Tin Quân Sự - Blog tin tức Quân sự Việt Nam: Tàu ngầm Trung Quốc

Paracel Islands & Spratly Islands Belong to Viet Nam !

Quần Đảo Hoàng Sa - Quần Đảo Trường Sa Thuộc Về Việt Nam !

Hiển thị các bài đăng có nhãn Tàu ngầm Trung Quốc. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Tàu ngầm Trung Quốc. Hiển thị tất cả bài đăng

Chủ Nhật, 14 tháng 8, 2011

>> Hồ sơ tàu ngầm Đông Bắc Á (kỳ 3)



Sau khi chinh phục thế giới nguyên tử, các nước trong khu vực Đông Á như Trung Quốc, Hàn Quốc không chần chừ đưa nguồn năng lượng này vào vận hành tàu ngầm, nhằm tăng cường sức mạnh cho lực lượng dưới mặt biển.

>> Hồ sơ tàu ngầm Đông Bắc Á (kỳ 1)
>> Hồ sơ tàu ngầm Đông Bắc Á (kỳ 2)


http://nghiadx.blogspot.com

Tàu ngầm hạt nhân đầu tiên của Trung Quốc, Type 091 (lớp Hán).


Kỳ 3: Giấc mơ đại gia tàu ngầm

20 năm cho bước đi đầu

Tham vọng tàu ngầm hạt nhân của Trung Quốc “nhen nhóm” từ cuối những năm 1950 nhưng nước này gặp không ít khó khăn về động lực hạt nhân, yếu tố kỹ thuật, tài chính… Đặc biệt, Trung Quốc đánh mất quan hệ tốt đẹp với Liên Xô nên kế hoạch đề ra bị đầy lùi hơn 10 năm. Năm 1965, lãnh đạo Nhà nước Trung Quốc “bật đèn xanh” tái triển khai chương trình phát triển tàu ngầm hạt nhân. Nhóm nhà khoa học hạt nhân và quan chức cấp cao chính phủ đã được thành lập để chỉ đạo phát triển tàu ngầm hạt nhân. Một loạt các cở sở công nghiệp quốc phòng Trung Quốc được huy động cho dự án này.

Năm 1968, việc đóng tàu ngầm tấn công chạy động cơ hạt nhân đầu tiên của Trung Quốc, Type 091 (lớp Hán) bắn đầu. Năm 1970, lò phản ứng chế tạo trên đất liền sẵn sàng được lắp vào tàu. Tháng 12/1970, tàu ngầm Type 091 hạ thủy và lò phản ứng kích hoạt tháng 7/1971. Quá trình chạy thử nghiệm bắt đầu tháng 8/1971 và đi vào phục vụ trong Hải quân Trung Quốc năm 1974. Trên thực tế, cho đến thời điểm đó Type 091 chỉ là tàu ngầm hạt nhân “vô dụng” bởi nó không có hệ thống vũ khí phù hợp và hệ thống điều khiển hỏa lực. Giữa những năm 1980, mối quan hệ Trung Quốc – phương Tây ấm dần, Trung Quốc mua được công nghệ lò phản ứng, thiết bị điều khiển hỏa lực, sonar từ Pháp. Nhờ vậy, các tàu ngầm hạt nhân của Trung Quốc đã có “hồn” hơn.

Nếu như Trung Quốc bỏ phí 20 năm cho tàu ngầm hạt nhân Type 091 với nhiều lỗi thiết kế thì với tàu ngầm tấn công hạt nhân thế hệ hai Type 093 (lớp Tống), Trung Quốc chỉ mất nửa thời gian. Đó là nhờ vào sự giúp đỡ đắc lực của Cục thiết kế Rubin – cơ quan chuyên phát triển tàu ngầm Nga, khi quan hệ giữa 2 nước được cải thiện.

Công việc chế tạo Type 093 bắt đầu vào năm 1995 hoặc 1996 ở nhà máy Bột Hải (Bohai). Type 093 chính thức hạ thủy tháng 12/2002 và đi vào hoạt động trong Hải quân Trung Quốc tháng 12/2006. Có nguồn tin cho rằng Type 093 là thiết kế dựa trên tàu ngầm tấn công lớp Victor III của Nga, nhưng giới chức Trung Quốc luôn phản đối điều này. Dù sao, họ không thể phủ nhận việc nhiều công nghệ Nga đã được tích hợp vào Type 093. Nhờ đó, trong suốt quá trình phát triển Trung Quốc không gặp bất kỳ khó khăn nào.

Có "danh" mà chưa có "tiếng"

Tương tự kế hoạch phát triển tàu ngầm tấn công chạy động cơ hạt nhân. Trung Quốc lên chương trình chế tạo tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa đạn đạo từ cuối những năm 1950. Năm 1959, Trung Quốc mua được một tàu ngầm chạy động cơ diesel – điện trang bị tên lửa đạn đạo lớp Golf (project 629) của Liên Xô. Loại tàu này có lượng giãn nước 3.553 tấn mang được 3 ống phóng tên lửa đạn đạo R-11FM.

Trung Quốc không sử dụng lớp Golf để chiến đấu mà để thử nghiệm, đánh giá. Đặc biệt cho dự án phát triển tên lửa đạn đạo phóng từ tàu ngầm JL-1 (Cự Lãng 1) và cũng có thể là dùng cho bắn thử JL-2 (Cự Lãng 2). Tháng 9/1970, Trung Quốc khởi công đóng tàu ngầm hạt nhân trang bị tên lửa đạn đạo đầu tiên mang tên Type 092 (lớp Hạ). Con tàu này được chế tạo gần với thời gian Trung Quốc đóng tàu ngầm hạt nhân tấn công Type 091. Ở đây, thay vì phát triển thiết kế hoàn toàn mới, Trung Quốc quyết định sử dụng khung thân Type 091 để chế tạo, họ đã kéo dài thân tàu dành chỗ chứa cho tên lửa.

Cũng như Type 091, Type 093 cũng gặp phải vấn đề kỹ thuật và chính trị, phải đến năm 1981, Trung Quốc mới hạ thủy Type 093 (lớp Hạ) và đưa vào phục vụ trong hải quân (năm 1983) nhưng thiếu vũ khí chính là tên lửa đạn đạo JL-1, do không hoàn thành đúng như kế hoạch.

Phải tới cuối những năm 1980, tàu ngầm hạt nhân Type 093 (lớp Hạ) mới vận hành đầy đủ theo đúng thiết kế. Giai đoạn 1995-2001, Trung Quốc tiến hành hiện đại hóa Type 092 (lớp Hạ) trang bị cho nó tên lửa đạn JL-1A có tầm bắn 2.500km tăng độ chính xác. Giống hệt giai đoạn phát triển tàu ngầm tấn công động cơ hạt nhân, việc chế tạo thế hệ hai tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa đạn đạo của Trung Quốc cực kỳ suôn sẻ. Tất nhiên, Trung Quốc phải nhờ tới sự giúp đỡ từ cục thiết kế Rubin.

Tàu ngầm hạt nhân chiến lược Type 094 (lớn Tấn) bắt đầu chế tạo năm 1999, hạ thủy tháng 7/2004. Type 094 có nhiều điểm tương đồng với tàu ngầm Type 093 (lớp Tống), điều đó cho thấy cả hai lớp tàu được chia sẻ từ một thiết kế cơ sở.Tuy nhiên, kể từ khi hạ thủy tới nay người ta chưa ghi nhận bất kỳ lần phóng thử tên lửa JL-2 nào từ tàu ngầm Type 094. Trong khi, Type 094 vẫn chưa đi vào vận hành đầy đủ trong Hải quân Trung Quốc, đã có tin Trung quốc phát triển tàu ngầm hạt nhân chiến lược Type 096 (lớp Đường) có thể mang 24 tên lửa JL-2.

Giấc mơ không chỉ từ phim ảnh

Giống với Trung Quốc đã làm chủ được công nghệ hạt nhân và không chịu những ràng buộc quốc tế như Nhật Bản, Hàn Quốc bắt đầu nghĩ tới việc chế tạo tàu ngầm hạt nhân.

Năm 1999, ở Hàn Quốc xuất hiện bộ phim Yuryeong (có tên tiếng Anh là Phantom: The Submarine), nói về việc hải quân nước này vận hành một tàu ngầm hạt nhân. Ngay lập tức, bộ phim đã giành được 6 giải thưởng cao quý của điện ảnh Hàn Quốc.


http://nghiadx.blogspot.com

Giấc mơ tàu ngầm hạt nhân Hàn Quốc xuất hiện trên phim.



http://nghiadx.blogspot.com

Hình ảnh mô phỏng tàu ngầm Chang Bogo III được cho là tàu ngầm tấn công động lực hạt nhân đầu tiên của Hàn Quốc.


Tuy nhiên, đây không phải giấc mơ của riêng đạo diễn Byung-chun Min mà là một chiến lược của giới quân sự Hàn Quốc. Theo một số thông tin đăng trên tờ Choson Ilbo (tháng 1/2004), nhà báo Yu Yong-won đã tiết lộ lãnh đạo quốc phòng Hàn Quốc hoàn toàn nghiêm túc với ý tưởng sở hữu tàu ngầm nguyên tử. Tháng 8/2004, nhà báo Kim Yong-Sam tái khẳng định thông tin trên bằng một bài viết đăng trên tạp chí Wolgan Choson.

Theo đó, Bộ Quốc phòng Hàn Quốc đã xúc tiến thiết kế mẫu tàu ngầm nguyên từ từ tháng 6/2003. Trên mạng Global Security cũng nhắc tới dự án chế tạo SSX-N của Hàn Quốc như là một tàu ngầm động lực hạt nhân. Nếu quả thực như vậy, thế độc tôn tàu ngầm hạt nhân của Trung Quốc trong khu vực sẽ bị phá vỡ. Tag: Hải quân các nước trên thế giới.

Tàu ngầm Type 091 (lớp Hán) thiết kế với kiểu dáng “giọt nước”, thân tàu bố trí làm 7 khoang kín nước. Tàu có lượng giãn nước 5.500 tấn (khi lặn). Vũ khí chính của tàu gồm 6 ống phóng ngư lôi cỡ 533mm (bắn ngư lôi Yu-3 có cự ly 15km) và tên lửa hành trình đối hạm YJ-8 (tầm bắn 40 km, đầu đạn nặng 165kg). Từ 1977-1990, Trung Quốc đóng liên tiếp 4 tàu Type 091 (đánh số hiệu 401-405). Đầu năm 2000, Trung Quốc cho nghỉ hưu 2 chiếc 401 và 402.

Tàu ngầm Type 093 (lớp Tống) có lượng giãn nước 6.000-7.000 tấn (khi lặn). Vũ khí của Type 093 gồm: 6 ống phóng ngư lôi cỡ 533mm có thể đáp ứng yêu cầu bắn ngư lôi hoặc tên lửa hành trình đối hạm YJ-82.

Tàu ngầm Type 092 (lớp Hạ) có lượng giãn nước 6.500 tấn. Vũ khí chính gồm: 6 ống phóng lôi 533mm (12 quả Yu-3, tầm bắn 15km) và 12 tên lửa đạn đạo JL-1 (Cự lãng 1) với tầm bắn tối đa 2.150km, mang đầu đạn hạt nhân 25-50 kiloton. Tên lửa JL-1 được phóng lần đầu tiên từ tàu ngầm Type 092 tháng 9/1987.

Type 094 có lượng giãn nước 8.000-9.000 tấn, chiều dài toàn thân 133m. Tàu được vũ trang 6 ống phóng ngư lôi cỡ 533mm (12 quả loại Yu-3 có tầm bắn 15km) và tên lửa đạn đạo JL-2 (Cự lãng 2) có tầm bắn lên tới 7.000-8.000km, mang đầu đạn hạt nhân cỡ 1.000 kiloton.

Thứ Bảy, 13 tháng 8, 2011

>> Tàu ngầm hạt nhân của Trung Quốc



Hoàn thành tham vọng nguyên tử, Trung Quốc đang xây dựng lực lượng tàu ngầm hạt nhân cho riêng mình.

Dưới đây là một số tàu ngầm hạt nhân của Trung Quốc:


http://nghiadx.blogspot.com
Tàu ngầm tấn công chạy bằng năng lượng hạt nhân Type 091 (lớp Hán).


http://nghiadx.blogspot.com

Tàu ngầm tấn công chạy bằng năng lượng hạt nhân Type 093 (lớp Tống).



http://nghiadx.blogspot.com

Tàu ngầm hạt nhân Type 092 (lớp Hạ) trang bị tên lửa đạn đạo Cự Lãng-1.



http://nghiadx.blogspot.com

Quang cảnh nạp đạn tên lửa Cự Lãng 1 lên tàu ngầm lớp Hạ.



http://nghiadx.blogspot.com

Phóng thử nghiệm tên lửa đạn đạo Cự Lãng 1 từ tàu ngầm.


http://nghiadx.blogspot.com

Tàu ngầm hạt nhân Type 094 (lớp Tấn) với các ống phóng tên lửa đang được mở nắp.



>> Hồ sơ tàu ngầm Đông Bắc Á (kỳ 2)



Là nước có tham vọng tiến ra biển mạnh mẽ, Trung Quốc đã phát triển lực lượng tàu ngầm vào hàng lớn nhất ở châu Á.

>> Hồ sơ tàu ngầm Đông Bắc Á (kỳ 1)


http://nghiadx.blogspot.com
Tàu ngầm tấn công chạy động cơ điện - diesel Type 035 (lớp Minh).


Chìm nổi theo quan hệ Trung - Xô

Trong khu vực châu Á, Trung Quốc có khoảng 70 tàu ngầm các loại. Nếu bỏ qua số tàu ngầm Triều Tiên (gần 90 chiếc nhưng chủ yếu là loại mini), đây là lực lượng tàu ngầm đông đảo nhất và có chất lượng đáng kể. Sự hùng hậu này khởi đầu từ sự giúp đỡ hết mình của Liên Xô, tính từ khi 2 nước ký kết thỏa thuận hợp tác quốc phòng năm 1954.

Khi đó, Liên Xô viện trợ cho Trung Quốc tàu ngầm tấn công chạy động cơ điện – diesel lớp Whiskey, có thiết kế dựa theo kinh nghiệm chiến tranh kết hợp với công nghệ tàu ngầm của Đức. Tàu lớp Whiskey có lượng giãn nước 1.350 tấn với hệ thống vũ khí gồm 6 ống phóng ngư lôi cỡ 533mm (12 quả), tháp pháo 40mm và 20mm.

Liên Xô còn trợ giúp Trung Quốc tự đóng tàu ngầm bằng việc cung cấp linh phụ kiện, các tài liệu liên quan. Điều này đã giúp ích nhiều cho công nghệ non trẻ của Trung Quốc trong lĩnh vực đóng tàu. Nhờ đó, Trung Quốc tự đóng được các tàu ngầm lớp Whiskey và biến thể nâng cấp của nó, tàu ngầm lớp Romeo.

Ở lớp tàu Romeo, Trung Quốc tăng dần yếu tố nội địa. Công việc đang triển khai hết sức tốt đẹp thì mối quan hệ Trung – Xô căng thẳng, vào những năm 1960, Liên Xô rút hết tất cả cố vấn quân sự cùng tài liệu kỹ thuật quan trọng về nước. Việc đóng tàu Romeo theo đó bị dừng mất vài năm do Trung Quốc phải tự sản xuất một số trang thiết bị cho tàu. Tới năm 1965, tàu ngầm lớp Romeo của Hải quân Trung Quốc chính thức hạ thủy. Và phải mất 5 năm (1970), tàu mới chính thức đi vào hoạt động. Đến nay, có khoảng 84 chiếc Romeo (Trung Quốc gọi lại là Type-033) đã được chế tạo.

Đối đầu với “người thầy, người bạn tốt bụng” Liên Xô trong khi nền công nghiệp quốc phòng còn lạc hậu, Trung Quốc buộc phải tự thân phát triển tàu ngầm tấn công động cơ diesel – điện. Từ tháng 11/1969, Viện thiết kế và phát triển tàu Vũ Hán (Viện 701) được giao nhiệm vụ chế tạo tàu ngầm Type 035 (lớp Minh), dựa trên thiết kế tàu ngầm lớp Romeo.

Trong khi thế giới đã phát triển bước dài chế tạo tàu ngầm cực kỳ hiện đại, độ ồn khi vận hành thấp thì Trung Quốc vẫn loay hoay ngụp lặn trong kỹ thuật kiểu cũ. Ở tàu ngầm Type-035, Trung Quốc cải tiến chút ít để tăng tốc tàu, hệ thống điều khiển, định vị thủy âm. Tuy nhiên, điểm yếu cố hữu Viện 701 không giải quyết được sự “ầm ĩ” của Type-035, vốn là nhược điểm của tàu lớp Romeo, khiến tàu dễ bị phát hiện và tiêu diệt.

Pha trộn công nghệ Nga, phương Tây và nội địa

Thế bế tắc trong thiết kế, chế tạo tàu ngầm của Trung Quốc được thông tỏ khi quan hệ với Nga được cải thiện. Năm 1994, này nhập khẩu 2 tàu ngầm tiến công lớp Kilo (Project 877EKM) và sau đó trở thành khách hàng đầu tiên mua tàu ngầm Kilo cải tiến (Project 636) vào năm 1996. Những công nghệ ứng dụng trên tàu Kilo đã trợ giúp rất nhiều để Trung Quốc nâng năng lực chế tạo tàu ngầm của mình.

Sau năm 2002, khi Trung Quốc sở hữu tổng cộng 10 chiếc Kilo Project 636, nước này trình làng tàu ngầm tấn công chạy động cơ diesel – điện lớp Tống (Type 039), một sản phẩm của công nghệ Nga, Trung Quốc và phương Tây.

Type-039 có lượng giãn nước 2.250 tấn (khi lặn), kiểu dáng “giọt nước” khác biệt hoàn toàn so với lớp Romeo. Nhờ động cơ được gắn bộ phận giảm sốc và chân vịt tàu có 4 lá, thân tàu bọc miếng cao su chống phản hồi âm thanh tương tự kiểu của Kilo mà Type-039 hoạt động êm ái hẳn. Hệ thống định vị thủy âm chế tạo dựa trên mẫu Thomson-CSF của Pháp cho phép theo dõi đồng thời 4-12 mục tiêu cùng lúc.

Tiếp tục là sự kết hợp công nghệ Nga – Trung Quốc – phương Tây, năm 2004, Trung Quốc giới thiệu tàu ngầm tấn công điện – diesel thế hệ mới Type 041 (lớp Nguyên). Theo trang mạng Sinodefence, lớp Nguyên có vỏ rất dày với vật liệu đặc biệt có khả năng hấp thụ tín hiệu của sonar âm thanh. Vỏ tàu được bọc lớp “cao su” để làm giảm tiếng ồn kzhi hoạt động. Đặc biệt, đây là tàu ngầm Trung Quốc đầu tiên ứng dụng hệ thống đẩy khí độc lập (AIP).

Theo một số nguồn tin, các chuyên gia Trung Quốc tuyên bố tàu ngầm lớp Nguyên hiện đại và chạy êm hơn 8 lần so với tàu ngầm lớp Lada của Nga.

Tàu ngầm Type-033 có lượng giãn nước khoảng 1.800 tấn (khi lặn), tốc độ 13 hải lý/h (khi lặn), tầm hoạt động hơn 14.000km. Về vũ khí, Type 033 trang bị 8 ống phóng ngư lôi cỡ 533mm, có thể bắn các loại ngư lôi Yu-1 (Trung Quốc sao chép loại Type 53-51 của Liên Xô) có tầm bắn 9,2km và Yu-4 có tầm bắn 15km. Ngày nay, Type 033 chỉ còn làm nhiệm vụ huấn luyện thủy thủ mới trong Hải quân Trung Quốc.

Tàu ngầm Type-035 có lượng giãn nước 2.100 tấn (khi lặn), tốc độ15 hải lý/h (khi lặn), tầm hoạt động khoảng 13.000km. Tàu có hệ thống vũ khí giống tàu ngầm lớp Typ-033.

Tàu ngầm Type-039 và Type-041 trang bị 6 ống phóng ngư lôi có 533mm có thể dùng để bắn ngư lôi chống ngầm hoặc tên lửa hành trình chống hạm YJ-82 (tầm bắn 40-80km, đầu đạn nặng 165kg). Trong đó, tàu ngầm lớp Nguyên (Type-041) có thể bắn được các loại ngư lôi do Nga chế tạo.

Thứ Tư, 10 tháng 8, 2011

>> Bí mật vụ tai nạn tàu ngầm thảm khốc ở Trung Quốc



70 người đã thiệt mạng trong một vụ tai nạn tàu ngầm điện diesel hết sức bí ẩn của Trung Quốc vào tháng 5/2003, cách nay hơn 8 năm.


http://nghiadx.blogspot.com
Tàu ngầm số 361 được kéo về cảng Ngọc Lâm sau khi xảy ra tai nạn, vùng nước bắn lên phía sau tàu vẫn chưa được giải thích. Ảnh: Afcea


Vụ tai nạn tưởng chừng đã chìm vào quên lãng do thông tin về vụ tại nạn thảm khốc này được bảo mật rất chặt chẽ. Thân nhân của những người thiệt mạng củng chỉ biết là người nhà của họ bị hy sinh trong khi làm nhiệm vụ.

Tuy nhiên gần đây, một sỹ quan Hải quân Trung Quốc đã bất ngờ tiết lộ về cuốn nhật ký hàng hải trên tàu ngầm trước khi xảy ra tai nạn. Điều này đã hé lộ một phần nguyên nhân của vụ tai nạn đầy bí ẩn này.

Chiếc tàu ngầm gặp nạn thuộc lớp Minh (Type-035), là tàu ngầm điện diesel do Trung Quốc chế tạo, được giới thiệu là sự kết hợp hoàn hảo giữa tàu ngầm lớp Romeo của Liên Xô và tàu ngầm loại U của Đức Quốc Xã.

Chiếc tàu ngầm gặp tai nạn mang số hiệu 361 thuộc Hạm đội Nam Hải, đây là chiếc tàu ngầm thứ 13 trong tổng số 20 chiếc đã được đóng. Được đưa vào biên chế của Hạm đội Nam Hải vào năm 1995, được xem là một trong những tàu ngầm tối tân nhất thời đó của hạm đội này.


Bí ẩn chưa có câu trả lời thỏa đáng

Trong khi đang tham gia một cuộc tập trận hải quân gần vịnh Bột Hải. Tàu ngầm số 361 bỗng dưng mất liên lạc với sở chỉ huy vào ngày 16/4/2003. Hầu như không ai biết điều gì đã xảy ra với con tàu này.

Gần 10 ngày sau khi gặp nạn con tàu mới được tìm thấy. Ngày 25/4/2003, trong khi đang đánh cá, các ngư dân Trung Quốc đã phát hiện thấy kính tiềm vọng của tàu ngầm 361 ló lên mặt nước.

http://nghiadx.blogspot.com



Hải quân Trung Quốc lập tức có mặt và phát hiện tàu ngầm 361 đang trong tình trạng chìm lơ lửng, con tàu đã trôi tự do một quảng khá xa từ vị trí gặp nạn.

Tàu ngầm số 361 được kéo về cảng Ngọc Lâm thuộc đảo Hải Nam, điều kỳ lạ là mặc dù xảy tai nạn chết người nhưng bên trong và bên ngoài tàu ngầm số 361 hầu như không có bất kỳ vết trầy xước nào.

1001 giả thuyết về tai nạn

Ngay sau khi tại nạn về tàu ngầm điện diesel 361 được công bố, rất nhiều chuyên gia quân sự trong và ngoài nước đã cố gắng tìm hiểu xem điều gì đã xảy ra với tàu ngầm này.

Michael McGinty, một chuyên gia về Hải quân Trung Quốc thuộc Viện nghiên cứu quốc phòng Hoàng gia London nhận định: “Vụ tai nạn có thể đã xảy ra khi tàu đang nổi trên mặt nước, nếu tai nạn xảy ra khi tàu ngầm đang lặn xuống, Trung Quốc khó lòng mà trục vớt được con tàu này. Điều này lại mâu thuẩn với công bố chính thức là tàu ngầm gặp nạn khi đang trong tình trạng ngập nước”.

Một giả thuyết khác là khi đang lặn xuống động cơ diesel của tàu đang hoạt động thay vì chuyển sang động cơ điện. Điều này dẫn đến hiện tượng động cơ diesel hút hết không khí bên trong tàu gây ngạt thở cho thủy thủ đoàn.

Nhưng giả thuyết này không mấy thuyết phục. Trong thiết kế tàu ngầm ban đầu của Nga, luôn có một bộ cảm biến để cắt nguồn cung dầu cho động cơ diesel nếu áp suất khí quyển bên trong tàu giảm xuống dưới mức cho phép. Trừ phi bộ cảm biến này không được cài đặt trên tàu ngầm do Trung Quốc sản xuất hoặc nó hoạt động không hiệu quả.

Một giả thuyết khác là nước biển đã rò rỉ vào bên trong tàu và thấm vào khu vực pin năng lượng dẫn đến hiện tượng phát tán khí clo gây ngộ độc cho thủy thủ đoàn. Tuy nhiên, khí clo không giết người ngay lập tức và nó có mùi rất đặc trưng và dễ nhận biết.

Cũng có thể trong quá trình đóng van ngập nước để bắt đầu lặn xuống, nếu nước biển bị hút vào ống thông khí nó sẽ gây ra tình trạng giảm áp lực tạm thời bên trong tàu. Nhưng sự giảm áp lực này rất dễ nhận biết qua các hiện tượng như nhức đầu, ù tai. Với một thủy thủ đoàn họ hoàn toàn có thể nhận ra hiện tượng bất thường này và kích hoạt hệ thống cấp cứu thở khẩn cấp EBS, hoặc ngắt động cơ diesel bằng tay nếu bộ cảm biến tự động không hoạt động. Đây luôn là bài học đầu tiên trong các khóa huấn luyện.

Những câu hỏi không lời giải đáp

Một điều khá lạ lùng và không thể giải thích là tại sao không một ai trong thủy thủ đoàn thoát được ra ngoài, mặc dù bản thân tàu ngầm được thiết kế rất nhiều khoang thoát hiểm trong tình huống khẩn cấp. Trong suốt quá trình gặp nạn, tàu ngầm này không phát đi bất kỳ một tín hiệu cấp cứu nào ra bên ngoài. Vậy các thiết bị điện tử trên tàu đã làm việc ra sao?

Tại sao toàn bộ thủy thủ đoàn đều bất lực trong khi đó bản thân họ được tuyển chọn và đào tạo rất bài bản trước khi được phép vận hành tàu ngầm. Trừ khi một sự cố nào đó quá lớn đã xảy ra và giết chết toàn bộ thủy thủ đoàn ngay lập tức khiến họ không kịp trở tay.

Điều khá lạ lùng nữa, bản thân tàu ngầm này được thiết kế với thủy thủ đoàn tối đa là 55 người với 9 sỹ quan và 46 thủy thủ. Tuy nhiên, trong lúc gặp nạn, trên tàu có tới 70 người, người ta đang tự hỏi, 15 cán bộ bổ sung lên tàu ngầm này để làm gì. Chẳng lẽ các sỹ quan chỉ huy tàu ngầm bỏ qua những quy định cơ bản về an toàn vận hành tàu ngầm? Đối với tàu ngầm, sử dụng quá tải là điều không thể chấp nhận được và cực kỳ nguy hiểm. Có một số ý kiến cho rằng, 15 cán bộ bổ sung trên tàu ngầm là các chuyên gia đang thử nghiệm động cơ đẩy không khí động lập AIP trang bị cho tàu ngầm này thì gặp tai nạn.

Sau khi vụ tai nạn xảy ra, hàng loạt quan chức cấp cao của Hải quân Trung Quốc đã bị cách chức trong đó có Tư lệnh hải quân Trung Quốc Đô đốc Thạch Vân Sinh (Shi Yunsheng), Chính ủy Dương Hoài Thanh (Yang Huaiqing), Tư lệnh Hạm đội Biển Bắc Đinh Nhất Bình (Ding Yiping), Chính ủy Hạm đội Biển Bắc Trần Tiên Phong (Chen Xianfeng). Cùng với một số quan chức cấp cao tại Hạm đội Nam Hải.

Vụ cách chức quy mô lớn nhất trong lịch sử Hải quân Trung Quốc có thể thấy rằng, đây là một tai nạn xảy ra mang tính chất hệ thống. Từ sự yếu kém trong vận hành và xử lý tình huống của thủy thủ đoàn cho đến sự quản lý lỏng lẽo thiếu tinh thần trách nhiệm của các quan chức chỉ huy của Hải quân Trung Quốc(!?)

Vụ tai nạn thảm khốc, thủy thủ đoàn 70 người không ai thoát được ra ngoài đặt ra những câu hỏi trong công nghệ chế tạo tàu ngầm của Trung Quốc đặc biệt là các phương tiện và công nghệ hỗ trợ cấp cứu khẩn cấp trong trường hợp xảy ra tai nạn hoặc trúng phải vũ khí của đối phương trong thực chiến.

Đến nay, nguyên nhân chính của vụ tai nạn bí ẩn này vẫn không được công bố, nhưng rõ ràng sỹ quan chỉ huy đã bỏ qua quy định cơ bản về an toàn vận hành tàu ngầm. Cũng có thể vụ tai nạn này chứa đựng những bí mật động trời trong công nghệ chế tạo tàu ngầm của Trung Quốc.

Thứ Sáu, 5 tháng 8, 2011

>> Tàu ngầm Mỹ tự do trong vùng biển Trung Quốc



Dù phần lớn hạm đội tàu ngầm của Trung Quốc đóng vai trò bảo vệ bờ biển nhưng vẫn không thể ngăn chặn sự xâm nhận của tàu ngầm Mỹ.


Theo phân tích mới nhất của tiến sĩ Owen Cote đến từ Chương trình nghiên cứu An ninh, ĐH Công nghệ Massachusetts, chỉ có thay đổi trong học thuyết và công nghệ mới giúp Trung Quốc cải thiện được tình trạng này.

http://nghiadx.blogspot.com
Tiến sĩ Own Cote


Bản đánh giá mới nhất của tiến sĩ Cote là lời cảnh báo những trở ngại mà Trung Quốc phải đối mặt khi nước này muốn bảo vệ an ninh vùng biển của họ chứ chưa nói đến việc mở rộng ảnh hưởng trên Thái Bình Dương.

Bản báo cáo cũng cho thấy, mặc dù được trang bị tàu sân bay, máy bay chiến đấu hay tên lửa đạn đạo thì tàu ngầm vẫn là vũ khí quyết định của Bắc Kinh trong cuộc cạnh tranh với Washington.

Với khả năng di chuyển khó theo dõi và hỏa lực mạnh, tàu ngầm là mối đe dọa nghiêm trọng cho các hạm đội tàu trên mặt nước. Với lý do vừa nêu, tàu ngầm là lựa chọn lý tưởng để tạo ra những vùng biển chống xâm nhập.

Đó cũng là ý định của Bắc Kinh khi xây dựng đội tàu ngầm bao gồm khoảng 50 tàu ngầm chạy điện - diesel cỡ nhỏ và 10 tàu cỡ lớn chạy năng lượng hạt nhân. Theo tiến sĩ Cote, "Trung Quốc lên kế hoạch sử dụng đội tàu ngầm diesel để bảo vệ bờ biển".

Tương tự, những chiếc tàu ngầm hạt nhân cỡ lớn sẽ được sử dụng để bảo vệ vùng biển mà theo cách gọi của quan chức Trung Quốc là chuỗi đảo thứ nhất và chuỗi đảo thứ 2 hay còn được gọi là vùng biển Philippines.

Tuy nhiên, lực lượng Hải quân Mỹ với tàu ngầm đi kèm với máy bay tuần tra, trực thăng, tàu nổi và các bộ phận thăm dò đáy biển bằng âm thanh khi tập trung vào những vị trí nhất định vẫn có thể phát hiện được hầu hết những tàu ngầm Trung Quốc cố bám theo hạm đội Mỹ khi hạm đội này vượt qua chuỗi đảo đầu tiên, tiến sĩ Cote khẳng định.

Tiến sĩ Cote cho biết thêm:"Điểm yếu của Trung Quốc là khả năng chống ngầm hạn chế và không được đầu tư một cách đúng mức tương xứng vời tầm quan trọng của nó". (>> xem thêm)

Điều này dẫn đến việc lực lượng tàu ngầm của Trung Quốc không thể kiểm soát và chống lại sự xâm nhập của các hạm đội Mỹ và đồng minh vào vùng biển Đông và chưa nói đến việc kiểm soát cả vùng biển Philippines. Thậm chí, "Lực lượng tàu ngầm Mỹ có thể hoạt động tự do ở cả những vùng ven bờ của Trung Quốc", theo tiến sĩ Cote.

Sự không cân bằng này là kết quả của những khoản đầu tư khổng lồ vào công nghệ tàu ngầm trong suốt thời kỳ chiến tranh lạnh của Mỹ. Người Mỹ đã chứng minh được khả năng thiết lập và duy trì những ưu điểm về giảm độ ồn cho những tàu ngầm nguyên tử của họ trước những đối thủ cạnh tranh.

Sự vượt trội của tàu ngầm Mỹ sẽ hạn chế tối đa khả năng tác chiến của đội tàu ngầm Trung Quốc trong cuộc xung đột kéo dài, thậm chí làm giảm khả năng phòng thủ ven biển của đội tàu ngầm Trung Quốc bằng cách chiếm giữ những vị trí bên ngoài cảng biển của Trung Quốc, theo dõi và phá hủy những tàu ngầm Trung Quốc ra vào cảng.

Hiện tại, Hải quân Mỹ chỉ duy trì khoảng 10 tàu ngầm được triển khai thường xuyên trên toàn thế giới. Số lượng này sẽ được tăng nhiều hơn trong các trường hợp cần thiết nhưng lực lượng này chỉ mất khoảng vài ngày cho đến vài tuần để xâm nhập được vào vùng biển của Trung Quốc. Vì lý do đó, Mỹ có thể hạn chế được những ưu thế về số lượng của hạm đội tàu ngầm Trung Quốc. Ngoài ra, những ưu thế của tàu ngầm Mỹ cũng sẽ tăng theo thời gian đi cùng số lượng tàu ngầm của nước này.

Hiện tại, tàu ngầm Mỹ nhận được nhiều sự hỗ trợ nhờ bộ cảm biến tinh vi cũng như hệ thống chiến đấu dựa vào chỉ dẫn hỗ trợ định vị mục tiêu từ những căn cứ radar trên đất liền, vệ tinh hoặc máy bay trinh thám không người lái.

Ngược lại, Trung Quốc sở hữu một hệ thống chỉ dẫn nghèo nàn với hệ thống radar quét sóng xa OTH và một số hệ thống vệ tinh do thám nhỏ. Ví dụ, Bắc Kinh đang phát triển mẫu máy bay do thám không người lái.

Tuy nhiên, Washington hoàn toàn có thể đối phó dễ dàng bằng việc được trang bị tên lửa tấn công mặt đất nhằm phá hủy hệ thống thông tin để nắm chắc chiến thắng trước hạm đội tàu ngầm của Trung Quốc. Không những thế, Hải quân Mỹ cũng đang nghiên cứu khả năng phóng máy bay không người lái loại nhỏ từ tàu Mỹ để chống lại hệ thống OTH của Trung Quốc.

Với những trang bị trên, hạm đội tàu ngầm của Mỹ có đủ khả năng để tiêu diệt phạm vị lớn các mục tiêu trên mặt đất bao gồm hàng trăm bệ phóng tên lửa di động của Trung Quốc.

Tiến sĩ Cote kết luận:"Cả lực lượng tàu ngầm của Mỹ và Trung Quốc đều có những nhiệm vụ mới trong nỗ lực chạy đua với nhau, nhưng hoàn cảnh của Trung Quốc sẽ khác của Mỹ vì họ không có được những lợi thế hiện tại như Mỹ".

[BDV news]


Thứ Bảy, 30 tháng 7, 2011

>> Trung Quốc phát triển tàu ngầm tấn công động lực hạt nhân



Trung Quốc có thể đã đạt được những tiến bộ đáng kể trong việc phát triển tàu ngầm tấn công Type-095. Trang mạng Milchina đã tiết lộ sự phát triển của tàu ngầm này.




Type-095 có khả năng mang theo các tàu ngầm tấn công không người lái để tiến hành các cuộc tấn công ở độ sâu tới 1.100 mét. Ảnh minh họa


Trang mạng Milchina cho biết, tàu ngầm hạt nhân tấn công Type-095 đang bước vào giai đoạn phát triển đầu tiên.

Đây là thế hệ tàu ngầm hạt nhân thứ 3 của Trung Quốc và sẽ là một bất ngờ lớn đối với phương Tây.

Trong hạm đội tàu ngầm Trung Quốc, đang thiếu những tàu ngầm tấn công chạy bằng năng lượng hạt nhân. Loại tàu ngầm hạt nhân tấn công duy nhất hiện này là Type-093 tồn tại khá nhiều nhược điểm. Độ ồn khi hoạt động tương đối lớn, tàu dễ bị phát hiện bởi các loại sonar hiện đại.

Sự cần thiết phải bổ sung thêm đội tàu ngầm hạt nhân tấn công càng trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Bở tàu sân bay Thi Lang sắp được hoàn thành, cần có thêm nhiều tàu ngầm để bảo vệ cho tàu sân bay này.

Dự án phát triển tàu ngầm hạt nhân tấn công mới Type-095 được khởi đóng vào năm 2010. Tàu được thiết kế để có thể hoạt động ở độ sâu từ 300-450 mét. Ngoài ra tàu ngầm Type-095 còn có khả năng triển khai tàu ngầm tấn công không người lái. Ứng dụng công nghệ dẫn hướng bằng cáp quang hiện đại, tàu ngầm tấn công không người lái có thể tiến hành các cuộc tấn công từ độ sâu tới 1.100 mét.

Hiện trên thế giới, chỉ có Hải quân Mỹ có thể tiến hành các cuộc tấn công ở độ sâu tương tự. Việc đạt được khả năng tấn công từ 1.100 mét sẽ cho phép Trung Quốc ngăn chặn các cuộc tấn công tiềm tàng từ các tàu ngầm hạt nhân tấn công của Mỹ.

Dự kiến tàu sẽ được đưa vào sử dụng trong năm 2020, và đây sẽ là lực lượng bảo vệ chính dưới nước cho nhóm tác chiến tàu sân bay Trung Quốc trong tương lai.

Theo thông tin được công bố bởi Thời báo Đài Bắc (Taipei Times), tàu ngầm tấn công Type-095 sẽ được thiết kế theo các công nghệ của phương Tây chứ không dựa vào công nghệ Nga như các thế hệ tàu ngầm trước đây. Độ ồn khi hoạt động sẽ giảm xuống đáng kể, đạt mức của tàu ngầm lớp Akula đời đầu của Nga.

Tuy nhiên, một số nhà phân tích phương Tây nhận định độ ồn của Type-095 chỉ ở mức tương đương hoặc nhỉnh hơn một chút so với tàu ngầm lớp Victor-III của Nga.

Tàu ngầm Type-095 sẽ được trang bị 6 ống phóng ngư lôi 533 hoặc 650mm. Tương tự Type-093, ống phóng này có khả năng phóng tên lửa chống hạm tầm xa HY-4, tầm bắn từ 300-500km, được công ty công nghệ cơ điện Sea Eagle phát triển.

Ngoài ra, tàu ngầm Type-095 cũng có thể được triển khai một biến thể phức tạp của tên lửa hành trình HY-4 có tầm bắn khoảng 3.000km. Song khả năng này được cho là nhầm lẫn với một dự án tàu ngầm hạt nhân chiến lược mới Type-096.

Hiện tại, tàu ngầm này được cho là đang bước vào giai đoạn phát triển đầu tiên, mọi thông tin có được đều ở mức dự đoán và không có gì là chắc chắn và cụ thể. Đó cũng là tình hình chung của tất cả các loại vũ khí được phát triển tại Trung Quốc trong thời gian gần đây.

[BDV news]


Copyright 2012 Tin Tức Quân Sự - Blog tin tức Quân Sự Việt Nam
 
Lên đầu trang
Xuống cuối trang