Tin Quân Sự - Blog tin tức Quân sự Việt Nam: Chủ quyền biển đảo

Paracel Islands & Spratly Islands Belong to Viet Nam !

Quần Đảo Hoàng Sa - Quần Đảo Trường Sa Thuộc Về Việt Nam !

Hiển thị các bài đăng có nhãn Chủ quyền biển đảo. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Chủ quyền biển đảo. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 7 tháng 6, 2011

>> Trung Quốc trấn an hay dằn mặt ASEAN?



Trung Quốc cam kết hòa bình và ổn định trong khu vực thông qua hợp tác an ninh, nhưng không nên tham gia vào bất kỳ liên minh nhằm chống lại bên thứ 3.

Trấn an hay dằn mặt?

Trong một bài phát biểu dài 45 phút tại diễn đàn an ninh châu Á, đối thoại Shangri-la 2011, Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc Lương Quang Liệt nhắc đi nhắc lại điệp khúc “Sự phát triển của quân đội Trung Quốc không phải là mối đe dọa với các nước trong khu vực”.

Hãng tin Channel News Asia dẫn lời bài phát biểu của Bộ trưởng Lương Quang Liệt, “Trung Quốc ủng hộ dân chủ trong quan hệ quốc tế và tôn trọng lợi ích cốt lõi của nhau, đó là một mối quan tâm lớn để duy trì hòa bình và ổn định trong khu vực."

Theo đó, Sự lớn mạnh của quân đội Trung Quốc đơn giãn là để đảm bảo an ninh quốc phòng của Trung Quốc. "Trung Quốc tuân thủ một chính sách quốc phòng là tự vệ trong tự nhiên. Tôi biết nhiều người đang có xu hướng tin rằng sự tăng trưởng kinh tế, cùng với sự phát triển của quân đội Trung Quốc sẽ trở thành một mối đe dọa quân sự. Tôi muốn nhấn mạnh rằng, đó không phải là lựa chọn của chúng tôi, Trung Quốc sẽ không bao giờ tìm kiếm quyền bá chủ hay đe dọa bất cứ nước nào”, Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc Lương Quang Liệt nói.



Sự phát triển của quân đội đặc biệt là hải quân Trung Quốc cùng với những gì họ đã và đang làm khiến các nước trong khu vực không khỏi lo lắng.

Trong bài phát biểu nhằm trấn an các nước trong khu vực trước những phát biểu cho rằng, Trung Quốc đang trở thành một “kẻ bắt nạt trên biển Đông”. Bộ trưởng Lương Quang Liệt không quên nhấn mạnh một điều rằng: “Các nước trong khu vực không nên tham gia vào bất cứ liên minh nào nhằm chống lại một bên thứ 3 nào đó”. Tuy nhiên, Bộ trưởng Lương Quang Liệt không đi vào chi tiết của vấn đề này.

Trước đó, trong bài phát biểu của mình tại Đối thoại Shangri-la 2011, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Robert Gates đã tái khẳng định cam kết hiện diện quân sự lâu dài tại châu Á-Thái Bình Dương. Như vậy có thể thấy rằng, bài phát biểu của Bộ trưởng Lương Quang Liệt là một thông điệp nhằm cảnh báo các nước trong khu vực đối với cam kết của Washington.

Sự hiện diện quân sự của Mỹ tại châu Á, đặc biệt là ASEAN là một trở ngại rất lớn đối với chiến lược hướng ra biển lớn của Trung Quốc.

Bài phát biểu của Bộ trưởng Lương Quang Liệt, một mặt trấn an các nước trong khu vực trước những diễn biến phức tạp trên biển Đông trước thềm đối thoại Shangri-la nhưng cũng không ngoài mục đích cảnh báo các nước châu Á, đặc biệt là ASEAN không nên đi quá xa trong mối quan hệ với Washington.

Nói một đường làm một nẻo

Dù lãnh đạo cao cấp của Trung Quốc luôn nhấn mạnh rằng, “Quân đội Trung Quốc không phải là mối đe dọa với các nước trong khu vực. Tuy nhiên, giữa tuyên bố của lãnh đạo cấp cao và hành động cấp dưới có một khoảng cách rất lớn.

Ngay trước thềm đối thoại Shangri-la, Trung Quốc liên tiếp có những hành động "chơi rắn" trên biển Đông.

Ngày 26/5/2011 tàu hải giám của Trung Quốc ngang nhiên xâm phạm lãnh hải Việt Nam, cắt cáp thăm dò của tàu thăm dò dầu khí Bình Minh-02 thuộc Tập đoàn dầu khí quốc gia Việt Nam. Tiếp đó, nổ súng uy hiếp ngư dân Việt Nam đang đánh bắt trên vùng biển thuộc quân đảo Trường Sa của Việt Nam.

Tàu hải quân Trung Quốc cũng đã có những hành động uy hiếp tàu đánh cá của ngư dân và tàu thăm dò dầu khí của Phillippine.

Nếu quân đội Trung Quốc không phải là mối đe dọa với các nước trong khu vực. Vậy đâu là lời lý giải cho những hành động ngang ngược này?




Tàu hải giám Trung Quốc xâm nhập lãnh hải Việt Nam, vi phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam.

Trong bài phát biểu của mình, Bộ trưởng Lương Quang Liệt nhấn mạnh đến vấn đề "Xây dựng hòa bình và ổn định trong khu vực thông qua sự hợp tác và tin tưởng lẫn nhau". Nhưng với những gì mà lực lượng hải giám và Hải quân Trung Quốc đã và đang làm thì đâu là cơ sở để xây dựng lòng tin lẫn nhau giữa Trung Quốc và các nước trong khu vực, đặc biệt là các nước đang có tranh chấp trực tiếp về chủ quyền biển đảo?

Theo toàn văn bài phát biểu của Bộ trưởng Lương Quang Liệt được đăng tải trên trang Web của IISS có đoạn như sau: "Chúng tôi phản đối bất kỳ hành động có thể dẫn đến bất ổn trong khu vực". Nhưng chính những hành động của Trung Quốc đang tạo ra những nguy cơ tiềm ẩn có thể dẫn đến bất ổn trong khu vực.

Phía Trung Quốc cho rằng, hành động của tàu hải quân và tàu hải giám nước này là để thực thi pháp luật trên vùng biển thuộc quyền tài phán của Trung Quốc. Điều nghịch lý là Trung Quốc không thể chứng minh được tính hợp pháp của đường lưỡi bò chiếm đến 80% diện tích biển Đông.

Hành động không đi đôi với lời nói, Trung Quốc đang dần làm nản lòng các nước ASEAN, đặc biệt là các nước có tranh chấp về chủ quyền biển đảo, về những tuyên bố của mình.

Tại đối thoại Shangri-la 2011, các nước ASEAN một lần nữa nhắc lại sự cần thiết phải tôn trọng các Tuyên bố về cách ứng xữ trên biển Đông DOC mà ASEAN đã ký kết với Trung Quốc năm 2002. Sự quan trọng của việc ký kết bộ quy tắc ứng xử trên biển Đông COC để các tranh chấp không lâm vào ngõ cụt, tránh nguy cơ xung đột. Tuy nhiên, Trung Quốc vẫn “im lặng” với COC.

Các nước ASEAN đã đạt được sự nhất trí, cố gắng sẽ đạt được sự ký kết Bộ quy tắc ứng xử trên biển Đông COC vào năm 2012, nhân dịp kỷ niệm 10 năm ngày ký kết Tuyên bố ứng xử trên biển Đông DOC giữa ASEAN và Trung Quốc.

Việc COC có được ký kết vào năm 2012 hay không phụ thuộc rất lớn vào động thái của Trung Quốc, tuy nhiên theo nhìn nhận của một số chuyên gia nghiên cứu về biển Đông, lộ trình này rất khó đạt được.


[BDV news]


>> Chiến lược Liên châu và việc bảo vệ chủ quyền Việt Nam trên Biển Đông



Phân tích động thái của Trung Quốc trong thời gian gần đây, trong không gian ngoài phạm vi Biển Đông, từ đó đề xuất một số giải pháp để bảo vệ chủ quyền trên Biển Đông và có tham khảo các giải pháp của các quốc gia khác đang tiến hành chống lại sự bành trướng của Trung Quốc trên Biển Đông.

LTS: Tuần Việt Nam giới thiệu bài viết của nhóm tác giả Quỹ Nghiên cứu Biển Đông Lê Vĩnh Trương, Dư Văn Toán, Nguyễn Đức Hùng, Nguyễn Trọng Bình, Đàm Quang Minh, Phạm Thu Xuân như một góc nhìn riêng để tham khảo.

Trong những năm gần đây Trung Quốc tiếp tục có những hành động xâm phạm nghiêm trọng đến vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam và của các nước khác trên Biển Đông. Trung Quốc đơn phương tuyên bố một đường phân định ranh giới trên biển không có cơ sở pháp lý và chiếm gần hết Biển Đông. Trung Quốc đơn phương cho các tàu hải giám và kiểm ngư, những tàu thuyền quân sự và cảnh sát trá hình, vào những khu vực thuộc vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam và các nước khác.

Sự kiện gần đây nhất là một đội tàu hải giám đã đi vào vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam ở vị trí (vĩ độ, kinh độ) nằm cách đường cơ sở của Việt Nam chưa tới 120 hải lý, phá hoại và cản trở hoạt động thăm dò địa chấn của Việt Nam. Hành động này vi phạm nghiêm trọng trọng Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển (UNCLOS 1982) và Hiến chương Liên Hợp Quốc.

Sự việc không chỉ ở tầm Biển Đông nằm sát bên cạnh yết hầu kinh tế và quân sự của Việt Nam!

Sự việc nằm ở chiến lược Liên châu (Chuỗi ngọc trai) đầy toan tính của Trung Quốc nhằm gia tăng sức mạnh năng lượng, kinh tế và quân sự của mình.

Không gian chiến lược này sẽ khởi đầu từ đảo Hải Nam của Trung Quốc, tiến ra đảo Phú Lâm (Hoàng Sa), của Việt Nam và một số đảo tại quần đảo Trường Sa (của Việt Nam đang bị Trung Quốc chiếm), xuống kênh đào Kra, ôm lấy Myanmar và dừng bước tại cảng Karachi của Pakistan. Con đường trên biển này sẽ bảo đảm về mặt tiếp liệu, vận tải nhiên liệu, sản phẩm và quân đội khi cần thiết. (Hình 1)



Vòng cung Liên châu: từ giao thông vận tải sang liên hoàn quân sự
(Nguồn: String of Pearls: Meeting the challenge of China's rising power across the Asian littoral - Christopher J. Pehrson)

Bài này sẽ phân tích động thái của Trung Quốc trong thời gian gần đây, trong không gian ngoài phạm vi Biển Đông, từ đó đề xuất một số giải pháp để bảo vệ chủ quyền trên Biển Đông và có tham khảo tới các giải pháp của các quốc gia khác đang tiến hành chống lại sự bành trướng của Trung Quốc trên Biển Đông.

Những gì đang diễn ra liên quan đến Trung Quốc?

Những bất ổn liên tục xảy ra tại Trung Quốc từ cuối tháng 4.2011 đến nay như cuộc đình công 5 ngày của các tài xế xe tải tại Thượng Hải, tiếp theo đó là các vụ đánh bom tại Giang Tây và những cuộc biểu tình tại Nội Mông.

Trong thời gian đó, Trung Quốc liên tục cử những phái đoàn quân sự ra nước ngoài trong tháng 5.2011.

Ngày 26.5.2011, Trung Quốc ngang ngược cắt đứt cáp thăm dò của tàu Bình Minh 02 ngày 26.5.2011 mặc dù đã có sự phản đối của tàu biên phòng hộ tống và chính tàu Bình Minh 02 thuộc PVN.

Bộ ngoại giao Trung Quốc ra tuyên bố rằng, họ chỉ hoạt động trên vùng biển Trung Quốc một cách ngụy biện. Vậy chúng ta phải chỉ rõ cho nhân dân toàn thế giới thấy rằng, họ đã nói không đúng sự thật bằng các bản đồ và các bài viết của chúng ta.

Vào ngày 31.5.2011, 3 tàu quân sự Trung Quốc đã nổ sung uy hiếp, ngăn cản 4 tàu cá của tỉnh Phú Yên trên vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam. Bộ tư lệnh Bộ đội biên phòng tỉnh Phú Yên, Việt Nam đã đề nghị Bộ Ngoại giao can thiệp.

Những hành động này là một hành động có tính toán Trung Quốc để vừa giảm nhiệt trong nước vừa phục vụ ý đồ tiến xuống phía nam để phục vụ cho chiến lược Liên châu nhằm khống chế cả Biển Đông và Ấn Độ Dương.

Từ "China Garlands India with String of Pearls",
(Nguồn: Militarisation of China's Energy Security Policy - Defence Cooperation and WMD Proliferation Along its String of Pearls in the Indian Ocean, TS Christina Y. Lin

Do những nhu cầu bức thiết trên, Trung Quốc đã tạm thời hy sinh hình ảnh phát triển hòa bình để lấn xuống biển Đông một cách mạnh bạo. Không phải Trung Quốc không biết rằng, họ đang đứng trên luật pháp quốc tế, nhưng họ đang tận dụng thời cơ hiện tại bên ngoài và giải quyết những bất ổn nội bộ để đi nhanh hơn trên con đường bá quyền của mình.

Trung Quốc liên tục tác động đến Lào, Campuchia, Thái Lan, Myanmar để phá vỡ nguyên tắc đồng thuận phát ngôn của ASEAN, mặt khác luôn muốn trói các nước trong tranh chấp biển Đông vào "khung giải quyết" là "thương lượng song phương" cho một vấn đề quốc tế. Trước Hội nghị thượng đỉnh Trung Quốc-ASEAN vào tháng 10/2009 tại Huahin, Thái Lan, bà Tiết Hán Cần, đại sứ Trung Quốc tại ASEAN đã phát biểu: "Trung Quốc cho rằng, đây là bất đồng giữa Trung Quốc và các nước riêng rẽ xung quanh Biển Đông, chứ không phải giữa Trung Quốc và ASEAN... Và bà cũng nói thêm: "Cuộc họp này của ASEAN phải là trong khuôn khổ hợp tác, chứ không phải là để tranh cãi". Đây là động tác hạn chế người khác nói, còn chính Trung Quốc thì vừa nói vừa hành động thô bạo.

Sau tuyên bố tại Hội nghị ARF tháng 7.2010 của ngoại trưởng Mỹ H. Clinton, Trung Quốc đã phản ứng quyết liệt. Ngoại trưởng Trung Quốc Dương Khiết Trì cho rằng, phát biểu của ngoại trưởng Mỹ là "Đưa vấn đề song phương thành vấn đề quốc tế, hoặc đa phương sẽ chỉ làm trầm trọng thêm tình hình và gây thêm khó khăn trong việc giải quyết vấn đề này". Đây chỉ là một ngụy biện nhằm bẻ đũa từng chiếc.

Tháng 11.2010, Việt Nam đã tổ chức Hội thảo khoa học quốc tế về biển Đông lần thứ hai, Hội thảo này là cơ hội cho Việt Nam để tìm kiếm những tiếng nói đa phương cho việc giải quyết tranh chấp. Trong Hội nghị có tính cách kênh hai lần này Trung Quốc đã làm giảm nhẹ tuyên bố "lợi ích cốt lõi" của mình. Tuy nhiên, việc không khẳng định và không phủ nhận tuyên bố vô lý này cho thấy ASEAN, Ấn Độ và thế giới cần cảnh giác cao hơn nữa.



Những căn cứ của Trung Quốc trong vòng cung Chuỗi Ngọc Trai
(Nguồn: Militarisation of China's Energy Security Policy - Defence Cooperation and WMD Proliferation Along its String of Pearls in the Indian Ocean Tiến Sĩ Christina Y. Lin)

Như tác giả Dương Danh Huy đã nhận xét, đây không phải hành động đầu tiên và không phải cuối cùng tại Biển Đông. Chúng tôi bổ sung, những hành động này sẽ không chỉ xảy ra trên Biển Đông và biển Nhật Bản mà sẽ sắp sửa xảy ra tại Ấn Độ Dương và các vùng nước khác trong tương lai rất gần.

Ngẫu nhiên không may mắn cho Việt Nam là ở ngay tâm điểm của chiến lược Liên châu của Trung Quốc. Tuy nhiên, nếu chúng ta biết vận động sâu rộng đến nhân dân và chính phủ các nước ASEAN, Ấn Độ, Bangladesh và cả Pakistan, Afganistan, thì nguy cơ có thể sẽ biến thành cơ hội.

Việt Nam chúng ta sẽ cô độc nếu chỉ dừng sự đấu tranh tại biển Đông mà không mở rộng sang các nước vẫn đang nắm tình hình nhưng trù trừ không lên tiếng như ASEAN và cả Mỹ và Ấn Độ.

Những biện pháp bảo vệ chủ quyền trên Biển Đông

Về ngoại giao

Ngoại giao nhân dân: Phổ biến thông tin về sự ngang ngược của Trung Quốc đến tất cả các tầng lớp nhân dân, hội đoàn dân sự trong một chiến lược lâu dài bằng tiếng Việt và nhiều thứ tiếng khác. Những hoạt động khoa học, văn hóa thể thao của Việt Nam tại các nơi trên thế giới sẽ được bổ sung nội dung bị ức hiếp của ngư dân và các công ty Việt Nam. Trong đó, nêu bật thái độ bất chấp UNCLOS 1982 và DOC 2002 của Trung Quốc.

Không giới hạn việc bảo vệ chủ quyền quốc gia chỉ ở trong nước mà cần phải có một sự vận động sâu rộng có tầm mức quốc tế. Không giới hạn việc tác động đến chính giới mà còn mở rộng ra đông đảo các tầng lớp nhân dân và học giả Trung Quốc bằng truyền thông và ngoại giao kênh hai.

Về sức mạnh tổng hợp:

- Trong đánh bắt và khai thác hải sản, Trung Quốc dùng chiêu bài hải giám và ngư chính để ngụy trang cho các hành động bạo lực của mình. Vậy, Việt Nam cũng cần có những đội tàu dân sự, nhưng được trang bị đủ mạnh để phản ứng lại tàu dân sự giả hiệu của Trung Quốc.

- Chiến lược biển của Việt Nam sẽ không tách rời các hoạt động hợp tác xây dựng các khu bảo tồn thiên nhiên, sinh thái hay công viên đại dương xuyên quốc gia với láng giềng. Và nếu cần thì các công tác khảo sát địa chấn và thềm lục địa có thể thuê các công ty nước ngoài kết hợp thực hiện. Cần có một bộ có đủ chức năng liên ngành để lo việc bảo vệ chủ quyền và phát triển và khai thác biển.

- Ðẩy mạnh và nhanh cùng quyết tâm hơn nữa trong việc hiện đại hoá nền kinh tế, quân sự, vũ trang toàn dân song song với việc tổ chức một xã hội và nền chính trị hiện đạị, tạo ra một sức mạnh vững chắc và đầy đủ thế và lực trên trường quốc tế, đủ sức đối phó với nước xâm lấn.

- Kiên quyết hơn trong sử dụng sức mạnh răn đe, nếu chúng ta chưa đủ sức mạnh như Nhật Bản để bắt giữ tàu Trung Quốc thì Việt Nam cũng phải có khả năng dùng máy bay chiến đấu để xua đuổi tàu Trung Quốc vi phạm chủ quyền như Philippines đã từng thực hiện..

- Nhanh chóng và dài hạn thực hiện một chiến lược liên kết toàn cầu, nhất là với các cường quốc kinh tế và quân sự với sách lược từng vùng, từng giai đoạn để tự phá vỡ vòng vây ngày càng thắt chặt này. Việc vận động nhân dân và chính phủ của các nước nằm trong "chuỗi ngọc trai" sẽ do một cơ quan chuyên trách của Chính phủ thực hiện cùng với sự đóng góp ý kiến của người dân Việt Nam. Cảnh báo cho nhân dân thế giới và nhân dân Ấn Độ về những tham vọng này của Trung Quốc cũng sẽ là một phần của ngoại giao nhân dân.

Kết luận

Tất cả những giải pháp đều có những mặt cần phải bổ sung và chuyển hướng chiến lược nhanh, đáp ứng, phản công kịp thời với sự biến động những biến động của tình thế. Để có một tổng thể các giải pháp, cần có một sự động não toàn dân, vận động toàn dân cùng sức người sức của khắp nơi trên thế giới.

Sự "trỗi dậy" của Trung Quốc và sự bộc lộ tham vọng to lớn của họ qua chiến lược Liên châu chứng tỏ họ đã bỏ qua giai đoạn "giấu mình chờ thời', khiến cả thế giới lo ngại, không chỉ ASEAN, và Ấn Độ mà Mỹ, Nhật Bản và các nước có lợi ích trong giao thông hàng hải trên toàn thế giới.

Thực chất của tình trạng căng thẳng trên Biển Đông, dẫn đến cuộc chiến về hoạt động đối ngoại vừa qua chính là việc Trung Quốc muốn gia tăng ảnh hưởng lên khu vực, đè bẹp các nước ASEAN, thăm dò phản ứng của Mỹ và Ấn Độ.

Do vậy, việc Trung Quốc sử dụng vũ lực hay không một phần cũng sẽ do các nước có thái độ nhân nhượng quá đáng hay không và người Mỹ, người Ấn có thực hiện đúng tư thế của những nước có lợi ích quốc gia về hàng hải hay không.

[BDV news]


Thứ Hai, 6 tháng 6, 2011

>> Phát biểu của Đại tướng Phùng Quang Thanh tại Shangri-La



Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam Phùng Quang Thanh đã có bài phát biểu quan trọng Ứng phó với các thách thức an ninh biển mới tại Shangri-La 10.




Đại tướng Phùng Quang Thanh phát biểu tại Shangri-La

Thưa Ngài Chủ tịch!

Thưa các quí vị!

Tôi chân thành cảm ơn Viện Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế và nước Chủ nhà Xinh-ga-po đã mời tôi tham dự Đối thoại Shangri-La lần thứ 10 và chia sẻ cùng các quí vị tại phiên họp này.

Tôi đồng tình với đánh giá của các quí vị về vai trò của Đối thoại Shangri-La trong 10 năm qua với những đóng góp tích cực vào việc xây dựng lòng tin, tăng cường tính minh bạch trong chính sách an ninh của các quốc gia trong khu vực, đồng thời thúc đẩy việc hình thành các cơ chế hợp tác an ninh đa phương mới vì mục tiêu hòa bình, ổn định và phát triển thịnh vượng chung ở châu Á-Thái Bình Dương và trên thế giới.

Thưa các quí vị!

Chủ đề mà Ban tổ chức dành cho tôi “Ứng phó với các thách thức an ninh biển mới” là một vấn đề rất thời sự, rất hệ trọng, liên quan đến hòa bình, ổn định và phát triển của khu vực và trên thế giới. Nói đến biển trong thế kỷ 21, chúng ta đều có nhận thức chung đó là không gian sống còn, phát triển và là tương lai của thế giới hiện đại đối với cả các nước có biển và không có biển, tại những khu vực có tuyên bố chủ quyền, hay không tuyên bố chủ quyền.

Đặc điểm nổi lên của không gian biển thời gian gần đây là sự can dự của các nước được tăng cường trong mọi lĩnh vực để có được lợi ích trước mắt và lâu dài của các quốc gia, các lợi ích đó đều mang tính chiến lược, sống còn.

Trong bối cảnh hiện nay, các mối quan hệ hợp tác đang phát triển mạnh mẽ, đem lại lợi ích lớn cho từng quốc gia, cho khu vực và cho toàn thế giới. Bên cạnh đó, cũng nảy sinh những khác biệt, mâu thuẫn, thậm chí xung đột. Chúng ta không nên né tránh và hãy nhìn nhận nó, những sự hợp tác và khác biệt đó là một thực tế khách quan, là hai mặt của một vấn đề trong quá trình phát triển và khai thác biển. Vấn đề là chúng ta phải nhận thức đầy đủ tính toàn cầu, tính quốc tế của biển trong thế giới hiện đại- không có thách thức nào là của riêng ai, mà đó là những thách thức chung, trực tiếp hay gián tiếp đối với tất cả các quốc gia, đòi hỏi phải có sự hợp tác rộng rãi, thiện chí để tăng cường hợp tác, giảm thiểu những khác biệt, mâu thuẫn và xung đột.

Vậy, chúng ta sẽ làm gì với cái nhìn rộng rãi, trên góc độ đa phương để ngày càng cải thiện tình hình, sử dụng có hiệu quả tài nguyên, môi trường không gian biển, đem lại lợi ích cho từng quốc gia, cho khu vực, cũng như cho toàn thế giới?

Trước hết, chúng ta cần có nhận thức chung đúng về giá trị, về những đặc điểm mới, những lợi ích và thách thức mà tất cả các quốc gia đều gặp phải. Sự xuất hiện hàng loạt vấn đề an ninh phi truyền thống bên cạnh những vấn đề an ninh truyền thống là vấn đề tất yếu nảy sinh trong quá trình phát triển của thế giới, từ đó càng cần hơn sự hợp tác rộng rãi, cả song phương và đa phương để cùng giải quyết là một ví dụ cho thấy tính đa dạng, sự đan xen giữa phát triển và thách thức, giữa lợi ích và xung đột… trong tình hình hiện nay.

Thứ hai, chúng ta cần củng cố các cơ sở pháp lý về các hoạt động trên biển, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hợp tác phát triển, ngăn chặn những hành động phương hại đến lợi ích chung của khu vực cũng như của từng nước, tôn trọng chủ quyền lãnh thổ của các quốc gia và xử lý tốt những vấn đề nảy sinh như tranh chấp chủ quyền, lãnh thổ… Trước hết, cần tuân thủ nghiêm và thực hiện đầy đủ Công ước LHQ về luật biển 1982. Trong khu vực Đông Nam Á, cần thực hiện đầy đủ Tuyên bố về cách ứng xử trên Biển Đông (DOC), tiến tới ASEAN và Trung Quốc cùng nhau xây dựng Bộ qui tắc ứng xử trên Biển Đông (COC). Bên cạnh đó, việc tăng cường hiệu lực của các cơ chế hiện hữu và xuất hiện các cấu trúc an ninh mới như Cấp cao Đông Á (EAS) với sự tham gia của Nga và Mỹ, hay ADMM+ cũng cho thấy nhu cầu và triển vọng hợp tác giữa ASEAN với các nước đối tác có chung lợi ích trong khu vực, nó sẽ đem lại một tương lai tốt đẹp khi có sự thống nhất, đoàn kết và phát huy vai trò trung tâm của ASEAN, cũng như hài hòa lợi ích và trách nhiệm của các nước đối tác.

Thứ ba, chúng ta cần tăng cường hơn nữa hợp tác phát triển trên biển, cả song phương và đa phương, nhằm đem lại sự hiểu biết, tôn trọng lẫn nhau, cùng phát triển. Trong đó, hợp tác quốc phòng có vai trò ý nghĩa đặc biệt quan trọng, trước hết nhằm xây dựng và tăng cường lòng tin giữa quân đội các nước, tuyệt đối không sử dụng vũ lực, đồng thời giữ gìn hòa bình, ổn định, bảo vệ lao động và các hoạt động kinh tế, hàng hải, hòa bình trên biển.

Vùng biển Ma-lắc-ca vừa qua đã có sự ổn định, góp phần cho sự tăng trưởng của khu vực. Chúng tôi đánh giá cao sự hợp tác hải quân giữa các nước trực tiếp có liên quan như Malaysia, Indonesia, Singapore và sự ủng hộ của những quốc gia trong và ngoài khu vực. Tương tự như vậy, việc tăng cường hợp tác hải quân như tuần tra chung, thiết lập đường dây nóng giữa Việt Nam với Trung Quốc, Thái Lan, Campuchia và tiến tới tuần tra chung với Malaysia và Indonesia cũng góp phần tăng cường an ninh, trật tự trên Biển Đông.

Thứ tư, đối với các vấn đề, vụ việc xảy ra trên biển, chúng ta cần kiên trì, kiềm chế, xử lý rất bình tĩnh, trên tầm cao chiến lược và nhận thức quan trọng về tính chất của thời đại, trong đó đặc biệt cần tuân thủ luật pháp quốc tế, công khai minh bạch; Và những diễn đàn như Shangri-La hôm nay là cơ hội để chúng ta cùng minh bạch quan điểm về lợi ích, về những thách thức và những quan ngại, đồng thời bày tỏ chính sách quốc phòng của các quốc gia. Trong hợp tác, chúng ta cần bảo vệ chủ quyền, lợi ích quốc gia dân tộc, đồng thời phải giữ gìn hòa bình, ổn định và phát triển trong khu vực - đó là giá trị chung trong quan hệ lợi ích của tất cả các nước, đồng thời cũng là giá trị to lớn đối với mỗi quốc gia trong một môi trường lành mạnh, ổn định để phát triển.

Tình hình Biển Đông nhìn chung vẫn ổn định, nhưng đôi khi vẫn xảy ra các va chạm, gây lo ngại cho các quốc gia ven biển, gần đây nhất là vụ ngày 26/05/2011, tàu khảo sát Bình Minh 02 của Việt Nam bị cắt cáp thăm dò khi đang hoạt động thăm dò dầu khí bình thường trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của Việt Nam, gây lo ngại đến việc duy trì hòa bình ổn định ở Biển Đông cũng như khu vực và trên thế giới. Việt Nam đã kiên trì giải quyết vụ việc trên bằng biện pháp hòa bình theo luật pháp quốc tế và nguyên tắc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, giữ gìn hòa bình, ổn định trên Biển Đông và giữ mối quan hệ hữu nghị với các nước láng giềng. Chúng tôi mong muốn những sự việc tương tự không tái diễn.

Thưa các quí vị!

Là một quốc gia biển, trải qua nhiều cuộc chiến tranh, chúng tôi thấu hiểu giá trị của hòa bình và ổn định cho xây dựng và phát triển đất nước. Chính vì vậy, chính sách quốc phòng của Việt Nam là hòa bình và tự vệ; Việt Nam luôn chủ trương mở rộng quan hệ hợp tác với quân đội các nước trong và ngoài khu vực, tăng cường hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau, phối hợp trong các hoạt động nhằm đối phó với các mối đe dọa an ninh chung, trong đó có an ninh biển. Việt Nam luôn coi an ninh quốc gia của mình gắn liền với an ninh khu vực và thế giới, mong muốn là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong Cộng đồng quốc tế, tăng cường xây dựng lòng tin, phát triển quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước láng giềng, các nước trong khu vực và thế giới vì hòa bình, ổn định và phát triển.

Cuối cùng, chúc các quí vị mạnh khỏe!
Chúc Đối thoại Shangri-La lần thứ 10 thành công tốt đẹp!
Xin cảm ơn!
[Vitinfo news]


>> Sự đối lập trong chiến lược hàng hải Trung Quốc



Hai sự việc gần đây liên quan tới chiến lược hàng hải của Trung Quốc đã nhấn mạnh tính chất phức tạp từ sự trỗi dậy của Bắc Kinh trong thế kỷ 21.

Câu chuyện thứ nhất, nói về sự kiềm chế của Trung Quốc, là việc Bắc Kinh từ chối tiếp nhận các hoạt động ở cảng biển Gwandar thuộc Baluchistan, Pakistan. Đây là lời đề nghị mà Bộ trưởng Quốc phòng Pakistan Ahmad Mukhtar đưa ra khi ông trở về sau một chuyến thăm Trung Quốc cùng với Thủ tướng Yousaf Reza.


Tàu hải giám Trung Quốc đã quấy nhiễu và gây thiệt hại với tàu thăm dò dầu khí của Việt Nam khi tàu thăm dò hoạt động trong phạm vi thềm lục địa của Việt Nam Ảnh: peopledaily


Lời từ chối của Bắc Kinh khiến tất cả mọi người ngạc nhiên. Sau mọi thứ, Bắc Kinh đã đầu tư khoảng 200 triệu USD để xây dựng cảng này. Đây là một vị trí chiến lược, là thành phần quan trọng của chiến lược hải quân Trung Quốc mang tên “Chuỗi hạt trai”.
Như đã từng lập luận, việc mở rộng ngoại giao hàng hải của Trung Quốc cơ bản bắt nguồn từ tính cấp thiết phải đảm bảo sự tiếp cận các nguồn dự trữ năng lượng để đảm bảo cho sự tăng trưởng kinh tế nhanh chóng của nước này. Tác giả Robert Kaplan cũng đã có quan điểm tương tự.

Bất ngờ là, trong khi Trung Quốc thể hiện sự kiềm chế tham vọng tại Pakistan, thì lại gia tăng sự gây hấn, quả quyết ở Biển Đông. Biển Đông từ lâu là nơi phát sinh căng thẳng giữa Trung Quốc và các láng giềng Đông Nam Á. Trung Quốc và bốn nước Đông Nam Á đều đưa ra tuyên bố chủ quyền với vùng biển này. Vấn đề chủ quyền ở Biển Đông không đơn thuần là niềm tự hào hay kiêu hãnh, mà còn là những lợi ích kinh tế quan trọng do trữ lượng dầu khí khổng lồ, nguồn lợi cá ở vùng biển này.
Vụ việc mới nhất xảy ra ở Biển Đông bắt đầu từ thứ Năm trước, khi các tàu Trung Quốc quấy nhiễu và gây thiệt hại (cắt cáp dầu khí) cho tàu thăm dò địa chấn thuộc Petro Việt Nam khi tàu này tiến hành khảo sát tại lô 148 trong phạm vi thềm lục địa 200 hải lý của Việt Nam.

Bộ Ngoại giao Việt Nam lập tức kiên quyết phản đối vụ việc này trong khi Trung Quốc giữ yên lặng cho tới sáng thứ Bảy khi người phát ngôn bộ Ngoại giao Trung Quốc lên tiếng bênh vực hành động của các tàu hải giảm. Bà Khương Du nói: "Những gì mà các cơ quan liên quan của Trung Quốc đã làm là các hoạt động giám sát và thực thi luật pháp hoàn toàn bình thường ở khu vực biển thuộc thẩm quyền tài phán của Trung Quốc”, và thậm chí còn cảnh báo Việt Nam tránh gây ra những rắc rối mới.
Trong khi đó, Philippines, nước có tranh cãi chủ quyền với Trung Quốc ở Biển Đông cũng phản ứng mạnh mẽ, thậm chí còn triệu tập đại diện sứ quán Trung Quốc ở Manila để đề cập tới những hành động của tàu thuyền Trung Quốc ở vùng biển mà Manila tuyên bố chủ quyền.

Những tranh cãi mới ở Biển Đông xảy ra vào lúc đại biểu các nước chuẩn bị tham dự Đối thoại Shangri-La – một hội nghị thượng đỉnh an ninh châu Á tại Singapore. Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Robert Gates sẽ tham dự hội nghị và đây cũng là chuyến công du nước ngoài cuối cùng của ông trước khi rời nhiệm sở. Cả ông Gates và người đồng cấp Trung Quốc Lương Quang Liệt đều tham dự hội nghị. Trước đó, Chỉ huy Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương Mỹ, Đô đốc Robert Willard đã không ngại ngần bày tỏ, ông “lo lắng” về cách hành xử gần đây của Trung Quốc.

Tuy nhiên, sự gây hấn của Trung Quốc ở Biển Đông sẽ không leo thang trở thành một cuộc xung đột toàn diện. Cách hành xử của Bắc Kinh ở vùng biển này cũng làm phức tạp hóa chiến lược “chia để trị” mà họ tính toán với ASEAN. Những năm gần đây, Mỹ cũng tiếp cận gần gũi hơn với ASEAN bởi quan ngại về sự trỗi dậy của Trung Quốc. Ví dụ, tuyên bố của Ngoại trưởng Hillary Clinton rằng, Biển Đông là một lợi ích quốc gia của Mỹ đã được ASEAN đánh giá cao. Hơn thế nữa, trong sự thúc giục của các thành viên nổi bật ở quốc hội, chính quyền của Tổng thống Obama đã quyết định bổ nhiệm Đại sứ đầu tiên của Mỹ tại ASEAN hồi đầu năm nay.

[Vietnamnet news]


Chủ Nhật, 5 tháng 6, 2011

>> Shangri-La khi Trung Quốc chơi rắn



Khai mạc ngày 3/6, Đối thoại Shangri-La 2011 được giới quan sát đánh giá là "không thể diễn ra vào thời điểm nào hay hơn".

Tâm điểm Biển Đông

Chưa đầy một tuần trước Shangri-La, Trung Quốc cho 3 tàu hải giám xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam. Trước đó 5 ngày, Trung Quốc cho tàu quân sự vào vùng biển của Philippines, đồng minh thân cận của Mỹ ở khu vực. Chơi rắn với láng giềng, người phát ngôn Trung Quốc tuyên bố đó là "hành động bình thường", "hợp lý", thậm chí vu cáo nước khác tạo cớ, làm căng thẳng tình hình.

Giới phân tích cho rằng, thực chất những hành động đó là phép thử của Trung Quốc với từng quốc gia có tranh chấp chủ quyền, với ASEAN với tư cách
một khối thống nhất, với Mỹ với tư cách siêu cường luôn khẳng định sự hiện diện ở khu vực.

Với đặc tính: đối thoại thẳng thắn, tranh luận sắc bén, không ít người dự đoán, Shangri-La năm nay với Trung Quốc khó có thể là thiên đường hạ giới như tên gọi của nó (Shangri-La vốn là tên địa điểm hư cấu trong Lost Horizon của nhà văn Anh James Hilton). Một khi hành xử "vỗ mặt", "bề trên" với láng giềng khu vực, Trung Quốc khó có thể mong đợi gì khác.

Căng thẳng dâng cao được dự đoán sẽ đưa Biển Đông trở thành tâm điểm của nghị trình Shangri-La 2011. Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam, Phùng Quang Thanh cho hay, ông sẽ chủ động nêu sự kiện 3 tàu hải giám Trung Quốc xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, cắt cáp dầu khí của Việt Nam, "để khu vực và thế giới hiểu đúng".

Trước đó, Bộ trưởng Quốc phòng Philippines Voltaire Gazmin cũng nói rằng ông "sẽ đưa việc Trung Quốc gần đây liên tục xâm nhập trái phép vào vùng đảo mà Philippines tuyên bố chủ quyền ra trước Shangri-La".



Các quan chức tham dự Đối thoại Sangri-La 2011.

Trong nghị trình dự kiến Shangri-La sẽ dành riêng một phiên toàn thể thảo luận về việc ứng phó với các thách thức an ninh biển mới, và một phiên họp hẹp
về tranh chấp lãnh thổ.

Đó là chưa kể việc vấn đề Biển Đông có mối liên hệ chặt chẽ với cuộc phân chia quyền lực mới ở châu Á (một chủ đề khác trong nghị trình Shangri-La 2011), với siêu cường Mỹ có quá nhiều mối bận tâm và gánh nặng ngân sách trong khủng hoảng và một cường quốc đang lên Trung Quốc đang muốn tăng cường ảnh hưởng ở khu vực.

Và cũng không quên việc các quốc gia thành viên sẽ dành trọn một phiên để nghe Trung Quốc nói và nói với Trung Quốc về đóng góp an ninh quốc tế của Trung Quốc. Và việc Trung Quốc biến Biển Đông thực sự là "vùng biển dữ", như tên nhà hàng hải người Anh đặt cho vùng Biển Đông - với các hoạt động phát triển kinh tế, của Việt Nam và các nước, khó tránh bị đặt trên bàn cân.

Đặc biệt, trong bối cảnh Trung Quốc mạnh tay chi cho quốc phòng, trang bị vũ khí, khả năng về một cuộc chạy đua vũ trang và nguy cơ về xung đột nóng là điều các nước tính tới và muốn chặn.

Với cơ chế đối thoại, Shangri-La không chỉ đưa ra các tuyên bố chính sách mà cả các sáng kiến chính sách, không chỉ là những đối thoại mang tính tham vấn mà gồm các kế hoạch để cải thiện sự hợp tác.

Shangri-La mang lại không gian cho đối thoại, dù như giới phân tích nhận định, có thể sẽ không tránh được sự nổi nóng. Bởi mục tiêu của Shangri-La là tạo nên cơ chế để thảo luận minh bạch hơn về các chủ đề an ninh và quốc phòng nhạy cảm nhất.

Không phải ngẫu nhiên sau những cú "chơi rắn" của Trung Quốc ở Biển Đông, đối với Việt Nam và Philippines, ngày 3/6, khi Đối thoại Shangri-La khai mạc tại Singapore, tờ Nhân dân nhật báo của nước này chạy bài viết với tiêu đề, "Shangri-La nên tập trung vào hợp tác".

Phó giám đốc Viện Nghiên cứu Nam và Đông Nam Á, thuộc Viện Quan hệ quốc tế đương đại của Trung Quốc, Zhang Xuegang, tác giả bài báo cho rằng, sự khác biệt, thậm chí va chạm về quan điểm là điều bình thường trong các đối thoại Shangri-La trước đây và điều này có thể hiểu được.

Tuy nhiên, Zhang Xuegang cho rằng: "không nên được sử dụng Đối thoại Shangri-La như là diễn đàn để vài nước nào đó cố tình phê phán, chỉ trích quốc gia khác hay là công cụ để gây áp lực chính trị mang tính đơn phương".

Có lí do để vị học giả Trung Quốc lại sợ bị chỉ trích, nhất là khi nhìn vào hồ sơ Biển Đông. Còn nhớ, năm 2010, Trung Quốc đã từng rát mặt tại các hội nghị an ninh khu vực khi chủ đề Biển Đông liên tục được nhắc tới mà Trung Quốc được chỉ đích danh là thủ phạm gây bất ổn.

Ngay tại Shangri-La 2010, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Robert Gates trực tiếp đề cập đến tranh chấp Biển Đông và khuyến nghị cách tiếp cận đa phương để giải quyết tranh chấp. "Các bên phải làm việc để giải quyết sự khác biệt thông qua hòa bình, những nỗ lực đa phương phù hợp với thông lệ luật pháp quốc tế".

Theo ông Gates, điều cần hướng tới là kết quả và giải pháp không phải là "zero sum game", khi lợi ích của một nước chống lại lợi ích của các quốc gia khác.

"Cây gậy và củ cà rốt" của Trung Quốc

Hành xử khiêu khích, gây hấn, nay lãnh đạo quân sự Trung Quốc tận dụng diễn đàn Đối thoại để trấn an và giải thích, để cam kết trên lời nói. Cây gậy và củ cà rốt được Trung Quốc đưa ra.

Thế nhưng, như nhà nghiên cứu Dương Danh Dy từng nhấn mạnh, chơi với Trung Quốc, nói về hợp tác là đúng nhưng càng phải nói về những khác biệt.



Thủ tướng Malaysia: ASEAN không muốn phải lựa chọn giữa Mỹ và Trung Quốc. Có đủ không gian cho các nước lớn.

Tập trung bàn về việc hợp tác như khuyến nghị của Zhang Xuegang nhưng nói như GS John Chipman, Shangri-La, "không bao giờ tìm cách đối đầu, nhưng cũng không bao giờ lảng tránh việc tranh luận". Và việc bàn chuyện hợp tác sẽ không có ý nghĩa một khi Trung Quốc vẫn hành xử thiếu hợp tác, thiếu trách nhiệm, khăng khăng tự định luật chơi riêng, bất chấp luật pháp và dư luận quốc tế.

Và chừng nào, Trung Quốc vẫn tiếp tục đeo bám chiến lược hiện thực hoá đường lưỡi bò vốn đang bị cộng đồng quốc tế chỉ trích dữ dội, nhằm thực hiện tham vọng độc chiếm Biển Đông thì chừng đó, Biển Đông vẫn còn tiềm ẩn nguy cơ xung đột, gây bất ổn cho cả khu vực.

Dư luận đang chờ xem liệu Trung Quốc sẽ nói sao với thế giới? Liệu ASEAN sẽ có một tiếng nói chung? Liệu Mỹ, Nhật Bản và các nước khác có lên tiếng đủ mạnh mẽ, để kìm cương "người láng giềng to xác xấu bụng", giữ Biển Đông trong tầm kiểm soát, tránh được xung đột nóng.
[Vitinfo news]


Thứ Bảy, 4 tháng 6, 2011

>> Biển Đông cuộn sóng

Sóng Biển Đông đang gầm gào thét gọi, lay động những tâm hồn Việt Nam chẳng thể nào ngủ yên vì những hành vi xâm phạm chủ quyền đất nước. Đây không là hành vi của bọn cướp biển Xômali của một quốc gia đang chao đảo, mà là hành vi của các lực lượng cưỡi trên những con tàu “hải giám” được trang bị đến tận răng và được hỗ trợ bởi nào là máy bay tàng hình, nào là hàng không mẫu hạm hòa tấu với sự ngụy biện bằng những lời đường mật mỹ miều cũ kỹ cố tân trang song càng tân trang lại càng tương phản.

Ở cạnh một nước láng giềng với mong muốn “tối lửa tắt đèn có nhau”, chúng ta cứ ao ước được “bên ni biên giới là mình, bên kia biên giới cũng tình anh em”. Và trong trái tim nhân dân của hai nước Việt-Trung bao đời, những người dân hiền lành, lương thiện, luôn dành chỗ cho tình hữu nghị anh em từng cưu mang cứu giúp lẫn nhau trong cơn hoạn nạn.

Không phải ngẫu nhiên mà căn cứ địa thần thánh của cách mạng và kháng chiến của ta trong thế kỷ XX được xây dựng kề sát biên giới Việt Trung, và những chiến sĩ cách mạng Việt Nam đã ghi tạc vào lòng sự đùm bọc của bà con người Hoa bên kia biên giới trong những ngày đen tối của xiềng xích thực dân, đế quốc, phát xít. Cũng chính nơi đây, sau 30 năm bôn ba bốn biển năm châu tìm đường cứu nước, Bác Hồ đã dừng lại tại cột mốc biên giới để xúc động cúi hôn nắm đất quê hương.



Hải quân Việt Nam đang từng bước xây dựng chính quy,hiện đại, bảo vệ vững chắc vùng biển của Tổ quốc (Ảnh: Hoàng Long)

Rồi đến hôm nay, đúng một trăm năm ngày Bác ra đi tìm đường, những cột mốc nằm suốt dải biên giới Việt - Trung đã được xác định và gia cố vững chắc để khẳng định trên thực địa tính tôn nghiêm của quyền lãnh thổ bất khả xâm phạm của một quốc gia. Thế nhưng cùng với việc thỏa thuận cột mốc biên giới trên bộ, thì “chiếc lưỡi bò” với toan tính lấn chiếm lại thè ra muốn liếm trọn Biển Đông để thỏa cơn khát năng lượng của một cường quốc đang công nghiệp hóa và hiện đại hóa bằng bất cứ giá nào.

Việc làm này của Trung Quốc đi ngược lại với nguyện vọng của nhân dân Trung Quốc anh em vốn muốn sống hòa hiếu, muốn có quan hệ tốt đẹp với Việt Nam, cũng đi ngược lại với thiện chí của nhiều nhà lãnh đạo Trung Quốc từng có những hành động và ý nguyện thiết thực xây đắp mối quan hệ Việt – Trung thực sự tốt đẹp.

Theo các số liệu do Bloomberg tổng hợp thì nguồn dự trữ dầu của Trung Quốc đã sụt giảm gần 40% kể từ năm 2001. Để thỏa mãn nhu cầu về năng lượng thì Biển Đông với diện tích khoảng 3.500.000 km2, chứa đựng hơn 50 tỉ tấn dầu thô và hơn 20 nghìn tỉ mét khối khí (con số này gấp khoảng 25 lần trữ lượng dầu và 8 lần trữ lượng khí của Trung Quốc đã được ghi nhận) quả thật là “vịnh Ba tư thứ hai” theo cách nói của tờ Thời báo Hoàn cầu của Trung Quốc ra ngày 19-4-2011, là kho dự trữ lý tưởng mà cơn khát năng lượng của nước này nhằm vào.

Cho nên, cùng với sự kiên quyết bảo vệ chủ quyền, cần phải làm cho nhân dân Trung Quốc biết về những hành động của một bộ phận lãnh đạo của họ đối với nước láng giềng Việt Nam. Trong khi cố gắng hàn gắn và củng cố mối quan hệ song phương với Trung Quốc thì đồng thời chúng ta phải làm cho cộng đồng quốc tế biết về thiện chí của ta và hành động của Trung Quốc ở Biển Đông để thế giới hiểu thêm về Trung Quốc mà họ vốn rất cảnh giác trong quan hệ.

Điều quan trọng nhất là trong khi mở ra một mặt trận đối ngoại để tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ quốc tế, phải ra sức cải thiện hình ảnh Việt Nam trong lòng bè bạn. Để có được cái đó thì xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc theo đúng tư tưởng Hồ Chí Minh làm chỗ dựa vững chắc cho mọi giải pháp cần phải có nhằm bảo vệ từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc. Để làm được việc này cũng cần phê phán luận điệu đang được tung lên nhằm kích động chủ nghĩa dân tộc Đại Hán, đành phải dẫn ra đây để mỗi người Việt Nam có lòng tự trọng dân tộc tỏ tường hành động của Trung Quốc: “Một nhà lãnh đạo Trung Quốc đã nói một câu, trẻ con không nghe lời phải đét đít.

Sau đó 10 vạn đại quân điều tới biên cương. Còn bây giờ thì sao? Trẻ con không những không nghe lời mà còn hoàn toàn không thèm để mắt tới người lớn. Ngang nhiên nói, tiến hành bầu cử quốc dân trên các đảo bãi xâm chiếm phi pháp tại Biển Đông, còn gào thét đó là công việc nội bộ của quốc gia, nói là, phải dùng vũ lực bảo vệ chủ quyền thần thánh không thể xâm phạm của đất nước mình. Điều đó chẳng phải là chống lại trời thì là cái gì. Liệu không thể đét đít chăng? Không cho bài học, từ nay trở đi liệu có ổn không? Không đánh bây giờ thì đợi đến khi nào?”. Đây là lời trích trong bài “Liệu khi Trần Tổng Tham mưu trưởng trở về [tức là Trần Bỉnh Quốc vừa có chuyến công du đến Mỹ] có là lúc dạy cho An Nam bài học?”.

Việc ngang nhiên cho tàu “hải giám” [thực chất là tàu quân sự] xâm nhập vùng biển của ta để cắt cáp thăm dò dầu khí của tàu Bình Minh là một bước leo thang nhằm thực hiện ý đồ nói trên. Cần hiểu rằng, đây chỉ là khúc nhạc dạo đầu để thăm dò thái độ của Việt Nam mà thôi. Và nếu như không có một thái độ thật cứng rắn thì từ khúc nhạc dạo đầu đó nó sẽ là một bản “hòa tấu” quen thuộc của những lời có cánh đi liền với những hành động vi phạm chủ quyền Việt Nam.

Đúng như sự nhận định của thiếu tướng Lê Văn Cương, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chiến lược Bộ Công an ngày 31-5-2011: “Chủ quyền quốc gia là tối thượng của một dân tộc, là vĩnh cửu, là trường tồn. Không ai có quyền được mặc cả độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia mình cả... Phải nói rõ việc làm của Trung Quốc đã vi phạm gì, vi phạm đến đâu sự độc lập của chúng ta, để cho thế giới biết chúng ta không kích động chủ nghĩa dân tộc mà là tinh thần tự tôn dân tộc”.

Lòng yêu nước gắn làm một với tinh thần tự tôn dân tộc là điểm nhạy cảm nhất trong tâm thế Việt Nam, chạm đúng vào điểm nhạy cảm ấy là một sức mạnh vô bờ được bật dậy “kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước ” như Bác Hồ đã từng phân tích. Đây chính là lúc phải biết tiếp tục phát huy truyền thống Việt Nam quật cường bất khuất không bao giờ chịu hèn yếu cúi đầu khuất phục cho dù kẻ thù có hung bạo đến đâu.

Kinh nghiệm lịch sử đã cho thấy, chỉ giữ được hòa hiếu nếu chúng ta có đủ thực lực. Khi Nguyễn Trãi nhằm “sửa hòa hiếu cho hai nước, tắt muôn đời chiến tranh” đã “nghĩ kế lâu dài đất nước, tha kẻ hàng mười vạn sĩ binh” [Bình Ngô đại cáo]. Mà làm được vậy vì thực lực của cuộc kháng chiến ở thế kỷ XV buổi ấy vốn đã từng “Gươm mài đá, đá núi cũng mòn; voi uống nước, nước sông phải cạn, Đánh một trận sạch không kình ngạc, đánh hai trận tan tác chim muông”.[Bình ngô đại cáo]

Cũng vì vậy, đúng một năm trước ngày Toàn quốc kháng chiến 19-12-1946, Hồ Chí Minh từng căn dặn : “Phải trông ở thực lực. Thực lực mạnh, ngoại giao sẽ thắng lợi. Thực lực là cái chiêng mà ngoại giao là cái tiếng. Chiêng có to thì tiếng mới lớn”. Để có đủ thời gian gây dựng thực lực, Hồ Chí Minh đã từng khai thác bất cứ khả năng nào có thể, cho dù là nhỏ nhất, để nhân nhượng nhằm kéo dài thời kỳ hoà bình mong manh. Thế nhưng, “Chúng ta muốn hòa bình. Chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa..Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ ”. Đó chính là bản lĩnh của Hồ Chí Minh.

Có được bản lĩnh ấy vì Hồ Chí Minh tin chắc vào sức mạnh của dân tộc mình, biết cách khởi động và đẩy tới đỉnh cao sức mạnh đó bằng đường lối đại đoàn kết dân tộc. “Hỡi đồng bào! Chúng ta phải đứng lên”. Nội hàm của khái niệm “đồng bào” của Hồ Chí Minh rất rộng lớn và dứt khoát : “bất kỳ đàn ông đàn bà, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc, bất kỳ người già, người trẻ. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc”. Vũ khí vạn năng của “người Việt Nam” là lòng yêu nước và ý chí quật cường lưu truyền trong huyết quản. Chính cái đó là chất xi măng gắn kết khối đại đoàn kết dân tộc trên nền tảng của dân chủ và tự do được nghiêm chỉnh thực hiện. Bởi lẽ, “nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì”.

Đã đúng một trăm năm ngày Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước để có một đất nước như hôm nay. Đúng vào dịp này, tiếng sóng biển vỗ dưới thân tàu “đưa tiễn Bác” thuở nao nay lại đang sục sôi gầm thét về hành động xâm phạm chủ quyền Việt Nam, khúc dạo đầu cho toan tính liếm trọn Biển Đông để thỏa cơn khát năng lượng.

Chúng ta khát khao hòa hiếu và hữu nghị với các nước láng giềng. Tuy nhiên, hòa bình và hòa hiếu không thể bằng sự nhân nhượng mà có được. Bởi vậy, phải thường trực nuôi dưỡng và phát huy ý chí quật cường bất khuất mà ông cha ta bao đời nuôi dưỡng để biến thành vũ khí mầu nhiệm bảo vệ chủ quyền. Kỷ niệm một trăm năm ngày Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước đúng vào lúc mà Biển Đông đang nổi sóng. Đây không còn là “sóng vỗ dưới thân tàu đâu phải sóng quê hương” của trăm năm trước khi đất nước còn trong xiềng xích của thực dân, đế quốc, phát xít mà là tiếng sóng phẫn nộ của một đất nước độc lập, thống nhất đang đối diện với hành động và mưu toan lấn chiếm chủ quyền lãnh thổ của một quốc gia từng hiên ngang đứng bên bờ Thái Bình Dương đầy thử thách. Biển Đông đang cuộn sóng.

Biết cách khởi động sức mạnh toàn dân để bảo vệ chủ quyền là việc cần kíp hôm nay. Đó
là chính cách thiết thực kỷ niệm và học tập bản lĩnh Hồ Chí Minh.
(Nguồn :: Vitinfo)

>> Chia để trị - Chiến lược mới của Trung Quốc ở Đông Nam Á



Trong chiến lược hướng ra biển lớn của Trung Quốc, các quốc gia Đông Nam Á có một vai trò cực kỳ quan trọng.


Có thể nói các nước Đông Nam Á đang nắm trong tay chiếc chìa khóa hướng ra biển lớn của Trung Quốc. Giải quyết mối quan hệ với các quốc Đông Nam Á đang là một trong những ưu tiên hàng đầu của quốc gia này.




Chia nhỏ các tranh chấp trong khu vực

Đông Nam Á án ngữ biển Đông (phía Trung Quốc gọi là biển Nam Trung Hoa hay Nam Hải), nơi có 21/39 tuyến hàng hải quốc tế từ Trung Quốc đi qua khu vực này. Đông Nam Á cũng là khu vực có các quốc gia có tranh chấp trực tiếp với Trung Quốc về chủ quyền biển đảo trên biển Đông.

Từ lâu Trung Quốc luôn tìm mọi cách để phản đối sự đa phương hóa các vấn đề tranh chấp trong khu vực. Đa phương hóa các vấn đề tranh chấp trong khu vực là cơ hội để Mỹ can thiệp vào khu vực này. Họ luôn muốn giải quyết các tranh chấp theo phương thức đàm phán song phương. Lúc đó với sức mạnh kinh tế, chính trị, quân sự đang có họ sẽ có được kết quả có lợi nhất cho mình. Đồng thời, Bắc Kinh luôn phản đối sự hợp tác của các quốc gia Đông Nam Á với nước ngoài trong các dự án khai thác tài nguyên trên biển Đông.

Bên cạnh đó, các nước trong khối ASEAN chưa đạt được sự thống nhất cao trong cách giải quyết các tranh chấp, đây là cơ hội tốt để Trung Quốc chia nhỏ ASEAN.

Duy trì tranh chấp trong chiến lược "nước chảy đá mòn"

Từ lâu các nước Đông Nam Á muốn có được một bộ quy tắc ứng xử trên biển Đông (COC) để các tranh chấp trong khu vực không lâm vào ngõ cụt, tránh các nguy cơ xung đột. Song Trung Quốc năm lần bảy lượt trì hoãn vấn đề này. Họ chỉ đáp ứng các yêu cầu của các nước Đông Nam Á một cách nhỏ giọt.

Mãi đến năm 2002, Tuyên bố về cách ứng xử trên biển Đông (DOC) mới được ký kết, và cả hai bên Trung Quốc và ASEAN mới chỉ thống nhất nâng cấp DOC thành một Bộ Quy tắc ứng xử COC có tính ràng buộc về mặt pháp lý. Nhưng 9 năm trôi qua, Trung Quốc vẫn “án binh bất động”, bên cạnh đó các nước ASEAN cũng không thực đạt được sự nhất quán trong vấn đề này.

Đầu năm 2011, ngoại trưởng Indonesia Marty Natalegawa cho biết: “Các bên đã mất quá nhiều thời gian để xem xét các nguyên tắc chỉ đạo. Nếu chúng ta tiếp tục để tình hình im lìm và bất động, nó có thể tạo ra những phức tạp không cần thiết”. Đó là cơ hội trời cho với Trung Quốc, trong lúc ASEAN chưa tìm được lối ra cho chính mình, Bắc Kinh có thêm nhiều thời gian để cũng cố yêu sách của mình trên biển Đông.

Trong thời gian qua họ liên tục tổ chức, quảng cáo các chuyến du lịch trên biển Đông, gia tăng các hoạt động khai thác tài nguyên trên các vùng biển tranh chấp. Nếu ASEAN không nhanh, dần dần thế giới chỉ biết đến biển Đông như là một phần của Trung Quốc.

Trung Quốc đã đệ trình lên Liên Hợp Quốc tấm bản đồ với đường “lưỡi bò”chiếm đến 80% diện tích biển Đông. Họ đưa ra những tuyên bố hết sức vô lý bất chấp sự phản đối của ASEAN. Bắc Kinh hiểu rõ tuyên bố này vi phạm công ước về Luật biển 1982, trái với tinh thần của Tuyên bố về cách ứng xử trên biển Đông (DOC), đồng thời, cũng biết chắc các nước ASEAN, đặc biệt là các nước có tranh chấp với Trung Quốc về lãnh hải sẽ phản đối tới cùng yêu sách này. Điều đó có nghĩa họ không muốn kết thúc các vấn đề tranh chấp này.

Duy trì sự tranh chấp là cơ hội củng cố các yêu sách của mình. Một bên tiếp tục đưa ra yêu sách, một bên tiếp tục phản đối. Đồng nghĩa với các tranh chấp không có lối ra.

"Chia để trị"

Trong thời gian qua, Trung Quốc liên tục cũng cố và nâng tầm đối tác chiến lược với một số nước Đông Nam Á không có tranh chấp chủ quyền biển đảo với họ, đặc biệt là các nước có nền kinh tế yếu trong ASEAN.

Tháng 12/2010, trong chuyến thăm Trung Quốc của Thủ tướng Campuchia Hun Sen, hai bên đã nhất trí nâng mối quan hệ song phương lên tầm đối tác chiến lược. Trung Quốc hiện là nhà đầu tư lớn nhất vào Campuchia. Trung Quốc cũng đã nâng mối quan hệ song phương lên tầm đối tác chiến lược với Lào. Trung Quốc đang đầu tư mạnh vào các quốc gia này, nhằm trói buộc các nền kinh tế non yếu này. Trung Quốc cũng có những động thái tích cực để đẩy mạnh quan hệ song phương với Myanmar.

Theo Tạp chí Kanwa, thời gian qua Trung Quốc liên tục gia tăng bán vũ khí cho các quốc gia ĐNA, đặc biệt là các quốc gia không có tranh chấp trực tiếp với Trung Quốc về chủ quyền biển, đảo.

Hiện tại, Thái Lan là khách hàng mua vũ khí lớn nhất của Trung Quốc trong khu vực. Ngoài hợp đồng bán 2 tàu tuần tra Type-053H3, Thái Lan cũng là quốc gia Đông Nam Á đầu tiên mua tên lửa chống hạm C-802A tầm bắn 180km. Hai bên đã ký thỏa thuận chuyển giao công nghệ sản xuất pháo phản lực bắn loạt WS-1B. Đây là dự án hợp tác phát triển công nghệ tên lửa lớn nhất của quân đội Thái Lan. Một bạn hàng quan trọng khác của Trung Quốc ở khu vực là Myanmar, nước này có truyền thống hợp tác quân sự lâu đời với Trung Quốc. Nhiều vũ khí trong Quân đội Myanmar có nguồn gốc từ Trung Quốc như xe tăng MBT-2000, Type-69II, Type-59D, máy bay K-8, J-7, Q-5, Y-8... Với Campuchia, phần lớn các tàu chiến trong biên chế của Hải quân nước này có xuất xứ từ Trung Quốc.

Trong các cuộc mua bán, “giá cả phải chăng” là điểm mạnh để vũ khí Trung Quốc len lỏi vào Đông Nam Á, qua đó gây ảnh hưởng tới các quốc gia mua.

Hiện tại, trong khu vực, chỉ có Việt Nam, Philippines và Brunei là 3 quốc gia duy nhất Trung Quốc không xúc tiến các hợp đồng bán vũ khí lớn.

Đã đến lúc ASEAN cần phải đoàn kết hơn, thống nhất trong cách giải quyết các tranh chấp trong khu vực. Một ASEAN đoàn kết sẽ là đối trọng để giải quyết các tranh chấp trong khu vực với Trung Quốc.

Một chuyên gia nghiên cứu về biển Đông từng nói rằng “Chia nhỏ miếng bánh để mọi người cùng hưởng, còn hơn là cố giành lấy về mình để rồi mất trắng”.
[BDV news]


Thứ Tư, 1 tháng 6, 2011

>> Báo chí nước ngoài: "Trung Quốc ngày càng lấn lướt"



Việc tàu hải giám Trung Quốc ngang nhiên cắt cáp địa chấn tàu Bình Minh 02 ngay trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam khiến không chỉ chính quyền và người dân Việt Nam mạnh mẽ lên tiếng, mà báo chí quốc tế, đặc biệt là các nước trong khu vực cũng đặc biệt quan tâm.

Hãng tin AFP bình luận: "Việc Trung Quốc ngày càng lấn lướt trong việc giành quyền quyết định ở biển Đông đang làm gia tăng căng thẳng với các nước khác trong khu vực, cũng như với Mỹ."

Trong khi đó, BBC đưa tin: "Cuộc gây hấn mới nhất liên quan đến tàu hải giám Trung Quốc xảy ra ở 120 km ngoài khơi bờ biển phía Nam Trung Việt Nam, cách đảo Hải Nam của Trung Quốc 600km về phía Nam."



Tàu hải giám Trung Quốc


Hãng Reuters cũng xác nhận, vụ việc xảy ra trong khu vực lô 148, cách bờ biển Nam Trung Bộ của Việt Nam 80 hải lý tính từ thành phố biển Nha Trang (quy định về chiều rộng vùng đặc quyền kinh tế theo Công ước Luật biển LHQ 1982 là 200 hải lý tính từ đường cơ sở - ND).
Cũng trên BBC, một nhà nghiên cứu chủ đề an ninh hàng hải khu vực, Th.S Iskander Rehman phân tích: "Sự kiện mới rồi dường như khá nhất quán với cách ứng xử gần đây của Trung Quốc tại các vùng Biển Đông và Đông Hải, theo đó Bắc Kinh thường sử dụng cả hai biện pháp là cưỡng ép về ngoại giao và ra dấu hiệu mạnh mẽ về quân sự để khẳng định chủ quyền. Cách ứng xử này đã dẫn tới sự căng thẳng không chỉ với tàu Việt Nam mà cả các tàu của Mỹ, Nhật và Philippines.

Cần chú ý rằng cách tiếp cận của Trung Quốc trong các tranh chấp lãnh thổ trên biển không chỉ mạnh bạo hơn mà còn trở nên đa dạng hơn trước. Đụng độ trên biển mức độ nhỏ chỉ là một trong các biện pháp mà Bắc Kinh đang sử dụng nhằm củng cố chủ quyền trên các đảo đá và bãi cạn tại Biển Đông, vốn được cho là giàu khoáng sản.

Một biện pháp khác là phát tín hiệu quân sự như tổ chức tập trận và tăng cường tuần tra ngoài khơi gần các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đây là biện pháp chúng ta thấy được sử dụng ngày càng nhiều trong thời gian gần đây.



Cáp địa chấn tàu Bình Minh 02 bị tàu hải giám TQ cắt ngay trong vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam


Các hình thức khiêu khích này thường được thực hiện cùng điều mà các nhà phân tích chiến lược Trung Quốc gọi là 'chiến tranh pháp lý', tức người phát ngôn của chính phủ Trung Quốc mang một số điều đã được công nhận trong luật biển quốc tế ra công khai tranh cãi về khía cạnh pháp lý."

Tờ BangkokPost bình luận: "Tuần trước, Việt Nam phát hiện ra cáp địa chấn của một tàu thăm dò dầu khí đã bị cắt ở khu vực lô 148, ngay 120km ngoài khơi biển Nam Trung Bộ của Việt Nam, tức chỉ 1/5 so với khoảng cách từ Trung Quốc."

Tờ báo này nhấn mạnh: "Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á đã có những nỗ lực nhưng không mấy hiệu quả trong suốt 9 năm qua để đàm phán với Trung Quốc về vấn đề này, với mục đích đưa ra một bộ quy tắc ứng xử trên biển Đông."
[VTC news]


>> Phép thử của Trung Quốc và giải pháp của Việt Nam



Trung Quốc đang làm phép thử đối với đường chữ U (đường lưỡi bò). Nếu gặp phải sự phản ứng kiên quyết của Việt Nam và ASEAN thì họ sẽ tính toán khác. Nếu Việt Nam im lặng và ASEAN giữ thái độ đứng ngoài, Trung Quốc sẽ đương nhiên ghi điểm.

Dưới đây là bài phân tích của nhóm tác giả Lê Vĩnh Trương, Nguyễn Đức Hùng, Dư Văn Toán, Nguyễn Trọng Bình, Phạm Thu Xuân (Quỹ Nghiên cứu biển Đông), trước hành động Trung Quốc xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế, cắt cáp địa chấn của Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam ngày 26/5.

Trong suốt những năm qua, các tàu ngư chính của Trung Quốc đã liên tục bắt giữ, đánh đập và đòi tiền chuộc đối với ngư dân Việt Nam tại vùng biển Hoàng Sa, Trường Sa. Nhưng với sự kiện ngày 26/5, Trung Quốc đã leo thang từ bắt giữ tàu thuyền ngư nghiệp của Việt Nam tại các vùng nước xa bờ đến tấn công tàu khảo sát địa chấn trong chính vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.

Vào ngày 26/5, Trung Quốc đã ngang nhiên tấn công tàu Bình Minh 02 của Việt Nam ngay tại vùng biển của Việt Nam (12 độ 48’25” vĩ bắc, 111 độ 26’48” kinh đông), trong vòng 200 hải lý kể từ đường cơ sở, tức hoàn toàn không dính dáng gì đến các tranh chấp ngoài xa hơn là Hoàng Sa và Trường Sa.

Sự kiện này diễn ra ngay sau chuyến thăm các nước Singapore, Indonesia và Philippines (từ 15/5) của Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc Lương Quang Liệt. Trước đó, ngay trước chuyến thăm Mỹ của Tham mưu trưởng Trung Quốc Trần Bỉnh Đức (16/5), Trung Quốc cũng đã đơn phương ban bố lệnh cấm đánh bắt cá trong biển Đông có hiệu lực từ ngày 16/5 đến ngày 1/8/2011, trên vùng biển mà Việt Nam có chủ quyền…

Thái độ ngang ngược, bất chấp luật pháp quốc tế, bất chấp những gì mà chính phủ Trung Quốc đã cùng ký kết và cam kết tại các hội nghị từ trước đến nay, bất chấp văn minh ứng xử của cộng đồng các quốc gia văn hiến, cho thấy một số tín hiệu phát đi của giới làm chính sách Trung Quốc.



Vị trí tàu Bình Minh 02 bị cắt cáp địa chấn. Ảnh: Bộ Ngoại giao.

Thứ nhất, giới quân đội có tinh thần dân tộc cực đoan Trung Quốc đang cố chứng tỏ với ASEAN và cộng đồng thế giới rằng Trung Quốc sẽ sẵn sàng phủ nhận các văn bản mà chính mình đã ký kết và kiên trì cách tiến xuống vùng biển Đông bằng chính sách vừa lấn vừa đàm. Những sự kiện nêu trên cho thấy các văn bản ký kết với các nước ASEAN có ít giá trị ràng buộc.

Chính sách tàm thực (tằm ăn dâu), vừa lấn vừa đàm, tuyên bố trước, hù dọa kèm và giành giật sau, đã được Trung Quốc thực hiện lâu dài từ nhiều năm. Từ giai đoạn sử liệu Trung Quốc nhìn nhận cực nam Trung Quốc là đảo Hải Nam cho đến lúc tuyên bố mập mờ cả vùng chữ U là “lợi ích cốt lõi”, Trung Quốc đã tiến xa, tiến sâu ngay trước sự chứng kiến của ASEAN và thế giới.

Thứ hai, Trung Quốc đang tiến đến cô lập và uy hiếp Việt Nam hơn nữa sau chuyến thăm Mỹ và ASEAN của giới quân sự nước này, bất chấp những động thái ôn hòa hơn của giới ngoại giao; đồng thời phát một tín hiệu đến Việt Nam và các nước ASEAN khác rằng họ đang tìm cách vừa làm thân với Mỹ và các cường quốc có lợi ích quốc gia về hàng hải tại khu vực, vừa cách ly Việt Nam với các quốc gia ASEAN. Thậm chí thái độ này của Trung Quốc còn là một nước cờ nhằm làm cho ASEAN bán tín bán nghi liệu họ đã thỏa thuận được với Mỹ và cho Việt Nam phỏng đoán liệu Trung Quốc đang mặc cả với Singapore, Philippines và Indonesia và cả Mỹ trên lưng Việt Nam.

Thứ ba, Trung Quốc đang làm phép thử đối với đường chữ U (đường lưỡi bò). Nếu gặp phải sự phản ứng kiên quyết của Việt Nam và của ASEAN thì họ sẽ tính toán khác. Nếu Việt Nam im lặng và ASEAN giữ thái độ đứng ngoài, Trung Quốc sẽ đương nhiên ghi điểm và sự việc ngày 26/5 sẽ có thể được tô vẽ thành một sự kiện bảo vệ lãnh thổ Trung Quốc như sự kiện Lý Chuẩn ra Hoàng Sa năm 1909 và sự kiện Trung Quốc chiếm Hoàng Sa của Việt Nam năm 1974.

Thứ tư, Trung Quốc đang chuyển hướng lưu ý của dư luận ra bên ngoài nhằm hạ nhiệt dư luận đối với các khó khăn xã hội trong nước. Các cuộc đình công của giới xe tải tại Thượng Hải vào cuối tháng 4/2010 và các cuộc đánh bom tại Giang Tây trong tuần vừa qua đã nói lên phần nào lý do thái độ gây hấn của Trung Quốc vừa qua.

Thứ năm, tại Trung Quốc, các nhà nghiên cứu về biển của Trung Quốc được sự tài trợ của chính phủ đã liên tiếp cho ra nhiều sách và xuất bản phẩm đưa thông tin sai lệch về chủ quyền lịch sử của Trung Quốc trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Và lần này họ cũng đang tạo một tiền đề cho các học giả Trung Quốc “bảo vệ” hành động của các tàu hải giám, để dành cho những ngụy biện về sau.

Thứ sáu, Trung Quốc dùng sự kiện này để răn đe các nước khác có tranh chấp với Trung Quốc như Nhật, nước hiện có kế hoạch triển khai quân ra đảo Senkaku (Trung Quốc gọi là đảo Điếu Ngư).

Trước những động thái vừa được phân tích trên, những nhà làm chính sách và nhân dân Việt Nam chúng ta cần làm gì?

Đầu tiên chúng ta cần có những phản ứng về ngoại giao ở cấp cao nhất tầm quốc tế (Liên Hợp Quốc) và quyết liệt như gửi kháng thư, yêu cầu bồi thường và thông tin kịp thời đến cho các giới kinh doanh, các hộ ngư dân làm thủy sản, các giàn khoan ngoài khơi để tránh bị động nếu giới quân sự của Trung Quốc lại leo thang xâm lấn. Việc minh bạch các thông tin này cũng là để bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân trước thái độ hung hăng này.

Cần nhanh chóng xúc tiến xây dựng và ban hành Luật biển Việt Nam để có cơ sở bảo vệ ngư dân, lãnh hải trong khuôn khổ luật quốc tế và các cam kết đối với khu vực.



Lực lượng Hải quân bảo vệ đảo Trường Sa Đông. Ảnh: Nguyễn Hưng.

Chúng ta cần luôn luôn tận dụng chữ ký của Trung Quốc tại Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật biển (UNCLOS 1982) và tại Tuyên bố năm 2002 giữa ASEAN và Trung Quốc về ứng xử của các bên ở biển Đông (DOC 2002) cũng như có những biện pháp để ASEAN có ý kiến, vì đây là một vi phạm nghiêm trọng đến thể diện, lợi ích và những cam kết hòa bình mà ASEAN đã theo đuổi.

Chúng ta cũng cần có cách thức tác động đến nhân dân Trung Quốc là những giới bị thiếu thông tin trong vấn đề biển Đông và Hoàng Sa, Trường Sa. Họ đang ngày càng xa rời sự thật khách quan khi nhận nhiều thông tin có tính dân tộc cực đoan và bóp méo hiện trạng cũng như lịch sử từ giới quân sự.

Nhân dân Việt Nam cũng cần lên tiếng từ các hội đoàn, người Việt ở cả trong và ngoài nước. Đây cũng là lúc mà sự đoàn kết trong và ngoài nước sẽ có giá trị lớn để vượt qua khủng hoảng. Người Việt sẽ tiếp tục sử dụng những cách thức ôn hòa và văn minh để vượt qua thách thức này của đất nước.

Sau cùng, ngoài việc bảo vệ đất nước bằng ngoại giao, chúng ta có lẽ cũng cần tính đến việc buộc phải sử dụng cách thức bất khả kháng, khi có những tình huống xấu hơn nữa, mà không rơi vào tình thế bị động. Hành động xâm lấn không phải chỉ có thể xảy ra ở bờ biển nước nhà, khi người láng giềng lại tiếp tục leo thang với những hành động không thể biện minh được như vừa qua.

Tóm lại, sự việc 26/5 nghiêm trọng ở chỗ sự xâm lấn ngày càng sâu dần vào lãnh thổ hợp pháp của Việt Nam, thách thức và thăm dò lòng tự trọng của nhân dân Việt Nam. Đã đến lúc chúng ta cần có những giải pháp tổng thể trên nhiều phương diện để tìm giải pháp cho Hoàng Sa, Trường Sa và biển Đông. Các giải pháp hiện nay cần tiến hành đồng bộ, đồng loạt và đi sâu vào nhiều tầng lớp nhân dân Việt Nam.


[Vnexpress news]


Thứ Tư, 6 tháng 4, 2011

>> Công bố tài liệu về chủ quyền của Việt Nam với Hoàng Sa, Trường Sa



[Vnexpress news] Nhiều sách địa lý và bản đồ cổ của Việt Nam ghi chép rõ Bãi Cát Vàng, Hoàng Sa, Vạn lý Hoàng Sa, Đại Trường Sa hoặc Vạn lý Trường Sa từ lâu đã là lãnh thổ Việt Nam.

>> Download !


Trích đoạn: ... "Hoàng Sa và Trường Sa là hai quần đảo ở ngoài khơi Việt Nam: quần đảo Hoàng Sa chỗ gần nhất cách đảo Ré, một đảo ven bờ của Việt Nam, khoảng 120 hải lý; cách Đà Nẵng khoảng 120 hải lý về phía Đông; quần đảo Trường Sa chỗ gần nhất cách Vịnh Cam Ranh khoảng 250 hải lý về phía Đông.

Nhận thức của các nhà hàng hải thời xưa về Hoàng Sa và Trường Sa lúc đầu mơ hồ; họ chỉ biết có một khu vực rộng lớn rất nguy hiểm cho tàu thuyền vì có những bãi đá ngầm. Ngày xưa người Việt Nam gọi là Bãi Cát Vàng, Hoàng Sa, Vạn lý Hoàng Sa, Đại Trường Sa hoặc Vạn lý Trường Sa như các sách và bản đồ cổ của Việt Nam đã chứng tỏ. Hầu như tất cả các bản đồ của các nhà hàng hải phương Tây từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII đều vẽ chung quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa làm một dưới cái tên Pracel, Parcel hay Paracels.

Về sau, với những tiến bộ của khoa học và hàng hải, người ta đã phân biệt có hai quần đảo: quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. Mãi cho đến năm 1787 - 1788, cách đây hai trăm năm, đoàn khảo sát Kergariou-Locmaria mới xác định được rõ ràng và chính xác vị trí của quần đảo Hoàng Sa (Paracel) như hiện nay, từ đó phân biệt quần đảo này với quần đảo Trường Sa ở phía Nam.

Các bản đồ trên nói chung đều xác định vị trí khu vực Pracel (tức là cả Hoàng Sa và Trường Sa) là ở giữa Biển Đông, phía đông Việt Nam, bên ngoài những đảo ven bờ của Việt Nam.

Hai quần đảo mà các bản đồ hàng hải quốc tế ngày nay ghi là Paracels và Spratley hoặc Spratly chính là quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa của Việt Nam.

Chủ quyền lịch sử của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa:

Từ lâu nhân dân Việt Nam đã phát hiện quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, Nhà nước Việt Nam đã chiếm hữu và thực hiện chủ quyền của mình đối với hai quần đảo đó một cách thật sự, liên tục và hoà bình.

Nhiều sách địa lý và bản đồ cổ của Việt Nam ghi chép rõ Bãi Cát Vàng, Hoàng Sa, Vạn lý Hoàng Sa, Đại Trường Sa hoặc Vạn lý Trường Sa từ lâu đã là lãnh thổ Việt Nam.



Toàn tập Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư


Toàn tập Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư, tập bản đồ Việt Nam do Đỗ Bá, tên chữ là Công Đạo, soạn vẽ vào thế kỷ XVII, ghi rõ trong lời chú giải bản đồ vùng Phủ Quảng Ngãi, xứ Quảng Nam: "giữa biển có một bãi cát dài, gọi là Bãi Cát Vàng", "Họ Nguyễn mỗi năm vào tháng cuối mùa Đông đưa mười tám chiếc thuyền đến lấy hoá vật, được phần nhiều là vàng bạc, tiền tệ, súng đạn".

Trong Giáp Ngọ bình nam đồ, bản đồ xứ Đàng Trong do Đoán quận công Bùi Thế Đạt vẽ năm 1774, Bãi Cát Vàng cũng được vẽ là một bộ phận của lãnh thổ Việt Nam.

Phủ biên tạp lục, cuốn sách của nhà bác học Lê Quý Đôn (1726-1784) biên soạn năm 1776, viết về lịch sử, địa lý, hành chính xứ Đàng Trong dưới thời chúa Nguyễn (1558-1775) khi ông được triều đình bổ nhiệm phục vụ tại miền Nam, chép rõ đảo Đại Trường Sa (tức Hoàng Sa và Trường Sa) thuộc phủ Quảng Ngãi.

"Xã An Vĩnh, huyện Bình Sơn, Phủ Quảng Nghĩa, ở ngoài cửa biển có núi gọi là Cù lao Ré, rộng hơn 30 dặm, có phường Tứ Chính, dân cư trồng đậu, ra biển bốn canh thì đến, phía ngoài nữa lại có đảo Đại Trường Sa. Trước kia có nhiều hải vật và hoá vật của tầu, lập đội Hoàng Sa để lấy, đi ba ngày đêm mới đến, là chỗ gần xứ Bắc Hải".


Đại Nam Nhất thống Toàn đồ.


... Phủ Quảng Ngãi, huyện Bình Sơn có xã An Vĩnh, ở gần biển, ngoài biển về phía Đông Bắc có nhiều cù lao, các núi linh tinh hơn 130 ngọn, cách nhau bằng biển, từ hòn này sang hòn kia hoặc đi một ngày hoặc vài canh thì đến. Trên núi có chỗ có suối nước ngọt. Trong đảo có bãi cát vàng, dài ước hơn 30 dặm, bằng phẳng rộng lớn, nước trong suốt đáy. Trên đảo có vô số yến sào; các thứ chim có hàng nghìn, hàng vạn, thấy người thì đậu vòng quanh không tránh. Trên bãi vật lạ rất nhiều. Ốc vân thì có ốc tai voi to như chiếc chiếu, bụng có hạt to bằng đầu ngón tay, sắc đục, không như ngọc trai, cái vỏ có thể đẽo làm tấm bài được, lại có thể nung vôi xây nhà; có ốc xà cừ, để khảm đồ dùng; lại có ốc hương. Các thứ ốc đều có thể muối và nấu ăn được. Đồi mồi thì rất lớn. Có con hải ba, tục gọi là Trắng bông, giống đồi mồi, nhưng nhỏ hơn, vỏ mỏng có thể khảm đồ dùng, trứng bằng đầu ngón tay cái, muối ăn được. Có hải sâm tục gọi là con đột đột, bơi lội ở bến bãi, lấy về dùng vôi sát qua, bỏ ruột phơi khô, lúc ăn thì ngâm nước cua đồng, cạo sạch đi, nấu với tôm và thịt lợn càng tốt.

Các thuyền ngoại phiên bị bão thường đậu ở đảo này. Trước họ Nguyễn đặt đội Hoàng Sa 70 suất, lấy người xã An Vĩnh sung vào, cắt phiên mỗi năm cứ tháng ba nhận giấy sai đi, mang lương đủ ăn sáu tháng, đi bằng 5 chiếc thuyền câu nhỏ, ra biển 3 ngày 3 đêm thì đến đảo ấy. Ở đấy tha hồ bắt chim bắt cá mà ăn. Lấy được hoá vật của tầu, như là gươm ngựa, hoa bạc, tiền bạc, vòng sứ, đồ chiên, cùng là kiếm lượm vỏ đồi mồi, vỏ hải ba, hải sâm, hột ốc vân rất nhiều. Đến kỳ tháng tám thì về, vào cửa Eo, đến thành Phú Xuân để nộp, cân và định hạng xong mới cho đem bán riêng các thứ ốc vân, hải ba, hải sâm, rồi lĩnh bằng trở về. Lượm được nhiều ít không nhất định, cũng có khi về người không. Tôi đã xem số của cai đội cũ là Thuyên Đức Hầu biên rằng: năm Nhâm Ngọ lượm được 30 hốt bạc; năm Giáp Thân được 5.100 cân thiếc; năm Ất Dậu được 126 hốt bạc; từ năm Kỷ Sửu đến năm Quý Tỵ năm năm ấy mỗi năm chỉ được mấy tấm đồi mồi, hải ba. Cũng có năm được thiếc khối, bát sứ và hai khẩu súng đồng mà thôi.

Họ Nguyễn lại đặt đội Bắc Hải, không định bao nhiêu suất, hoặc người thôn Thứ Chính ở Bình Thuận, hoặc người xã Cảnh Dương, ai tình nguyện đi thì cấp giấy sai đi, miễn cho tiền sưu cùng các tiền tuần đò, cho đi thuyền câu nhỏ ra các xứ Bắc Hải, cù lao Côn Lôn và các đảo ở Hà Tiên, tìm lượm vật của tầu và các thứ đồi mồi, hải ba, bào ngư, hải sâm, cũng sai cai đội Hoàng Sa kiêm quản. Chẳng qua là lấy các thứ hải vật, còn vàng bạc của quý ít khi lấy được”. ...


Copyright 2012 Tin Tức Quân Sự - Blog tin tức Quân Sự Việt Nam
 
Lên đầu trang
Xuống cuối trang