Tin Quân Sự - Blog tin tức Quân sự Việt Nam: chiến tranh lạnh

Paracel Islands & Spratly Islands Belong to Viet Nam !

Quần Đảo Hoàng Sa - Quần Đảo Trường Sa Thuộc Về Việt Nam !

Hiển thị các bài đăng có nhãn chiến tranh lạnh. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn chiến tranh lạnh. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Năm, 3 tháng 3, 2011

>> Các thủy phi cơ huyền thoại của Hải quân Xô Viết



Là sự kết hợp “kỳ quái” giữa một chiếc tàu chạy trên đệm không khí và một chiếc máy bay, những chiếc thủy phi cơ đặc biệt này được sử dụng rộng rãi trong Chiến tranh Lạnh.

Chúng “bay lượn” trên mặt nước với vận tốc lên đến 400 km mỗi giờ, có thể mang trọng lượng hàng hóa và binh lính nhiều hơn bất kỳ một chiếc máy bay bình thường nào. Những chiếc thủy phi cơ vẫn được gọi tên là Ekranoplan được xem là phương tiện di chuyển thú vị nhất mà con người từng tạo ra.

Hầu hết những chiếc Ekranoplan do Liên Xô thiết kế trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, cụ thể là công ty thiết kế Rostislav Alexeev. Một số thủy phi cơ có chiều dài 100 m và nặng trên 500 tấn. Chúng di chuyển trên mặt nước với tốc độ cao, kể cả trong điều kiện bão tố và hoàn toàn “loại bỏ” được sự theo dõi của radar nhờ vào nguyên tắc khí động lực gọi là “hiệu ứng mặt đất”.

Tất cả phi công đều quen thuộc với loại hiệu ứng này, đó là khi một chiếc máy bay chuẩn bị hạ cánh, nó gần như bay trên không khí một vài khoảnh khắc trước khi chạm đất. Lớp không khí dồn nén giữa phần cánh và mặt đất trở thành “tấm đệm hơi” giúp máy bay có khả năng trượt một cách uyển chuyển. Đối với trường hợp thủy phi cơ, hiệu ứng này rất hiệu quả giúp nó bay thật thấp.

Dưới đây là một số thông tin về các thủy phi cơ huyền thoại của hải quân Soviet:

KM, “Quái vật biển Caspian”
KM là thủy phi cơ loại lớn có chiều dài 100m, nặng 544 tấn, sử dụng 10 động cơ tuabin phản lực Dobryin VD-7. Cho đến nay KM vẫn giữ kỷ lục cất cánh với trọng tải lớn nhất, vượt qua trọng lượng mà máy bay chở hàng lớn nhất Antonov An 225 "Mriya" có thể mang. KM “mai danh ẩn tích” trong một thời gian dài, được thử nghiệm bí mật trên vùng biển Caspian năm 1966 và bị phát hiện bởi một vệ tinh của Mỹ.












KM là thủy phi cơ giữ kỷ lục về trọng tải cất cánh.

Tuy số lượng máy bay KM ít nhưng và các phiên bản của nó khá đa dạng với chiều dài và trọng lượng khác nhau. Tất cả phiên bản của KM đều có hình dáng kỳ quặc, được thiết kế để lướt trên đại dương với tốc độ cao và tránh radar phát hiện.

Theo các nguồn tin quân sự, Chính phủ Liên Xô đã lên kế hoạch đóng tới 100 “quái vật” biển này tại thời điểm cao trào của Chiến tranh Lạnh nhưng trên thực tế con số đó đã giảm xuống còn 24 chiếc.


Phiên bản SM-8 của "quái vật" KM.

Sau một tai nạn va chạm do nguyên nhân tầm nhìn hạn chế trong sương mù, KM đã bị cấm hoạt động trong vùng nước sâu 20 m, cản trở những nỗ lực phục hồi “quái vật biển” này. Phiên bản mới dự định sẽ thay thế KM là Orlenok, một loại thủy phi cơ tầm trung phù hợp với các nhiệm vụ vận chuyển trong quân đội.

Ấn tượng A-90 Orlyonok
Orlyonok có trọng lượng 140 tấn, dài 58 m và có chuyến bay đầu tiên vào năm 1972. A-90 chạy trên hai động cơ tuabin phản lực và một động cơ tuabin cánh quạt, có thể đạt được tốc độ 400 km mỗi giờ, khả năng di chuyển quãng đường dài 1.500 km ở độ cao từ 5 đến 10m so với mặt nước biển.







Orlyonok có ngoại hình hết sức ấn tượng.

Quân đội Liên Xô đã lên kế hoạch đóng 20 chiếc thủy phi cơ như vậy với mục đích tạo ra một hạm đội thiện chiến trên Biển Baltic. A-90 được cấp cho quân đội vào năm 1979, đến năm 1993, ba chiếc A-90 vẫn hoạt động.




Orlyonok có chở 150 binh lính và hai xe tăng.

Orlyonok có chở 150 binh lính và hai xe tăng. Sau khi Liên bang Xô Viết tan ra, nhà máy chịu trách nhiệm đóng những chiếc Orlyonok đã rơi vào tay tư nhân. Hiện Orlyonok đã đổi tên thành Volga Shipyard, và vẫn được sử dụng như máy bay cứu hộ và tìm kiếm thương mại. Trên thực tế, Orlyonok có thể vừa chở hàng hóa (với trọng lượng 50 tấn trong phạm vi 1.500 km), vừa chở hành khách (khoảng 30 người trong phạm vi 3.000 km).

VVA-14M, thủy phi cơ tầm trung
Thủy phi cơ VVA-14M là bản chuyển đổi từ máy bay VVA-14. VVA-14M có chiều dài 25, 97m, sải cánh 30 m, chiều cao 6,97 m, trọng lượng tối đa 50.000 kg với vận tốc tối đa 760 km mỗi giờ.




VVA-14M được thiết kế với mục đích triệt phá các tàu ngầm tên lửa của Hải quân Mỹ.

VVA-14M là sản phẩm của Robert Bartini, nhà khoa học và thiết kế máy bay người Nga, với mục đích triệt phá các loại tàu ngầm tên lửa Polaris của Hải quân Mỹ. Sau khi Bartini qua đời năm 1974, dự án VVA-14M sụp đổ sau 107 lần cất cánh với tổng số 103 giờ bay. Chiếc VVA-14M số hiệu 19172 duy nhất còn lại hiện đang “an dưỡng” trong bảo tàng Không quân Liên Bang Nga, Monino, Moscow. Thủy phi cơ Lun (Spasatel), “nuốt trọn” quái vật biển KM






M-160 Lun còn lớn hơn cả "quái vật" KM.

Với trọng lượng 280 tấn, chiều dài 74 m, M-160 Lun là một dòng thủy phi cơ khác cũng được ra đời từ công ty thiết kế Alexeev năm 1987 và đi vào hoạt động năm 1989. Sự khổng lồ của M-160 Lun thường được miêu tả bằng hình ảnh có thể "nuốt trọn" quái vật biển KM.


M-160 Lun được trang bị tên lửa siêu âm ZM-80 “Moskit”.
M-160 Lun được trang bị rocket siêu âm ZM-80 “Moskit” vô song, có khả năng làm chìm bất kỳ tàu địch nào. Những chiếc thủy phi cơ M-160 Lun có thể trở thành mối đe dọa lớn đối với NATO nếu như không có sự sụp đổ của Liên Bang Xô Viết. Do thiếu nguồn kinh phí để tiếp tục nghiên cứu nên dự án này đã “lặn mất tăm” trước sự nuối tiếc của nhiều người.

Người Mỹ vào cuộc
Trước sự phát triển như vũ bão của dòng máy bay thủy phi cơ Liên Xô, người Mỹ đã không thể khoanh tay đứng nhìn. Steven Hooker, kỹ sư hàng không, đã quan sát “quái vật biển Caspian” năm 1967 và quyết định thành lập công ty Aerocon, có nhiệm vụ thực hiện giấc mơ chế tạo những chiếc thủy phi cơ lớn gấp 10 lần của Nga nhưng vẫn vượt đại dương một cách nhẹ nhàng.


Mô hình thủy phi cơ mơ ước Atlantis-1 của Mỹ.

Ngoài ra, theo thiết kế, Boeing Ultra Pelican có thể mang tới 1.400 tấn (bằng 17 xe tăng cộng thêm vài trăm binh lính) với quãng đường lên tới 16.000 km. Chiếc thủy phi cơ “khổng lồ” này có độ sải cánh 106 m và dài 152 m, với vận tốc nhanh hơn 10 lần so với những chiếc tàu chở container hiện đại.



Boeing Ultra Pelican có thể mang tới 1.400 tấn.

Loại thủy phi cơ này có thể bay với “hiệu ứng mặt đất” ở độ cao 6 m trên mặt nước biển và cũng có thể hoạt động như một chiếc máy bay bình thường ở độ cao trên 6.000 m. Nếu như không có gì cản trở, giấc mơ “triển khai một sư đoàn trong vòng 5 ngày tới bất kỳ đầu trên thế giới” của Mỹ có thể trở thành hiện thực.


Bảng so sánh về kích thước của các loại thủy phi cơ so với máy bay dân dụng.

Tuy nhiên, giấc mơ thủy phi cơ khổng lồ và dã chiến của Mỹ vẫn chưa thành hiện thực. Dù vậy, các nhà công nghệ vẫn nuôi hy vọng thiết kế được "những cánh chim biển khổng lồ" mở ra một kỷ nguyên mới trong giao thông.

(tổng hợp bdv)

Thứ Bảy, 19 tháng 2, 2011

>> Những vụ thử hạt nhân của Mỹ trong chiến tranh lạnh (kỳ 2)



Thể hiện sức mạnh quân sự áp đảo thông qua những vụ thử hạt nhân "đình đám" là một trong những chiêu bài của các cường quốc.

Ivy Mike
Ivy Mike là mật danh của một vụ thử hạt nhân Mỹ tiến hành ngày 1/11/1952 trên đảo san hô Enewetak, một phần trong chiến dịch Ivy. Đây là thiết bị nhiệt hạch được thử nghiệm đầy đủ đầu tiên theo thiết kế Teller-Ulam (bom nhiệt hạch tầng) và thường được coi là quả bom khinh khí đầu tiên.

Chiến dịch Ivy là những nỗ lực mạnh mẽ được tổng thống Mỹ Harry Truman phát động sau khi Liên Xô chế tạo quả bom nhiệt hạch đầu tiên vào mùa thu 1949, khiến cuộc đua vũ trang trong Chiến tranh lạnh gia tăng.



Với mức giải phóng năng lượng 10,4 Megaton, Mike là quả bom khinh khí đầu tiên được kích nổ thành công.

Quả bom Mike (nhiều người coi nó giống như thiết kế một xưởng chế tạo hơn là một loại vũ khí) có chiều dài 6,9 m; đường kinh 2,03 m và nặng tới 54 tấn với lớp vỏ thép ngoài cùng dày 30 cm.

Vụ nổ đã giải phóng khoảng 10,4-12 Metaton năng lượng, tạo thành quả cầu lửa rộng tới 5,2 km và đám mây hình nấm cao tới 37 km, phá hủy gần như toàn bộ hòn đảo nơi tiến hành vụ thử nghiệm.

Castle Bravo
Castle Bravo là mật danh của vụ thử bom hydro nhiệt hạch nhiên liệu khô đầu tiên, được kích nổ 1/3/1954 tại đảo san hô Bikini, quần đảo Marshall, mở đầu cho chuỗi thử nghiệm của Chiến dịch Castle. Đây là thiết bị hạt nhân mạnh mẽ nhất do Mỹ kích nổ với mức năng lượng đạt tới 15 Megaton, vượt xa mức dự kiến ban đầu là 4-6 Megaton.

Điều này đã vô tình tạo ra sự ô nhiễm phóng xạ lớn nhất tại Mỹ; bụi phóng xạ từ vụ nổ đã khiến những người từng sống ở đảo bị nhiễm độc. Đặc biệt trong số đó là một thuyền đánh cá của Nhật, tạo nên những quan ngại quốc tế về các vụ thử nhiệt hạch trên khí quyển.


Đám mây do vụ thử hạt nhân Bravo trên đảo Bikini, giải phóng mức năng lượng 15 Megaton.

Bravo nặng 10,7 tấn với chiều dài 4,56 m, được kích hoạt trên một hòn đảo nhân tạo xây dựng trên rặng san hô gần đảo Namu, thuộc đảo san hô Bikini. Quả bom sử dụng nhiên liệu lithium deuteride cho tầng nhiệt hạch, không giống như với quả bom Ivy Mike, sử dụng deuterium-tritium lỏng đông lạnh.

Vụ nổ của Bravo đã tạo ra một quả bóng lửa có đường kính 7 km, có thể nhìn thấy từ đảo san hô Kwajalein cách đó 450 km, tạo thành một hố có đường kính 2 km và sâu 75 m.

Chiến dịch Plumbbob
Chiến dịch Plumbbob là chuỗi thử nghiệm hạt nhân do Mỹ tiến hành từ 28/5 đến 7/10/1957 ở bãi thử nghiệm Nevada, tiếp sau chiến dịch Redwing và trước chiến dịch Hardtack 1.

Plumbbob được coi là chuỗi thử lớn nhất, lâu nhất và gây tranh cãi nhiều nhất trên đại lục Mỹ. Nguyên nhân lớn của sự tranh cãi là do chiến dịch đã giải phóng lượng phóng xạ lớn chưa từng có. Phân đội tiến hành vụ thử nghiệm Smoky đã mắc phải chứng bạch cầu do tiếp xúc với lượng phóng xạ.


Ảnh chụp vụ thử Priscilla ngày 24/6/1957 với mức năng lượng giải phóng là 37 kiloton.
Tham gia vào chiến dịch gồm 21 phòng thí nghiệm và cơ quan chính phủ.

Một vụ nổ khác trong chiến dịch Plumbbob là Priscilla, giải phóng 37 Kiloton, xếp thứ 3 trong chuỗi các vụ thử lớn nhất của Plumbboob. 700 con lợn đã được sử dụng trong thí nghiệm để nghiên cứu về tác động phóng xạ. Chúng được đặt trong những chiếc lồng và được mặt những vật liệu khác nhau để kiểm chứng mức bảo vệ đối với phóng xạ.

Operation Ranger
Chiến dịch Ranger là chuỗi thử nghiệm hạt nhân thứ 4 của người Mỹ tiến hành năm 1951. Đây cũng là chuỗi thử nghiệm đầu tiên trên đại lục Mỹ tại bãi thử Nevada.


Bức ảnh chụp vụ thử Fox khi quả bom vừa phát nổ.

Tất cả những quả bom nguyên tử đều cho phát nổ trên không, do các máy bay ném bom B-50 thả xuống. Mục đích chủ yếu của vụ thử là phát triển thế hệ vũ khí hạt nhân thứ hai sử dụng lượng vật liệu hạt nhân ít hơn nhằm tiết kiệm nguyên liệu.

Chính vì thế, 5 vụ thử bao gồm Able, Baker 1 và 2, Easy và Fox đều giải phóng năng lượng rất khiêm tốn, lớn nhất là Fox với 22 Kiloton, thấp nhất là Easy, 1 Kiloton.

(tổng hợp)

Thứ Sáu, 18 tháng 2, 2011

>> Những vụ thử hạt nhân của Mỹ trong chiến tranh lạnh (kỳ 1)



Cùng với cuộc đua vũ trang từ sau Chiến tranh thế giới lần 2, Mỹ là quốc gia đi đầu tiến hành những vụ thử hạt nhân gây chấn động, giải phóng lượng năng lượng khổng lồ.

Castle Romeo

Vụ thử quả bom Castle Romeo nằm trong chuỗi thử nghiệm mang tên chiến dịch Castle của Mỹ. Romeo là tên của loại vũ khí nhiệt hạch TX-17 (lúc đầu mang tên “khả năng khẩn cấp” EC-17).

Được kích nổ ngày 27/3/1954, Romeo đã tạo ra lượng năng lượng vượt xa dự tính ban đầu (khoảng 4 Megaton), lên đến 11 Megaton. Nguyên nhân của sự gia tăng đột ngột là do sự tham gia ngẫu nhiên của đồng vị Lithium-7 trong các phản ứng nhiệt hạch.



Vụ thử của Romeo đã mạnh hơn dự kiến do có sự tham gia phản ứng của đồng vị Lithium-7.
Trở thành quả bom nhiệt hạch thả từ trên không đầu tiên, các nhà khoa học đã chế tạo khoảng 5 quả. Sau khi được tiếp tục phát triển thành Mk 17, 200 quả đã được sản xuất. Những quả bom EC-17 nặng từ 13-15 tấn, thường được các máy bay B-36 chuyên chở.

Hình ảnh từ vụ nổ của Romeo trở thành hình ảnh tiêu biểu cho những vụ nỗ hạt nhân trên những trang sách, bìa tạp chí, thể hiện sự đe dọa của vũ khí hạt nhân với màu đỏ, vàng, cam.

Chiến dịch Dominic 1 và 2
Chiến dịch Dominic là tên của chuỗi thử nghiệm nổ 105 quả bom nguyên tử của Mỹ chỉ riêng trong năm 1962 (từ tháng 4 đến tháng 7). Những vụ thử tiến hành tại Thái Bình Dương thường được gọi là Dominic 1, còn những vụ nổ tại Nevada được biết đến là Domonic 2.

Lý do khiến Mỹ tiến hành liên tiếp các vụ thử là biểu dương sức mạnh trong cuộc chạy đua với Liên Xô, sau khi siêu cường này thử Tsar Bomba và Cuba xảy ra sự kiện Vịnh Con Lợn.


Đám mây màu vàng độc đáo từ đám mây trong vụ thử Housatonic với mức giải phóng cực lớn, 8,3 Megaton.
Hầu hết những vụ thử đều tiến hành nhờ pháo đài bay B-52. Vụ thử lớn nhất là quả bom Housatonic, diễn ra ngày 30/10/1962 trên đảo san hô Johnston, giải phóng năng lượng lên tới 8,3 Megaton.

Chiến dịch Hardtack 1 và 2
Chiến dịch Hardtack 1 và 2 là chuỗi 72 thử nghiệm hạt nhân do Mỹ tiến hành năm 1958. Hardtack 1 được tiến hành chủ yếu trên Thái Bình Dương, hai đảo san hô Bikini và Enewetak, đảo Johnson.

Sự bùng nổ các vụ thử là do áp lực lệnh cấm thử nghiệm sắp diễn ra giữa Mỹ và Liên Xô. Lãnh đạo các phòng thí nghiệm muốn kiểm tra nhiều loại thiết bị, vũ khí hạt nhân nhất có thể, đồng thời trên đà tăng tốc cuộc đua vũ trang những năm 1950.


Ảnh chụp đám mây từ vụ thử Oak tại đảo Enewetak với mức giải phóng năng lượng tới 8,9 Megaton.
Chuỗi Hardtack 2 diễn ra song song với chiến dịch Argus của Mỹ tại Đại Tây Dương vào tháng 9/1958. Nó bao gồm 37 vụ thử, nhiều hơn so với 35 vụ thử của chuỗi Hardtack 1.Hai chuỗi thử nghiệm có sự khác biệt: chuỗi 1 bao gồm cuộc thử nghiệm vũ khí nhiệt hạch được phát triển hoàn chỉnh, sản sinh năng lượng cực lớn, với tổng số năng lượng giải phóng là 35,6 Megaton.

Trong khi đó, chuỗi 2 bao gồm các vụ thử với hiệu năng thấp, thậm chí là bằng 0. Đó là lý do, Hardtack 2 diễn ra an toàn ở Nevada, phần lớn được kích nổ ngầm dưới mặt đất, với tổng năng lượng sinh ra là 45,8 Kiloton.

Vụ thử lớn nhất là Poplar, diễn ra ngày 12/7/1958 tại đảo san hô Bikini, giải phóng 9,3 Metagon, nằm trong chuỗi Hardtack 1.

Chiến dịch Redwing
Chiến dịch Redwing là một chuỗi 17 thử nghiệm hạt nhân khác của Mỹ tiến hành từ tháng 5 - 7/1956. 17 vụ thử đều diễn ra trên hai đảo san hô Bikini và Eniwetok. Redwing diễn ra trước chiến dịch Plumbbob và sau Wigwam.

Mục đích chủ yếu của Redwing là thử nghiệm những thiết bị nhiệt hạch mới thế hệ hai để áp dụng cho vũ khí nhiệt hạch và một vài loại vũ khí chiến thuật nhỏ, sử dụng trong phòng không.


Hình ảnh của vụ thử Apache với mức giải phóng năng lượng 1,85 megaton.
Khác với mức giải phóng năng lượng lớn quá mức so với dự kiến trong chiến dịch Castle năm 1954, trong chiến dịch Redwing, các nhà khoa học đã sử dụng chính sách “ngân quỹ năng lượng”, hạn chế tổng năng lượng giải phóng và được kiểm soát chặt chẽ.

Tên những vụ thử trong chiến dịch Redwing đặt theo tên các bộ lạc người bản địa châu Mỹ. Toàn bộ vụ thử đều được kích nổ trên bầu khí quyển.

Chiến dịch Redwing đánh dấu nhiều mốc “đầu tiên”: Vụ thử Cherokee ngày 20/5 tại đảo san hô Bikini chứng minh thả bom nhiệt hạch thành công đầu tiên của Mỹ. Vụ thử Zuni ngày 27/5 là vụ thử đầu tiên đối với thiết kế nhiệt hạch 3 tầng. Vụ thử lớn nhất trong Redwing là Tewa, diễn ra ngày 20/7 tại đảo Bikini, giải phóng năng lượng 5 Megaton.



(tổng hợp bdv)

Copyright 2012 Tin Tức Quân Sự - Blog tin tức Quân Sự Việt Nam
 
Lên đầu trang
Xuống cuối trang