Chiến lược mới của Nhật Bản đưa ra các tình huống xấu nhất là khi bị Trung Quốc đánh chiếm phần đảo chủ quyền, đồng thời đề xuất các phương án đối phó. >> Đại chiến Trung - Nhật : "Quý hồ tinh, bất quý hồ đa" Lực lượng WAiR thuộc Lực lượng Phòng vệ Mặt đất Nhật Bản, giỏi tác chiến đổ bộ, trong năm 2012 đã nhiều lần tham gia diễn tập liên hợp với Lính thủy đánh bộ Mỹ. Ngày 1/1/2013, tờ Sankei Shimbun Nhật Bản đăng bài viết “Chính quyền Abe bắt tay xây dựng ‘Chiến lược phòng vệ tổng hợp’ hợp nhất trên bộ-trên biển-trên không”. Bài viết cho biết, Bộ Quốc phòng Nhật Bản đã bắt đầu bắt tay xây dựng “Chiến lược phòng vệ tổng hợp” phối hợp thống nhất giữa các lực lượng quân sự gồm Lực lượng Phòng vệ Mặt đất, Lực lượng Phòng vệ Biển, Lực lượng Phòng vệ Trên không, nhằm ứng phó với tình hình mới có thể xuất hiện trong 10-20 năm tới. Mặc dù không loại trừ khả năng các nước như Nga và CHDCND Triều Tiên tiến hành tấn công Nhật Bản trong tương lai, nhưng chiến lược này chủ yếu nhằm vào Trung Quốc. Xét thấy quần đảo Senkaku thuộc tỉnh Okinawa có khả năng bị tấn công, Bộ Quốc phòng Nhật Bản hy vọng có thể tăng cường chức năng cho lực lượng Lính thủy đánh bộ, đồng thời tiếp tục nâng cao khả năng cảnh giới và giám sát. Thủ tướng Shinzo Abe đã quyết định phải sửa đổi “Đại cương kế hoạch phòng vệ”, công tác này sẽ bắt đầu triển khai toàn diện vào mùa hè năm nay (2013). Để đưa nội dung này vào đại cương mới, việc xây dựng Chiến lược phòng vệ tổng hợp sẽ kết thúc trước mùa hè. Nhật Bản đưa ra tình huống: Đảo Senkaku có khả năng bị Trung Quốc tấn công trong tương lai Trong việc đề phòng Trung Quốc, Nhật Bản đưa ra 3 tình huống: (1) Quần đảo Senkaku bị tấn công; (2) Quần đảo Senkaku và hai hòn đảo gồm Ishigaki, Miyako bị tấn công; (3) Ngoài những hòn đảo này, Đài Loan cũng bị tấn công. Chiến lược phòng vệ tổng hợp sẽ dựa trên các động thái của ba nước, trong đó có Nga, trên cơ sở phân tích tình hình an ninh châu Á trong tương lai, đề xuất phương hướng tăng cường đồng minh Nhật-Mỹ và sức mạnh phòng vệ. Về việc nhằm vào Trung Quốc, tác chiến đánh chiếm lại các hòn đảo nhỏ là điều quan trọng hàng đầu. Bộ Quốc phòng Nhật Bản sẽ tính toán để Lực lượng Phòng vệ Mặt đất có khả năng như một lực lượng Lính thủy đánh bộ, số quân đạt quy mô như Lực lượng viễn chinh lính thủy đánh bộ 31 của quân Mỹ tại Okinawa (khoảng 2.200 quân). Để tăng cường theo dõi, giám sát bình thường đối với biển Hoa Đông, Bộ Quốc phòng Nhật Bản sẽ xem xét nhập khẩu “trang bị tầng bình lưu” có thể giúp phi thuyền cỡ lớn hoạt động và máy bay do thám không người lái. Tháng 9/2012, Trung Quốc tổ chức diễn tập quy mô lớn ở biển Hoa Đông (hình ảnh do dân mạng TQ chế) Xét thấy sức mạnh của Hải quân, Không quân Trung Quốc không ngừng được tăng cường, Bộ Quốc phòng Nhật Bản còn chuẩn bị phát triển và nhập khẩu tàu ngầm kiểu mới và các loại máy bay thế hệ tiếp theo thay cho máy bay chiến đấu chủ lực F-15. Ngày 2/1/2013, tờ “Bình Quả nhật báo” Đài Loan đăng bài viết “Sức mạnh quân sự của Trung Quốc tăng cường gây sức ép đối với Nhật Bản” dẫn nguồn tin từ tờ Sankei Shimbun Nhật Bản tiết lộ, “Chiến lược phòng vệ tổng hợp” do Bộ Quốc phòng Nhật Bản đưa ra cho rằng, Trung Quốc có thể tấn công Đài Loan vào năm 2021, khi đó nếu ngăn chặn thành công sự can thiệp của Mỹ, Trung Quốc sẽ có thể vượt qua chuỗi đảo thứ hai, tiến tới chi phối Tây Thái Bình Dương. Nhưng các học giả Đài Loan cho rằng, Bộ Quốc phòng Nhật Bản chỉ là đưa ra tình huống xấu nhất, không có nghĩa là tương lai sẽ diễn ra như vậy, sức mạnh trên biển của Trung Quốc cũng không đủ để thách thức quân Mỹ. Bộ Quốc phòng Nhật Bản cho rằng, nếu đánh chiếm đảo Senkaku, Trung Quốc sẽ sử dụng 2 tàu sân bay để răn đe, gây sức ép với Nhật Bản, đồng thời sử dụng lực lượng nhảy dù và xe chiến đấu đổ bộ tiến hành tác chiến đổ bộ. Trung Quốc đã sở hữu tàu sân bay đầu tiên Liêu Ninh và có kế hoạch chế tạo một số tàu sân bay nội địa khác. Quan chức Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản cho rằng, đảo Senkaku, Ishigaki và Miyako đều thuộc cùng chiến khu, Trung Quốc sẽ sử dụng tàu khu trục lớp Lữ Châu, tàu hộ vệ lớp Giang Khải, máy bay chiến đấu J-20 phát động cuộc tấn công kiểu “gợn sóng”. Đồng thời, sau khi dùng tên lửa phá hủy trạm radar của Lực lượng Phòng vệ Trên không, “chọc mù hai mắt” của mạng phòng thủ Nhật Bản, tiếp tục nhân lúc rối loạn sử dụng lực lượng đặc nhiệm chiếm lấy sân bay Miyako và sân bay Ishigaki. Tình huống gây lo ngại nhất cho Bộ Quốc phòng Nhật Bản là khi Đảng CSTQ tròn 100 năm thành lập vào năm 2021, thì Trung Quốc có thể tiến hành các biện pháp để thống nhất Đài Loan. Do Mỹ-Nhật có thể can thiệp, Trung Quốc trước hết sẽ áp chế đảo Ishigaki và Miyako – những nơi có sân bay. Nhật Bản suy đoán, Trung Quốc sẽ đối phó với Đài Loan bằng cách phong tỏa trên biển và sử dụng tên lửa, đồng thời sử dụng lực lượng đặc nhiệm để tác chiến đổ bộ. Tàu sân bay trực thăng lớp Hyuga của Lực lượng Phòng vệ Biển Nhật Bản. Bộ Quốc phòng Nhật Bản cho rằng, nếu Quân đội Trung Quốc ngăn chặn được sự can thiệp của quân Mỹ, con đường hàng hải từ eo biển Bashi đến eo biển Miyako sẽ rơi vào sự kiểm soát của Trung Quốc, “đê chắn sóng” ngăn chặn Trung Quốc ra vào Thái Bình Dương của quân Mỹ sẽ mất. Trung Quốc có thể xác lập bá quyền ở biển Hoa Đông và biển Đông, vượt qua chuỗi đảo thứ hai, dần dần có thể chi phối Tây Thái Bình Dương. Giáo sư Vương Côn Nghĩa, Chủ tịch Hội nghiên cứu chiến lược Đài Loan cho rằng, Trung Quốc thực sự có thể xảy ra xung đột quy mô nhỏ với Nhật Bản ở đảo Senkaku. Nếu từ bỏ đảo Senkaku, sẽ tạo ra không gian tưởng tượng là Trung Quốc cũng “gián tiếp từ bỏ Đài Loan”, như vậy Quân đội Trung Quốc có thể có chiến tranh với Nhật Bản. Mỹ-Nhật tăng cường khả năng tác chiến liên hợp. Trong hình là máy bay chiến đấu Mỹ-Nhật Bản diễn tập quân sự liên hợp ở Guam vào ngày 15/2/2010. |
Thứ Sáu, 4 tháng 1, 2013
>> Kế hoạch đáp trả của Nhật bản khi bị TQ tấn công chiếm đảo
>> CASA C-295 - Mẫu máy bay có thể được bán cho Việt Nam
Hãng hàng không châu Âu Airbus vừa thử nghiệm thành công máy bay vận tải quân sự CASA C-295 với kiểu cánh gấp đầu. Trên cơ sở loại máy bay này có thể phát triển máy bay cảnh báo sớm và săn ngầm mà không ít chuyên gia cho rằng phù hợp với Việt Nam. >> >> Sức mạnh quốc phòng Việt Nam 2012 C-295 biến thể cánh gấp Theo phân tích của Flightglobal, kiểu thiết kế cánh này sẽ giúp nâng hiệu quả sử dụng nhiên liệu và khả năng điều khiển, tăng độ cao và tốc độ bay trung bình cho máy bay. Đây là chuyến bay thử nghiệm đầu tiên, được thực hiện ngày 21/12/2012, song vừa mới được công bố cho báo chí. Hiện chi tiết về cấu tạo kiểu cánh mới của CASA C-295 vẫn chưa được Airbus công bố chi tiết. Theo số liệu của Airbus, kiểu cánh mới sẽ thích hợp cho máy bay khi cất cánh từ các sân bay có khí hậu nóng và cao so với mặt nước biển. Ngoài ra, thiết kế mới còn cho phép tăng tầm bay xa và giảm chi phí hoạt động cho máy bay. Theo kế hoạch, biến thể CASA C-295 cải tiến sẽ phục vụ trước hết cho việc sản xuất các máy bay cảnh báo sớm trên không C-295 AEW&C. Những chiếc máy bay cảnh báo sớm trên không trên cơ sở C-295 ra đời từ tháng 1/2012 được trang bị radar do hãng Elta của Israel sản xuất. Quá trình thử nghiệm cho thấy máy bay cảnh báo sớm trên không C-295 AEW&C có thể bay liên tục trên không trong 8 tiếng ở độ cao trung bình 6,1-7,3 km. Airbus đã bán được tổng cộng 114 chiếc C-295, trong đó có 88 chiếc đã đi vào phục vụ trên 15 quốc gia. Tại khu vực Đông Nam Á hiện có Indonesia đang sử dụng C-295M làm máy bay vận tải quân sự. Tháng 2/2012, Indonesia đặt mua tổng cộng 9 chiếc C-295M. Tháng 9 cùng năm, nước này đã nhận bàn giao 2 chiếc đầu tiên và đưa vào trang bị cho không quân với tên gọi CN-295. Máy bay vận tải quân sự CN-295 của Indonesia Mới đây, một chuyên gia quân sự Nga khi viết về không quân Việt Nam trên tờ “Bình luận quân sự độc lập” cho rằng Việt Nam sẽ mua ít nhất 2 máy bay cảnh báo sớm trên không. Theo đó, một trong những ứng cử viên là loại CASA EC-295. Thông số chung của loại máy bay C-295 là: Dài 24,5 m, sải cánh 25,81 m, cao 8,6 m. Máy bay có trọng lượng cất cánh tối đa là 23.200 kg. Máy bay được trang bị 2 động cơ 2.645 mã lực mỗi bên. Tốc độ tối đa của máy bay là 576 km/h, tầm bay 4.600 km và có trần bay 9.100 m. Máy bay cần đường băng cất cánh 670 m và đường băng hạ cánh 320 m. Phi hành đoàn 2 người và phiên bản vận tải có thể chở tối đa 71 binh sĩ. |
Nhãn:
Không quân Việt Nam,
Máy bay C-295
Thứ Tư, 2 tháng 1, 2013
>> Sức mạnh tên lửa liên lục địa các nước
Tên lửa liên lục địa - ICBM là thành phần quan trọng nhất trong kho vũ khí và là yếu tố cân bằng tương quan sức mạnh giữa các cường quốc quân sự. >> Tên lửa xuyên lục địa Agni-5 chưa thể đe dọa Trung Quốc? Với kích thước và trọng lượng khổng lồ, phóng bằng bệ phóng đứng, các tên lửa đạn đạo có đường bay vượt qua khỏi khí quyển đậm đặc của Trái đất trước khi tái nhập khí quyển và lao vào mục tiêu. ICBM khác hoàn toàn so với quỹ đạo bay của các loại tên lửa hành trình cỡ nhỏ đang được sử dụng rộng rãi hiện nay. Tên lửa đạn đạo được chia thành nhiều loại khác nhau, dựa trên tầm bắn của nó, trong đó những tên lửa có thể chạm đến mục tiêu ở khoảng cách lớn hơn 5.500km được gọi là tên lửa liên lục địa. Tên lửa liên lục địa Topol của Nga Hiện nay, đa số các tên lửa ICBM có khả năng mang đầu đạn hạt nhân đã được hủy bỏ theo Hiệp ước cắt giảm vũ khí hạt nhân II (START II) được kí giữa Nga và Mỹ. Tên lửa liên lục địa bây giờ đa số được sử dụng để đưa các vệ tinh, tàu vũ trụ lên không gian, phục vụ mục đích nghiên cứu dân sự. Sau khi Hiệp ước có hiệu lực, một số tên lửa liên lục địa đã phải hủy bỏ, không được đưa vào biên chế quân sự hoặc tháo dỡ hoàn toàn các đầu đạn hạt nhân trước đây để phục vụ mục đích dân sự. Tiêu biểu trong đó là LGM-118 Peacekeeper - loại ICBM đã từng hiện đại nhất cho đến lúc này của Mỹ. Tìm chỗ đứng trong hệ thống tên lửa Mỹ Ngày 17/6/1983, Peacekeeper có lần phóng thử thành công đầu tiên, sau đó là 11 lần phóng tiếp theo để các đơn vị chế tạo có được con số chính xác về tầm bắn và tải trọng tối đa của nó. LGM-118 Peacekeeper được phóng lên từ hầm tên lửa Trong tổng số 12 lần thử nghiệm ở 2 giai đoạn đầu có 8 lần Peacekeeper phóng đi từ hầm phóng cố định, 4 lần còn lại khai hỏa từ ống phóng của hệ thống Minuteman III. Lần đầu tiên cất cánh tại Căn cứ Không quân Vandenberg, bang California, năm 1983, Peacekeeper đã bay trên quỹ đạo dài 6.704km, phóng ra 6 đầu đạn tấn công các mục tiêu giả định độc lập với nhau tại bãi thử tên lửa Kwajalein, Thái Bình Dương. Lắp đặt đầu đạn hạt nhân vào tên lửa LGM-118 Peacekeeper Theo ý đồ của Cơ quan chỉ huy Không quân chiến lược Mỹ, Peacekeeper sẽ bắt đầu thay thế Minuteman III vào tháng 4/1986 và đến tháng 12 cùng năm, tất cả sẽ sẵn sàng đi vào phục vụ. Họ còn lên kế hoạch bổ sung thêm 50 hệ thống Peacekeeper mới cho Lực lượng tên lửa chiến lược 319, dự kiến hoàn tất quá trình vào tháng 12/1989. Thế nhưng, mọi chuyện chỉ là dự kiến và bị tạm hoãn vào tháng 7/1985 do tranh cãi trong Quốc hội Mỹ. Mãi tới cuối năm 1986, sau khi được sự đồng ý của Tổng thống Reagan, dự án Peacekeeper mới bắt đầu được triển khai và hoàn thành vào cuối năm 1988. Video ghi lại quá trình phóng thử của LGM-118 Peacekeeper Tên lửa 'gãy cánh' Được gọi là tên lửa mạnh nhất trong kho vũ khí của Mỹ, Peacekeeper có một sức mạnh rất đáng gờm. Nó có khả năng mang tối đa 11 đầu đạn hạt nhân với Công nghệ tái nhập khí quyển tấn công nhiều mục tiêu độc lập - MIRV. Đây là công nghệ tên lửa liên lục địa cực tiên tiến, hiện chỉ có Nga và Mỹ sở hữu. Các đầu đạn của Peacekeeper là W87/MK-21 RV, loại đầu đạn hạt nhân với sức nổ 300 kiloton, tương đương 300 nghìn tấn thuốc nổ TNT. Mỗi tên lửa mang được 11 đầu đạn, với khả năng tấn công các mục tiêu độc lập khi tái nhập vào khí quyển sau giai đoạn bay ngoài không gian. 8 đầu đạn của Peacekeeper tái nhập khí quyển tấn công các mục tiêu độc lập trong một lần thử nghiệm trước đây Tuy nhiên, sau khi Hiệp ước START II được kí, số đầu đạn trang bị cho Peacekeeper bị giảm xuống còn 10 và đến năm 2005 thì bị loại bỏ hoàn toàn, nó trở thành tên lửa không mang đầu đạn hạt nhân và ngừng sản xuất mới. Tất cả hơn 500 đầu đạn W87/MK-21 RV khi đó được tháo gỡ và chuyển giao cho các tên lửa đạn đạo Minuteman III, thế hệ tên lửa trước của Peacekeeper. Sơ đồ tái nhập khí quyển của các tên lửa liên lục địa mang đầu đạn MIRV Người thừa kế của LGM-118 Tên lửa liên lục địa Minuteman III, tiền bối nhưng lại cũng chính là người thừa kế di sản đồ sộ về đầu đạn hạt nhân của Peacekeeper. Tính đến thời điểm hiện nay, Minuteman III là loại tên lửa lục địa duy nhất còn lại trong kho vũ khí của Mỹ. Ra đời từ những năm 1970 và ngừng sản xuất từ năm 1978, Cơ quan Không quân chiến lược Mỹ đã từng muốn thay thế hoàn toàn Minuteman III bằng Peacekeeper. Nhưng do Hiệp ước START II, bỗng nhiên Minuteman III lại được tái sử dụng và dự kiến sẽ phục vụ đến năm 2040. Minuteman III trong ống phóng Mặc dù không sản xuất thêm nhưng trong hơn 30 năm qua, quân đội Mỹ đã liên tục 'nâng cấp' Minuteman III. Tên lửa này liên tục được thay thế các đầu đạn tiên tiến, trong đó có W87/MK-21 RV thừa hưởng từ Peacekeeper. Ngoài ra các hệ thống dẫn đường và điều khiển cũng được nâng cấp để phù hợp với điều kiện hiện tại. Hiện tại, Mỹ có 500 tên lửa Minuteman III, triển khai ở các địa điểm chiến lược với tổng số đầu đạn lên đến 1.200 chiếc. Mỗi tên lửa Minuteman III có khả năng mang 3 đầu đạn với nhiều loại khách nhau như W62, W78 hay W87, mỗi loại có sức nổ từ 170 - 300 kiloton. Video mô phỏng quá trình bay và tấn công mục tiêu của Minuteman III Trải qua nhiều lần nâng cấp, hiện nay Minuteman III có giá trị khoảng 7 triệu USD/quả, với trọng lượng 36 tấn, các tên lửa này có thể bay với vận tốc tối đa xấp xỉ 78km/s và tầm bắn hiệu quả vào khoảng 9.600 km. |
>> Lưới lửa phòng không của Nga
Nga đang tập trung phát triển một hệ thống phòng không nhiều tầng dày đặc với S-500, A-235 và các tổ hợp phòng không chủ động khác. >> Khám phá lưới lửa phòng không Syria Hệ thống phòng không của Nga được xây dựng thành nhiều tầng Truyền thông Nga cho biết trong một vài năm tới Nga sẽ bắt đầu xây dựng hệ thống phòng không và phòng thủ chống tên lửa nhiều lớp. Thành phần chủ yếu của hệ thống này sẽ là các tổ hợp tên lửa phòng không S-500 và hệ thống phòng thủ chống tên lửa cải tiến A-235 bảo vệ Mosocw. Tuyến cuối của hệ thống này là các tổ hợp bảo vệ chủ động. Theo các chuyên gia quân sự thì một hệ thống phòng không nhiều lớp như vậy không chỉ đảm bảo an ninh cho riêng khu vưc thủ đô, mà còn các mục tiêu quan trọng khác (ví dụ như các khu công nghiệp) trên toàn lãnh thổ Nga. S- 500 Hiện không có nhiều thông tin về tổ hợp tên lửa phòng không này. Chức năng chủ yếu của tổ hợp là tiêu diệt khối tác chiến của các tên lửa đạn đạo tầm trung và tầm xa. S-500 có thể tiêu diệt các khối tác chiến của tên lửa ở đoạn cuối trong quỹ đạo bay. Tổ hợp này được trang bị các radar có khả năng phát hiện mục tiêu ở cự ly đến 900 km. Theo một số nguồn thông tin khác nhau thì các tổ hợp này sẽ được đưa vào trang bị ngay trong các năm 2013-2015. Thời gian đầu sau khi triển khai, các S-500 có thể sử dụng tên lửa của các tổ hợp S-400 “Triumph”. Tháng 3/2012 Bộ quốc phòng Nga đã đặt hàng nhà máy chế tạo máy “Avangard” sản xuất các tên lửa có điều khiển dùng cho S-400 và như vậy có thể hiểu rằng Bộ quốc phòng Nga đã bắt đầu mua các tên lửa dùng cho các hệ thống mới (tức S-500). Tên lửa S-400 Hiện nay, các tổ hợp phòng không S-400 “Triumph” đang sử dụng các tên lửa của S-300, nhưng các tổ hợp công nghiệp quốc phòng Nga đang nghiên cứu thiết kế loại tên lửa riêng cho dùng cho S-400 là 9M96E, 9M96E2 và 40N6M tầm xa. Các tổ hợp S-500 cũng sẽ có các loại tên lửa riêng của mình là 40N6M, 77N6-H và 77N6-N1. Nhiều khả năng các tên lửa này sẽ được đưa vào trang bị trong các năm 2014 và 2015. Ngày 24/12/2012, qua các tuyên bố của Tư lệnh Không quân Nga, trung tướng V. Bondarev, một số thông tin mới về đặc tính kỹ thuật và chức năng của thành phần mới trong hệ thống phòng không nhiều tầng của Nga đã được tiết lộ. Tên lửa Patriot PAC-3 của Mỹ Tổ hợp này có thể đồng thời tiêu diệt 10 mục tiêu là các tên lửa đạn đạo, các đầu tác chiến của các tên lửa có cánh có tốc độ trên siêu âm, kể cả khi tốc độ của các mục tiêu bị đánh chặn này lên tới 7.000 m/s. Để dễ hình dung chúng ta biết rằng tốc độ vũ trụ cấp một (tốc độ cần thiết để để đưa các vệ tinh nhân tạo vào quỹ đạo vòng tròn quanh trái đất) chỉ là 7.900 m/s. Tư lệnh V. Bondarev cũng thông báo rằng S-500 có các khả năng vượt trội so với các tổ hợp S-400 đang có trong trang bị của Nga và các tổ hợp MIM-104F Patriot PAC-3 của Mỹ. Không những thế, S-500 còn được sử dụng để bảo vệ các khu vực lớn, các mục tiêu công nghiệp và chiến lược trước các đòn tấn công từ trên không và các đòn tấn công bằng tên lửa . A-235 Theo kế hoạch của Bộ Quốc phòng Nga, các tổ hợp S-500 sẽ dần trở thành thành phần chủ yếu trong hệ thống phòng không và phòng thủ chống tên lửa của Nga. Nó khác với các hệ thống đã có ở chỗ sẽ có hai bộ phận gồm : bộ phận chống máy bay và bộ phận chống tên lửa. Bộ phận chống tên lửa sẽ được tích hợp với hệ thống phòng không bảo vệ Moscow A-235 “Amur”, và cũng sẽ tích hợp với hệ thống A-235 mới “Samolet-M” trong tương lai. Hệ thống A-235 mới sẽ được đưa vào thử nghiệm trong nửa đầu năm 2013. Hệ thống phòng không bảo vệ Moscow mới (Samolet-M) sẽ thay thế hệ thống A-135 đã lạc hậu. Theo số liệu mới nhất, “Samolet-M” sẽ được trang bị các tên lửa đánh chặn cải tiến 53T6 đang được các tổ hợp “Amur” sử dụng. Các tên lửa đánh chặn của hệ thống phòng thủ chống tên lửa mới có thể mang cả đầu tác chiến hạt nhân và đầu đạn thông thường. Tên lửa A-135 cũ kỹ Các hợp đồng xây dựng hệ thống A-235 đã được ký kết từ năm 1991 và dự án này sẽ kết thúc vào năm 2015. Nhà thầu chính của dự án này là Tập đoàn “Almaz-Antei”, đơn vị đã thiết kế S-300, S-400 và hiện đang thiết kế sản xuất S-500. Theo kế hoạch, A-235 sẽ được trang bị siêu máy tính “Elbrus-3M”, trạm radar “Don-2M” và 2 tuyến phòng thủ chống tên lửa bán kính hoạt động tầm trung và tầm xa. Tất cả các tham số chủ yếu của hệ thống phòng thủ sắp tới này đều được giữ bí mật, nhưng có thể nhận định rằng các hệ thống S-500 có thể trao đổi số liệu với “Samlet-M” để tăng độ chính xác khi tiêu diệt mục tiêu. Hiện nay, hệ số hiệu quả bảo vệ khu vực thủ đô Moscow, theo lời quyền Tư lệnh Bộ đội phòng không và phòng chống tên lửa trực thuộc Bộ tư lệnh Bộ đội phòng thủ vũ trụ là thiếu tướng A. Demin, đạt 90%, còn các khu vực công nghiệp trung tâm- 60%. Các chỉ số trên sẽ được cải thiện bằng cách đưa vào trực chiến không chỉ các hệ thống S-500 và A-236 mà còn cả các tổ hợp bảo vệ chủ động (KAZ). Các tổ hợp KAZ Nguyên tắc làm việc của KAZ dựa trên nguyên lý tiêu diệt các mục tiêu trên không bằng các viên bi đường kính đến 30mm ở độ cao đến 6.000m. Vào đầu năm 2012, một số nguồn tin từ Bộ quốc phòng Nga tiết lộ nguyên lý hoạt động của KAZ là các đầu đạn chứa 40.000 viên bi sẽ được bắn về phía mục tiêu với sơ tốc là 1.800 m/s và sau khi nổ ở một độ cao nhất định sẽ tạo thành “một đám mây sắt” có thể tiêu diệt được bất kỳ mục tiêu trên không nào. Các KAZ nói trên sẽ được sử dụng trước hết là bảo vệ các mục tiêu chiến lược: các hầm phóng tên lửa, sở chỉ huy và các đầu mối thông tin liên lạc. Một sở chỉ huy phòng thủ tên lửa của Nga Việc thử nghiệm lần đầu KAZ được thực hiện vào đầu những năm 90 của thế kỷ trước, các mẫu đầu tiên của KAZ được mang tên “Mozyir”. Một trong các cuộc thử nghiệm như vậy đã được tiến hành tại trường bắn Kura và được ghi nhận là thành công. Tuy nhiên dự án về tổ hợp này bị đình hoãn sau đó vì thiếu kinh phí và một sô nguyên nhân kỹ thuật như các máy tính của tổ hợp này chưa đủ mạnh để tính toán khi tiêu diệt các mục tiêu cơ động trên không ( xác xuất tiêu diệt các mục tiêu cơ động thấp hơn so với tiêu diệt các mục tiêu đạn đạo). Vào giữa năm 2012, Bộ quốc phòng Nga quyết định triển khai lại dự án KAZ vào năm 2013. Để tiếp tục thực hiện dự án này cần phải có các hệ thống máy tính có công suất lớn hơn, đặc biệt là đối với tổ hợp tiêu diệt các mục tiêu có khả năng cơ động cao. Trong trường hợp này các máy tính phải tính được điểm tiếp cận của các tên lửa chống tên lửa hoặc các viên bi với các mục tiêu đang bay ở tốc độ lớn. Nếu như đối với các mục tiêu đạn đạo (bay theo quỹ đạo) nhiệm vụ này trên thực tế là tương đối dễ và có thể giải rất nhanh thì đối với các mục tiêu cơ động nhiệm vụ này phức tạp hơn rất nhiều lần. Các tên lửa đạn đạo hiện đại đã được trang bị không những các khối tác chiến riêng biệt tự dẫn có khả năng cơ động, mà còn các mục tiêu giả với nhiệm vụ chính là gây khó khăn cho việc phân biệt các mục tiêu là các đầu đạn hạt nhân và tiêu diệt chúng. Việc các tên lửa đạn đạo hiện đại (ví dụ như tên lửa R-30 sắp sản xuất của Nga) có thể cơ động trong một không gian rất hẹp cũng gây khó khăn rất lớn cho việc đánh chặn ở đoạn đầu và đoạn cuối của quỹ đạo bay. Lưới lửa phòng không Từ năm 2008 Nga đã bắt đầu xây dựng hệ thống phòng thủ chống tên lửa và phòng không thống nhất bao gồm không chỉ các hệ thống phòng thủ chống tên lửa và phòng không của riêng nước Nga mà của tất cả các nước SNG. Trên thực tế, việc thành lập một hệ thống như vậy là một quá trình xóa bỏ ranh giới giữa các hệ thống phòng thủ chống tên lửa và hệ thống phòng không cấp chiến lược và cấp chiến thuật. Bản chất Học thuyết xây dựng một hệ thống thống nhất của Nga là thiết lập một hệ thống phòng thủ chống tên lửa và phòng không nhiều lớp và nhiều tầng có khả năng tiêu diệt các mục tiêu ở các cự ly và độ cao khác nhau. Trong tương lai trong hệ thống này sẽ có các tổ hợp tầm ngắn "Tunguska", "Top-M2", "Pansir"-S1, "Buk" và "Morfei", các tổ hợp tầm trung S-300, "Vitiaz" và tầm xa S-400, S-500, A-235 và có thể là S-1000. Tổ hợp phòng không Pansir Vào đầu năm 2011, Tổng tham mưu trưởng Lực lượng vũ trang Nga lúc đó là N. Makarov đã tuyên bố hệ thống phòng thủ chống tên lửa mới của Nga thực sự là “một cái ô” che chắn lãnh thổ Nga trước tất cả các đòn tấn công bằng tên lửa đạn đạo, tên lửa tầm trung, tên lửa có cánh bắn từ tất cả các hướng- từ trên không, trên biển, từ mặt đất- trong đó có cả tên lửa bay ở độ cao cực thấp, vào bất kỳ thời gian nào trong ngày và trong bất kỳ tình huống nào”. Giới phân tích cho rằng cuộc chạy đua vũ trang giữa Mỹ và Nga, sau một thời kỳ tạm hạ nhiệt khi Liên Xô tan rã, đã lại bước vào một vòng xoáy mới. Mỹ chọn con đường bố trí hệ thống phòng thủ chống tên lửa bên ngoài lãnh thổ tại các khu vực ở Châu Âu và Đại Tây Dương, còn Nga chọn việc thiết lập lá chắn ngay trên lãnh thổ của mình. |
Thứ Năm, 20 tháng 12, 2012
>> Tiềm lực quân đội Syria
Syria đang đứng trước nguy cơ của một cuộc xâm lược từ nước ngoài, Quân đội Tổng thống Assad có trong tay những vũ khí nào để hóa giải cuộc tấn công này? >> Pháo đài' Syria (kỳ 1) Tình hình tại Syria đang diễn biến theo chiều hướng rất phức tạp, chính quyền Tổng thống Assad đang đứng trước hai mối hiểm họa lớn, lực lượng nỗi dậy đang gia tăng các hoạt động chống phá chính quyền, quan trọng hơn cả, NATO và trực tiếp là Thổ Nhĩ Kỳ đang "lăm le" thực hiện một cuộc tấn công xâm lược vào Syria nhằm lật đổ chính quyền. Damascus đang rơi vào tình cảnh "thù trong giặc ngoài" liệu Syria có trở thành Libya thứ 2? Tổng thống Assad đang có trong tay những công cụ quyền lực nào để hóa giải các cuộc nỗi dậy trong nước và nguy cơ xâm lược từ Ankara? Sức mạnh quân đội Syria Theo báo cáo của Trung tâm nghiên cứu chiến lược quốc tế CSIS có trụ sở tại Washington, Mỹ, Quân đội Syria có tổng số khoảng 646.000 quân. Đa số binh lính trong quân đội là người Alawites, chiếm 70% trong tổng số binh lính chuyên nghiệp khoảng 200.000 người, thuộc dòng tộc của Tổng thống Bashar al-Assad. Tổng thống cũng chính là Tổng tư lệnh của quân đội. - Lục quân Lục quân của quân đội Syria có tổng cộng 3 quân khu, 11 sư đoàn bộ binh , trong đó có 4 sư đoàn bộ binh cơ giới chỉ dành riêng cho người Alawites. 8 sư đoàn thiết giáp, 3 trung đoàn lính dù đặc nhiệm, 11 trung đoàn đặc nhiệm độc lập, 2 lữ đoàn pháo binh độc lập, 2 lữ đoàn chống tăng độc lập. Tất cả đều được tuyển chọn từ những người ưu tú nhất thuộc bộ tộc Alawites của Tổng thống Assad. Quân đội Syria sở hữu trong tay lực lượng tăng thiết giáp cực kỳ hùng hậu. Lực lượng tăng thiết giáp Syria có khoảng 10.885 xe chiến đấu bọc thép các loại, trong đó có 4.950 xe tăng chủ lực, gồm 1700 chiếc T-72 và T-72M, 1.000 chiếc T-62M/K, 2.150 chiếc T-55 và T-55MV, 100 chiếc tăng lội nước PT-76, 1.000 chiếc xe chiến đấu bộ binh BDRM2 có trang bị tên lửa chống tăng, 2.600 chiếc BMP-1, 350 chiếc BMP-2, 1.860 chiếc BTR-40/50/60/152. Lực lượng pháo binh Syria có khoảng 3.140 khẩu pháo kéo xe và pháo tự hành các loại từ 85-180mm, trong đó có các loại đáng chú ý sau, M-46 130mm (800 khẩu), D-30 122mm (600 khẩu), D-74 122mm (400 khẩu), pháo phản lực phóng loạt có nguồn gốc từ Trung Quốc và Liên Xô (500 dàn), cùng với đó là một số lượng không rõ các loại rocket bắn loạt sản xuất trong nước và nhập khẩu từ Iran. Cần lưu ý là các hợp đồng mua bán từ Iran và Triều Tiên không nằm trong báo cáo hàng năm của CSIS. Đặc biệt, Quân đội Syria đang nắm trong tay một số lượng đáng kể tên lửa đạn đạo chiến thuật gồm tên lửa Scud C/D tầm bắn từ 500-700km với sự hỗ trợ kỹ thuật từ Triều Tiên. Lực lượng này tuy không tạo ra nhiều lợi thế chiến thuật, nhưng cũng sẽ là một thách thức không nhỏ một khi quyền lực của Tổng thống Bashar al-Assad bị đe dọa. - Phòng không không quân Lực lượng phòng không không quân Syria được trang bị rất mạnh, có thể nói là hàng đầu khu vực. Không quân Syria được biên chế thành 7 phi đội tấn công được trang bị các máy bay tiêm kích hiện đại MiG-29. Theo báo cáo của Tạp chí quân sự Jane's Defence, Syria có khoảng 60 chiếc MiG-29 trong đó có một số đã nâng cấp lên chuẩn Mig-29SMT. Mig-29 có thể không phải là một đối thủ quá lớn trên bầu trời, nhưng mọi chuyện đều có thể xảy ra. Ngoài ra, phải kể tới 20 phi đội đánh chặn và trinh sát được trang bị các máy bay đánh chặn MiG-25 Foxbat (30 chiếc), MiG-23 (từ 106-146 chiếc), cường kích Su-24 (24 chiếc), Su-22 (60 chiếc), MiG-21 (140-219 chiếc) phần lớn đang lưu trữ trong kho. Cùng với đó là 4 phi đội vận tải quân sự được trang bị các máy bay An-24, An-26, IL-76, Tu-143, 7 phi đội trực thăng vận tải kiêm tấn công trang bị các trực thăng Mil Mi-8, Mil Mi-17, 5 phi đội trực thăng tấn công như Mil Mi-24 khoảng 36 chiếc. Syria cũng có một phi đội tác chiến điện tử. Đây chính là một ẩn số mà Thổ Nhĩ Kỳ muốn thăm dò thông qua việc cho RF-4E xâm phạm không phận nước này. Kết quả, chiếc RF-4E bị bắn rơi. SA-6 "Ba ngón tay của thần chết" sẽ là một thách thức đối với các máy bay chiến đấu của NATO nếu không kích vào Syria. Lực lượng phòng không Syria được trang bị rất mạnh, từ tầm thấp đến tầm trung và tầm cao, đây sẽ là một thách thức rất lớn cho Thổ Nhĩ Kỳ và NATO nếu tấn công vào Syria. Lực lượng phòng không có 25 lữ đoàn, 650 bệ phóng tên lửa bán cố định SA-2, SA-3, SA-5, 200 xe phóng tên lửa đối không tầm trung di động SA-6, hệ thống này được gọi là “ba ngón tay của thần chết” bởi khả năng tuyệt vời của nó trong chiến tranh giữa Israel và khối Arab năm 1973. Ngoài ra, còn có 48 xe phóng tên lửa đối không tầm trung SA-11. Đây là hệ thống nâng cấp từ SA-6, được đánh giá là hệ thống phòng không tầm trung hiện đại nhất hiện nay. Cùng với đó còn phải kể đến, biến thể nâng cấp Buk-M2E cũng sẽ được chuyển giao cho Syria trong thời gian tới. Đặc biệt lực lượng phòng không Syria đang sở hữu 2 trung đoàn phòng không độc lập, với 48 bệ phóng tên lửa đối không tầm xa S-300 PMU/PMU1, 60 bệ phóng tên lửa phòng tầm thấp di động SA-8. S-300 PMU/PMU1 là một trong những hệ thống tên lửa đối không hiện đại nhất hiện nay, với tầm tác chiến lên đến 150km chống máy bay, 30km chống tên lửa đạn đạo. Một cuộc chạm trán với Không quân NATO là cơ hội không thể tốt hơn cho S-300 chứng minh khả năng là hệ thống phòng không hiện đại nhất thế giới. Làm thế nào để hóa giải hệ thống phòng không S-300 có lẽ là bài toán mà NATO vẫn chưa tìm thấy đáp án, một cuộc không kích vào Syria có thể trở thành thảm họa đối với khối quân sự này. Về lưới lửa tầm thấp, Syria có hơn 4.000 khẩu pháo phòng không các cỡ từ 23-100mm. Đặc biệt, Syria đang 50 hệ thống pháo tích hợp tên lửa phòng không cơ động Pantsir-S. Đây là một hệ thống phòng không tầm thấp rất hiện đại. Hệ thống này được thiết kế để chống lại các mục tiêu đường không tầm thất như máy bay, trực thăng, tên lửa hành trình. Bên cạnh đó, lực lượng phòng không không quân được hỗ trợ bởi một số lượng rất lớn các trạm radar cảnh báo sớm tầm xa như P-12, P-14, P-15, P-30, P-35 với tầm phát hiện mục tiêu tối đa khoảng 400km. Lực lượng này sẽ là một thách thức rất lớn đối với các máy bay chiến đấu của Ankara và NATO nếu có một chiến dịch không kích vào đây, chiếc trinh sát RF-4E bị bắn hạ một cách dễ dàng đã dóng lên hồi chuông cảnh báo sẽ là thảm họa nếu không kích vào Syria. - Hải quân Hải quân Syria là lực lượng không đáng kể và yếu nhất trong quân đội Syria, các trang thiết bị chủ yếu từ thời Liên Xô cũ, năng lực tác chiến tương đối hạn chế vơi khoảng 10 tàu phóng tên lửa OSA-1-I/II, 2 tàu khu trục Petya III, 4 tàu quét mìn, 3 tàu đổ bộ. Trong năm 2008, Syria đã ký một hợp đồng để mua tàu ngầm tấn công Amur-1650 từ Nga, tuy nhiên loại tàu ngầm tối tân này chưa rõ đã được chuyển giao hay chưa. Ngoài ra, lực lượng phòng thủ bờ biển Syria có 3 lữ đoàn được trang bị tên lửa chống hạm phóng từ đất liền C-802 có nguồn gốc từ Trung Quốc và được mua lại từ Iran. Hải quân Syria không phải là trở ngại lớn đối với NATO, trong ảnh tàu tên lửa cao tốc lớp OSA-II. Xét về phương diện trang bị, Quân đội Syria sở hữu trong tay những vũ khí đủ khả năng bẻ gãy những cuộc tập kích đường không nếu có. Bên cạnh đó, khác với Libya địa hình Syria nhiều đồi núi hơn, dễ thủ khó công, với những hệ thống tên lửa đối không có khả năng cơ động cao như S-300, SA-11, SA-6.. Tuy nhiên, mọi nhận định chỉ là trên lý thuyết, vũ khí trang bị hiện đại là điều cần nhưng chưa đủ để quyết định thắng lợi cuối cùng, trước đó, lực lượng phòng không Libya cũng được đánh giá rất cao. Bên cạnh đó còn có những yếu tố không kém phần quan trọng như kỹ năng, tinh thần chiến đấu của binh lính, các hoạt động phá hoại của lực lượng gián điệp có thể biến những vũ khí tối tân thành đồ vô dụng. |
Nhãn:
Quân đội Syria,
Tiềm lực quân sự
Chủ Nhật, 25 tháng 11, 2012
>> Tàu ngầm SMX-26 : Sự bổ sung hoàn hảo cho Kilo 636 Việt Nam
Hiện các cường quốc hải quân thế giới không ngừng sử dụng các công nghệ có tính đột phá để chế tạo các loại tàu ngầm có tính năng hiện đại. Phát triển lực lượng tàu ngầm đủ sức bảo vệ chủ quyền lãnh hải Việt Nam là xu thế tất yếu, vậy phải lựa chọn những loại tàu ngầm nào cho phù hợp với điều kiện kinh phí và đáp ứng yêu cầu tác chiến biển của hải quân Việt Nam? >> Sức mạnh tàu ngầm Kilo và các biến thể Tại triển lãm trang bị hải quân quốc tế châu Âu cuối tháng 10 năm nay, công ty DCNS đã giới thiệu mẫu thiết kế tàu ngầm tương lai SMX-26, thu hút sự chú ý của đông đảo các chuyên gia quân sự. Đây là loại tàu ngầm cỡ nhỏ, có chiều dài 40m, chiều rộng và chiều cao đều là 15m, lượng giãn nước 1000 tấn. Tàu ngầm SM-26 2 cửa phóng ngư lôi hạng nặng và 8 cửa phóng hạng nhẹ được bố trí phần đầu tàu. Về vũ khí, SMX-26 được trang bị một pháo Canon 20mm và hệ thống phóng tên lửa phòng không. Hai loại vũ khí này được tích hợp chung trên một trục nâng có điều khiển. Bình thường, trục này nằm trong thân tàu ở phần lưng, khi tác chiến, nhân viên điều khiển trục nhô lên mặt biển tấn công tàu thuyền và máy bay địch. Ngoài ra, nó còn được trang bị 2 quả ngư lôi cỡ lớn và 8 quả ngư lôi chống ngầm cỡ nhỏ được lắp đặt các đầu đạn hạng nặng, loại ngư lôi này còn có thể tấn công từ dưới nước vào các tàu sân bay. SMX-26 có 4 hệ thống đẩy chuyển hướng có điều khiển gập – xếp Vỏ tàu kiểu liền mạch làm giảm sức cản của nước và sóng âm làm tàu di chuyển cực êm, độ ồn rất thấp làm mù các hệ thống Sonar địch. Với khả năng tàng hình cao và hỏa lực rất mạnh, SMX-26 được coi là lực lượng tấn công hàng không mẫu hạm chủ lực hoặc lực lượng dự bị trong tác chiến răn đe hạt nhân. Khi bị máy bay săn ngầm phát hiện, nó không thèm bỏ chạy mà còn nổi lên đẩy hệ thống giá vũ khí lên mặt biển phóng tên lửa hạ thủ máy bay Đi sâu phân tích các tính năng, tham số của tàu ngầm SMX-26, ngoài những tính năng nổi bật cần có ở mọi loại tàu ngầm là: độ ồn thấp, tốc độ cao, khả năng phát hiện địch từ xa…, ta thấy những tàu ngầm kiểu này là sự bổ sung lí tưởng cho 6 tàu ngầm Kilo Việt Nam đặt mua từ Nga. Tiêu chí của bài viết này không mặc định là phải mua loại tàu ngầm SMX-26, chúng ta đi sâu phân tích những đặc điểm của nó với mục đích từ một nguyên mẫu cụ thể tìm ra mô hình tàu ngầm phù hợp với đặc điểm tác chiến của nước ta, trở thành lực lượng nòng cốt trong bảo vệ vững chắc lãnh hải và chủ quyền biển đảo Việt Nam. Khi tàu ngầm lặn, tất cả các càng và hệ thống chuyển hưởng đều thu vào, hệ thống vũ khí cũng được giấu trong thân Mô hình tàu ngầm kiểu SMX-26 rất phù hợp với tư tưởng tác chiến phòng thủ Việt Nam Tàu ngầm Kilo của Nga là các tàu ngầm hạng trung với khả năng tác chiến khá mạnh, hoạt động xa bờ. Tuy vậy, Việt Nam có bờ biển dài, chỉ với 6 tàu ngầm Kilo thì không thể bao quát hết vùng biển rộng lớn của ta. Thế nên, sở hữu thêm 2 lữ tàu ngầm cỡ nhỏ (khoảng 14-16 tàu), tác chiến gần bờ là sự bổ sung hoàn hảo, tạo thành hệ thống phòng thủ nhiều lớp trong phạm vi lãnh hải Việt Nam. Thứ nhất: Tàu ngầm cỡ nhỏ phù hợp với tư tưởng tác chiến của Việt Nam Từ trước đến nay, chiến lược quốc phòng của Việt Nam luôn được xây dựng theo định hướng lấy “Bảo vệ Tổ quốc” làm tư tưởng chủ đạo nên các trang bị quốc phòng thường thiên về xu hướng phòng thủ. Hơn nữa, do ngân sách quốc phòng hạn hẹp nên quân đội ta thường mua sắm các loại trang bị cỡ nhỏ nhưng có tính năng cơ động và hiệu quả tác chiến cao. Tàu ngầm hạng trung Kilo 636 do Nga sản xuất có lượng giãn nước gần 4000 tấn Điều này có thể thấy rõ qua chiến lược phát triển tàu nổi của hải quân Việt Nam. Hiện trong biến chế của hải quân Việt Nam, ngoài 2 tàu hộ vệ đa năng lớp Gepard 3.9 có lượng giãn nước trên 2000 tấn, đa phần các tàu chiến Việt Nam đều thuộc loại chiến hạm nhỏ, cơ động như: Tàu tên lửa lớp Osa lượng giãn nước gần 200 tấn, tàu tuần tiễu kiểu 10412 lớp Svetlyak tải trọng 364 tấn, tàu tên lửa kiểu 1241РЭ (1241RE) lớp Tarantul lượng giãn nước 500 tấn, tàu tên lửa kiểu 1241.8 Molniya cũng thuộc lớp Tarantul 550 tấn, tàu pháo TT400TP trên 400 tấn… Nó còn có khả năng tiêu diệt các tàu mặt nước hạng nặng, có thể dùng tấn công tàu sân bay SMX-26 là tàu ngầm cỡ nhỏ, tính năng cơ động cao, khả năng tấn công đa dạng đối ngầm, đối hạm và phòng không rất phù hợp với tư tưởng tác chiến của hải quân Việt Nam. Thứ 2: Giá thành không cao Các chuyên gia của DCNS cho biết, SMX-26 không hề sử dụng một công nghệ nào quá đắt đỏ. Các tính năng ưu việt của nó chủ yếu dựa trên thiết kế tối ưu và ý tưởng sáng tạo, ngay cả khả năng tàng hình của nó cũng dựa trên kết cấu vỏ liền thân và công nghệ vật liệu Composit cùng với khả năng giữ thăng bằng trong di chuyển để giảm lực cản của nước và hạn chế sóng âm. Thiết kế cửa trượt dọc thân tàu làm cho nó có khả năng mang và thả các tàu đệm hơi dùng cho lực lượng tác chiến đặc biệt Các giải pháp thiết kế tối ưu đã làm con tàu có tính năng cơ động cao và khả năng tác chiến đa địa hình mà không cần sử dụng các công nghệ bổ trợ, giảm bớt các chi phí phát sinh. Hơn nữa, tàu có kích thước và tải trọng chỉ nhỉnh hơn các loại tàu ngầm mini (tàu ngầm bỏ túi) một chút nên rõ ràng là chi phí đóng tàu không lớn.. Hiện chưa hình thành đơn giá của con tàu nhưng theo tính toán của các chuyên gia công nghệ, vào thời điểm hiện tại, giá của nó không bằng một nửa tàu ngầm Kilo (tàu Kilo có giá khoảng 350 triệu USD/chiếc). Sở hữu khoảng 2 lữ tàu ngầm dạng này cũng chỉ mất ngân sách ngang bằng 6 tàu ngầm Kilo. Miệng đường ống hút khí kiểu phao tiêu nổi trên mặt biển, nếu không lại gần rất khó có thể quan sát được Do vỏ tàu được thiết kế theo dạng liền thân không ghép mảnh, không phủ ngói cách âm nên SMX-26 chỉ có lượng giãn nước khoảng 1000 tấn (bằng 1/4 trọng lượng lặn của tàu ngầm Kilo là 3900 tấn) với kích thước 40x15x15 (bằng hơn một nửa kích thước Kilo). Nhân viên trên tàu dùng hệ thống radar và cảm biến quét địa hình dưới đáy biển Với ưu thế tác chiến ở vùng nước nông, có khả năng tác chiến đa địa hình nên SMX-26 không cần phải xây dựng các căn cứ tàu ngầm bề thế ở các cảng nước sâu. Nó có thể hoạt động gần bờ hoặc di chuyển trong các rạn san hô quanh các đảo nổi, đảo chìm nên chỉ cần xây dựng cơ sở sửa chữa giống như các công trình kiến trúc khác trên các đảo với cầu phao cơ động là có thể tiến hành sửa chữa, bảo dưỡng được. Lợi thế có thể triển khai dã chiến biến nó trở thành lực lượng bảo vệ hải đảo rất quan trọng, nâng phạm vi hoạt động của tàu lên rất cao so với tiêu chí tác chiến gần bờ của nó. 3 càng nâng, hạ kiểu bánh xe giúp tàu đứng im dưới đáy biển, thả ống hút khí để kiên nhẫn phục kích “con mồi” Do kích thước lớn hơn nên Kilo không thể hoạt động ở các vùng nước nông và khu vực nguy hiểm như SMX-26, đây sẽ là sự bổ sung hoàn hảo về khu vực tác chiến. SMX-26 còn có khả năng rải các thiết bị cảm biến trong khắp vùng biển nên càng nâng cao khả năng phát hiện tàu địch vốn đã khá ưu việt của Kilo, hơn nữa, nó còn có khả năng bảo vệ Kilo trước sự “nhòm ngó” của các máy bay trinh sát chống ngầm. Tàu ngầm dễ dàng hạ thủ các loại máy bay trinh sát chống ngầm bằng hệ thống tên lửa phòng không và pháo Canon 20mm Từ trước đến nay, các tàu ngầm trên thế giới đều e ngại sự lùng sục của phương tiện chống ngầm này. Tàu ngầm thường không có khả năng phòng không nên khi bị phát hiện nó chỉ có cách vừa lẩn trốn vừa gọi lực lượng hỗ trợ. Với hệ thống pháo và tên lửa phòng không kiểu trục đẩy lên mặt nước của mình, tàu ngầm SMX-26 có thể hạ sát loại máy bay vốn bay chậm và không có khả năng bảo vệ này, là sự bảo vệ đắc lực cho các tàu ngầm Kilo chỉ có khả năng chống ngầm, đối đất và đối hải. Thứ 5: Rất phù hợp với chiến thuật tác chiến đặc công độc đáo của Việt Nam Điểm đặc biệt của SMX-26 là nó có khả năng phản ứng nhanh rất hiệu quả, thiết kế cửa mở dạng trượt dọc còn cho phép nó mang theo cả những thiết bị đột nhập chuyên dụng của lực lượng đặc chủng như xuồng đệm hơi, tàu đệm khí cỡ nhỏ. Ngoài ra, nó có thể mang theo 6 người nhái đặc chủng làm nhiệm vụ trinh sát, nắm bắt tình hình, nếu điều kiện thuận lợi người nhái có thể trực tiếp tấn công tàu địch. Tính năng độc đáo này hiếm khi thấy ở các tàu ngầm hiện đại của phương Tây, rất phù hợp với tác chiến kiểu đặc công nước của Việt Nam. SMX-26 có thể chuyên chở thêm 6 người nhái đặc nhiệm giống đặc công nước Việt Nam SMX-26 có thiết kế càng nâng, hạ thân tàu kiểu bánh xe giống các bánh tiếp đất của máy bay. Khi tàu bơi trong nước nó được thu vào dưới bụng, khi thả ra nó giúp tàu có thể hạ xuống và di chuyển dưới đáy biển như một con cua. SMX-26 còn có hệ thống ống thông khí ngầm dưới nước kiểu phao tiêu giúp tàu không cần nổi lên mà vẫn lấy được lượng dưỡng khí cần thiết. Ngoài ra, nó còn có thể rải các hệ thống cảm biến tích hợp thiết bị nhận biết địch - ta ở khoảng cách rất xa tàu để giám sát cả mặt biển và dưới nước ở phạm vi rất rộng. Với 3 cái "chân" đặc biệt, nó có khả năng tìm kiếm các vực sâu hoặc các lạch nhỏ để ẩn nấp. Các đặc điểm này có thể giúp tàu khả năng di chuyển dưới đáy biển tìm kiếm các lạch nhỏ hoặc vũng sâu để ẩn nấp, tắt máy, tiềm phục dưới biển trong một thời gian dài, mà không bị phát hiện, rất phù hợp trong phương thức tác chiến phục kích, đón lõng tàu địch. |
Thứ Hai, 12 tháng 11, 2012
>> 6 chiến đấu cơ "khủng nhất" thế giới
F-22A, JF-17 Thunder hay Su-37...đều là những máy bay chiến đấu được trang bị đủ vũ khí để khiến bất cứ đối thủ nào cũng phải kinh sợ. >> Cuộc đua chế tạo tiêm kích thế hệ 6>> Tìm hiểu máy bay tiêm kích J-10 của Không quân Trung Quốc F/A-22 Raptor (Chim ăn thịt) F/A-22 Raptor (Chim ăn thịt) F/A-22 Raptor là máy bay chiến đấu thế hệ thứ 5 sử dụng kỹ thuật tàng hình thế hệ 4 và gia nhập Lực lượng Không quân Mỹ với tên chính thức là F-22A từ tháng 12 năm 2005. F-22 được trang bị hai động cơ phản lực cánh quạt đẩy có buồng đốt phụ Pratt & Whitney F119-PW-100 tích hợp bộ phận điều chỉnh hướng phụt và có lực đẩy tối đa là 35.000 lb cho mỗi động cơ. Tốc độ tối đa được ước tính là Mach (siêu thanh) 1,72 ở chế độ siêu tốc và không mang vũ khí ngoài. B2 Spirit B2 Spirit Là loại máy bay ném bom đa nhiệm vụ được trang bị công nghệ tàng hình trang bị bom thông thường và bom hạt nhân. Đặc điểm "tàng hình" độc nhất vô nhị giúp chiếc chiến đấu cơ này có khả năng ẩn náu trước hệ thống phòng thủ tinh vi nhất của kẻ thù và có thể tấn công ngay từ những vị trí đắc địa của đối phương. B2 có thể chở 2-3 quân nhân cùng với 80.000 lb lượng chất nổ bao gồm 16 quả bom hạt nhân B61, 80 quả bom Mk82 1.000 lb hoặc 16 quả bom Mk84 2.000 lb, 36 quả bom M117 750 lb, 36 quả bom chùm hoặc 80 quả mìn Mk36 1.000 lb. F-117A Nighthawk ( F-117A Chim ưng đêm) F-117A Nighthawk là chiếc máy bay đầu tiên trên thế giới được thiết kế hoàn toàn theo công nghệ tàng hình. F-117A một ghế ngồi cung cấp khả năng chiến đấu đặc biệt. Các khoang vũ khí riêng biệt bên trong F-117A có thể mang 2.300 kg vũ khí. Các vũ khí thường được trang bị là bom phá hầm ngầm BLU-109, bom dẫn đường laser GBU-10 Paveway II, GBU-12 Paveway II, và GBU-27... F-35 Lightning II F-35 Lightning II là loại máy bay tiêm kích một chỗ ngồi, một động cơ. Nó có khả năng thực hiện các nhiệm vụ như: yểm trợ trên không, ném bom chiến thuật, và chiến đấu không đối không. F-35 Lightning II được thiết kế để mang một pháo GAU-12/U 25 mm, 4 tên lửa đối không AIM-120 AMRAAM, AIM-9X Sidewinder hoặc AIM-132 ASRAAM hoặc 2 tên lửa đối không và 2 tên lửa đối đất trong khoang chứa bom. Bằng cách đánh đổi tính năng tàng hình (dễ bị radar phát hiện), F-35 Lightning II có thể mang thêm nhiều tên lửa, bom và thùng nhiên liệu phụ trên 4 đế dưới cánh và 2 vị trí đầu chót cánh. F-16 Fighting Falcon F-16 Fighting Falcon là một máy bay chiến đấu phản lực đa nhiệm vụ được thiết kế cho Không quân Mỹ. Loại tiêm kích này cũng đã thành công trong thị trường xuất khẩu và phục vụ tại 24 quốc gia. F-16 Fighting Falcon một chỗ ngồi có thể chở một pháo M61 Vulcan 20 mm với 511 viên đạn, tên lửa 2.75-inch, 6 tên lửa không đối không AIM-9 Sidewinder/AIM-120 AMRAAM/Python-4, 6 tên lửa không đối đất AGM-65 Maverick hoặc 4 tên lửa không đối đất AGM-88 HARM, 4 tên lửa chống tàu AGM-119 Penguin. Ngoài ra, F-16 còn mang được một kho bom khổng lồ bao gồm bom nguyên tử B61. Su-37 Su-37 được coi là tiêm kích thống trị trên không tốt nhất ở bán cầu Đông. Su-37 là máy bay chiến đấu một chỗ ngồi, có thể hoạt động ở mọi thời tiết và tấn công trên mặt đất. Nó có thể chở một pháo Gryazev-Shipunov GSh-30-1 30 mm với 150 viên đạn và 12 giá treo vũ khí với tổng trọng lượng vũ khí lên tới 18.080 lb. |
>> Nhật có thể chế tạo vũ khí hạt nhân trong vòng 183 ngày
Nhật Bản hiện đã trở thành nước sở hữu plutonium cấp vũ khí lớn nhất trên thế giới, trữ lượng nguyên tố plutonium đã vượt kho vũ khí hạt nhân của Mỹ. >> Tiềm lực quân đội Nhật Bản Tên lửa đẩy H2 của Nhật Tờ “Nhật báo Bắc Kinh” Trung Quốc vừa có bài viết cho rằng, gần đây Ủy ban Quân sự quốc tế và Giải trì quân bị của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc đã đưa ra dự thảo nghị quyết nhằm cắt giảm vũ khí hạt nhân. Nhưng khi ủy ban yêu cầu Nhật Bản ký, lại bị Chính phủ Nhật Bản từ chối. Chuyên gia quân sự Mỹ phân tích cho rằng, hành động này của Nhật Bản là để mở đường cho họ trang bị vũ khí hạt nhân trong tương lai. Mặc dù Nhật Bản là người chịu thiệt hại của bom hạt nhân (bom nguyên tử) trong Chiến tranh thế giới thứ hai, nhưng họ vẫn chẳng bao giờ quên sở hữu vũ khí hạt nhân. Có thể chế tạo được vũ khí hạt nhân trong vòng 183 ngày Theo hãng Kyodo Nhật Bản, cuối tháng 10/2012, tại một cuộc họp báo, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Nhật Bản chính thức cho biết, Chính phủ Nhật Bản không đồng ý với dự thảo nghị quyết về cắt giảm vũ khí hạt nhân được 18 nước trong đó có Thuỵ Sĩ kêu gọi tại Liên Hợp Quốc. Ông giải thích rằng, dự thảo này “hoàn toàn không thống nhất với chính sách an ninh của Nhật Bản”, không thể duy trì tính thống nhất về chính sách an ninh của Nhật Bản… Động thái này của Nhật Bản hoàn toàn không phải là ngẫu nhiên. Tháng 6/2012, Quốc hội Nhật Bản thông qua Luật sửa đổi “Luật cơ bản năng lượng nguyên tử”. Trong phương châm cơ bản nghiên cứu, sử dụng và khai thác năng lượng hạt nhân, dự luật đã bổ sung thêm câu “có lợi cho bảo đảm an ninh của quốc gia”. Nhật Bản có công nghệ hạt nhân phát triển “Luật cơ bản năng lượng nguyên tử” là luật quy định phương châm nghiên cứu, khai thác, sử dụng năng lượng hạt nhân, trong đó luật này luôn quy định “khai thác năng lượng hạt nhân giới hạn ở mục đích hòa bình”. Các nhà phân tích lo ngại, 34 năm qua, lần đầu tiên Nhật Bản sửa đổi điều khoản, rất có thể là để mở đường cho ứng dụng năng lượng hạt nhân cho mục đích quân sự. Bởi vì, ở Nhật Bản, bảo đảm an ninh thường được hiểu là “phòng vệ và quân sự”. Có phân tích cho rằng, hai năm gần đây thế lực cánh hữu Nhật Bản ngày càng phát triển, những lời kêu gọi cần sở hữu vũ khí hạt nhân ngày càng nhiều. Thị trưởng Tokyo Shihara Jintaro gần đây tuyên bố, Nhật Bản có thể nghiên cứu chế tạo được vũ khí hạt nhân trong vòng 1 năm. Thậm chí, có một số cựu quan chức cấp cao Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản cũng kêu gọi sở hữu vũ khí hạt nhân. Trên thực tế, một số chính khách Nhật Bản chưa bao giờ ngừng kêu gọi trang bị vũ khí hạt nhân để phòng thủ. Ngay từ tháng 5/1957, Thủ tướng Nhật Bản khi đó là Kishi Nobusuke đã nói rõ ràng rằng, để tự vệ, không loại trừ sở hữu vũ khí hạt nhân. Công nghệ hạt nhân Nhật Bản rất phát triển Tuy nhiên, một số chuyên gia quân sự cho rằng, Nhật Bản muốn thực sự sở hữu vũ khí hạt nhân là điều không hề dễ dàng, bởi vì họ không chỉ chịu sự trói buộc bởi chế độ “Ba nguyên tắc không sở hữu vũ khí hạt nhân”, sự “kiềm chế” của người dân trong nước, mà Mỹ có lẽ cũng không dễ dàng đồng ý. James Holmes, giáo sư Học viện Chiến tranh Hải quân Mỹ đã có bài viết trên tạp chí “Nhà ngoại giao” Nhật Bản cho rằng, nhận thức truyền thống và tư duy thông thường đều định vị Nhật Bản là “đối tượng đặc biệt không phổ biến vũ khí hạt nhân”, đồng thời coi Nhật là “quốc gia không thể sở hữu vũ khí hạt nhân nhất”. Thực ra, hàm ý của nó là, nếu người dân và các nhà lãnh đạo chính trị Nhật Bản giải quyết được vấn đề “phải chăng sở hữu vũ khí hạt nhân”, thì lập tức Nhật Bản có thể đạt được đột phá về chất, trở thành một quốc gia sở hữu hạt nhân thực sự. Theo tính toán thông thường, Nhật Bản nghiên cứu chế tạo ra vũ khí hạt nhân và đưa vào sử dụng chỉ mất thời gian khoảng 6 tháng đến 1 năm. Các nhà thiết kế bom hạt nhân Nhật Bản hoàn toàn có thể có được thiết bị nổ hạt nhân sơ cấp trong một khoảng thời gian nhất định, nhưng với tư cách là vũ khí hạt nhân sẵn sàng sử dụng trên chiến trường, còn có một khoảng cách thời gian rất dài. Ngay từ năm 1995, tạp chí “Đá quý” Nhật Bản tiết lộ, Nhật Bản có thể chế tạo bom nguyên tử trong 183 ngày. Dự trữ nguyên liệu hạt nhân vượt Mỹ Theo quy định của Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA), độ tinh khiết uranium hoặc plutonium của nguyên liệu bom hạt nhân đạt 92-93% được gọi là “cấp vũ khí”, nó đạt tới lượng nhất định sẽ có thể gây nổ hạt nhân. Bom nguyên tử/hạt nhân có uy lực mạnh Thông thường cho rằng, sử dụng 12-16 kg uranium, 6-9 kg plutonium cấp vũ khí thì có thể chế tạo được thiết bị nổ hạt nhân. Nhưng có người cho rằng, sử dụng phương pháp công nghệ cao, sử dụng 1-3 kg plutonium, 2,5-5 kg uranium thì có thể gây nổ hạt nhân. Hơn nữa, những người có chút ý thức thông thường về hạt nhân đều biết, “plutonium cấp lò phản ứng” có hàm lượng plutonium 239 tương đối thấp, trải qua tinh chế của nhà máy xử lý hậu nhiên liệu hạt nhân, thì có thể trở thành “plutonium cấp vũ khí” cao cấp. Theo bài báo của TQ tuyên truyền, Nhật Bản luôn lấy cớ điện hạt nhân để tích trữ nguyên liệu hạt nhân. Cuối thập niên 90 của thế kỷ trước, do sức ép của cộng đồng quốc tế và sự phản đối của người dân, Chính phủ Nhật Bản không thể sản xuất hoặc nhập khẩu lượng lớn nguyên tố plutonium, cho nên tìm ra biện pháp biến hóa: lấy tái sử dụng năng lượng làm danh nghĩa, vận chuyển phế liệu hạt nhân đã từng sử dụng ở nhà máy điện hạt nhân tới Tây Âu, sau khi xử lý lấy được plutonium có độ tinh khiết cao, đồng thời “bí mật” đưa nhiều nguyên tố plutonium hơn về nước. Từ năm 1999-2005, Nhật Bản mỗi năm vận chuyển từ Tây Âu về nước khoảng 900 kg plutonium, vượt xa lượng thu về từ tái xử lý phế liệu hạt nhân. Nếu lấy 900 kg plutonium sử dụng toàn bộ cho chế tạo bom hạt nhân, có thể sản xuất 60 quả bom hạt nhân hàng năm. Theo tính toán của chuyên gia Mỹ, Nhật Bản hiện đã trở thành nước sở hữu plutonium cấp vũ khí lớn nhất trên thế giới, trữ lượng nguyên tố plutonium của họ đã vượt số lượng 100 tấn trong kho vũ khí hạt nhân của Mỹ, có thể sản xuất hàng chục nghìn quả bom hạt nhân, đồng thời đang tăng lên với tốc độ khoảng 5 tấn mỗi năm. Hiroshima hoang tàn sau khi bị Mỹ thả bom nguyên tử Nhật Bản sở hữu công nghệ lò phản ứng tái tạo, công nghệ này luôn là trọng điểm và khó khăn trong nghiên cứu công nghệ hạt nhân. Sự phức tạp của công nghệ xây dựng lò phản ứng tái tạo và việc đầu tư khổng lồ cho nó vượt xa phát triển vũ khí hạt nhân, nó từng làm cho một số nước buộc phải chấm dứt chương trình xây dựng. Nhưng, trong 10 năm, Nhật Bản không ngại bỏ ra 6 tỷ USD đầu tư, xây dựng được lò phản ứng tái tạo neutron “Monju”, đồng thời vào tháng 8/1995, thử vận hành phát điện thành công. Đồng thời, Nhật Bản còn sở hữu công nghệ phản ứng nhiệt hạch hạt nhân tiên tiến nhất thế giới, đây là công nghệ then chốt trong nghiên cứu chế tạo bom nguyên tử. Hiện nay, Nhật Bản có khả năng nổ bom hạt nhân mô phỏng trên máy tính siêu mạnh. Về công nghệ, thử hạt nhân mô phỏng trên máy tính có ý nghĩa to lớn đối với việc tiếp tục nghiên cứu chế tạo và hoàn thiện vũ khí hạt nhân kiểu mới. Theo bài báo, Nhật Bản đã nghiên cứu thành công máy tính siêu tốc với tốc độ tính toán đạt 600 tỷ lần/giây, hoàn toàn có khả năng tiến hành thử nghiệm mô phỏng máy tính đối với nổ hạt nhân. Khả năng chế tạo bom hạt nhân rất mạnh Do đầu đạn của tên lửa đạn đạo bay lên độ cao vài trăm đến vài nghìn km, quay trở về bầu khí quyển với tốc độ cao, môi trường bay rất khắc nghiệt, rất nhiều nước sở hữu tên lửa đạn đạo đều giậm chân tại chỗ do không thể vượt qua trở ngại công nghệ này. Trong khi đó, trên lĩnh vực có liên quan, Nhật Bản có ưu thế công nghệ được thế giới công nhận. Tên lửa xuyên lục địa, tầm trung, tầm xa đi vào bầu khí quyển với tốc độ 4,3-7,3 km/giây và góc chếch 40-200, đầu đạn tên lửa ở xa có thể nóng lên tới 3.000-4.000 0C, đầu đạn tên lửa xuyên lục địa nóng bằng bề mặt Mặt Trời là 6.000-10.000 0C. Phải chịu môi trường khắc nghiệt, cần có vật liệu tốt. Vào thập niên 60 của thế kỷ 20, từng sử dụng hợp kim wolfram có điểm nóng chảy cao nhất để chế tạo mũi đầu đạn. Nhưng, điểm nóng chảy của hợp kim wolfram cũng không quá 3.500 0C, hơn nữa độ dày rất lớn, sớm bị loại bỏ. Năm 1969, Công ty Toray Nhật Bản sản xuất được lô sợi carbon có độ bền cao trên thế giới. Khởi đầu từ đó, Nhật Bản sau này đã chế tạo được vật liệu chịu nhiệt tốt. Với ưu thế công nghệ trong lĩnh vực vật liệu composite carbon/carbon, có thể cho rằng, một khi Nhật Bản đưa ra quyết định, họ sẽ rất nhanh chế tạo được đầu đạn hạt nhân của tên lửa tầm trung, tầm xa và tên lửa đạn đạo xuyên lục địa. Ngoài vấn đề chịu nhiệt, đầu đạn của tên lửa đạn đạo hiện đại còn đối mặt với 2 vấn đề khó là kiểm soát độ chính xác điểm rơi (tức dẫn đường chính xác, dẫn đường đầu cuối) và chống đánh chặn (tức đột phá phòng thủ/phòng không). Mọi người đều biết, trên 2 lĩnh vực này, Mỹ dẫn trước thế giới, nhưng họ thường dựa vào Nhật Bản nhập khẩu công nghệ và linh kiện điện tử có độ chính xác cao. Mùa hè năm 1985, sau khi thực hiện “Chiến tranh giữa các vì sao” (Star Wars) không lâu, Mỹ yêu cầu cơ quan nghiên cứu công nghệ của Cục Phòng vệ Nhật Bản cung cấp thiết bị tìm kiếm hình ảnh của Công ty Toshiba. Loại thiết bị này có thể không bị tia hồng ngoại và radar gây nhiễu, có hiệu quả hơn phương pháp định vị, theo dõi thông thường. Từ những thiết bị, công nghệ mà Mỹ mua của Nhật Bản (như thiết bị gallium arsenide, công nghệ sub-micron, công nghệ nhận biết hình ảnh…) ta có thể nhận thấy, Nhật Bản có thực lực to lớn cả về “dẫn đường chính xác” và “đột phá phòng không/thủ”. Đứng đầu thế giới về công nghệ đẩy đầu đạn hạt nhân Từ thập niên 50 của thế kỷ 20, Nhật Bản đã bắt đầu nghiên cứu chế tạo tên lửa đẩy hiện đại. Tháng 2/1970, họ sử dụng tên lửa thể rắn lớp 3 L-4S đưa vệ tinh Osumi nặng 24 kg vào vũ trụ, trở thành quốc gia thứ tư sử dụng tên lửa đẩy của mình để phóng vệ tinh. Sau khi nhập công nghệ tên lửa Delta tiên tiến của Mỹ vào thập niên 70 của thế kỷ 20, Nhật Bản đẩy nhanh các bước phát triển sự nghiệp không gian. Hơn 20 năm qua, họ đã sử dụng 11 loại tên lửa loạt L, M, N, H, J5, đã phóng hơn 50 vệ tinh với các quỹ đạo khác nhau, trở thành một nước lớn không gian có thực lực hùng hậu. Nhật Bản sở hữu công nghệ tên lửa đẩy dẫn trước thế giới Các hoạt động phóng thường xuyên đã giúp Nhật Bản tích lũy được kinh nghiệm phong phú và đạt trình độ hàng đầu thế giới trên các phương diện như lĩnh vực tên lửa thể rắn (gồm thuốc phóng/nhiên liệu đẩy của động cơ, công nghệ ống phun/nozzle, vật liệu) và công nghệ kiểm soát, phóng tên lửa. Giữa “tên lửa đẩy không gian thể rắn” và “tên lửa đạn đạo thể rắn” rất gần gũi về công nghệ. Nếu lấy vệ tinh (được tên lửa đẩy mang theo) thay thế bằng đầu đạn của tên lửa hoặc bom hạt nhân, thay đổi quỹ đạo bay, nó sẽ trở thành tên lửa đạn đạo hoặc tên lửa hạt nhân có thể tấn công các mục tiêu mặt đất. Các chủng loại tên lửa thể rắn của Nhật Bản tương đối nhiều, có thể tạo thành các loại tên lửa tầm ngắn, tầm trung, tầm xa và xuyên lục địa. Có thể thấy, Nhật Bản hoàn toàn có khả năng chế tạo vũ khí hạt nhân, không thể coi nhẹ những lời kêu gọi “răn đe hạt nhân” của các chính khách Nhật Bản trong những năm qua, mà cần quan tâm đến các động thái phát triển vũ khí hạt nhân của Nhật Bản. Mấy chục năm qua, một loạt các nhà khoa học và nhân viên kỹ thuật Nhật Bản, được trưởng thành nhờ phát triển điện hạt nhân dân dụng, đã tận dụng nền tảng công nghiệp hạt nhân và ưu thế công nghệ cao, tiến hành những công việc (mà các nước công nghiệp hóa bình thường không theo kịp) trên lĩnh vực phản ứng nhiệt hạch hạt nhân có liên quan chặt chẽ tới bom hạt nhân thế hệ thứ hai, thậm chí họ có kế hoạch đổ bộ lên Mặt Trăng trong thế kỷ 21, thu lấy đê-u-tri-um (deuterium) và tri-ti-um (tritium, T) có trữ lượng phong phú trên Mặt Trăng, mà việc kết hợp phản ứng hỗn hợp và phản ứng phân tách giữa đê-u-tri-um và tri-ti-um có thể chế tạo ra bom khinh khí (bom Hy-đrô). Nhật Bản sở hữu vũ khí hạt nhân sẽ nâng cao khả năng răn đe chiến lược Báo Trung Quốc viết, sở hữu vũ khí hạt nhân là một sự cấm kị lớn của Nhật Bản, rất nhiều chính khách cấp tiến của Nhật Bản lại đang tìm cách phá đi sự cấm kị này, cho rằng trang bị vũ khí hạt nhân có thể nâng cao khả năng răn đe chiến lược cho Nhật Bản, đồng thời cũng là một vấn đề rất có thể diện. Nhưng, một bản báo cáo nghiên cứu tuyệt mật của Chính phủ Nhật Bản cho rằng, Nhật Bản không phải là không thể mà là không dám sở hữu vũ khí hạt nhân, bởi vì sở hữu vũ khí hạt nhân sẽ nguy hiểm hơn 1.000 lần so với không sở hữu vũ khí hạt nhân. Nhật Bản nghiên cứu chế tạo vũ khí hạt nhân trước hết sẽ bị nhìn nhận về ngoại giao, đối với một nước thiếu thốn tài nguyên như Nhật Bản, đây là điều không thể chịu đựng được. Chỉ cần cộng đồng quốc tế tiến hành trừng phạt và phong tỏa thương mại đối với Nhật Bản, nền kinh tế Nhật Bản sẽ khó khăn - báo TQ nhận định. Tên lửa đẩy H2 của Nhật Bản Tuy nhiên, để điều này xảy ra hoàn toàn khó có căn cứ, hơn nữa người Nhật Bản luôn biết mình là ai.... Bao TQ cho rằng, nếu bị phong toả, không có dầu mỏ thì máy bay, xe tăng sẽ không hoạt động được, sẽ không tiến hành được chiến tranh hiện đại, càng chưa nói đến chiến lược hạt nhân. Đồng thời, nghiên cứu chế tạo lượng lớn vũ khí hạt nhân cần động viên đông đảo nhân viên kỹ thuật của cả nước và sự ủng hộ của người dân, đây cũng là khó khăn rất lớn của Nhật Bản, trong khi đó lượng vũ khí hạt nhân ít thì không thể tạo ra được khả năng răn đe. Ngoài ra, diện tích lãnh thổ Nhật Bản hẹp là điểm yếu trong răn đe chiến lược hạt nhân của Nhật Bản. Một khi xảy ra chiến tranh hạt nhân với nước khác, một đất nước không có chiều sâu chiến lược như Nhật Bản sẽ bị thiệt hại nặng chỉ bằng vài quả bom hạt nhân. Vì vậy, thành viên cốt lõi tham dự nghiên cứu vũ khí hạt nhân của Chính phủ Sato Eisaku trước đây, giáo sư danh dự Đại học Sophia, ông Rōyama Michio từng nói: “Trong những người ‘tham gia nghiên cứu vũ khí hạt nhân’, không có ai tích cực cổ vũ cho trang bị vũ khí hạt nhân. Bởi vì, Nhật Bản căn bản không có điều kiện cần thiết để xây dựng khả năng chiến đấu hạt nhân với các nước lớn. Điều quan trọng hơn là, vũ khí hạt nhân là hạ sách, lựa chọn vũ khí hạt nhân chính là lựa chọn đối đầu với tất cả các nước. Thà nói là trở ngại Hiến pháp, còn hơn là nói về địa-chính trị không cho phép chúng ta như vậy”. (Báo Trung Quốc) |
Thứ Sáu, 9 tháng 11, 2012
>> Tuyệt chiêu cứu mạng của tàu ngầm Pháp
Bị máy bay/trực thăng chống ngầm đẩy vào tuyệt cảnh, tàu ngầm Pháp có thể dùng A3SM để tự cứu mình khỏi cái chết mười mươi. >> Đánh giá thực lực quân đội Pháp Tại triển lãm Euronaval 2012 ở Paris vừa qua, hãng đóng tàu DCNS (Pháp) đã giới thiệu 2 biến thể hệ thống tên lửa phòng không A3SM dùng để tàu ngầm đang lặn tự vệ. Cả 2 biến thể A3SM đều được dùng để trang bị cho tàu ngầm thông thường bán cho khách hàng nước ngoài. Biến thể thứ nhất là A3SM Mast, gồm một ống phóng quay bên trong chứa tên lửa của hệ thống phòng không Mistral của MBDA, được đưa lên bằng một cơ cấu cột tàu đặc biệt, bố trí tại khu vực các thiết bị thò lên/rút xuống của tàu ngầm (giống như kính tiềm vọng). Việc nâng bệ phóng nhô lên trên mặt nước và phóng tên lửa phòng không thực hiện khi tàu ngầm đang lặn ở độ sâu sử dụng kính tiềm vọng. Việc chỉ tị mục tiêu và ngắm bắn do kính tiềm vọng quang-điện tử được nâng nhô lên trên mặt nước đồng thời. Hình ảnh A3SM Mast phóng tên lửa phòng không Mistral(trên ảnh, cột bên trái là kính tiềm vọng quang-điện tử dùng để chỉ thị mục tiêu và ngắm bắn, cột gắn bệ phóng xoay ở bên phải) DCNS cũng giới thiệu clip một kịch bản quy trình tác chiến của A3SM Mast như sau: một tàu ngầm trang bị A3SM Mast bị trực thăng chống ngầm phát hiện, các động tác cơ động tránh né vô hiệu, tàu ngầm buộc phải sử dụng A3SM Mast để tự vệ khẩn cấp, tàu ngầm nổi lên độ sâu sử dụng kính tiềm vọng, kính tiềm vọng quang-điện tử và cột gắn bệ phóng xoay (lúc này bệ phóng ở trạng thái thẳng đứng cùng với cột) được nâng nhô lên trên mặt nước, bệ phóng xoay ngang, các nắp đậy 2 đầu ống phóng mở ra, kính tiềm vọng sục sạo phát hiện mục tiêu và ngắm bắn, sau đó tên lửa được phóng đi tiêu diệt một trực thăng chống ngầm; tiếp đó phát hiện tiếp một trực thăng chống ngầm khác; phóng tiếp một tên lửa tiêu diệt mục tiêu này, sau đó tàu ngầm rút hạ kính tiềm vọng và cột gắn bệ phóng rồi lặn xuống độ sâu an toàn. Hãng DCNS đã tiến hành các thử nghiệm mặt đất tại trường thử đối với bệ phóng của A3SM Mast. Về mặt khái niệm, biến thể A3SM Mast này của A3SM tương tự hệ thống tên lửa phòng không Vickers SLAM do Anh phát triển vào đầu thập niên 1970, sử dụng tên lửa của hệ thống tên lửa phòng không mang vác Short Blowpipe. Năm 1972, hệ thống SLAM đã thử nghiệm thành công trên tàu ngầm bị thải loại của Anh Aeneas, nhưng cuối cùng không tìm được khách hàng. Biến thể thứ hai của A3SM là A3SM Underwater Vehicle sử dụng tên lửa phòng không chế tạo dựa trên tên lửa không đối không tầm trung MICA của MBDA và có tầm bắn đến 20 km. Tên lửa được bố trí trong bệ phóng dạng ống phóng cáp-xun tương tự như bệ phóng dùng cho tàu ngầm phóng tên lửa chống hạm Exocet SM39 của MBDA và được bắn đi bằng ống phóng lôi tiêu chuẩn 533 mm. Hình ảnh A3SM Underwater Vehicle tác chiến bằng tên lửa MICA Một kịch bản quy trình tác chiến của A3SM Underwater Vehicle được giới thiệu trong clip của DCNS như sau: một tàu ngầm trang bị A3SM Underwater Vehicle đang tuần tra thì bị trực thăng chống ngầm phát hiện, các động tác cơ động tránh né vô hiệu, tàu ngầm buộc phải sử dụng A3SM Underwater Vehicle để tự vệ khẩn cấp, tàu ngầm đang lặn sâu phóng đi tên lửa trong cáp-xun được phóng lên mặt nước; ra khỏi mặt nước, động cơ tên lửa khởi động đưa tên lửa bay tới bắn hạ trực trực thăng chống ngầm; sau đó, tàu ngầm tiếp tục hành trình tuần tra. |
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)
Chuyên mục Quân Sự
Hải quân Trung Quốc
(263)
Hải quân Mỹ
(174)
Hải quân Việt Nam
(171)
Hải quân Nga
(113)
Không quân Mỹ
(94)
Phân tích quân sự
(91)
Không quân Nga
(83)
Hải quân Ấn Độ
(54)
Không quân Trung Quốc
(53)
Xung đột biển Đông
(50)
Không quân Việt Nam
(44)
tàu ngầm
(42)
Hải quân Nhật
(33)
Không quân Ấn Độ
(16)
Tàu ngầm hạt nhân
(15)
Hải quân Singapore
(12)
Xung đột Iran - Israel
(12)
Không quân Đài Loan
(9)
Siêu tên lửa
(8)
Quy tắc ứng xử ở Biển Đông
(7)
Tranh chấp biển Đông
(7)
Xung đột Trung - Mỹ
(4)
Xung đột Việt-Trung
(2)