Tin Quân Sự - Blog tin tức Quân sự Việt Nam: Không quân Mỹ

Paracel Islands & Spratly Islands Belong to Viet Nam !

Quần Đảo Hoàng Sa - Quần Đảo Trường Sa Thuộc Về Việt Nam !

Hiển thị các bài đăng có nhãn Không quân Mỹ. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Không quân Mỹ. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Tư, 13 tháng 6, 2012

>> Không quân Mỹ chuẩn bị tấn công Syria

Tổng thống Mỹ Barack Obama đã ra lệnh cho không quân và hải quân Mỹ chuẩn bị một cuộc không kích hạn chế nhằm vào chính quyền của Tổng thống Syria Bashar al-Assad, đồng thời áp đặt các khu vực cấm bay tại Syria.




http://nghiadx.blogspot.com
Máy bay chiến đấu F-16. Ảnh matzav.com


Tổng thống Mỹ Barack Obama đã ra lệnh cho không quân và hải quân Mỹ chuẩn bị một cuộc không kích hạn chế nhằm vào chính quyền của Tổng thống Syria Bashar al-Assad, đồng thời áp đặt các khu vực cấm bay tại Syria.

Theo các nguồn tin khu vực ngày 11/6, nhiệm vụ của lực lượng Mỹ là hủy hoại chính quyền của ông Assad và các trung tâm chỉ huy quân sự nhằm làm cho chính quyền lung lay và cản trở quân đội Syria tấn công phe nổi dậy.

Các nguồn tin tiết lộ Tổng thống Obama đã quyết định bước đi này sau những tuyên bố liên tiếp của giới chức Nga cho rằng "Moskva sẽ ủng hộ sự ra đi của ông Assad, nếu người dân Syria đồng ý với việc đó."

Mỹ mở ra hai hướng hành động: Một là, loại bỏ ông Assad bằng cách tăng cường cung cấp vũ khí cho lực lượng nổi dậy và tổ chức các lực lượng đối lập thành quân chuyên nghiệp có thể đương đầu với các đơn vị quân đội trung thành với ông Assad. Hai là, trước sức ép của cuộc không kích giới hạn của Mỹ, chọn ra một nhóm sỹ quan cấp cao sẵn sàng làm đảo chính lật đổ ông Assad, buộc ông và gia đình chấp nhận sống lưu vong. Chiến dịch của Mỹ sẽ được điều chỉnh theo diễn tiến của các sự kiện chính trị và quân sự.

Trước đó, ngày 10/6, Ngoại trưởng Anh William Hague nói: "Syria đang bên bờ vực của nội chiến, vì thế không thể loại trừ bất cứ giải pháp nào”.

Washington hiện không chắc về phản ứng của Nga vốn cực lực lên án hành động can thiệp quân sự của nước ngoài. Các quan chức Mỹ hiện cũng chưa rõ liệu Nga có chấp nhận tiến trình thay đổi chế độ ở Damascus hay không.


Về phần mình, Nga vẫn phản đối mạnh mẽ khả năng dùng vũ lực để lật đổ Tổng thống Assad. Nga và Mỹ đang mâu thuẫn gay gắt với nhau về cách thức xử lý cuộc khủng hoảng ở Syria. Trong khi Mỹ ra sức thúc ép Tổng thống Assad từ chức, thì Nga lại cho rằng việc lật đổ chính quyền của Tổng thống Assad không phải là giải pháp tháo gỡ cuộc khủng hoảng ở Syria hiện nay.

Hiện tại, Nga và Trung Quốc đều cho rằng phương Tây, do Mỹ cầm đầu, đang hậu thuẫn phe nổi dậy Syria. Hai nước thành viên HĐBA LHQ có quyền phủ quyết này không muốn biến Syria thành Libya thứ hai và chỉ ra rằng việc NATO lật đổ chính phủ Libya năm ngoái không đem lại hòa bình và ổn định cho đất nước hiện đang lâm vào tình trạng hỗn loạn, chia rẽ này.

(Nguồn :: Báo Đất Việt)

Thứ Năm, 17 tháng 5, 2012

>> X-47B sẽ làm nên chuyện lớn trên Thái Bình Dương

Nhờ có X-47B, tại một khu vực biển xa, tàu sân bay hạt nhân Mỹ sẽ tấn công được bất cứ mục tiêu nào ở Thái Bình Dương...



http://nghiadx.blogspot.com
Máy bay không người lái Mỹ thử nghiệm tiếp dầu trên không.
Tờ nguyệt san “Không quân” Mỹ tháng 3 tiết lộ, mùa hè năm nay, quân Mỹ sẽ thử nghiệm thử nghiệm máy bay không người lái (UAV) tiếp nhiên liệu trên không.

Được biết, đây là một chương trình mới được Cục Nghiên cứu thiết kế cao cấp - Bộ Quốc phòng Mỹ đang tiến hành: Một máy bay trinh sát không người lái Global Hawk tiếp dầu cho một máy bay trinh sát không người lái Global Hawk khác.

Theo người phụ trách chương trình này Jim McCormick, điều này sẽ mang lại sự thay đổi đột phá cho công nghệ tiếp dầu trên không.

Báo Trung Quốc đã có bài phỏng vấn Chủ nhiệm Phòng Nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Trang bị Không quân Trung Quốc, chuyên gia nghiên cứu máy bay không người lái Vương Kiếm.

Chuyên gia này đã đưa ra quan điểm của mình về khó khăn công nghệ tự tiếp dầu trên không của máy bay không người lái, xu thế phát triển và triển vọng ứng dụng.

>> UAV Mỹ trong chiến tranh Việt Nam

Tự tiếp dầu trên không của UAV là một công nghệ vạch thời đại

Máy bay không người lái tự tiếp dầu trên không là một công nghệ vạch thời đại, nó có những thách thức về hệ thống không người lái, cảm biết và khí động học, giá trị của công nghệ này không thua kém vai trò của tiếp dầu trên không cho máy bay có người lái.

Một mặt, có thể cải thiện rất lớn cho hành trình, tốc độ và tính linh hoạt trong triển khai của máy bay không người lái, giảm sự phụ thuộc vào các căn cứ phía trước, tăng gấp bội hiệu quả tác chiến.

Mặt khác, có thể làm cho máy bay không người lái cũng có khả năng bay trên không có đội hình, từ đó làm thay đổi phương thức tự chiến đấu riêng lẻ hiện nay của máy bay không người lái, điều này có ý nghĩa đột phá đối với việc tìm kiếm mô hình tác chiến trong tương lai sử dụng cả máy bay không người lái và máy bay có người lái.

http://nghiadx.blogspot.com
Máy bay không người lái X-47B Mỹ.

Đối với máy bay không người lái Global Hawk của quân Mỹ, thông qua tiếp dầu trên không, thời gian bay liên tục và hành trình có thể tăng gấp 3 lần, hiệu suất tác chiến bay một lượt sẽ tăng gấp bội, tiếp tục đi sâu mở rộng tác dụng của loại máy bay không người lái này.

Thông qua triển khai nhanh và trinh sát điểm trong mọi thời tiết đối với khu vực địa lý cụ thể, nó có thể bổ sung những hạn chế về phạm vi và thời gian của vệ tinh, đồng thời có thể hoàn thành nhiệm vụ do thám khi vệ tinh gián điệp bị phá hủy hoặc gây nhiễu.

Máy bay có người lái mặc dù có khả năng tiếp dầu trên không, nhưng khi hoạt động vẫn có thể bị ảnh hưởng về thời gian do sự mệt mỏi của phi công.

Chẳng hạn, máy bay chiến đấu phiên bản hải quân Hornet F/A-18 của Hải quân Mỹ thường mỗi lần xuất kích chỉ bay được cự ly không quá 450 dặm Anh, chỉ có thể thực hiện nhiệm vụ trong vài giờ.

Đối với vấn đề này, Hải quân Mỹ sẽ tăng thiết bị tiếp dầu và phần mềm cho 2 máy bay chiến đấu không người lái X-47B do Công ty Northrop Grumman (NOC) đang phát triển.

Sự thay đổi này sẽ làm cho tầm bắn tấn công hiệu quả của tàu sân bay động cơ hạt nhân của Hải quân Mỹ tăng hàng ngìn dặm Anh, tức là ở một khu vực an toàn tại biển xa, tiến hành tấn công bất cứ mục tiêu nào ở khu vực Thái Bình Dương, từ đó làm thay đổi cân bằng sức mạnh của khu vực Thái Bình Dương.

Ngoài ra, công nghệ UAV tự tiếp dầu trên không cũng có thể đóng một vai trò quan trọng trên máy bay có người lái.

Đối với phi công, nhiệm vụ bay 1 lần dài tới 10-30 giờ (như máy bay ném bom B-2 bay từ miền trung/tây nước Mỹ đến Iraq) là một thách thức không nhỏ, đặc biệt những lúc cất/hạ cánh, ném bom và tiếp dầu trên không là lúc phi công căng thẳng nhất.

Nếu sử dụng biên đội tự động và công nghệ tự tiếp dầu, thì có thể giúp làm giảm gánh nặng cho phi công khi bay cự ly dài và bay trong thời tiết khắc nghiệt.

Từ có người lái đến không có người lái phải đột phá những công nghệ lõi

Chuyên gia Trung Quốc cho rằng, có 3 khó khăn công nghệ cần giải quyết là dẫn đường chính xác, đo lường và bám theo chính xác, kiểm soát bay chính xác.

>> Mỹ tố Trung Quốc gom xác UAV

Trong hệ thống thử nghiệm tự tiếp dầu trên không được cơ quan nghiên cứu Mỹ phát triển hiện nay, hệ thống dẫn đường áp dụng phương thức dẫn đường tổ hợp “GPS + dẫn đường quán tính”, đồng thời thông qua phân giải,

tính toán các số liệu có liên quan như vị trí tương đối, tốc độ, gia tốc của máy bay tiếp dầu và máy bay nhận dầu, hướng dẫn cho máy bay nhận dầu từ cự ly tương đối xa tiếp cận máy bay tiếp dầu, hợp thành biên đội tiếp dầu chính xác.

Tiến hành đo, bám theo chính xác chủ yếu là lắp hệ thống đo, theo dõi quang học trên máy bay không người lái nhận dầu.

http://nghiadx.blogspot.com
Máy bay không người lái RQ-4A Global Hawk của Mỹ.

Điều cốt lõi nhất là hệ thống kiểm soát bay. Trước hết, cần căn cứ vào số liệu của hệ thống đo, bám quang học và dẫn đường tổ hợp, kiểm soát chính xác biên đội bay thỏa mãn yêu cầu tiếp dầu trên không, từ đó hoàn thành kết nối.

Thứ hai, cần loại bỏ ảnh hưởng từ sự thay đổi về trọng lượng, trọng tâm trong quá trình tiếp dầu và luồng khí phức tạp giữa máy bay tiếp dầu và máy bay nhận dầu, duy trì sự ổn định của biên đội tiếp dầu và máy bay không người lái.

Thứ ba, phải khắc phục ảnh hưởng của luồng khí bất ngờ đối với máy bay không người lái, đồng thời tiến hành kiểm soát có hiệu quả khi biên đội tiếp dầu chuyển sang cơ động.

Ngoài ra, cũng cần có chế độ bảo vệ tự động hoàn thiện, một khi xảy ra bất thường trong quá trình kết nối, hệ thống kiểm soát bay có thể điều khiển được máy bay nhận dầu tự động tách khỏi máy bay tiếp dầu.

Chính do sự đột phá và ứng dụng tổng hợp công nghệ then chốt trên, từ đó đã thực hiện bước nhảy vọt về công nghệ tiếp dầu trên không từ có người lái sang không người lái.

Về các giai đoạn phát triển của công nghệ máy bay không người lái tự tiếp dầu trên không, chuyên gia Trung Quốc Vương Kiếm cho rằng, Phòng Thực nghiệm nghiên cứu của Không quân Mỹ đã vạch ra các giai đoạn phát triển như sau:

Giai đoạn thứ nhất tiến hành kiểm tra bay thử do máy bay có người lái mô phỏng máy bay không người lái.

Giai đoạn thứ hai sử dụng máy bay biến hình F-16 VISTA mô phỏng máy bay không người lái điển hình của quân Mỹ (như “Global Hawk” Predator) kiểm tra bay thử.

>> UAV Sentinel RQ-170 và tác chiến điện tử

Giai đoạn thứ ba, tiến hành kiểm tra bay thử máy bay không người lái đối với máy bay không người lái, từ đó thực hiện bước nhảy vọt về công nghệ tiếp dầu trên không từ có người lái sang không người lái.

Càng ngày càng nhiều UAV tham gia không chiến trong tương lai

Ngày 15/8/2006, Công ty Boeing sử dụng máy bay tân trang Learjet, bằng phương thức tiếp dầu “kiểu cứng”, cùng với máy bay tiếp dầu KC-135R kiểm tra thành công công nghệ duy trì tự động vị trí tiếp dầu trên không của máy bay không người lái.

Ngày 30/8/2006, Trung tâm nghiên cứu bay Dryden sử dụng máy bay F/A-18 tân trang, cùng với một máy bay tiếp dầu Boeing 707-300 lần đầu tiên thực hiện thành công bay kết nối tiếp dầu “kiểu mềm” hoàn toàn tự chủ trên không.

Công ty Northrop Grumman, hãng phát triển máy bay không người lái RQ-4 Global Hawk luôn nghiên cứu sử dụng công nghệ tiếp dầu trên không để cải thiện khả năng hoạt động liên tục của loại máy bay không người lái này.

Để phối hợp với lộ trình phát triển của Phòng nghiên cứu thực nghiệm Không quân Mỹ, dưới sự hỗ trợ của Cục Hàng không vũ trụ Mỹ (NASA), công ty này triển khai nghiên cứu phát triển công nghệ tự chủ tiếp dầu trên không giữa hai chiếc Global Hawk.

NASA đã mua 2 máy bay không người lái Global Hawk, lắp đặt hệ thống tiếp dầu “kiểu mềm”, lần lượt làm máy bay tiếp dầu và máy bay nhận dầu không người lái, có kế hoạch bay thử kiểm tra tự tiếp dầu trên không vào mùa hè năm nay.

Về xu thế phát triển và ứng dụng chiến đấu thực tế trong tương lai của công nghệ tự tiếp dầu trên không của máy bay không người lái, chuyên gia Trung Quốc cho rằng, Không quân Mỹ rất coi trọng phát triển khả năng tiếp dầu trên không của máy bay không người lái.

http://nghiadx.blogspot.com
Máy bay tấn công không người lái MQ-9 "Thần chết" Mỹ.

Trong “Chương trình bay hệ thống máy bay không người lái 2009-2047” mới nhất, MQ-X, loại máy bay không người lái kế tiếp của UAV cỡ vừa MQ-9 “Thần chết” vào năm 2030 có chức năng tiếp dầu trên không,

đồng thời có thể làm máy bay tiếp dầu cỡ nhỏ hỗ trợ mở rộng thực hiện nhiệm vụ cho loại máy bay khác; MQ-L, loại máy bay kế tiếp của UAV cỡ lớn RQ-4 Global Hawk, vào trước năm 2030, đòi hỏi có khả năng tiếp dầu trên không.

“Hệ thống tấn công tầm xa thế hệ tiếp theo” (NGLRS-II) của máy bay ném bom kiểu mới mà Không quân Mỹ đang tiến hành luận chứng đã sử dụng một loại máy bay ném bom không người lái có thể tự tiếp dầu trên không.

Hiện nay, chương trình mua sắm hàng đầu của Không quân Mỹ đã không còn là máy bay chiến đấu F-22 Raptor (Chim ăn thịt) nữa, mà là máy bay tiếp dầu trên không có ảnh hưởng to lớn đối với không quân.

Có thể dự kiến, cùng với sự phát triển và hoàn thiện của công nghệ tiếp dầu trên không của máy bay không người lái, ngày càng nhiều máy bay không người lái sẽ chiếm lấy chiến trường trên không trong tương lai, trở thành lực lượng chi viện mạnh cho máy bay chiến đấu có người lái.

Sự thử nghiệm theo kế hoạch của quân Mỹ vào mùa hè năm nay chỉ là sự khởi đầu của việc kiểm tra bay tự tiếp dầu trên không của máy bay không người lái với ý nghĩa thực sự, thời đại máy bay không người lái sắp đến rất nhanh.

Thứ Hai, 14 tháng 5, 2012

>> Tại sao Mỹ muốn máy bay ném bom mới? (kỳ 2)

Từ nhiều năm nay, Mỹ đã nỗ lực phát triển máy bay ném bom tầm xa mới. Với năng lực chống tiếp cận ngày càng cao của Trung Quốc, Mỹ thực sự cần phương tiện này.




http://nghiadx.blogspot.com
Mỹ cần thế hệ máy bay ném bom mới để giải quyết những mối nguy cơ tiềm tàng.

Liên quan đến vấn đề này, The Diplomat đã có cuộc phỏng vấn Trung tướng David Deptula người tán thành kế hoạch máy bay ném bom chiến lược mới.

>> Tại sao Mỹ muốn máy bay ném bom mới? (kỳ 1)

Dưới đây là nội dung cuộc phỏng vấn:

- Tại sao không chỉ cần cải tiến các máy bay ném bom hiện tại để giải quyết các mối đe dọa trong tương lai? Liệu loại máy bay mới làm được gì mà những “đồng đội” được nâng cấp không thể?

>> Pechora-2M, sự lựa chọn hợp lý của Việt Nam
>> 'Lá chắn thép' bảo vệ vùng trời Tổ quốc

Không quân đang sử dụng ba loại máy bay ném bom: B-52H, B-1B và B-2A. B-52 được thiết kế từ cuối những năm 1940 và chiếc cuối cùng được sản xuất từ năm 1962. Nó đã được cải tiến rất nhiều lần với tải trọng và phạm vi hoạt động rất tốt.

Tuy nhiên, không có lần hiện đại hóa nào có thể thay đổi được những tính năng cơ bản của máy bay, như phần radar lớn, điều này khiến nó dễ bị phát hiện và gây tổn thương bởi hệ thống phòng không đơn giản.

Vì vậy, qua nhiều thập kỷ, Lực lượng Không quân đã dựa vào B-52 để phóng tên lửa hành trình tầm xa. Các tên lửa hành trình rất hữu hiệu khi chống lại các mục tiêu đơn giản tại các vị trí biết trước, nhưng với thời gian bay dài và khả năng thâm nhập vào các mục tiêu chôn sâu hạn chế khiến chúng khó chống lại các mục tiêu phức tạp và di động đang ngày một nhiều.

Thế hệ tên lửa hành trình hiện tại cũng thiếu tính năng tồn tại cần thiết để chống lại các mục tiêu được canh phòng cẩn mật. Trong khi Không quân Mỹ có kế hoạch phát triển một loại tên lửa hành trình tầm xa tàng hình để thay thế các tên lửa hiện tại, nhưng loại vũ khí như vậy sẽ rất tốn kém và chỉ được dùng với số lượng nhỏ tương ứng với số địa điểm nhắm tới trong một chiến dịch không quân chính (thường là từ 30.000 đến 40.000).

Thiết kế của B-1 có từ những năm 1970 và chúng được sản xuất cuối những năm 1980. Chúng đã được thay đổi rất nhiều lần trong hơn 25 năm và khả năng “sống sót” cao hơn B-52 nhưng các đặc điểm thiết kế của B-1 cũng cho thấy những hạn chế cơ bản như khó có thể thâm nhập vào các lưới phòng không hiện đại. Vì vậy, B-52 sẽ được dùng chủ yếu trong vai trò "phân phối vũ khí" từ xa (có thể hiểu là ném bom, phóng tên lửa - ĐV).

Máy bay ném bom tàng hình B-2 được hình thành từ những năm 1980 và chiếc cuối cùng được sản xuất cuối những năm 1990. Chúng được thiết kế để thâm nhập vào các hệ thống phòng không hiện đại nhất và là máy bay duy nhất của Không quân Mỹ có thể “sống sót” sau khi "phân phối" một lượng vũ khí lớn hay một số lượng lớn các loại vũ khí nhỏ trong một môi trường không khí tiêu cực.

Tuy nhiên, Không quân Mỹ chỉ có 20 chiếc B-2, đạt 1/5 so với con số tối thiểu của lực lượng máy bay ném bom tàng hình cần thiết cho các chiến dịch không quân lớn tại Đông Á hay Tây Nam Á, và cần phải nhớ rằng, chiến lược quốc phòng mới kêu gọi các lực lượng tấn công toàn cầu phải có khả năng tiến hành đồng thời hai chiến dịch như vậy.

>> Việt Nam có thể mua S-400 của Nga

Bên cạnh đó, do đối thủ của chúng ta có thể thích ứng được với sức mạnh quân sự của Mỹ bằng cách thu nạp thêm các hệ thống phòng không tiên tiến, các hệ thống di động hay các mục tiêu cứng rắn, khả năng của phi đội B-2 sẽ sớm bị bỏ lại phía sau so với nhu cầu ngày càng cao hiện nay.

Nói cách khác, máy bay ném bom mới sẽ khôi phục trạng thái cân bằng giữa năng lực, công suất và nhu cầu của máy bay ném bom trong Không quân Mỹ.

- Nếu phải dự đoán, ông nghĩ máy bay ném bom mới sẽ có hình dạng như thế nào và có những khả năng gì? Liệu chúng ta có đang nói về một chiếc B-2 rẻ hơn hay không?

Như đã biết, trong chỉ đạo chiến lược mới của Tổng thống yêu cầu một loại máy bay ném bom tàng hình mới và chương trình Máy bay ném bom tấn công tầm xa (LRS-B) đã được đầu tư đầy đủ trong ngân quỹ của tài khóa 2013.

Trong khi chương trình này đã được phân loại, thông tin về việc Không quân tiết lộ kế hoạch, cùng với khả năng của ngành công nghiệp không gian vũ trụ hiện tại, cho thấy loại máy bay ném bom mới có thể sẽ vừa rẻ hơn lại vừa có thêm nhiều khả năng hơn thế hệ đi trước.

Hiện tại, kế hoạch này không phải là phủ nhận hay làm giảm bớt các năng lực của B-2. Những chiếc máy bay đó vẫn sẽ được duy trì cho tới khi loại máy bay mới được sản xuất vào giữa những năm 2020 và vẫn là hệ thống vũ khí đơn mạnh nhất trong kho vũ khí của Mỹ và B-2 vẫn sẽ đóng một vai trò thiết yếu trong chiến lược sức mạnh Mỹ trong ít nhất hai thập kỷ nữa. Điều đó có nghĩa là, B-2 được thiết kế cách đây 30 năm và sẽ tham gia phục vụ thêm 15 năm nữa.

Trong khoảng thời gian đó, ngành công nghiệp này đã có những bước tiến vượt bậc trong công nghệ tàng hình, cả về mặt giảm tín hiệu radar và duy trì trạng thái “quan sát thấp”, cũng như đạt được thành tựu trong các lĩnh vực trọng yếu khác có thể tác động hoàn toàn tới năng lực LRS-B và chi phí sản xuất.

Từ khi xuất hiện B-2, ngành công nghiệp không gian vũ trụ đã đạt được các bước tiến công nghệ tấn công vượt bậc trong lĩnh vực máy bay không người lái. Lực lượng Không quân đã thừa nhận LRS-B sẽ có thể là hệ thống có người lái hoặc không.

Chúng tôi không nói đến các chiến dịch như của các UAV Predator. Đúng hơn, nếu Không quân thúc đẩy các công nghệ và chương trình hiện có, LRS-B sẽ trở thành UAV hiện đại nhất trong lịch sử, tượng trưng cho sức mạnh Mỹ.

Hai chương trình phụ của UAV cũng được nêu ra. Đầu tiên là tự quản hệ thống, có thể được chia nhỏ thành các hạng mục quản lý chuyến bay độc lập và quản lý nhiệm vụ độc lập.

UAV hiện đại nhất hiện nay, như Global Hawk của Không quân Mỹ, không cần đến một phi công theo nghĩa truyền thống bởi chúng có thể tự lái và thực hiện các chức năng nhiệm vụ nòng cốt, ví dụ như triển khai cảm biến... Và thế là, đưa cho chúng một kế hoạch nhiệm vụ và chúng có thể thực hiện từ đầu tới cuối mà không cần sự can thiệp của con người.

Các trường hợp ngoại lệ xuất hiện khi các điều kiện thực thế có thay đổi trong kế hoạch, và người điều khiển tại trạm dưới mặt đất tải một kế hoạch mới cho máy bay.

>> Hồ sơ về UAV RQ-170 Sentinel

UAV trong tương lai sẽ không chỉ tự lái và thực hiện các nhiệm vụ đã lên kế hoạch trước một cách độc lập mà chúng còn có phần mềm quản lý nhiệm vụ tiên tiến, cho phép thực hiện các chức năng động, như đuổi theo các mục tiêu phòng không di động.

Người điều khiển sẽ giữ vị trí quản lý trận chiến then chốt, nhưng UAV và phần mềm được cài đặt trên máy bay sẽ “gánh” phần lớn trách nhiệm thực thi các nhiệm vụ trọng tâm.

Công nghệ quản lý nhiệm vụ cũng cho phép một lượng người điều khiển nhỏ có thể kiểm soát số lượng lớn UAV. Ví dụ như, tôi biết rằng trong quá trình phát triển chương trình máy bay không người lái trang bị vũ khí của Hải quân (UCAS-D), các kỹ sư đã tiến hành thử nghiệm phần mềm đầu tiên cho phép 3 đến 5 người điều khiển có thể kiểm soát một lực lượng hỗn hợp với hơn 40 máy bay.

Chương trình UAV thứ hai, cũng do UCAS-D phát triển, là tự nạp nhiên liệu trên không. Ngoài khả năng sống sót cao, thời gian tham gia chiến đấu siêu dài là các hệ thống hỏa lực trong tương lai.

Bên cạnh việc thâm nhập và phá hủy hệ thống phòng không hiện đại, các hệ thống tương lại sẽ cần tiến hành hoạt động từ bên ngoài phạm vi của tên lửa đạn đạo và chúng phải có thời gian hoạt động dài để tìm và tiêu diệt các mục tiệu di động.

Trong khi các phi đội máy bay ném bom hiện nay có thể luân phiên nhau trong thời gian dài và vượt qua thách thức về khoảng cách thì không ai có thể ngủ khi đã thâm nhập vào không phận của kẻ địch, vì vậy thời gian hoạt động trong vùng địch sẽ bị hạn chế rất nhiều, tùy thuộc vào sức chịu đựng của con người.

Nói một cách tổng quát, máy bay ném bom có người lái chỉ có thể hoạt động trong một thời gian nhất định, sau đó phi hành đoàn cần tái nạp nhiên liệu và quay trở lại căn cứ.

UAV chỉ bị hạn chế bởi các vấn đề như không gian trữ nhiên liệu và vũ khí, thời gian trung bình giữa các hệ thống tới hạn của nhiệm vụ. Với việc nạp nhiên liệu trên không, LRS-B không người lái sẽ có thể liên tục đi tới chỗ trữ nhiên liệu và quay trở lại trạm hoạt động chỉ trong 24 giờ trong một lần xuất kích đơn lẻ so với 5 tiếng cho máy bay ném bom có người lái.

Con số gấp 5 về thời gian hoạt động chiến đấu cho một lần xuất kích này có thể cho phép một lực lượng khoảng 80-100 chiếc LRS-B, khiến một quốc gia có diện tích tương đương Iran ở trong trạng thái bị tấn công liên tục từ các căn cứ an ninh (như Diego Garcia).

Thứ Năm, 10 tháng 5, 2012

>> Tại sao Mỹ muốn máy bay ném bom mới? (kỳ 1)

Từ nhiều năm nay, Mỹ đã nỗ lực phát triển máy bay ném bom tầm xa mới. Với năng lực chống tiếp cận ngày càng cao của Trung Quốc, Mỹ thực sự cần phương tiện này.


Nhiều năm qua, Không quân Mỹ đã nỗ lực phát triển một loại máy bay ném bom tầm xa mới để trẻ hóa đội hình đang có sự phục vụ của B-52, B-1 và B-2 từ những năm 1960, 1980 và 1990.

Cùng với đó, sự trỗi dậy của sức mạnh quân sự Trung Quốc thúc bách lực lượng này đạt được khả năng tấn công các mục tiêu được phòng vệ nghiêm ngặt trong lãnh thổ Trung Quốc từ các căn cứ Mỹ ở Thái Bình Dương.


http://nghiadx.blogspot.com
Trung Tướng David Deptula

Tuy nhiên, thiết kế cơ bản của ý tưởng “Máy bay ném bom thế hệ mới” ngày càng trở nên phức tạp và đắt đỏ, với mức giá lên đến hàng tỷ USD cho mỗi thiết kế. Vì vậy, cựu Bộ trưởng Quốc phòng Robert Gates đã hủy dự án này vào năm 2009.

Tuy nhiên, Không quân Mỹ vẫn ấp ủ “hồi sinh” dự án này. “Máy bay ném bom tấn công tầm xa mới” có thể sẽ bớt phức tạp hơn, do đó, rẻ hơn so với “Máy bay ném bom thế hệ mới”, chỉ 550 triệu USD và bắt đầu sản xuất từ năm 2020.

Quốc hội Mỹ đã tán thành đầu tư 300 triệu USD ban đầu từ cuối năm 2011. Nhưng "án chém" vẫn lơ lửng với lời đe dọa từ Lầu Năm Góc, theo đó, dự án sẽ bị hủy nếu tổng chi phí vượt quá 55 tỷ USD.

Lockheed Martin, Boeing và Northrop Grumman sẽ cạnh tranh để giành bản hợp đồng này, và chi tiết vẫn nằm trong vòng bảo mật.

Liên quan đến vấn đề này, The Diplomat đã có cuộc phỏng vấn Trung tướng David Deptula người tán thành kế hoạch máy bay ném bom chiến lược mới.

Dưới đây là nội dung cuộc phỏng vấn:

- Tại sao lại là bây giờ? Tại sao, trong thời kỳ cắt giảm chi tiêu quốc phòng, Lầu Năm Góc lại cho phép phát triển, chế tạo một loại máy bay ném bom mới? Điều gì thay đổi khiến chương trình máy bay ném bom trở thành ưu tiên hàng đầu như vậy?

- Nói một cách đại thể, không có gì thay đổi. Nhu cầu có một loại máy bay ném bom mới không phải là mới. Bản báo cáo Quốc phòng bốn năm một lần (QDR) năm 2001 đã nhấn mạnh các thách thức đối với sức mạnh Mỹ, gồm: khả năng xảy ra một cuộc tấn công bất ngờ có thể ngăn chặn các lực lượng Mỹ không triển khai được tại các điểm chiến sự trong thời gian cho phép; sự khan hiếm các cơ sở của Mỹ trong phạm vi gần với các điểm chiến sự tại châu Á; sự nổi lên của các “thế lực” chống tiếp cận có thể chặn Mỹ không tiếp cận được với các trụ sở, các căn cứ không quân và hải quân ở nước ngoài. Thêm vào đó, một số đối thủ tiềm tàng ẩn chứa năng lực chiến lược lớn, có thể giấu các hệ thống chống tiếp cận di động.

Để đối phó với điều này, QDR 2001 cho rằng chúng ta nên phát triển và rèn luyện “các khả năng tiến hành giám sát liên tục, tấn công chính xác và triển khai quân ở mọi trình độ trong các khu vực hạn chế”, liệu điều này ám chỉ điều gì khác ngoài một loại máy bay ném bom tàng hình mới?

QDR 2006 nhắc lại những thách thức trên đối với dự án tăng cường sức mạnh và đặc biệt kêu gọi Mỹ “phát triển khả năng tấn công tầm xa sắc xảo, neo đậu trên đất liền đến năm 2018, đồng thời hiện đại hóa lực lượng máy bay ném bom hiện tại”.

QDR 2010 kêu gọi mở rộng năng lực tấn công tầm xa của Mỹ, gồm những lựa chọn cho “giám sát tầm xa và máy bay tấn công như một phần của kế hoạch hiện đại hóa lực lượng ném bom một cách toàn diện, theo từng giai đoạn”.

Bản Hướng dẫn Chiến lược Quốc phòng tháng 1/2012 rất phù hợp với logic của Bộ Quốc phòng Mỹ 12 năm trước, qua hai đời Tổng thống và ba Bộ trưởng Quốc phòng, đã thấy được sự cần thiết phải phát triển một loại máy bay ném bom mới.

Bản hướng dẫn một lần nữa nhấn mạnh các thách thức hiện tại, các mối đe dọa chống tiếp cận và khoảng cách bởi các thế lực chống Mỹ, chắc chắn, môi trường chiến lược không trở nên ôn hòa hơn kể từ năm 2001.

Bản hướng dẫn lặp lại lời kêu gọi về việc phát triển một loại máy bay ném bom tàng hình nhằm vượt qua các thách thức trên.

Tầm quan trọng về chính trị và kinh tế của khu vực châu Á-Thái Bình Dương tiếp tục gia tăng. Hiển nhiên, diện tích tại châu Á rất rộng lớn, các căn cứ được đảm bảo của Mỹ tại đây khá ít và kẻ địch tiềm tàng lại có trong tay các hệ thống chống tiếp cận hiện đại.

Vì vậy, để có một vị thế quân sự hiệu quả trong khu vực, chúng ta cần tái cân bằng danh mục vốn đầu tư quân sự như bản hướng dẫn đã chỉ ra, nhắm vào các hệ thống đáp trả cao, tầm xa như máy bay ném bom tàng hình.

Có người cho rằng, khủng hoảng tài chính hiện thời và việc cắt giảm chi tiêu quốc phòng khiến dự án này trở nên “quá sức”. Cách thức làm ăn cũ, chậm chạp xây dựng một số lượng “khủng” các lực lượng trên mặt đất, không còn hiệu quả trong môi trường ngân quỹ bị gò bó, vì họ không thể hỗ trợ các khái niệm hành động mới của Lầu Năm Góc như học thuyết không-hải chiến và khái niệm tiếp cận hoạt động chung.

Nếu chúng ta chỉ đơn giản giảm những gì chúng ta có trong khi vẫn duy trì sự cân bằng tương đối giữa các dịch vụ quốc phòng thì khả năng vạch ra kế hoạch cho một nguồn sức mạnh mới sẽ khó mà hình thành.

Chúng ta không thể duy trì được sức mạnh ở châu Á nếu sử dụng các phương thức cũ, vì vậy, chúng ta cần thực hiện bằng các cách thức mới, như một loại máy bay ném bom tàng hình chẳng hạn.

- Văn phòng Quản lý và Ngân sách Mỹ (OMB) mới đây khẳng định rằng các máy bay ném bom hiện tại vẫn đủ khả năng thực hiện các nhiệm vụ trong thời gian dài. Liệu điều này đã thay đổi? Hay có phải Bộ Quốc phòng đã phải thuyết phục OMB rằng máy bay hiện tại không còn phù hợp?

Phát ngôn của OMB thực sự là một cái gì đó dị thường: OMB không có năng lực quân sự và không nên nhận định về vấn đề này.

Văn phòng Bộ trưởng Quốc phòng và Lực lượng Không quân kiên định đề đạt từ năm 2006 đến 2009 rằng lực lượng này cần một loại máy bay ném bom mới, tiếp đến từ tháng 4/2009 đến nay, họ cũng đề đạt nguyện vọng này.

Bộ Quốc phòng (DoD) lấy lý do rằng B-1 và B-52 đã “già” và không có chức năng tàng hình, còn B-2 mặc dù có tàng hình lại mới chỉ có một số lượng nhỏ. Chỉ một tháng sau đề xuất ngân sách tháng 4/2009, Bộ trưởng Gates cho biết, ông đang cân nhắc tạo ra máy bay ném bom thế hệ tiếp theo không người lái và tất nhiên ông đã không đề cập đến một loại máy bay ném bom thế hệ mới nếu ông nghĩ rằng những chiếc máy bay ném bom hiện tại vẫn thích hợp để hoạt động trong một thời gian dài tới.

Năm 2010, cả “Thứ trưởng” Không quân Michael Donley và Tham mưu trưởng Không quân Norton Schwartz đều khẳng định rằng, một loại máy bay ném bom tàng hình mới là cần thiết, và Bộ trưởng Gates cho rằng Không quân cần “một loại máy bay ném bom hạt nhân tầm xa mới”, có thể có người lái hoặc không.

Ông cũng cho rằng chúng ta cần bắt đầu dự án này ngay hôm nay để “đảm bảo một loại máy bay ném bom mới có thể sẵn sàng trước khi các phi đội “già nua” đến thời kỳ ngừng hoạt động”.

Rõ ràng, ông Gates đã dừng chương trình từ tháng 4/2009 không phỉa vì không cần một loại máy bay ném bom mới mà vì ông tìn rằng cần xem xét lại về loại máy bay và Không quân Mỹ cần là gì.

Đây là căn nguyên của cái gọi là phương pháp “các hệ thống của gia đình” (FoS), theo đó máy bay ném bom sẽ là “đòn bảy” (thực hiện nhiệm vụ tình báo, giám sát và trinh sát) và hỗ trợ để tăng cường tính hiệu quả hoạt động trong khi giảm thiểu tối đa các yêu cầu chức năng ban đầu, do đó giảm chi phí và các nguy cơ kỹ thuật liên quan đến việc tiếp cận mục tiêu (Khả năng tác chiến ban đầu).

Phương pháp FoS cũng kết hợp chặt chẽ với các phương tiện tấn công tầm xa khác, như máy bay không người lái tấn công ISR tầm xa, có khả năng tự nạp nhiên liệu và vũ khí tầm xa của Lực lượng Không quân (LRSOW), cho phép Mỹ có khả năng tấn công sâu rộng trong bối cảnh “chiến tranh” do thám bền bì trên khắp toàn cầu đang nổi lên hiện nay.

Thứ Ba, 8 tháng 5, 2012

>> Mỹ sẽ tấn công Nga và Trung Quốc ?

Không lực Mỹ tập dượt chiến thuật tấn công tầm siêu xa trong cuộc tập trận Operation Chimichanga.



http://nghiadx.blogspot.com
Các máy bay ném bom chiến lược siêu âm hạng nặng B-1B Lancer là lực lượng tấn công trong cuộc tập kích đường không tầm siêu xa. Ảnh: USAF

Trong cuộc tập trận quy mô lớn có mật danh Operation Chimichanga, Lầu Năm góc đã cho thế giới thấy một cuộc chiến tranh mới. Có thể, trong tương lai, đây sẽ là một trong phương thức tiến hành chiến tranh tiêu chuẩn của Mỹ.

Ngày 4/4/2012, Lầu Năm góc đã tiến hành cuộc tập trận quy mô lớn, kết hợp mô hình hóa trên máy tính và sự tham gia của các máy bay thật từ Fort Yukon (Alaska). Trong cuộc tập trận mật danh Operation Chimichanga, Mỹ đã lần đầu tiên kiểm tra khái niệm tấn công tầm siêu xa có sử dụng tiêm kích thế hệ 5 F-22 và máy bay ném bom chiến lược siêu âm B-1B.

Kịch bản của Chimichanga gợi nhớ chiến dịch El Dorado Canyon năm 1986, khi một lực lượng 150 máy bay Mỹ đã thực hiện hành trình bay siêu xa và tấn công các mục tiêu quân sự và dinh thự của Tổng thống Libya Gaddafi.

Ngày nay, các vũ khí trang bị hiện đại hơn đã ra đời, trong đó có máy bay tàng hình, vũ khí chính xác cao uy lực mạnh và kinh nghiệm chiến dịch này đã được nghiên cứu điều chỉnh, hoàn thiện và phát huy trong cuộc tập trận Chimichanga.

Có thể nói rằng, các cuộc tấn công như thế sẽ trở thành phương thức chính để “trừng phạt” và tiêu diệt hạ tầng của các nước nhỏ, cũng như là phương thức hoàn toàn mới để giành ưu thế quân sự trong chiến tranh với các quốc gia nhỏ có quân đội mạnh và lãnh thổ trải dài.

Operation Chimichanga: Một kịch bản

Nhiệm vụ của cuộc tập trận Chimichanga là thực hiện cuộc tấn công bất ngờ choáng váng nhằm tiêu diệt hoặc làm suy yếu cơ bản phòng không đối phương, phá hủy các cơ sở hạ tầng quan trọng nhất, các bệ phóng tên lửa chiến lược/chiến dịch-chiến thuật, các tàu bè đang neo đậu… Theo ý đồ của giới quân sự Mỹ, cuộc tấn công sẽ mạnh mẽ và bất ngờ đến mức đối phương đơn giản là không kịp có sự kháng cự mạnh. Chính người Mỹ đã trải qua điều tương tự trong cuộc tấn công của Nhật nhằm vào căn cứ hải quân Trân Châu Cảng ngày 7/12/1941.

Mỹ dự định đạt được yếu tố bất ngờ nhờ các máy bay tiêm kích tàng hình F-22. Bản thân cuộc tấn công sẽ được tiến hành từ các sân bay nằm ở xa mục tiêu. Ví dụ, từ Fort Yukon đến Moskva theo đường chim bay là gần 6.400 km. Thoạt nhìn, đây là khoảng cách rất xa, tuy nhiên các cuộc tập trận bay xa 3.500-4.000 km đối với phi công tiêm kích lại là chuyện bình thường, chứ chưa nói đến máy bay ném bom chiến lược xuyên lục địa B-1B. Trong cuộc chiến tranh Libya năm 2011, các máy bay B-1B đã cất cánh từ một căn cứ không quân ở South Dakota và thực hiện các cuộc không kích trên lãnh thổ Libya, sau khi vượt qua quãng đường dài gần 9.000 km. Các máy bay ném bom tàng hình B-2 cũng thực hiện thủ đoạn tác chiến này.

http://nghiadx.blogspot.com
Tiêm kích tàng hình F-22 Raptor "lĩnh ấn tiên phong" trong chiến thuật tấn công tầm siêu xa. Ảnh: aviationcorner.net)

Các máy bay B-2 không tham gia chiến dịch Chimichanga B-2, nhưng nếu phải tác chiến với một cường quốc hạt nhân như Nga hay Trung Quốc, thì các máy bay này nhất định sẽ được sử dụng, trước hết để tiêu diệt các bệ phóng cơ động và giếng phóng tên lửa đường đường đạn xuyên lục địa (ICBM).

Dấu hiệu đầu tiên cho thấy sự mở màn chiến dịch Chimichanga đối với đối phương sẽ là… những trái bom nổ trên các trận địa phòng không. Cuộc tấn công bất ngờ sẽ do các tiêm kích tàng hình F-22 Raptor thực hiện. Tùy thuộc tình hình, chúng sẽ tiến đến mục tiêu ở độ cao cực nhỏ (dưới 100 m) hay độ cao lớn (đến 15.000 m). Các mục tiêu sẽ bị phát hiện từ trước nhờ hệ thống vệ tinh trinh sát, cũng như bằng các sensor thụ động của F-22.

Các tiêm kích F-22 có thể mang 2 bom chính xác cao hạng nặng cỡ 450 kg JDAM GBU-32 hay 8 bom cỡ 130 kg SDB. Các máy bay mang bom hạng nặng sẽ tiêu diệt các mục tiêu kiên cố lớn: các sở chỉ huy quân đội, nhà máy điện, đường băng của các căn cứ không quân. Các máy bay mang bom SDB sẽ nhằm vào các radar và bệ phóng tên lửa phòng không.

Theo giới quân sự Mỹ, nhờ đặc tính tàng hình của F-22 và tầm bay xa của bom SDB (gần110 km), có thể tiêu diệt thậm chí các hệ thống tên lửa phòng không S-300 mà không chịu rủi ro quá lớn, chứ chưa nói đến các hệ thống tính năng kém hơn như Buk và Tor. Một trái bom SDB mang phần chiến đấu kiểu xuyên nặng 93 kg, có khả năng xuyên qua tấm bê tông dày 1 m và tiêu diệt mọi loại xe thiết giáp. Cần lưu ý là, độ dày của lớp bê tông kín bảo vệ các lò phản ứng hạt nhân vốn chỉ dày 1-1,5 m ở đa số các nhà máy điện hạt nhân.

Sau khi các tiêm kích F-22 thả bom và loại khỏi vòng chiến tất cả các phương tiện phòng không nguy hiểm, giai đoạn giành ưu thế trên không sẽ bắt đầu. Làn sóng không kích thứ hai gồm các tiêm kích F-22 và F-16 (trong tương lai các máy bay này sẽ được thay thế bằng F-35) sẽ tiêu diệt tất cả các máy tiêm kích đối phương vẫn tìm cách cất cánh được từ các sân bay bị hư hỏng. Song song, các tiêm kích F-16 sẽ kịp thời tiêu diệt các phương tiện phòng không “tỉnh giấc” hoặc còn lành lặn sót lại.

http://nghiadx.blogspot.com
Các mồi bẫy kéo theo như ALE-50 có khả năng ‘đánh lừa” các ngòi nổ radar thô sơ của tên lửa phòng không. Ảnh: RND

Để bảo vệ chống tên lửa phòng không và tiêm kích đánh chặn đối phương, Mỹ dự kiến sử dụng các tên lửa MALD làm nhiệm vụ mô phỏng tín hiệu radar của máy bay tiêm kích, cũng như các mồi bẫy kéo theo dạng như ALE-50 dùng để “đánh lừa” ngòi nổ radar của tên lửa khiến chúng kích nổ ở khoảng cách an toàn so với máy bay. Các máy bay F-22 và F-16 sẽ cô lập chiến trường đối với không quân đối phương và đồng minh đối phương, mở đường cho làn sóng thứ ba là các máy bay ném bom B-1B.

Các máy bay ném bom hạng nặng B-1B là lực lượng tấn công chủ lực của chiến dịch Chimichanga, có nhiệm vụ gây tổn thất nghiêm trọng cho quân đội và kinh tế đối phương. Nhờ có tốc độ bay cao và vũ khí chính xác cao, hoạt động chiến đấu của B-1B sẽ kết thúc rất nhanh chóng. Khi bay qua bên trên các mục tiêu, các máy bay ném bom B-1B sẽ rải xuống các quả bom uy lực rất cao cỡ 900 kg GBU-31, mỗi máy bay có thể mang 24 quả bom này.


http://nghiadx.blogspot.com
Các phương án mang vũ khí của máy bay ném bom B-1B. Ảnh: RND

GBU-31 có thể được trang bị phần chiến đấu độc đáo BLU-119/B, có khả năng xuyên qua các lớp bê tông dày nhiều mét và đốt cháy mọi thứ bên trong.

Nhờ có tác động lâu và nhiệt độ cao, loại bom này có hiệu quả cực kỳ cao khi tác chiến chống các kho vũ khí (kể cả vũ khí hóa học và sinh học), các sở chỉ huy ngầm, các cơ sở hạ tầng công nghiệp, các tòa nhà cao tầng...

Để tiêu diệt các mục tiêu đặc biệt “khó nhằn”, các máy bay F-16 và B-1B sẽ sử dụng các tên lửa hành trình tàng hình chính xác cao AGM-158 JASSM có tầm bắn 400 km (biến thể JASSM ER có tầm bắn 900 km). Nhờ vũ khí này, máy bay ném bom B-1B có thể trong một lần bay qua tiêu diệt đến 12 mục tiêu ở xa được phòng không mạnh bảo vệ.

http://nghiadx.blogspot.com
Các phương án trang bị vũ khí của máy bay ném bom B-2. Ảnh: RND

Cần lưu ý rằng, tên lửa JASSM được phát triển chuyên dùng để vượt qua các tuyến phòng không của các hệ thống tên lửa phòng không Liên Xô S-300, Tor và Buk mà hiện nay Nga, Trung Quốc và nhiều nước khác đang được trang bị. Tên lửa được trang bị phần chiến đấu nổ phá uy lực mạnh 450 kg hoặc phần chiến đấu kiểu xuyên 108, có khả năng xuyên qua mấy mét bê tông và tiêu diệt bệ phóng tên lửa đường đạn nằm dưới mái che bê tông chẳng hạn.

Như vậy, với các tên lửa JASSM, một máy bay ném bom B-1B bay qua trên bầu trời Moskva có thể bắn phá các mục tiêu đến tận Nizhny Novgorod và Smolensk. Nếu sử dụng biến thể JASSM ER có tầm bắn xa hơn, B-1B sẽ có thể với tới Samara và Minsk (thủ đô Belarus).

Sau khi giải phóng hết các khoang bom, các máy bay ném bom sẽ quay trở về căn cứ xuất phát. Đồ dài chiến dịch Chimichanga không được nêu ra mà phụ thuộc vào quãng đường trên lãnh thổ đối phương mà các máy bay sẽ phải vượt qua. Ví dụ, cuộc tập kích đường không chiến dịch El Dorado Canyon chỉ kéo dài dưới 20 phút. Cuộc tấn công bất ngờ và choáng váng đến nỗi quân đội Gaddafi đã hầu như không có sự chống trả nào và Mỹ chỉ mất 1 trong 100 máy bay. Các máy bay đánh chặn Libya hoàn toàn không thể cất cánh, điều đó một lần nữa khẳng định sự cần thiết của việc tuần tra trên không liên tục của không quân phòng không.

Các phương án có thể

Chimichanga tổng hợp nhiều kinh nghiệm của các chiến dịch đường không tích lũy được từ thời Thế chiến II. Đa số các quốc gia sẽ không thể chống chọi nổi một cuộc tập kích của 50 tiêm kích F-22, 20-30 chiếc F-16 và gần 60 chiếc B-1B. Thậm chí các quốc gia có quân đội rất mạnh như Nga và Trung Quốc hiện nay cũng không sẵn sàng cho việc đánh trả một cuộc tấn công như thế. Đặc điểm của công tác hoạch định những chiến dịch như thể giảm thiểu tối đa nguy cơ rò rỉ thông tin vì các máy bay có thể tiếp cận khu vực tấn công từ mấy hướng, còn phi công sẽ chỉ được biết nhiệm vụ chiến đấu khi đã ở trên đường băng hay thậm chí khi đang bay trên không

http://nghiadx.blogspot.com
Radar 55Zh6-1 Nebo-UE. Ảnh: RND

Chúng ta hãy xem xét một kịch bản giả định của chiến dịch Chimichanga. Các khía cạnh chính trị của đòn đánh trả hạt nhân, chúng ta sẽ không để ý đến, cũng như khả năng Mỹ vô hiệu hóa tiềm lực hạt nhân của Nga bằng tên lửa hành trình, bom hạt nhân và vũ khí tấn công toàn cầu siêu vượt âm như AHW.

Như chúng ta đã thấy, các máy bay cất cánh từ lãnh thổ Mỹ phải bay qua quãng đường gần 7.000 km đến Moskva. Các máy bay ném bom B-1B và B-2 có thể vượt qua khoảng cách này mà không cần tiếp dầu trong vòng dưới 10 giờ đồng hồ. Ví dụ, trong cuộc tập trận ngày 4/4/2012, chúng đã thực hiện chuyến bay tầm xa dài 10 giờ (gần 9.000 km) và tấn công vào đối phương tưởng định. Các máy bay tiêm kích F-22 nạp đầy nhiên liệu có thể vượt qua quãng đường 3000 km, nghĩa là trên đường bay tiếp cận mục tiêu, chúng sẽ cần 2 lần tiếp dầu.

Tuy nhiên, các máy bay tiêm kích có thể cất cánh từ lãnh thổ Anh chẳng hạn như đã xảy ra trong chiến dịch El Dorado Canyon hoặc từ một nước châu Âu khác. Yếu tố đó sẽ rút ngắn 2 lần quãng đường bay của các máy bay tiêm kích.

Các máy bay ném bom cũng có thể tiến vào lãnh thổ Nga từ phía Bắc cực (các máy bay B-2 trong năm 2012 đã chứng minh thành công khả năng bay như vậy), còn các tiêm kích F-22 và F-16 có thể bay qua lãnh thổ các nước Baltic, vòng qua Thụy Điển. Ở khu vực này, các máy bay F-22 nằm dưới sự quan sát của vô số radar nên chắc chắn sẽ giảm độ cao bay xuống độ cao cực nhỏ.

Các tiêm kích siêu âm sẽ mất hơn 2 giờ để bay từ Anh đến Nga. Từ lãnh thổ Ba Lan, các máy bay tiêm kích sẽ bay đến Moskva trong vòng hơn 1 giờ một chút, còn từ lãnh thổ Gruzia là trong 1,5 giờ, từ Phần Lan là 1 giờ. Từ khi vượt biên giới quốc gia của Liên bang Nga cho đến khi bay trên Moskva, các máy bay F-22 chỉ mất có nửa giờ.

Các phương tiện phòng không Nga có thể hoạt động hiệu quả đến mức nào? Các hệ thống radar cảnh báo tấn công tên lửa mạnh nhất của Nga sẽ không phát hiện được F-22 vì chúng dùng để phát hiện các cuộc tấn công của tên lửa đường đạn.

Chỉ còn các trạm radar phòng không, chẳng hạn như 55Zh6-1 Nebo-UE vốn mới bắt đầu được trang bị cho các đơn vị phòng không Moskva từ năm 2009. Radar này có thể phát hiện tiêm kích có bề mặt tán xạ hiệu dụng 2,5 m2: bay ở độ cao 3.000 m từ cự ly 170 km và bay ở độ cao 500 m từ cự ly 70 km. Nhưng cái khó là ở chỗ, bề mặt tán xạ hiệu dụng, tức là độ bộc lộ, của F-22 ít nhất cũng nhỏ hơn thế 2 lần. Như vậy, các tiêm kích này có thể bay đến Moskva theo cách hạ thấp dần độ cao và vẫn không bị phát hiện.

Cựu Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Robert Gates tuyên bố rằng, một trong các nhiệm vụ của F-22 là tiêu diệt các hệ thống tên lửa phòng không tầm xa. Tuy nhiên, chiến thuật tiêu diệt phòng không bằng tiêm kích F-22 được giữ bí mật do có liên quan đến các tham số mật về bề mặt tán xạ hiệu dụng.

Còn theo các chuyên gia của công ty Lockheed Martin, F-22 có thể an toàn tiếp cận hệ thống S-300 đến khoảng cách 24 km. Mà ta thì đã biết là tầm bay của bom SDB là gần 110 km, bởi vậy, F-22 có thể bất ngờ tiến vào không phận Moskva, thực hiện “cú nhảy” từ độ cao cực nhỏ lên độ cao lớn, rồi rải bom về hướng các trận địa radar và tên lửa phòng không. Có thể tiến hành ném bom cả từ độ cao trung bình 1.000-2.000 m. Trong trường hợp đó, phi công F-22 có thể nhanh chóng “nép mình sát mặt đất” khi có tên lửa phòng không phóng lên.

Tầm bắn của hệ thống tên lửa phòng không S-300PMU2 là 200 km, của tên lửa tiên tiến 40N6 của hệ thống S-400 là 450 km, nhưng đó là tầm bắn tối đa. Theo các chuyên gia quân sự Mỹ, trong điều kiện chiến đấu thực tế thì bắn tên lửa phòng không vào máy bay công nghệ cao từ cự ly hơn 70-100 km sẽ ít hiệu quả.

Nhưng thậm chí nếu giả thiết rằng, F-22 sẽ bị các phương tiện phòng không Nga phát hiện, thì chiếc tiêm kích tàng hình này vẫn có một luận chứng tiềm tàng hùng mạnh nữa là tên lửa hành trình tiên tiến dạng SMACM với tầm bắn 460 km và trọng lượng 113 kg - một chiếc F-22 có thể mang 4 quả SMACM trong các khoang trong thân. Khi tiếp cận mục tiêu, SMACM có thể trao đổi dữ liệu từ xa với máy bay mang, nên cho phép tiêu diệt các hệ thống tên lửa phòng không đã bắt đầu chuồn khỏi các trận địa. Vũ khí loại này là mối đe dọa nghiêm trọng đối với bất kỳ hệ thống phòng không nào.

Sau khi chế áp phòng không và oanh kích các căn cứ không quân ở khu vực Moskva, các tiêm kích F-22 sẽ vẫn duy trì được ưu thế trên không trong vòng tối đa 15-20 phút, trong khi các máy bay ném bom sẽ tiêu diệt các mục tiêu đã lựa chọn và rút về hướng biên giới.


http://nghiadx.blogspot.com
Trong tương lai, các máy bay không người lái tiến công X-47B sẽ tham gia các cuộc tập kích đường không siêu xa. Ảnh: RND

Chiến dịch Chimichanga không phải là một kịch bản giả định. Ví dụ, đầu tháng 4/2012, ở Karelia, quân đội Nga đã tiến hành cuộc tập trận Ladoga-2012, trong đó có tập dượt khoa mục đánh trả cuộc tập kích ồ ạt của không quân. Trong cuộc tập trận, quân đội Nga đã thực hiện hơn 110 phi xuất và bắn hạ hơn 200 “máy bay” được mô phỏng bằng các quả bom chiếu sáng. Tham gia cuộc tập trận này có gần 50 máy bay, trong đó có 30 chiếc bay đến từ các căn cứ không quân ở các tỉnh Kaliningrad, Kursk, Murmansk và Tver.

Tham gia chiến dịch Chimichanga cũng có chừng ấy máy bay tiêm kích công nghệ cao thế hệ mới nhất, còn trong tương lai là cả các máy bay không người lái tiến công tàng hình kiểu như X-47B và Predator C Avenger. Hơn nữa, yếu tố bất ngờ lại ở phía tấn công, có nghĩa là chắc chắn sẽ không thể điều động tập trung sẵn lực lượng tới các đường bay của các máy bay tấn công.

Bởi vậy, cách duy nhất để bảo vệ chống các chiến dịch dạng Chimichanga là cho các máy bay đánh chặn bay tuần tra trực chiến liên tục trên các đường biên giới quốc gia và ở các khu vực công nghiệp quan trọng nhất của quốc gia và sử dụng các phương tiện quan sát công nghệ cao. Đáng tiếc là đa số các quốc gia không thể cho phép mình có “sự xa xỉ” đó và hầu như bất lực trước đòn tấn công siêu xa của không quân Mỹ.

Thứ Sáu, 6 tháng 4, 2012

>> Chiến tranh Nam Tư : Tác chiến theo quy ước là chuốc lấy thất bại


Kinh nghiệm sử dụng chiến đấu bộ đội phòng không (PK) trong các cuộc chiến tranh cục bộ vẫn ít đượcbiết đến và hầu như không được vận dụng trong huấn luyện chiến đấu cho các đơn vị PK.


Cho đến cuối thập kỷ 1990, khoảng cách giữa sự gia tăng về số và chất lượng của các phương tiện tiến công đường không-vũ trụ của Mỹ và các nước NATO với sự phát triển hầu như chậm lại của các lực lượng và phương tiện PK của các nước có khả năng bị tấn công đường không bằng tên lửa đã đạt đến điểm nguy hiểm. Những biện pháp kỹ thuật và tổ chức muộn màng nhằm nâng cao hiệu quả PK của các nước này đã không mang lại kết quả đáng kể.




http://nghiadx.blogspot.com
Không quân Mỹ trong chiến tranh Nam Tư 1999 đã khẳng định được đẳng cấp cao của mình. Các máy bay ném bom В-2А xuất phát từ lục địa nước Mỹ, thực hiện các chuyến bay xa không hạ cánh kéo dài đến 30 giờ với 4 lần tiếp dầu trên không để ném bom nước này (Không quân Mỹ)


Khả năng và sức mạnh tiến công đường không đã được Mỹ và NATO thể hiện trong các chiến dịch:

- “Cáo sa mạc” (Operation Desert Fox): Tấn công đường không bằng tên lửa vào Iraq năm 1998

- “Sức mạnh cương quyết” (Operation Determined Force), Mỹ đặt mật danh cho chiến dịch này là “Sức mạnh Đồng minh” -(Opertaion Allied Force): Cuộc xâm lược Nam Tư của NATO năm 1999

- “Tự do bất diệt” (Operation Enduring Freedom: Chiến dịch chống khủng bố ở Afghanistan năm 2001-2002 

- “Cú sốc và sự kinh hoàng” [Operation Shockand Awe] (Chiến dịch xâm lược Iraq năm 2003).

Từ góc độ đối kháng lực lượng và phương tiện tiến công đường không và PK, có ý nghĩa nghiên cứu nhất là Chiến dịch Determined Force, trong đó các lực lượng KQ và PK không lấy gì làm mạnh của nước Nam Tư đã bị chia rẽ vì mâu thuẫn nội bộ đã phải đối phó với một lực lượng KQ và hải quân (HQ) hùng mạnh của liên quân NATO.

Trong chiến dịch này, có lẽ chưa có KQ và PK của nước nào lại phải đồng thời thực hiện một tổ hợp các nhiệm vụ PK như vậy. Các chuyên gia quân sự nước ngoài cho rằng, các cuộc xung đột vũ trang có thể xảy ra trong tương lai gần sẽ diễn ra theo kịch bản tương tự. Bởi vậy, Chiến dịch Determined Force cần được chú ý đặc biệt.

Trong Chiến dịch Determined Force, một lực lượng đa quốc gia của NATO với vai trò hàng đầu của quân đội Mỹ đã được huy động. Lần đầu tiên, quân đội Đức đã đóng vai trò tích cực trong hoạt động tác chiến, trước đó sự tham gia của họ chỉ hạn chế ở việc yểm trợ tài chính hoặc cung cấp lực lượng bảo đảm. Các sân bay của Italia, Đức, Anh, Pháp, Hungary và Thổ Nhĩ Kỳ đã được sử dụng tích cực để triển khai các đơn vị không quân chiến thuật NATO tham chiến.

Giới lãnh đạo chính trị-quân sự NATO đã giành vị trí trung tâm cho các phương tiện tiến công đường không-vũ trụ trong việc đạt được các mục đích của Chiến dịch Determined Force.

Nhằm mục đích đó, họ đã xây dựng và tiến hành một chiến dịch tiến công đường không từ ngày 24/3-10/6/1999 gồm 3 giai đoạn chính.



http://nghiadx.blogspot.com
Máy bay tiêm kích tàng hình tối tân vào thời điểm năm 1999 F-117 đã bị tiểu đoàn TLPK S-125 bắn rơi trong chiến tranh ở Nam Tư (Không quân Mỹ)

Mục tiêu chủ yếu của giai đoạn 1 mà lãnh đạo NATO đặt ra là: giành ưu thế trên không, chế áp hệ thống PK Nam Tư và loại khỏi vòng chiến những mục tiêu chính của hạ tầng quân sự tại Kosovo.

Trong vòng 2-3 ngày đêm, NATO dự định dùng các cuộc tấn công đường không chủ yếu được thực hiện vào ban đêm để tiêu diệt các đài radar, các phương tiện hoả lực, các đầu mối thông tin liên lạc và các sở chỉ huy KQ và PK, làm rối loạn công tác lãnh đạo nhà nước và chỉ đạo chiến tranh của Nam Tư. Ngoài ra, họ còn dự định gây tổn thất lớn cho lực lượng quân sự tại các điểm trú đóng thường xuyên và cô lập các lực lượng quân đội ở Kosovo..

Giai đoạn 2 trù tính: tiếp tục thực hiện các đòn tấn công bằng bom và tên lửa để tiêu diệt các mục tiêu trên toàn lãnh thổ Nam Tư.

Các nỗ lực chính được tập trung vào tiêu diệt các đơn vị lục quân, vũ khí và kỹ thuật quân sự, cũng như các mục tiêu quân sự các cấp, kể cả cấp chiến thuật. Ở giai đoạn này, lãnh đạo NATO đặt ra mục tiêu chính là cô lập khu vực chiến sự..

Trong giai đoạn 3, NATO trù định: thực hiện các cuộc tấn công vào những mục tiêu nhà nước và công nghiệp quốc phòng quan trọng của Nam Tư nhằm làm suy yếu tiềm lực kinh tế-quân sự của Nam Tư và đè bẹp ý chí kháng chiến của nhân dân Serbia.

Khi bắt đầu chiến sự, lực lượng KQ và HQ liên quân NATO gồm gần 300 máy bay chiến đấu, trong đó có 8 máy bay ném bom chiến lược và 35 tàu.

Tiếp đó, để thực hiện các mục tiêu của chiến dịch tiến công đường không, NATO đã thành lập lực lượng liên quân gồm hơn 600 máy bay chiến đấu (tổng cộng có hơn 1.000 máy bay), trong đó có các các máy bay ném bom chiến lược tàng hình tối tân В-2А và các máy bay tiêm kích tàng hình F-117A, hơn 60 tàu các loại, trong đó có 4 tàu sân bay.

Đặc điểm nổi bật của lực lượng này là trong biên chế của nó có một số lượng lớn máy bay không người lái các loại. Tổng cộng đã tập trung tại khu vực xung đột gần 40 máy bay không người lái (gần 20 chiếc của Mỹ, gần 10 chiếc Pháp và hơn 10 chiếc của Đức).


http://nghiadx.blogspot.com
Các loại bom đạn sắp được sử dụng chống các mục tiêu của quân đội và kinh tế Nam Tư (Hải quân Mỹ)


Các mẫu vũ khí hiện đại (tên lửa hành trình phóng từ biển và trên không), cũng như các mẫu vũ khí chính xác cao mới như bom có điều khiển JDAM được dùng làm những phương tiện tiến công đường không chính.

Lực lượng KQ chiến lược, chiến thuật của KQ và KQHQ Mỹ chiếm hơn 50% lực lượng KQ liên quân NATO.

Trong thành phần lực lượng NATO, HQ Mỹ chiếm hơn 30% tàu chiến và 90% tên lửa hành trình phóng từ biển Tomahawk.

Trong chiến dịch không kích chống Nam Tư, NATO đã thực hiện hơn 20.000 phi vụ xuất kích và phóng đi 870 tên lửa hành trình (792 tên lửa hành trình phóng từ biển và 78 tên lửa hành trình phóng từ trên không), trong đó phóng 374 tên lửa hành trình phóng từ biển vào các mục tiêu trên lãnh thổ Kosovo.

Gần 80% tên lửa đã được sử dụng để tiêu diệt các mục tiêu tĩnh kiên cố và có PK mạnh (các mục tiêu nhà nước và quân sự quan trọng, các sở chỉ huy và các đầu mối thông tin, các căn cứ KQ và phương tiện PK) nhằm làm giảm thiệt hại trong các hoạt động tiếp sau của KQ. 20% tên lửa còn lại dùng để phóng vào các mục tiêu công nghiệp lưỡng dụng (các xí nghiệp công nghiệp hoá chất, lọc dầu và chế tạo máy).

KQ và PK Nam Tư gồm có: 1 quân đoàn KQ (2 lữ đoàn KQ, 1 trung đoàn trực thăng, 1 phi đội trực thăng vận tải) và 1 quân đoàn PK (1 lữ TLPK, 2 trung đoàn KQ tiêm kích và 6 trung đoàn TLPK) với tổng cộng 10 phi đội KQ chiến đấu (5 phi đội tiêm kích-bom, 2 phi đội tiêm kích và 1 phi đội huấn luyện chiến đấu), 1 phi đội KQ hỗ trợ (huấn luyện), 5 phi đội trực thăng và 32 tiểu đoàn PK. Tổng cộng có 136 máy bay chiến đấu, 132 bệ phóng TLPK tầm trung, 30 máy bay hỗ trợ và 53 trực thăng.

http://nghiadx.blogspot.com
Vũ khí đang được lắp lên máy bay F-117 (Không quân Mỹ)


Trong trang bị của KQ Nam Tư có các máy bay tiêm kích MiG-21bis và MiG-29, máy bay tiêm kích-bom J-22 Orlo (Đại bàng), máy bay cường kích hạng nhẹ G-4 Super Galeb và máy bay trinh sát MiG-21R và 1R.

Loại máy bay hiện đại nhất của quân đoàn KQ là MiG-29, nhưng số lượng chỉ có 13 chiếc. Các máy bay tiêm kích MiG-21 là loại đã cũ và không thể đối phó hiệu quả với các máy bay của liên quân NATO. Chúng thích ứng kém với các cuộc không chiến tầm xa với các máy bay tiêm kích chiến thuật F-15 và F-16 trang bị tên lửa tầm bắn đến 80 km.

Hiện đại hơn cả trong các đơn vị tiêm kích-bom là các máy bay tiêm kích-bom J-22 Orlo với các ưu điểm hiển nhiên là trang bị tên lửa chính xác cao lắp đầu tự dẫn truyền hình và laser Maverick vốn đã thể hiện hiệu quả cao trong chiến sự ở Trung Cận Đông.

KQ Nam Tư trú đóng tại các sân bay thường trực được trang bị khá tốt. Các máy bay và trực thăng được bố trí phân tán tại các sân bay này và có áp dụng các biện pháp nguỵ trang.

Nhằm đánh lừa đối phương và gây khó khăn cho việc phát hiện các mục tiêu thật, trên các sân bay có bố trí một số lượng lớn các mô hình máy bay chiến đấu.

Một bộ phận máy bay chiến đấu được giấu trong các hầm trú ẩn, nhiều hầm trú ẩn trong số đó được xây dựng rất khéo léo. Ví dụ, tại sân bay Pristina, các hầm trú ẩn cho máy bay được xây dựng trong lòng núi nên khó bị phát hiện và làm cho KQ hầu như không thể tấn công tiêu diệt từ trên không.

Nòng cốt của hệ thống PK Nam Tư là các hệ thống TLPK đã lạc hậu của Liên Xô như S-75 Dvina, S-125 Pechora, Kvadrat, Strela-1 (lắp trên xe thiết giáp BRDM) và Strela-10 (lắp trên xe thiết giáp MTLB), tên lửa phòng không mang vác Strela-2 (3), Stinger, và pháo PK.

Để bảo vệ thủ đô Belgrade, Nam Tư chủ yếu sử dụng các tiểu đoàn TLPK trang bị S-125 đã được các chuyên gia Nam Tư hiện đại hoá. Tất cả các tiểu đoàn này đều được trang bị hệ thống điều khiển hoả lực tự động hoá của hãng Marconi và 2 tiểu đoàn được trang bị các trạm hồng ngoại của hãng Philips.

Việc sử dụng các trạm ảnh nhiệt thụ động do phương Tây sản xuất trong các hệ thống S-125 đã bảo đảm khả năng sống còn, tính bí mật, bất ngờ sử dụng, tính vững chắc trước nhiễu tích cực và tiêu cực và khả năng tác chiến cả ngày lẫn đêm.

Công tác nguỵ trang binh khí kỹ thuật tại các trận địa rất được chú trọng. Nhằm mục đích đó, người ta đã sử dụng các phương tiện nguỵ trang trong biên chế và sẵn có. Ví dụ, các cabinn điều khiển chiến đấu được phủ các tấm cao su dày 15-20 mm. Sau đó, đặt tấm lát bằng gỗ tròn.

Để giảm hiệu quả các cuộc tấn công của địch vào các phương tiện PK, Nam Tư sử dụng rộng rãi các bộ tạo giả bức xạ đài radar mang vác. Chúng được bố trí tại các trận địa phóng, cách đài an ten hay đài điều khiển, trinh sát và dẫn đường (SURN) của hệ thống TLPK vài trăm đến vài ngàn mét.

Công suất bức xạ của bộ tạo giả là 5-6 kW. Trong thiết kế của nó có sử dụng các magnetron được dùng trong máy móc điện tử trên khoang của máy bay MiG-21 và có tần số công tác giống các thiết bị phát của hệ thống TLPK.

Ban đầu, công suất và thời gian làm việc của các bộ tạo giả bức xạ đài radar không đủ lớn và trang bị trên khoang của máy bay NATO vẫn có khả năng phân biệt, nhận dạng chúng. Vì thế, trong đa số các trường hợp, phi công NATO vẫn dẫn được tên lửa chống radar HARM vào thiết bị bức xạ của các phương tiện hoả lực PK, bỏ qua bộ tạo giả.

Sau đó, thiết kế của bộ tạo giả bức xạ radar đã được cải tiến. Các tham số bức xạ của nó trở nên giống như các tham số của radar của hệ thống TLPK. Tuy các bộ tạo giả được chế tạo tại các nhà máy, nhưng vẫn không đủ đáp ứng nhu cầu.

Việc KQ NATO đã mất rất nhiều thời gian và tên lửa chống radar để tiêu diệt một số đài radar và phương tiện PK có trang bị một số bộ tạo giả bức xạ radar đã cho thấy hiệu quả của các bộ tạo giả này. Ví dụ, trong 30 ngày tác chiến, KQ NATO đã phóng vào 2 bộ tạo giả radar bảo vệ 2 đại đội TLPK Kvadrat và 1 bộ tạo giả radar bảo vệ 1 tiểu đoàn S-125 lần lượt 14 và 15 tên lửa chống radar HARM, nhưng các hệ thống TLPK vẫn không bị tổn hại.

Một phương tiện hiệu quả không kém trong việc nâng cao khả năng sống còn của hệ thống TLPK là các bộ phản xạ góc được bố trí thành từng cụm hay đơn lẻ tại các trận địa giả và trận địa thật ở khoảng cách đến 300 m so với đài radar hay đài điều khiển, trinh sát và dẫn đường của hệ thống TLPK.

Việc sử dụng các bộ phản xạ góc đạt hiệu quả cao nhất khi sử dụng kết hợp với cấu trúc của trận địa. Khi đó, công sự cho radar được đào với tính toán sao cho bộ phát xạ bên dưới của anten nằm ngang mặt đất. Điều đó làm giảm 20-30% cự ly phát hiện, nhưng đồng thời do ảnh hưởng của mặt đất bên dưới và hạ thấp bộ phát xạ mà trường radar của đài radar bị biến dạng ít nhiều và cho phép tận dụng tối ưu nhất tác dụng của cá bộ phản xạ góc.

Ví dụ, KQ NATO đã phóng vô hiệu quả 8 tên lửa chống radar vào một trận địa được cấu trúc như vậy của 1 trung đoàn TLPL Kvadrat được trang bị 2 nhóm bộ phản xạ gíc đặt cách đài radar P-15 ở khoảng cách 100 và 300 m. Đã có trường hợp tên lửa chống radar HARM đã phóng vào chiếc bừa đĩa bị bỏ lại trên cánh đồng cách đài radar gần 3 km.

Kinh nghiệm tác chiến đã cho thấy hầu như trong tất cả các trận đánh PK đều có sự sử dụng ồ ạt tên lửa chống radar. Đó là vì bộ chỉ huy NATO muốn giảm bớt tối đa tổn thất có thể của KQ chiến đấu trong chiến dịch đường không trước các phương tiện PK Nam Tư.

Do đó, để phát hiện vị trí và xác định chính xác toạ độ và thực hành tấn công các trận địa của các phương tiện PK đang hoạt động, KQ NATO đã áp dụng các thủ đoạn khiêu khích đi kèm với chuyến bay tốp của máy bay tiêm kích (10-15 chiếc) gần khu vực sát thương của các hệ thống TLPK và thực hiện các động tác giả vào công kích mục tiêu.

Hoạt động tác chiến của các đơn vị PK của quân đội Nam Tư có đặc điểm chính là sử dụng nhiều những trận đột kích, cơ động và di chuyển trận địa hầu như hàng ngày. Một số tiểu đoàn TLPK S-125 và các đại đội TLPK Kub, theo lệnh của bộ chỉ huy, đã được rút khỏi biên chế của lữ đoàn PK và các trung đoàn PK để chuyển thuộc trực tiếp bộ chỉ huy quân đoàn PK và sau đó được sử dụng theo kế hoạch của bộ chỉ huy quân đoàn PK. Việc chỉ huy hoả lực trong quá trình chiến sự được thực hiện cả từ bộ chỉ huy quân đoàn PK, lẫn thông qua các bộ chỉ huy của lữ đoàn PK và các trung đoàn PK.

Mọi hoạt động cơ động và di chuyển phương tiện PK thường được thực hiện về đêm không theo đội hình đoàn xe. Binh khí kỹ thuật được di chuyển từng xe một, với địa điểm và thời gian đến được ấn định, có tính tới tốc độ hành quân ở chế độ im lặng vô tuyến hoàn toàn. Để nguỵ trang, việc di chuyển trong đa số các trường hợp được thực hiện lẫn trong đoàn xe dân sự hay đoàn người sơ tán và bề ngoài phương tiện kỹ thuật được thay đổi tối đa bằng các phương tiện sẵn có.

Điều đáng lưu ý là trong thời gian không quá 1-1,5 phút sau khi bắn, đơn vị PK đã phải thu hồi khí tài và lên đường đến khu vực tập kết. Khu vực tập kết thường có các địa vật tự nhiên hoặc nhân tạo có thể dùng để nguỵ trang như (các khe trũng, các hăng-ga...), và chỉ thực hiện từ đó.

Thời gian chờ đợi (1-1,5 phút) được xác định căn cứ vào thời gian mà các máy bay NATO có thể tổ chức tấn công vào các trận địa của đơn vị. Khi rẽ khỏi đường ô tô và di chuyển đến trận địa phóng, các xe khí tài tắt đèn pha và đèn tín hiệu quanh xe. Chiến thuật hành quân này tỏ ra khá hiệu quả. Thực tế đã không xảy ra một cuộc tấn công nào vào trận địa phóng của PK Nam Tư do bị lộ khi hành quân.

Việc thay đổi trận địa phóng được thực hiện trong các trường hợp sau đây:

- Sau khi phóng: Thay đổi ngay lập tức. Sau khi bật radar phát xạ trong chu trình bắn để phục vụ việc thực hành sau đó nhiệm vụ bắn (hoặc không thực hành).

- Sau khi có máy bay không người lái trinh sát của NATO bay qua: Thay đổi ngay lập tức. Theo lệnh từ sở chỉ huy trung đoàn và theo kế hoạch thay đổi trận địa phóng tại khu vực cơ động chiến đấu.

Hiệu quả nhất là việc cơ động 1 trung đoàn TLPK vào vùng núi mà trên đó KQ NATO tiến hành lập đội hình các tốp máy bay tấn công. Bộ chỉ huy NATO nghĩ rằng, các Nam Tư không thể đưa các phương tiện PK vào vùng này nên đã không áp dụng các biện pháp cần thiết phòng chống TLPK.

Việc cơ động được thực hiện ban đêm và bí mật đối với tình báo đối phương, có áp dụng tối đa các biện pháp nguỵ trang chiến thuật. Sau khi KQ NATO tập trung, trung đoàn TLPK Kvadrat bất ngờ tấn công bằng tất cả các phương tiện hiện có. Tổn thất của NATO là không dưới 5 máy bay chiến đấu.

Trong quá trình tác chiến của các đơn vị PK đi kèm với việc sử dụng ồ ạt tên lửa chống radar, phía Nam Tư đã có những điều chỉnh lớn đối với các quy định bắn mục tiêu bay.

Chẳng hạn, khu vực sát thương của các hệ thống TLPK đã bị giảm đi 50% để bảo đảm việc phát xạ ở mức tối thiểu và xác suất tối ưu tiêu diệt mục tiêu bay. Các thiết bị phát radar của các phương tiện hoả lực được bật lên khi cự ly tới mục tiêu là không quá 20 km (tức là mục tiêu luôn nằm trong khu vực sát thương).

Các tên lửa và loạt đạn thay thế được chuẩn bị từ trước. Thời lượng hoạt động của thiết bị phát radar, được xác định bằng thử nghiệm, là không được quá 6 s. Nếu trong quãng thời gian này (nhất là về đêm) mà không bắt bám được mục tiêu thì thiết bị phát radar bị tắt đi. Sau 10 s, thiết bị phát radar được bật lại hoạt động trong 6 s. Nếu trong quãng thời gian bật lại này, vẫn không bắt được mục tiêu thì sau đó thiết bị phát radar không được bật lại nữa. Trong trường hợp bắt bám được mục tiêu thì lập tức tiến hành phóng đạn mà thường là đồng thời bắn 2 quả đạn tên lửa.

Khi bắn ban ngày, hệ thống ngắm quang truyền hình được dùng làm phương tiện trinh sát chính bởi vì hệ thống các khí tài tự động hoá Krab (của hệ thống TLPK Kvadrat) ở chế độ “Radio” (Vô tuyến) không được sử dụng do đối phương gây nhiễu.

Thông tin chỉ thị mục tiêu được truyền qua điện thoại chỉ rõ phương vị và cự ly. Số liệu về độ cao bay của các mục tiêu bay thường không được cung cấp do các khí tài vô tuyến đo cao cơ động đã bị tiêu diệt. Các kíp trắc thủ đài điều khiển, trinh sát và dẫn đường sử dụng khí tài ngắm quang truyền hình để sục sạo mục tiêu. Tần suất để lọt mục tiêu không quá 0,7.

Nếu kíp trắc thủ đài điều khiển, trinh sát và dẫn đường bật đài trinh sát mục tiêu (SRTs) để tìm kiếm mục tiêu thì thường dẫn tới kết quả đài bị không dưới 2 tên lửa chống radar tấn công. Trong khi đó, không phải lúc nào trên màn hình của đài cũng nhìn thấy tên lửa chống radar.

Nhờ áp dụng chiến thuật phục kích đón lõng, hệ thống TLPK Kvadrat thường bảo đảm được tính bất ngờ trong sử dụng vũ khí mà không bị KQ NATO đối phó bằng nhiễu và tên lửa chống radar.

Ví dụ, 1 đại đội TLPK được di chuyển đến Kosovo ở chế độ hoạt động bình thường đã tiêu diệt được 1 trực thăng chiến đấu của NATO và một số tên lửa hành trình.

Các hệ thống TLPK Kvadrat và S-125 cực kỳ ít khi được dùng để bắn máy bay không người lái và tên lửa hành trình để tránh làm lộ trận địa. Phương tiện chính để đánh tên lửa hành trình và máy bay không người lái là hệ thống TLPK Strela thuộc tất cả các kiểu loại mà Nam Tư có trong tay và pháo phòng không cỡ nhỏ.

Khi phát hiện được các tốp máy bay lớn (15-20 máy bay), PK Nam Tư để cho chúng bay qua đội hình chiến đấu của mình và chỉ nổ súng khi những máy bay đơn lẻ hay các tốp máy bay nhỏ (2-4 chiếc) lọt vào khu vực sát thương.

Họ chỉ bắn vào máy bay đi đầu trong trường hợp quãng thời gian giữa các mục tiêu trong tốp là hơn 1 phút, và bắn chiếc đi sau cùng khi quãng thời quan giữa các mục tiêu trong tốp ngắn hơn.

Thông thường, sau khi phát hiện có TLPK bắn lên, các máy bay NATO thường cố thoát khỏi khu vực sát thương càng nhanh càng tốt bằng cách vứt bỏ vũ khí mang theo, sử dụng các loại nhiễu và thực hiện cơ động tránh đạn tên lửa.

Gần 90% lần phóng TLPK là ở chế độ bắn đuổi. Các lần phóng đơn lẻ 1 quả TLPK cơ bản là bắn trượt, còn phóng 2 quả TLPK thường tiêu diệt được mục tiêu. Việc đánh giá kết quả bắn bằng cách sử dụng radar của hệ thống TLPK không được áp dụng. Ngay sau khi đầu đạn TLPK nổ, tất cả các thiết bị phát radar được tắt đi.

KQ tiêm kích chỉ được sử dụng trong 3 ngày đầu sau khi chiến sự bùng nổ bởi vì trang bị vô tuyến điện tử và vũ khí hàng không của các máy bay Nam Tư (MiG-29, MiG-21) không cho phép tiến hành không chiến ngang bằng với máy bay NATO. Sau đó, KQ Nam Tư không tham chiến nữa.

Toàn bộ các thông tin về hoạt động của các phương tiện tấn công đường không-vũ trụ của NATO được tập trung và phân tích tại sở chỉ huy quân đoàn PK Nam Tư. Các đơn vị radar hầu như không được huy động tham gia cuộc xung đột.

Các phương tiện radar tiến hành sục sạo mục tiêu ở chế độ phát xạ trong thời gian ngắn. Việc phát hiện kịp thời, xác định hướng bay và vị trí của các phương tiện tiến công đường không của NATO do các hệ thống trinh sát vô tuyến điện tự động hoá KRTP-86 Tamara do Cộng hoà Czech chế tạo đảm nhiệm.

Hệ thống này với tầm hoạt động đến 450 km có khả năng sống còn cao và tính bí mật trong hoạt động. Nó hoạt động không dựa trên nguyên lý định vị vô tuyến chủ động mà dựa trên việc ghi nhận và phân tích bức xạ của các khí tài vô tuyến điện tử trên máy bay.

Để bảo toàn khả năng chiến đấu của các đơn vị PK, theo lệnh của bộ chỉ huy PK Nam Tư, các đài radar của các trung đoàn và tiểu đoàn PK đã được ghép vào hệ thống chung trinh sát máy bay địch và được rút khỏi các khu vực trận địa (các trận địa phóng) của các đơn vị này.

Nếu các đài radar này bị loại khỏi vòng chiến, sở chỉ huy của lữ đoàn hay trung đoàn PK nhận thông tin tình báo về tình hình máy bay địch qua kênh điện thoại từ sở chỉ huy quân đoàn PK và các đài quan sát triển khai thành 2 tuyến (mỗi tuyến 8 đài): tuyến 1 cách 30 km, tuyến 2 cách 80 km so với sở chỉ huy các đơn vị TLPK.

Nhiều khi phía Nam Tư sử dụng tin tức từ những người yêu thích vô tuyến điện nghiệp dư để thông báo việc KQ NATO cất cánh từ các sân bay đóng quân. Trong đa số các trường hợp, việc thông báo mối đe doạ của máy bay NATO được thực hiện 10-15 phút trước khi các đòn không kích bắt đầu.

Đáng chú ý là công tác chuẩn bị có kế hoạch và định hướng cho quân đội để đối phó với cuộc tấn công. Ban lãnh đạo chiến tranh Nam Tư, khi thấy tình hình xung quanh Kosovo có chiều hướng diễn biến tiêu cực và âm mưu của NATO giải quyết vấn đề Kosovo bằng vũ lực, đã áp dụng hàng loạt biện pháp chuẩn bị KQ, các lực lượng và phương tiện PK Nam Tư để đối phó cuộc xâm lược có thể xảy ra.

Các lực lượng và phương tiện PK Nam Tư đã được kịp thời chuyển sang trạng thái sẵn sàng chiến đấu cấp độ cao. Việc trực chiến được thực hiện suốt ngày đêm bởi các kíp trắc thủ đủ hoặc thiếu.

Các tiểu đoàn TLPK S-125 tiến hành thay đổi trận địa 5 ngày/lần, còn các đại đội TLPK Kub cứ 2-3 ngày thay đổi trận địa 1 lần. Nam Tư đã xây dựng các kế hoạch phân tán một phần lực lượng máy bay từ các sân bay thường trực sang các sân bay dự bị và các khu vực đường cao tốc có cấu trúc phù hợp.

Đầu tháng 3/1999, một đoàn quân sự Nam Tư đã đến thăm Iraq. Các chuyên gia Nam Tư đã tìm hiểu chiến thuật hoạt động của KQ Mỹ trong các chiến dịch “Bão táp sa mạc” và “Cáo sa mạc” chống Iraq, nghiên cứu kinh nghiệm tác chiến của PK Iraq, các phương pháp hiệu quả để nguỵ trang binh khí kỹ thuật và phát hiện máy bay F-117.

Ngay trước khi cuộc xâm lược của NATO diễn ra, radar tại một số trạm radar cố định của PK Nam Tư đã được tháo dỡ và di chuyển đến các trận địa dự bị. Ở các trạm khác, radar phát hiện mục tiêu bay chỉ được huy động trong thời gian ngắn. Từ ngày 19/3/1999, trong các đơn vị TLPK tầm trung và ngắn đã thực hiện chế độ im lặng vô tuyến.

Sau những ngày đầu tiên của chiến dịch không kích của NATO, bị tổn thất lớn nhất là các trận địa cố định của PK Nam Tư: các sở chỉ huy KQ và PK, các sân bay và trạm radar cố định. Vì nguyên nhân này và do liên quân NATO sử dụng tích cực các khí tài tác chiến điện tử nên việc chỉ huy tập trung các lực lượng và phương tiện PK đã bị phá vỡ. Các đơn vị PK Nam Tư đã phải tác chiến phi tập trung trong các khu vực trách nhiệm của mình.

Trong chiến dịch không kích Nam Tư, theo một số nguồn tin, KQ liên quân NATO đã mất 31 máy bay chiến đấu, 6 trực thăng, 11 máy bay không người lái và gần 40 tên lửa hành trình. Ngoài ra, do bị bắn bị thương, 3 máy bay NATO đã phải hạ cánh bắt buộc xuống các sân bay Sarajevo (Bosnia-Herzegovina) và Skopje (Macedonia).

Tổn thất của Nam Tư là 20 máy bay (8 MiG-29 và 12 MiG-21), trong đó 12 máy bay (4 MiG-29 và 8 MiG-21) bị tiêu diệt trên mặt đất; 13 đài radar bị loại khỏi vòng chiến.

Việc phân tích công tác tổ chức PK lãnh thổ và PK các mục tiêu của Nam Tư, cũng như các hoạt động của các lực lượng và phương tiện PK Nam Tư chống lại các cuộc tiến công đường không của NATO cho phép nêu ra một số đặc điểm tích cực và tiêu cực trong hoạt động của các lực lượng và phương tiện PK Nam Tư.

Có lẽ đặc điểm quan trọng nhất trong hoạt động tác chiến của KQ và PK Nam Tư là thời gian tác chiến khá dài trong điều kiện KQ NATO chiếm ưu thế áp đảo về số lượng-chất lượng.

Đặc điểm này được lý giải bởi một loạt yếu tố:

- Trước hết là sự dũng cảm và kiên cường của bộ đội KQ và PK Nam Tư. Tuy thua kém đối phương về số và chất lượng vũ khí, KQ và PK Nam Tư vẫn tiêu diệt được một số lượng đáng kể các phương tiện tiến công đường không của NATO. Việc PK Nam Tư bắn rơi 1 máy bay F-117A, niềm tự hào của công nghiệp quốc phòng Mỹ tại thời điểm đó, là một sự kiện thực sự chấn động;

- Nghệ thuật chỉ huy khéo léo các lực lượng và phương tiện của KQ và PK vốn là kết quả của trình độ huấn luyện chiến thuật-chiến dịch cao của đội ngũ chỉ huy quân đội Nam Tư. Không có đủ lực lượng và phương tiện KQ và PK để tiến hành chiến dịch phòng ngự đường không và tác chiến giành ưu thế chiến dịch trên không, phía Nam Tư đã không trực diện đối đầu với KQ NATO để tránh tổn thất một bộ phận KQ và lực lượng PK mặt đất. Nam Tư đã tập trung lực lượng và phương tiện KQ và PK để bảo vệ những mục tiêu quan trọng trong hậu phương đất nước và quân đội ở Kosovo, tức là sử dụng các phương tiện bảo vệ của mình để giành ưu thế chiến thuật trên không có tính đến các điều kiện địa-vật lý của khu vực;

- Sự sẵn sàng chiến đấu cao của các đơn vị KQ, PK ngay trong thời bình. Hệ thống trú quân và trận địa rộng khắp đã cho phép bộ chỉ huy Nam Tư ngay trước khi cuộc xâm lược diễn ra đã kịp thời phân tán KQ sang các sân bay dự bị và nguỵ trang, nhờ thế đã giảm tối đa hiệu quả các đòn khôngg kích của KQ và tên lửa hành trình NATO nhằm vào các căn cứ KQ chính Batanica, Golubovca, Ponjava và Novi Sad. Các đơn vị PK Nam Tư mà nòng cốt là các hệ thống PK cơ động, từ trước khi diễn ra cuộc xâm lược, đã được báo động và nhanh chóng thay đổi địa điểm trí quân, rút sang các khu vực đóng quân dự bị. Các hành động này của KQ và PK Nam Tư đã khiến cho tin tức tình báo, trinh sát của NATO về hệ thống mục tiêu của KQ và PK Nam Tư lập tức bị lỗi thời;

- Nghệ thuật nguỵ trang mục tiêu xuất sắc của KQ và PK. Nam Tư đã xoá tan hoàn toàn huyền thoại về sự toàn năng của các phương tiện trinh sát và vũ khí hiện đại. Theo lời khẳng định của William Cohen, Nam Tư đã không còn quân đội sau những trận không kích ác liệt. Dĩ nhiên, ý ông ta nói là cả KQ và PK Nam Tư. Tu nhiên, điều sửng sốt đối với đa số các nhà quan sát là quân đội Nam Tư đồn trú ở Kosovo đã rút khỏi Kosovo gần như đủ biên chế, cùng vũ khí và trang bị. Hầu như toàn bộ các máy bay chiến đấu MiG đã tự bay khỏi sân bay Pristina, trong đó 11 chiếc bay ngay và 3 chiếc còn lại bay đi sau vài ngày sửa chữa nhỏ. Trong khi đó, theo các báo cáo của NATO thì các máy bay này bị coi là đã bị tiêu diệt và theo số liệu do thám vũ trụ thì chỉ còn lại các mảnh vụn của các máy bay này.

Sau đó, các sĩ quan NATO đã có dịp tận mắt nhìn thấy những "mảnh vụn" này. Những chiếc máy bay MiG bị phá huỷ mà các vệ tinh chụp ảnh được hoá ra là các mô hình đồ chơi làm bằng gỗ dán, ván hay mô hình bằng cao su bơm hơi. Trước khi xảy ra xung đột, Nam Tư đã chế tạo đến 200 mô hình máy bay MiG-29 và MiG-21 bằng gỗ dán và đã khiến các phi công tốn nhiều công sức, bom đạn để tiêu diệt chúng;

- Xây dựng những hầm trú ẩn cho máy bay tại các sân bay và sử dụng các đoạn đường cao tốc làm đường băng cất-hạ cánh. Trước khi chiến tranh nổ ra, Nam Tư đã xây dựng tại 10 sân bay của mình 98 hầm bê tông cốt thép; theo một số nguồn tin chỉ có 40 trong số đó (tức 41%) bị tiêu diệt trong chiến tranh và 30 bị hư hỏng. Tuy phá huỷ được các đường băng và đường lăn chính trên các sân bay Nam Tư, nhưng KQ NATO vẫn không làm cho KQ Nam Tư mất đi các sân bay như đã làm ở Iraq năm 1991. Nam Tư đã sử dụng thành công các đoạn thẳng của các tuyến đường ô tô rải nhựa để phân tán KQ tiêm kích. Ban đầu, chỉ có các đơn vị MiG-21 được triển khai đến đó, sau đó trong các trường hợp đơn lẻ các đơn vị máy bay tiêm kích MiG-29 cỡ lớn hơn cũng áp dụng chiến thuật này. Bộ chỉ huy Nam Tư tìm cách bố trí các máy bay tiêm kích hạ cánh gần các đầu đường để khi một làn đường bị hỏng thì dễ dàng kéo máy bay sang làn đường khác. Dĩ nhiên là ngay cả ở các sân bay mới cũng áp dụng mọi biện pháp nguỵ trang quy định;

- Sử dụng bẫy hồng ngoại. Được biết, Nam Tư đã sử dụng tại các sân bay những thiết bị nung nóng, trong đó có các lò vi sóng, để hút về mình các vũ khí hàng không lắp đầu tự dẫn hồng ngoại của địch và bằng cách đó bảo vệ các máy bay và các mục tiêu của Nam Tư;

- Sử dụng rộng rãi các hệ thống TLPK tầm ngắn có hiệu quả khá cao và ít chịu tác động của khí tài tác chiến điện tử, bắn vào các mục tiêu quan sát được bằng mắt. Điều đó đã buộc KQ NATO phải bay ở độ cao không dưới 3.000 m và làm giảm được hiệu quả bắn của tên lửa hành trình. Ví dụ, kết quả sử dụng tên lửa hành trình Tomahawk phóng từ biển là thấp hơn dự kiến 20%. Theo các nguồn tin, chỉ có 60-70% trong tổng số tên lửa hành trình được sử dụng tiêu diệt được mục tiêu thay vì 80-90% theo tính toán như đã đạt được trong điều kiện lý tưởng của chiến tranh Iraq năm 1991.

Sự kiện bắn rơi F-117A cũng rất đáng chú ý. Tham gia bảo vệ Belgrade có cả đại đội 3 được trang bị các hệ thống TLPK S-125 của Lữ đoàn 250. Trong vòng 3 ngày đầu không kích, đại đội đã không bật đài điều khiển tên lửa để tránh bị đối phương phát hiện. Liên lạc giữa sở chỉ huy và các trận địa hoàn toàn thực hiện qua cáp điện thoại. Các trận địa được thay đổi gần như hàng ngày. Lực lượng điệp báo Serbia theo dõi các sân bay NATO ở Italia sử dụng điện thoại di động để báo về Belgrade mỗi khi máy bay NATO xuất kích. Tham gia báo cáo về đường bay của máy bay NATO còn có các đội viên quan sát ngay trên lãnh thổ Serbia. Tiểu đoàn trưởng TLPK Dani Zoltan đã khéo léo bố trí đài điều khiển tên lửa để có thể phát hiện máy bay Mỹ với xác suất cao. Đài điều khiển chỉ được bật lên trong vài giây để không làm lộ vị trí với các máy bay chỉ huy/báo động sớm AWACS của NATO. Tên lửa được phóng đi khi máy bay địch đã lọt sâu vào khu vực sát thương của hoả lực PK. Chiếc F-117A đã bị bắn rơi cách các trận địa phóng của tiểu đoàn 13 km. Ngoài ra, chiếc F-117A này còn bay theo đường bay thường lệ nó đã bay 3 đêm trước mà không có lực lượng bảo vệ.

Sau vụ này, các máy bay tàng hình F-117A chỉ xuất kích khi có các máy bay tiêm kích trang bị tên lửa chống radar HARM hộ tống và mỗi lần đường bay đều được thay đổi. Sau đó, người Serbia không còn tổ chức được cuộc phục kích nào thành công như thế nữa. Tuy nhiên, sau đó, đại đội 3 của Lữ 250 PK còn bắn rơi 1 máy bay F-16 và ngăn chặn được một số cuộc tập kích của KQ NATO. Trong các trận đánh này, đại tá Zoltan đã không tổn thất lấy 1 người hay 1 đơn vị binh khí kỹ thuật nào.

Một đặc điểm trong hoạt động tác chiến của KQ Nam Tư là sự tham gia ít ỏi của KQ tiêm kích Nam Tư. Trong quá trình chiến sự, lực lượng này chỉ thực hiện một số ít trận không chiến. Đó là vì lãnh đạo Nam Tư muốn bảo toàn lực lượng KQ của mình trong bối cảnh NATO có ưu thế áp đảo về KQ. Các máy bay tiêm kích Nam Tư ít khi cất cánh và tác chiến không lâu, thành từng tốp nhỏ chủ yếu để đánh chặn nhanh từ vị trí phục kích vì bay lâu trên không là cực kỳ nguy hiểm. Các máy bay chỉ huy và báo động sớm AWACS của NATO lập tức phát hiện máy bay Nam Tư cất cánh và dẫn đường cho các máy bay tiêm kích PK trang bị tên lửa không-đối-không có tầm bắn hiệu quả đến 80 km đến chặn đánh.

Các phi công tiêm kích Nam Tư không có những vũ khí như thế nên đã dùng chiến thuật để đối phó. Ngay khi vừa rời đường băng, họ lập tức lẩn vào các khe núi, bay thấp để thoát khỏi sự đeo bán của máy bay AWACS và của những máy bay tiêm kích do máy bay AWACS điều đến, và chọn thời điểm để công kích máy bay địch. Sau khi tấn công, họ lập tức rút xuống các khe núi hoặc hạ xuống độ cao cực nhỏ.

Một trong nét nổi bật trong tác chiến của KQ Nam Tư là hiệu quả sử dụng KQ tiêm kích thấp. Đó là vì lực lượng máy bay tiêm kích hiện đại MiG-29 có số lượng ít (15 chiếc), các máy bay MiG-21 thì vừa ít vừa không thích ứng với không chiến tầm xa bằng tên lửa với các máy bay tiêm kích F-15 và F-16. Điều đó dĩ nhiên đã được phản ánh ở mức độ tổn thất của KQ tiêm kích Nam Tư. Phía Nam Tư không có khả năng bổ sung cho những tổn thất đó. Tuy nhiên, cũng có những trường hợp máy bay tiêm kích Nam Tư đã thành công, ví dụ Miroslav Druginic trong 1 đêm đã bắn rơi 6 tên lửa hành trình.

Trong tác chiến của KQ và PK Nam Tư đã bộc lộ nhiều nhược điểm:

- Khi chiến tranh bùng nổ, chỉ huy KQ và PK Nam Tư đã bị lúng túng nhất định, họ nắm không chắc tình hình tác chiến, suy giảm sự chỉ huy tập trung các lực lượng và phương tiện thuộc quyền.

- Trong cuộc chiến tranh, Nam Tư tỏ ra thụ động trong sử dụng KQ cường kích. Tuy có trong tay hơn 50 máy bay tiêm kích-bom và các máy bay cường kích hạng nhẹ có khả năng tấn công các sân bay và tàu chiến NATO ở biển Adriatic, nhưng phía Nam Tư đã không tận dụng khả năng này.

- Sự tập trung hoá chỉ huy quá mức (không có lệnh của sở chỉ huy PK trung ương thì đại đội trưởng không có quyền thay đổi trận địa phóng) đã dẫn tới việc nhiều đơn vị đã không thay đổi trận địa trong vòng 4-5 ngày.

- Phải thừa nhận nhược điểm nghiêm trọng nhất của PK Nam Tư là nó đã không thành công với tư cách một hệ thống và đã không hoàn thành nhiệm vụ phòng thủ và bảo vệ các mục tiêu trên lãnh thổ quốc gia. Gần như 100% mục tiêu công nghiệp dầu mỏ, 70% mục tiêu của công nghiệp hàng không, 40-50% các nhà máy xe tăng, đạn dược, gần 70% đường ô tô và đường sắt, 20-80% hạ tầng quân sự bị loại khỏi vòng chiến.

- Chiến thuật sử dụng lực lượng và phương tiện PK của Nam Tư một mặt đã cho phép bảo toàn được lực lượng chủ lực của PK với mức độ tổn thất, theo các nguồn tin, là khoảng 30-35% và khả năng chỉ huy tương đối đối với các lực lượng và phương tiện PK và điều này có thể sẽ có tác dụng tích cực một khi NATO mở chiến dịch trên bộ chống Nam Tư. Tuy nhiên, mặt khác, nó đã không bảo đảm bảo vệ các mục tiêu của tiềm lực kinh tế-quân sự, các mục tiêu thuộc hạ tầng quân sự và dân sự.

- Hệ thống PK Nam Tư được xây dựng, giống như ở đa số các nước, dựa trên hệ thống radar chủ động để đối phó với máy bay có người lái của đối phương trên lãnh thổ của mình, đã tỏ ra bất lực trước các phương tiện tác chiến điện tử, trinh sát và chỉ huy hiện đại, trước thủ đoạn sử dụng ồ ạt tên lửa hành trình bay ở độ cao cực nhỏ trong điều kiện địa hình phức tạp về địa lý và sử dụng quy mô lớn vũ khí chính xác cao. Hầu như, bất kỳ nguồn phát bức xạ vô tuyến nào cũng thường bị tiêu diệt sau lần phóng vũ khí đầu tiên.

Nguồn: Anatoly Kulikov // VKO.-N.5 (42) 2008.

Thứ Năm, 5 tháng 4, 2012

>> Kỉ nguyên máy bay thế hệ 6 đã bắt đầu


"Rất nhiều nước đã tới tấp bước vào vạch xuất phát trong vấn đề nghiên cứu phát triển máy bay chiến đấu thế hệ thứ 6, Trung Quốc cần sẵn sàng".


Tờ “Phương Đông” ngày 31/3 đăng bài viết của chuyên gia quân sự Trung Quốc Trần Hổ.

Bài viết cho biết, về máy bay chiến đấu thế hệ thứ sáu, rất nhiều người cảm thấy đề tài này đưa ra vẫn còn sớm.



http://nghiadx.blogspot.com
Máy bay chiến đấu không gian X-37B của Mỹ


Đến nay, việc nghiên cứu phát triển máy bay chiến đấu thế hệ thứ 5 trên toàn cầu phổ biến đều ở trạng thái khắc phục khó khăn về công nghệ.

Có thể thấy, F-35 của Mỹ hiện đang ở giai đoạn nghiên cứu phát triển quan trọng nhất trước khi sản xuất hàng loạt, cần giải quyết một số vấn đề công nghệ cuối cùng nhằm bảo đảm đồng thời với việc nhanh chóng đưa vào sản xuất thì còn phải có khả năng kiểm soát giá thành có hiệu quả.

Ngoài ra, T-50 của Nga còn đang ở giai đoạn bay thử của máy bay thử nghiệm công nghệ.
Còn các nước khác tham gia nghiên cứu chế tạo máy bay thế hệ thứ 5 như Nhật Bản, Hàn Quốc và Ấn Độ đều cơ bản dừng lại trên giấy tờ.

Như vậy, máy bay thế hệ thứ 5 hiện nay còn chưa từ nghiên cứu phát triển đi vào trạng thái sản xuất và trang bị toàn diện.

Trên thực tế, thông qua một loạt các thông tin gần đây sẽ thấy rằng, rất nhiều nước đã tới tấp bước vào vạch xuất phát trong vấn đề nghiên cứu phát triển máy bay chiến đấu thế hệ thứ 6, vấn đề thảo luận nghiên cứu phát triển máy bay chiến đấu thế hệ thứ 6 đã không thể coi là còn sớm nữa.

Trong một thời gian trước đây, Nhật Bản đã đưa ra ý tưởng nghiên cứu phát triển máy bay thế hệ thứ 6 “i3”.

Hầu như đồng thời, tờ “Thời báo Tài chính” Đức cho biết, một cơ quan nghiên cứu Ấn Độ kiến nghị nghiên cứu phát triển một loại máy bay chiến đấu kiểu mới bay ở độ cao và tốc độ lớn, tốc độ bay tối đa của nó có thể lên gấp 5 lần tốc độ âm thanh, bay ở độ cao có thể lên tới 10.000 m – đã tiếp cận bên ngoài bầu khí quyển.

Như vậy, loại máy bay chiến đấu tiên tiến này của Ấn Độ chính là một ý tưởng máy bay chiến đấu thế hệ thứ 6.


http://nghiadx.blogspot.com
Ý tưởng máy bay thế hệ thứ 6 của Công ty Boeing, Mỹ.


Hơn nữa, Mỹ đã thử bay X-47, X-37B, còn Pháp từng đưa ra máy bay chiến đấu không người lái NEURON trong triển lãm hàng không.

Báo Phương Đông viết một loạt thông tin này thực sự đang nhắc nhở Trung Quốc: Rất nhiều nước đã bắt đầu sẵn sàng cho việc nghiên cứu phát triển máy bay chiến đấu thế hệ thứ 6.

Con đường công nghệ của nghiên cứu phát triển máy bay chiến đấu thế hệ thứ 6

Hiện nay, con đường công nghệ nghiên cứu phát triển máy bay thế hệ thứ 6 trên thế giới cơ bản có thể chia làm 2 loại:

Loại thứ nhất là máy bay chiến đấu có độ cao và tốc độ lớn. “Máy bay chiến đấu không gian” X-37B chính là máy bay chiến đấu có độ cao và tốc độ lớn điển hình.

Đặc điểm lớn nhất của nó là: không gian bay chủ yếu của nó là rìa ngoài bầu khí quyển hoặc là không gian vũ trụ bên ngoài bầu khí quyển. Còn tốc độ của nó có thể đạt gấp mấy lần, thậm chí mười mấy lần tốc độ âm thanh.

Loại thứ hai là máy bay chiến đấu không người lái. X-47 B của Mỹ và NEURON của Pháp thuộc loại này. Đối với máy bay chiến đấu thế hệ thứ 6, loại máy bay chiến đấu không người lái này và máy bay không người lái trước đây có sự khác biệt rõ rệt: máy bay không người lái trước đây chủ yếu thực hiện nhiệm vụ hỗ trợ trên chiến trường,

còn nhiệm vụ tác chiến chỉ là một chức năng phái sinh của nó; về phương pháp kỹ thuật, máy bay không người lái trước đây hoặc là kiểm soát mặt đất, hoặc là bay có trật tự, còn máy bay X-47 của Mỹ và NEURO của Pháp hiện nay đều thuộc một trạng thái tự kiểm soát, nói cách khác, mức độ thông minh của chúng đã được cải thiện rất lớn, đây là một đặc điểm điển hình nhất trong phát triển công nghệ máy bay không người lái.

http://nghiadx.blogspot.com
Máy bay không người lái X-47B của Mỹ.


Máy bay chiến đấu thế hệ thứ 6 của Nhật Bản có đặc điểm riêng

Khi nói đến con đường công nghệ của những máy bay chiến đấu thế hệ thứ 6 này, mọi người có thể sẽ quan tâm: tiêu chuẩn “i3” của “máy bay chiến đấu thế hệ thứ 6 Nhật Bản” thuộc một trạng thái như thế nào?
Trần Hổ cho rằng, Nhật Bản vẫn đi theo con đường máy bay chiến đấu không người lái. Nhưng, nó lại khác với NEURO của Pháp và X-47B của Mỹ: máy bay không người lái của Mỹ và Pháp nghiêng hơn về tự kiểm soát tác chiến, còn con đường đi theo ý tưởng của Nhật Bản lại có độ khó công nghệ tương đối thấp.

Trên thực tế, nó một trạng thái “kiểm soát không đối không”, tức là Nhật Bản đi trên con đường công nghệ “dùng máy bay chiến đấu có người lái để kiểm soát máy bay chiến đấu không người lái”.

Trong con đường phát triển, do yêu cầu công nghệ đối với bản thân máy bay không người lái khác nhau, cho nên trung tâm nghiên cứu của họ cũng khác nhau.

Mỹ và Pháp đi theo con đường phát triển máy bay không người lái tự chủ tác chiến, do đó họ đã có X-47 và NEURO. Còn Nhật Bản muốn phát triển một loại máy bay chiến đấu không người lái dùng cho “kiểm soát không đối không”. Độ khó công nghệ của trạng thái này không phải ở máy bay không người lái, mà ở máy bay kiểm soát.


http://nghiadx.blogspot.com
Máy bay thế hệ thứ sáu "i3" Nhật Bản.

Cho nên, ý tưởng máy bay thế hệ thứ 6 “i3” do Nhật đưa ra, trọng điểm của nó là nghiên cứu phát triển được máy bay chiến đấu có người lái dùng để kiểm soát máy bay không người lái.


Qua đó, có thể phát hiện, hai con đường công nghệ lớn của máy bay thế hệ thứ 6 còn có thể phân làm hai nhánh trong lĩnh vực máy bay không người lái.

Nếu nói về phân nhánh chi tiết hơn, máy bay chiến đấu không người lái của Pháp và máy bay chiến đấu không người lái của Mỹ cũng có chút khác biệt. X-47 của Mỹ nghiêng hơn về tấn công đối đất, còn NEURO của Pháp thì nghiêng về chiến đấu trên không.

Nói về độ khó công nghệ, máy bay không người lái chiến đấu trên không tự chủ kiểm soát còn khó hơn máy bay không người lái kiểu tấn công tự chủ kiểm soát.
Tình hình nghiên cứu phát triển máy bay thế hệ thứ 6 thay đổi

Trong thời đại máy bay thế hệ thứ 3 trước đây, trên quốc tế, việc nghiên cứu phát triển máy bay chiến đấu tiên tiến cơ bản phân thành 3 bộ phận lớn:

Bộ phận thứ nhất là Mỹ; bộ phận thứ hai là Liên Xô (Nga hiện nay); bộ phận thứ ba là một số nước phát triển của châu Âu, như Anh, Pháp…

Đến thời đại máy bay thế hệ thứ 5, bố cục nghiên cứu phát triển đã bắt đầu có những thay đổi. Các nước phát triển châu Âu không nghiên cứu phát triển loại máy bay chiến đấu thế hệ thứ 5, vì vậy trên thực tế là Mỹ độc tôn, Nga bám gót theo sau.

Còn một số nước châu Á, chẳng hạn Nhật Bản, Hàn Quốc và Ấn Độ cũng tích cực gia nhập hàng ngũ nghiên cứu phát triển máy bay thế hệ thứ 5.

http://nghiadx.blogspot.com
Mô hình máy bay tấn công tàng hình không người lái NEURO của Pháp


Còn đối với máy bay thế hệ thứ 6 đang ở trong giai đoạn nghiên cứu phát triển mang tính ý tưởng hiện nay, sự thay đổi bố cục quốc tế còn rõ ràng hơn trạng thái xuất hiện của máy bay thế hệ thứ 5.


Mỹ vẫn thuộc trạng thái độc tôn: cho dù là máy bay chiến đấu có độ cao và tốc độ lớn hay máy bay chiến đấu không người lái, Mỹ đều có chương trình nghiên cứu phát triển và mô hình nghiên cứu tương ứng.

Còn Nga đến nay vẫn chưa thấy có ý tưởng hoặc chương trình nghiên cứu phát triển máy bay thế hệ thứ 6.

Trong các nước châu Âu, mặc dù có NEURO của Pháp, nhưng lại biểu hiện như một trạng thái yếu ớt, bởi vì nó hoàn toàn không thể so sánh được với trạng thái tích cực khi châu Âu nghiên cứu phát triển máy bay thế hệ thứ ba trước đây.

Trái lại, một số nước châu Á lại tích cực chưa từng có trong việc đưa ra ý tưởng máy bay thế hệ thứ 6:

Nhật Bản đưa ra máy bay “i3”, còn Ấn Độ đưa ra máy bay chiến đấu tiên tiến có độ cao và tốc độ lớn. Trên thực tế điều này cũng phản ánh quyết tâm và tự tin của các nước đi sau trong việc cố gắng bước vào câu lạc bộ hàng không đỉnh cao quốc tế.

Mặc dù hiện nay việc nghiên cứu phát triển máy bay thế hệ thứ 6 vẫn nằm trong giai đoạn thảo luận ý tưởng, nhưng tin rằng đã có thảo luận về ý tưởng này, thời gian máy bay thế hệ thứ 6 thực sự đi vào nghiên cứu phát triển các kiểu loại sẽ không còn quá lâu.

Phương Đông báo viết, nhìn vào chu kỳ nghiên cứu phát triển máy bay chiến đấu tiên tiến hiện nay, trong 20 năm nữa, chúng ta sẽ nhìn thấy máy bay thế hệ thứ 6 bay trên bầu trời.

Cho nên, đối với những nước có tham vọng giành lấy quyền kiểm soát trong tương lai, hành vi hiện tại đúng lúc đã nghiệm chứng được câu nói thịnh hành: không thể thua ngay trên vạch xuất phát.


http://nghiadx.blogspot.com
Mô hình máy bay chiến đấu hạng trung tiên tiến AMCA của Ấn Độ tại Triển lãm hàng không năm 2009.


Copyright 2012 Tin Tức Quân Sự - Blog tin tức Quân Sự Việt Nam
 
Lên đầu trang
Xuống cuối trang