệ thống Radar tích hợp Tomb Stone có khả năng theo dõi đến 300 mục tiêu và theo dõi chặt chẽ 100 mục tiêu nguy hiểm nhất đối với nó. Hiện nay, hệ thống S-300PMU-1 mà Việt Nam đang sở hữu là loại tối tân hiện đại nhất của Nga. Theo giới chuyên môn, PMU-1 của Việt Nam chẳng khác nào anh em với phiên bản chỉ được dùng cho Lực lượng phòng không Liên bang Nga, với những tính năng đến mức mà người Trung Quốc còn phài thèm thuồng. Hệ thống dẫn đường và radar 64N6E “Big Bird” của S-300PMU-1. Su-300PMU-1 của Việt Nam có khả năng đánh dấu và theo dõi cùng lúc đến 350 mục tiêu và theo dõi chặt chẽ sát sao đến 150 mục tiêu có khả năng tấn công nguy hiểm nhất. Như vậy thì dù một phi đội cấp độ chiến dịch của PLAAF tấn công với khoảng 150 máy bay thì tất cả sẽ đều rụng cánh bên ngoài lãnh hải của Việt Nam trước khi đặt được chân vào đến lãnh thổ nước ta. Chủ tịch của Sukhoi từng phải công nhận rằng: “Nếu Việt Nam có đủ tiền để mua sắm những gì mà Nga ưu ái trang bị, Việt Nam sẽ trở thành một cường quốc quân sự ở biển Đông mà đến người Trung Quốc cũng sẽ phải nể sợ, bởi tinh hoa nghệ thuật chiến tranh của họ kết hợp với những vũ khí hiện đại nhất thế giới đến từ Nga”. 64N6E "Big Bird" làm việc trên thực địa. Nó có thể tóm đến 300 mục tiêu và theo sát 100 mục tiêu cùng lúc. Thời gian triển khai hệ thống của S-300 là 5 phút, với hệ thống Su-300PMU-1 thì thấp hơn 1 chút. Nó được tối ưu hóa để sử dụng trong Quân đội Việt Nam với những thay đổi trong hệ thống tác chiến trên biển tầm xa. Ngoài ra, các ống phóng tên lửa của S-300 có độ bền rất cao, thời gian sử dụng là 500 quả tên lửa cho một lần bảo dưỡng, gấp đôi so với Pariot. Hiện nay, hệ thống radar quét pha bị động mới hoạt động với nguyên tắc cực kì thông minh của Ukraine là Kolchuga mà Việt Nam mới nhập khẩu, kết hợp với hệ thống radar Tomb Stone, nó sẽ bắt gọn cả máy bay tiêm kích tàng hình. Theo như nhận định của Tư lệnh Không lực Hoa Kỳ (USAF) trong một cuộc họp đã chỉ ra rằng: “Gần đây Kolchuga nổi lên như một thế lực săn các máy bay tiêm kích tàng hình. Trong khi đó Tomb Stone lại được Almaz cho ra đời. Nếu quốc gia nào sở hữu 2 loại radar này thì đừng nói là F-35 “Lightning II” ngay đến cả F-22 “Raptor” cũng chẳng thể thoát được” Hệ thống Tomb Stone 30N6, "mắt thần" của S-300PMU1. Nhìn chung, Việt Nam được khá nhiều ưu ái khi mua S-300PMU1 mà có cả hệ thống Tomb Stone, trong khi các phiên bản bán cho người hàng xóm Trung Quốc thì không có. Các loại đầu đạn mà S-300 PMU-1 có thể sử dụng. S-300 PMU1 (tiếng Nga: C-300ПМУ-1, và được NATO định danh là SA-20 “Gargoyle”) được giới thiệu lần đầu vào năm 1992, sử dụng các tên lửa 48N6, đây là loại tên lửa lớn hơn cả loại tên lửa sử dụng trong phiên bản đầu tiên S-300P và phiên bản S-300V (SA-12). S-300PMU-1 đóng vai trò là chốt chặn trên biển trước các mối đe dọa đến từ ngoài khơi. Ngoài ra, nó được nâng cấp khá nhiều từ tốc độ triển khai hệ thống, tốc độ tên lửa, tầm hoạt động, hệ thống dẫn đường mới nhất TVM và một điểm mới nhất và cũng là điểm cộng sáng giá cho nó là Khả năng đánh chặn tên lửa đạn đạo cấp chiến thuật và cấp chiến dịch (ABM). Nhìn chung, với những khả năng mới hiện đại như vậy thì khó có một kẻ đich nào tấn công được phạm vi nó bảo vệ, bởi nó có thể theo sát bất kỳ mối đe dọa nào trên không. Trọng lượng đầu đạn là 143kg, sử dụng nhiên liệu rắn, do đó, rất dễ dàng trong công tác bảo trì hệ thống và cả tên lửa. Sau đó, vào năm 1999, một phiên bản nâng cấp khác của S-300PMU-1 lại được cho ra mắt và có thể sử dụng được nhiều loại tên lửa trong cùng một ống phóng. Đây là một trong những nâng cấp khá hay từ Almaz vì trên thực tế nếu có thể sử dụng được nhiều đầu đạn cùng một ống phóng thì sẽ phát huy tác dụng tốt hơn trong tính cơ động và thời gian tác chiến. Đầu đạn chuẩn 48N6E2 của S-300PMU-1. Tên lửa 9M96E1 và 9M96E2 mới của S-300PMU-1. Loại ống phóng này sử dụng được tất cả là 5 loại đầu đạn mới và đủ kích cỡ: 5V55R, 48N6E (loại đầu đạn chuẩn), 48N6E2 và 2 loại mới được bổ sung là 9M96E1, 9M96E2 sử dụng trong các nhiệm vụ tác chiến chống tên lửa đạn đạo cỡ lớn. Tuy nhiên, trong cả 4 ống phóng thì luôn được nạp sẵn 2 loại chính là 48N6E và 48N6E2, ngoài ra còn có thêm một xe hậu cần di chuyển theo và một xe chở đầu đạn khác đi theo để có thể thay đôi tên lửa liên tục và nhanh chóng. Phạm vi tác chiến của 9M96E1 là từ 1 đến 40km và loại thứ 2 9M96E2 thuộc loại tầm xa lên đến 120km. So sánh phạm vi tấn công của các loại tên lửa mà S-300PMU-1 sử dụng. S-300PMU-1 sử dụng hệ thống chỉ huy và điều khiển 83M6E, tuy nhiên hệ thống này tương thích ngược với 2 hệ thống khác là Baikal-1E và Senezh-M1E CSS cũ. Đây là một điểm mới, vì hầu hết các phiên bản mới thường không hỗ trợ để tương thích ngược với các phiên bản cũ tuy nhiên nó lại giải quyết được triệt để điểm này ... (Tổng hợp) |
Thứ Bảy, 10 tháng 12, 2011
>> S-400 Triumf - Hệ thống tên lửa hiện đại nhất nước Nga
S-400 Triumf là hệ thống tên lửa hiện đại nhất của Nga được xem là “nền móng” cho hệ thống phòng thủ tên lửa và phòng không của Nga tới năm 2020. Lịch sử phát triển Từ sự cần thiết phải thiết lập một hệ thống phòng không với khả năng tiêu diệt mục tiêu ở khoảng cách 400 km, điều mà các tên lửa đất đối không S-200, S-300 chưa làm được, các chuyên gia quân sự Nga đã nghĩ tới việc tạo ra loại tên lửa làm “nền móng” cho hệ thống phòng thủ tên lửa và phòng không của Nga cho tới năm 2020. Đó chính là tên lửa S-400 Triumf, một biến thể của tên lửa đất đối không S-300. Dự án chế tạo tên lửa S-400 Triumph với tầm bắn 400 km được bắt đầu từ năm 1988 dưới sự chỉ đạo của Tổng công trình sư Lemanskogo. S-400 thuộc thế hệ vũ khí phòng thủ tên lửa đường đạn và phòng không thế hệ 4+ do tập đoàn Almaz-Antey AD Concern phát triển. Mẫu thử nghiệm đầu tiên của tên lửa này là S-300P - biến thể nguyên thuỷ của hệ thống S-300 đi vào hoạt động năm 1978. Các mẫu thử nghiệm tiếp theo của Triumph được phát triển từ các tên lửa S-300PMU-1 và S-300PMU-2 được giới thiệu năm 1992 và 1997. S-400 Triumph mang đầy đủ các tính năng cũng như đặc điểm kỹ thuật của người anh em S-300PMU nhưng hiện đại và tiên tiến hơn. Vì thế mà trước đây người ta còn gọi S-400 là S-300PMU-3 (tiếng Nga C-300ПМУ-3, tên hiệu NATO SA-21 GROWLER). Hệ thống S-400 bắt đầu được thử nghiệm năm 1999, hoàn thiện vào năm 2000 tại căn cứ Kasputin Yar. Nó bắt đầu được triển khai vào cuối năm 2001. Tháng 7/2007 đã có 2 tiểu đoàn S-400 bắt đầu trực chiến, người Nga dự định sẽ trang bị đồng loạt S-400 cho hơn 30 trung đoàn phòng không yếu địa hiện đang dùng S-300. Hệ thống S-400 được Putin cho phép xuất khẩu, nó đang được một số quốc gia như Arab Saudi và Trung Quốc quan tâm. Mục đích sử dụng S-400 được chế tạo với mục đích tiêu diệt tất cả các loại mục tiêu bay như máy bay bao gồm cả máy bay gây nhiễu, máy bay chỉ huy/báo động sớm kiểu AWACS, máy bay trinh sát, máy bay chiến lược, chiến thuật, kể cả máy bay tàng hình, máy bay không người lái, trực thăng, tên lửa hành trình. Đặc biệt là khả năng tiêu diệt các mục tiêu ở khoảng cách lên tới 400 km với độ chính xác cao. S-400 có thể giải quyết được tất cả các vấn đề khó khăn mà 2 người em của nó là S-200 và S-400 đang gặp phải. Đặc điểm cấu tạo Triumph là hệ thống tên lửa phòng không có đặc điểm cấu tạo tương tự như người em S-300, bao gồm: Radar tầm xa 64N6, 76N6 và các radar mới có cự ly phát hiện lên đến 600 km; radar kiểm soát đa nhiệm 30N6, tên lửa phòng không 48N6E, 48N6E2, các tên lửa mới 9M96E, 9M96E2 và tên lửa tầm siêu xa 40N6E. Hệ thống Radar S-400 có thể sử dụng các radar của biến thể nguyên thủy S-300P để phát hiện và bám mục tiêu. Đó là các radar kiểm soát đa nhiệm 30N6, radar doppler sóng liên tục 76N6 CLAM SHELL, radar tấn công mạng pha số 30N6 FLAP LID A. Nếu được sử dụng trong vai trò chống tên lửa đạn đạo hay chống tên lửa hành trình, radar băng E/F 64N6 BIG BIRD cũng sẽ được bổ sung cho khẩu đội. Nó có khả năng phát hiện tên lửa đạn đạo bay với tốc độ tới 10.000 km/h ở khoảng cách lên tới 1.000 km và tên lửa hành trình ở khoảng cách 300 km. Hệ thống Radar Ngoài ra, Radar 36D6 TIN SHIELD của S-300 cũng có thể sử dụng cho S-400 giúp tăng khả năng thám sát mục tiêu sớm hơn so với radar FLAP LID. Nó có thể phát hiện một mục tiêu cỡ tên lửa bay ở độ cao lên tới 175 km và tầm thám sát tối đa 300 km. Tất cả các radar được sử dụng trên S-400 đều là các radar mạng pha 3 tọa độ (độ cao, phương vị và cự ly). Các chuyên gia Nga hiện đang nghiên cứu phát triển các radar mới cho S-400 với cự ly phát hiện lên đến 600 km, một tầm thám sát quá “khủng”. Hệ thống tên lửa S-400 sử dụng các tên lửa 9M96E, 9M96E2 và 40N6E. Tuy nhiên, các loại tên lửa 48N6E của S-300PMU-1 và 48N6E2 của S-300PMU-2 cũng vẫn có thể sử dụng cho S-400, việc này nâng cao khả năng linh hoạt trong tác chiến cũng như bảo đảm tác chiến cho S-400. Các tên lửa này được dẫn đường bằng radar đa nhiệm, được điều khiển bằng một bộ cánh đuôi và qua các van phụt chỉnh hướng và phóng thẳng lên trên sau đó quay về hướng mục tiêu, không cần thiết phải ngắm tên lửa trước khi bắn. Tên lửa 48N6E được bố trí trong thùng hình trụ có tốc độ Mach 6 và tốc độ tiếp cận mục tiêu tối đa lên đến Mach 8.5, có trần bắn tối đa 27 km và tầm bắn 5-150 km, xa hơn 1,5 lần so với Patriot, 1,2 với Hồng Kỳ 9 của Trung Quốc. Tên lửa 9M96E có trọng lượng 330 kg, đầu đạn 24 kg, tốc độ tối đa 900m/s và tầm hoạt động 40 km. Tên lửa 9M96E2 có trọng lượng 420 kg, đầu đạn 24 kg, tốc độ tối đa 1.000m/s, độ cao tiêu diệt mục tiêu 30km, thời gian chuẩn bị phóng không quá 8s và tầm hoạt động 120 km. Các tên lửa 9M96E, 9M96E2 Ngoài ra, S-400 sử dụng tên lửa siêu tầm xa 40N6E có tầm bắn lên tới 400km, ở tọa độ cách mặt nước biển từ 40 -50 km có thể coi là khắc tinh của các loại máy bay AWACS. 40N6E là một bí mật quân sự của Nga. Vì thế mà ngoại trừ các biến thể của 40N6E có tầm bắn 400km còn lại các biến thể của 48N6 và M96E thì “hỏi mua là bán ngay”. Tất cả các loại tên lửa kể trên đều được gắn thiết bị điều khiển chiến đấu, giúp tăng độ chính xác tiêu diệt mục tiêu. Hệ thống xe phóng của S-400 vẫn dùng loại Maz 7910 8x8 của hệ thống S-300PMU-1 và S-300PMU-2 Favorit. S-400 có nhiều tính năng vượt trội Ưu điểm chính của Triumph, so với S-300PM là khả năng hủy diệt mục tiêu. Triumph có thể tiêu diệt các tên lửa đạn đạo có tốc độ lên đến 5000 m/s với độ chính xác cực kỳ cao. Tham mưu trưởng Không quân Nga Vadim Volkovitsky cho rằng, hiện trên thế giới không có hệ thống tên lửa phòng không nào có tính năng kỹ thuật tốt hơn S-400. Về giá thành và hiệu quả, S-400 vượt trội 2,5 lần so với các hệ thống tương tự của Nga và nước ngoài hiện nay. Theo tổng công trình sư của tập đoàn Almaz-Antei Vladimir Kasparyants, S-400 có thể làm việc tự động, hầu như không có sự tham gia của con người. Hệ thống tự động phát hiện mục tiêu, xác định tọa độ, độ cao, hướng bay và lập tức cung cấp các tham số cơ bản cho trắc thủ. Còn trắc thủ thì chuyển thông tin cho tiểu đoàn trưởng để ra quyết định thực hiện các hành động tiếp theo. |
Thứ Năm, 6 tháng 10, 2011
>> An ninh Nga bắt một người Trung Quốc vì tình nghi gián điệp
Nhà chức trách Nga đã tiến hành bắt giữ một công dân Trung Quốc vì tình nghi hoạt động gián điệp công nghệ. Thông tấn Nga Ria Novosti ngày 5/10/2011 cho biết Cơ quan an ninh liên bang Nga (FSB) đã tiến hành lệnh bắt giữ một công dân mang quốc tịch Trung Quốc vì tình nghi người này đang tìm cách đạt được các thông tin kỹ thuật bí mật về hệ thống tên lửa S-300 của Moscow. S-300 Thông báo của FSB cho hay, người bị bắt giữ có tên Tun Shenjun. Vụ bắt giữ đã được tiến hành từ ngày 28/10/2010, tức là cách đây gần 1 năm và chỉ đến sáng nay thông tin này mới được công bố. “Công dân bị bắt đã làm việc cho Bộ an ninh Trung Quốc với tư cách là một phiên dịch viên cho các đoàn đàm phán chính thức. Tun Shenjun bị bắt giữ khi đang tìm cách thu thập các thông tin từ các công dân Nga các tài liệu liên quan đến kỹ thuật và sửa chữa hệ thống tên lửa phòng không S-300”. Theo những thông tin mới nhất được Ria Novosti cung cấp, Văn phòng Tổng công tố Nga đã thu thập hồ sơ để chuyển trường hợp này đến xử lý tại một toà án ở thủ đô Moscow. Theo bình luận của Ria Novosti, Nga đã từng cung cấp hệ thống tên lửa S-300 cho Trung Quốc còn bây giờ Trung Quốc cũng đang có bản quyền sản xuất loại tên lửa này. Tuy nhiên, trong biên chế của quân đội Nga, S-300 đã và sẽ được thay thế toàn bộ bằng hệ thống cải tiến S-400. Hiện tại, nhà chức trách Trung Quốc chưa lên tiếng bình luận gì về vụ việc mà Moscow vừa công bố. |
Thứ Bảy, 1 tháng 10, 2011
>> 'Rồng lửa' từ mặt đất (kỳ 2)
S-300 là hệ thống tên lửa đất đối không cực mạnh, có thể ngăn chặn bất cứ nguy cơ nào đến từ máy bay và tên lửa hành trình của đối phương. Để đối phó những cuộc tiến công đường không ngày càng tinh vi về tính năng kỹ chiến thuật, Liên Xô đã quyết định phát triển hệ thống phòng không mới có thể đánh chặn các mục tiêu ở bất cứ độ cao và tốc độ nào. Không những thế, nó phải linh hoạt về khả năng triển khai, với hệ thống điện tử tích hợp ứng dụng rộng rãi. Đa chức năng với nhiều biến thể Trước đòi hỏi đó, Tổng công ty Almaz đã nghiên cứu và phát triển thành công hệ thống tên lửa đất đối không S-300. Đây là hệ thống vô cùng tinh vi, giúp lực lượng phòng không có thể ngăn chặn các loại máy bay và tên lửa hành trình. S-300 (SA-20) được coi là hệ thống tên lửa chống máy bay mạnh nhất thế giới, có thể cùng lúc theo dõi khoảng 100 mục tiêu, và bắn hạ các mục tiêu cách xa 150 km ở độ cao 27 km, với thời gian triển khai cực nhanh (chỉ 5 phút). S-300 là hệ thống đa chức năng với rất nhiều biến thể có công dụng khác nhau: S-300V sử dụng trong lục quân, S-300F dành cho hải quân, và S-300P dùng cho phòng không. Đây cũng là 3 nhánh chính của “gia phả” họ S-300. Các phiên bản cải tiến được trang bị tên lửa khác nhau, trong khi hệ thống radar cũng được “tân trang” để theo kịp những bước phát triển của chiến tranh điện tử. Hệ thống S-300PMU-1. Chỉ sau một năm chính thức được triển khai (1979), các tiểu đoàn S-300PMU đầu tiên đã gánh vác trọng trách bảo vệ bầu trời Moskva, các khu công nghiệp, khu vực quốc phòng, biên giới và ven biển. Dù chưa một tổ hợp tên lửa S-300 nào khai hỏa trong thực chiến, nhưng nó vẫn được coi là hệ thống phòng không rất có năng lực, được nhiều quốc gia trên thế giới sử dụng. “Điểm đến” của S-300 là các nước Đông Âu, Trung Đông, Trung Quốc, Việt Nam… “Đại nhảy vọt” Tên lửa trong hệ thống S-300 được dẫn hướng bằng radar 30N6 Flap Lid, hoặc radar hải quân 3R41 Volna, và được điều khiển bằng radar dẫn đường bán chủ động giai đoạn cuối. Các phiên bản sau này sử dụng radar 30N6 B hay Tomb Stone. 30N6 A có khả năng đồng thời theo dõi 24 mục tiêu, dẫn 4 tên lửa tới 4 mục tiêu, còn 30N6 B có khả năng dẫn 2 tên lửa, với tốc độ Mach 2.5 và Mach 8.5 cho các biến thể sau này. Tính năng cùng một lúc dẫn nhiều tên lửa tới nhiều mục tiêu so với khả năng dẫn mỗi lần 3 tên lửa cho 1 mục tiêu duy nhất của SAM-2, thì quả là bước nhảy vọt. Các đầu đạn tên lửa của S-300 nặng khoảng 100 - 143 kg cho từng loại, tất cả được trang bị một kíp nổ tiếp cận và một kíp nổ tiếp xúc. Để gia tăng tính năng, các tên lửa được phóng thẳng đứng, sau khi rời khỏi bệ phóng mới kích hoạt động cơ để tăng tốc và hướng về mục tiêu. S-300 khai hỏa. Phiên bản nguyên thuỷ của S-300 sử dụng tổ hợp radar Doppler sóng liên tục 76N6 để quan sát mục tiêu, và radar 30N6 để quan sát, dẫn hướng. Đối với S-300 đánh chặn tên lửa đạn đạo hay tên lửa hành trình thì sử dụng radar 64N6 Big Bird có khả năng phát hiện tên lửa hành trình ở khoảng cách 300 km, còn đối với tên lửa đạn đạo là 1.000 km, tương đương tên lửa Patriot của Mỹ. Là nhánh được biên chế cho lục quân, sử dụng radar kênh 9S32-1, S-300V (SA-12) có khả năng chống lại các mục tiêu trên không với tầm tối đa là 100 km, đầu đạn nặng 150 kg với 7 biến thể từ S-300VM đến S-300VMD. Được bố trí trên xe bánh xích MT-1, S-300V có tính cơ động cao, băng đồng tốt hơn loại được bố trí trên xe bánh lốp. Trong khi đó, S-300F (SA-N-6) là phiên bản dùng trong hải quân có tên lửa 5V55RM tầm hoạt động 7-90 km. Radar của tổ hợp S-300F là dạng Top Sail, Top Steer, Top Pair và 3R41 dẫn hướng điều khiển với phương thức bán chủ động giai đoạn cuối. Phiên bản cuối của hải quân là S-300FM với tính năng kỹ chiến thuật được nâng cao, như tên lửa mới 48N6 có tốc độ Mach 6 (khi áp sát mục tiêu lên đến Mach 8.5). Ngoài ra, hệ thống dẫn hướng kiểu TVM có khả năng đánh chặn tên lửa đạn đạo tầm ngắn. Phiên bản này được Trung Quốc mua và trang bị trên tàu khu trục Type 051C. Cả 2 phiên bản của hải quân đều có đầu dò hồng ngoại giai đoạn cuối kiểu như tên lửa Standar của Mỹ. “Quả đấm thép” của phòng không Việt Nam S-300P (SA-10) là phiên bản nguyên thuỷ của S-300, bắt đầu được triển khai từ năm 1978. Tổ hợp S-300PT có sử dụng radar quan sát 36D6, radar kiểm soát bắn 30N6 và các bệ phóng 5P85-1, ngoài ra cũng có radar quan sát tầm thấp 76N6. Hệ thống được cải tiến đáng kể với việc sử dụng radar mạng pha và có khả năng tác chiến với nhiều mục tiêu trên cùng một hệ thống kiểm soát bắn. Tuy nhiên, hệ thống này phải mất hơn một giờ để sẵn sàng khai hoả, và phương pháp phóng nóng thẳng nên bệ phóng rất nhanh bị hư hỏng. Những biến thể của S-300P như S-300PT-1 và S-300PT-1A với tên lửa 5V55KD phóng lạnh và giảm thời gian triển khai xuống còn 30 phút. Hệ thống S-300PMU-2. S-300PMU-1 (SA-20) là biến thể của S-300PMU được giới thiệu vào năm 1999, có thể tích hợp được trên tàu hải quân, hoặc tác chiến độc lập. Nó có khả năng tiêu diệt máy bay, tên lửa hành trình chiến lược, tên lửa chiến thuật hiện đại và các mục tiêu trên không với tốc độ lên đến 2.800m/giây so với 2.200m/giây của Patriot. Hiện S-300PMU-1 đang được biên chế trong lực lượng phòng không Việt Nam. S-300PMU-1 sử dụng hệ thống chỉ huy và điều khiển 83M6E được tích hợp radar quan sát và phát hiện 64N6E, radar kiểm soát phóng, điểm hỏa và dẫn hướng 30N6E1. Tên lửa 48N6E được bố trí trong thùng hình trụ có tốc độ Mach 6 và tốc độ tiếp cận mục tiêu tối đa lên đến Mach 8.5, có trần bắn tối đa 27 km và tầm bắn 5-150 km, xa hơn 1,5 lần so với Patriot, 1,2 với Hồng Kỳ 9 của Trung Quốc. Ngoài ra, S-300PMU-1 có thể sử dụng tên lửa mới 9M96E1 và 9M96E2 có đầu đạn chỉ nặng 24 kg, nhưng khả năng tiêu diệt mục tiêu tốt hơn rất nhiều. |
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)
Chuyên mục Quân Sự
Hải quân Trung Quốc
(263)
Hải quân Mỹ
(174)
Hải quân Việt Nam
(171)
Hải quân Nga
(113)
Không quân Mỹ
(94)
Phân tích quân sự
(91)
Không quân Nga
(83)
Hải quân Ấn Độ
(54)
Không quân Trung Quốc
(53)
Xung đột biển Đông
(50)
Không quân Việt Nam
(44)
tàu ngầm
(42)
Hải quân Nhật
(33)
Không quân Ấn Độ
(16)
Tàu ngầm hạt nhân
(15)
Hải quân Singapore
(12)
Xung đột Iran - Israel
(12)
Không quân Đài Loan
(9)
Siêu tên lửa
(8)
Quy tắc ứng xử ở Biển Đông
(7)
Tranh chấp biển Đông
(7)
Xung đột Trung - Mỹ
(4)
Xung đột Việt-Trung
(2)