Báo cáo Ấn Độ cho rằng, TQ là thách thức to lớn đối với ngoại giao, an ninh Ấn Độ. Về chiến lược, cần giữ vững hướng bắc, giành ưu thế hướng Nam… Ngày 29/3, tại New Delhi, Thủ tướng Ấn Độ Singh hội kiến với Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào. Tờ “Liên hợp Buổi sáng” Singapore ngày 30/3 có bài viết nhan đề ““Không liên kết 2.0” Ấn Độ phản đối liên minh với Mỹ chống Trung Quốc”, nội dung như sau: Cách đây không lâu, Ấn Độ đã công bố 1 báo cáo quan trọng, mang tên “Không liên kết 2.0: chính sách ngoại giao và chiến lược của Ấn Độ trong thế kỷ 21”. >> Sắp xảy ra chiến tranh biên giới Ấn Độ - Trung Quốc Từ khi kết thúc Chiến tranh Lạnh đến nay, Ấn Độ vẫn chưa có một báo cáo chính sách ngoại giao và chiến lược toàn diện và sâu sắc như vậy, một nhóm học giả Ấn Độ và Mỹ rất coi trọng vấn đề này, đang sôi nổi thảo luận. Tầm quan trọng của báo cáo này rất rõ: Thứ nhất, mặc dù không phải là một văn kiện của chính phủ, nhưng có bối cảnh về mặt chính quyền rất lớn. Đây là hoạt động tập thể của 8 nhân sĩ uy tín thảo luận thường xuyên dài tới 14 tháng, trong số họ có nguyên Thư ký ngoại giao (quan chức ngoại giao cao nhất Ấn Độ), Thư ký quân sự của Hội đồng An ninh Quốc gia, các học giả nổi tiếng và ưu tú trong giới thương nhân của thế giới, hơn nữa, cố vấn an ninh quốc gia đương nhiệm Menon mặc dù nằm ngoài danh sách, nhưng đôi lúc cũng tham gia các cuộc thảo luận của họ. Hoạt động của họ còn nhận được sự hỗ trợ hành chính của Học viện Quốc phòng Quốc gia Ấn Độ. Ngày 28/2, 3 cố vấn an ninh quốc gia tiền nhiệm và đương nhiệm đều tham dự lễ công bố báo cáo và cùng có bài phát biểu, có thể coi là rầm rộ chưa từng có. Nói cách khác, một phần nội dung của báo cáo rất có thể trở thành chính sách chính thức. Tên lửa đạn đạo xuyên lục địa DF-31A của Lực lượng tên lửa chiến lược Trung Quốc. Thứ hai, báo cáo thực sự có ý tưởng mới. Chỉ riêng tiêu đề “Không liên kết 2.0” đã nói lên được rất nhiều điều. “Không liên kết” có nghĩa là Ấn Độ và Mỹ sẽ duy trì một khoảng cách nhất định; “2. 0” cho biết đây là một phiên bản mới, vừa có liên hệ lại vừa khác với “bản 1. 0” thời kỳ Chiến tranh Lạnh. Ấn Độ và Mỹ đều có không ít học giả bày tỏ thất vọng đối với vấn đề này. Nhưng đối với việc báo cáo đề xuất lấy chiến lược Ấn Độ Dương để ứng phó với thách thức từ Trung Quốc, có đánh giá cho là “giàu sức tưởng tượng”. Thứ ba, báo cáo khá thẳng thắn. Mặc dù là báo cáo ngoại giao, nhưng ít có “ngôn ngữ ngoại giao” dè dặt. Bất kề là kết luận của nó thế nào, tính toàn diện của khuôn khổ báo cáo, tính phản biện đối với các vấn đề quan trọng và tính thẳng thắn đối với những khó khăn trực diện, đã quyết định đây là một tài liệu tham khảo hiếm có nghiên cứu về chính sách ngoại giao và chiến lược quân sự (thậm chí có thể bao gồm công việc nội bộ của Ấn Độ). “Trung Quốc trực tiếp va chạm vào Ấn Độ” Không cần úp mở, đề phòng Trung Quốc là trục chính của báo cáo. Lời nói đầu của báo cáo đã nói thẳng: “Trong tương lai gần, Trung Quốc sẽ tiếp tục là thách thức to lớn của chính sách ngoại giao và an ninh của Ấn Độ. Là 1 nước lớn chủ yếu, Trung Quốc trực tiếp động chạm đến không gian địa-chính trị của Ấn Độ. Cùng với việc tăng cường khả năng kinh tế và quân sự của Trung Quốc, khoảng cách sức mạnh giữa Trung-Ấn sẽ mở rộng”. Máy bay chiến đấu JF-17 của Không quân Pakistan, do Trung Quốc-Pakistan hợp tác sản xuất. Báo cáo thừa nhận rằng vấn đề biên giới Trung-Ấn không thể giải quyết được trong ngắn hạn, nhấn mạnh Trung Quốc chiếm ưu thế về triển khai quân sự và tình hình ở biên giới, vì vậy đề xuất phương châm chung ứng phó chiến lược là: Ở hướng bắc, tuyến một biên giới trên bộ “giữ vững không dao động”; về hướng nam, cần mở rộng ưu thế hải quân ở Ấn Độ Dương. Báo cáo đề xuất, về ngoại giao, một mặt cần tích cực phát triển quan hệ với các nước lớn chủ yếu, “nhằm buộc Trung Quốc phải kiềm chế trong các vấn đề đối với Ấn Độ”; mặt khác, quan hệ nước lớn của Ấn Độ lại không thể đi quá mức, tránh gây ra đối đầu công khai của Trung Quốc đối với Ấn Độ. Đoạn cuối “phần Trung Quốc” của báo cáo dừng lại ở từ “cân bằng”: “Chiến lược đối với Trung Quốc của Ấn Độ phải cân bằng thận trọng, tức là cân bằng giữa hợp tác và cạnh tranh, cân bằng giữa lợi ích kinh tế và lợi ích chính trị, cân bằng song phương và khu vực. Xét thấy tính bất đối xứng về sức mạnh và vai trò ảnh hưởng của hai nước Ấn Độ và Trung Quốc hiện nay và trong tương lai, Ấn Độ phải nắm chắc sự cân bằng này. Điều này có lẽ là thách thức quan trọng nhất của chiến lược Ấn Độ trong tương lai”. Xét một cách công bằng, chính sách Trung Quốc của báo cáo này có sự khác biệt rất lớn với quan điểm của “phái diều hâu” Ấn Độ hiện nay. Nhưng, nhận thức của báo cáo đối với quan hệ Trung-Ấn không toàn diện, mà có phần tiêu cực. Biên đội hộ tống Trung Quốc trên Ấn Độ Dương. Thứ nhất, báo cáo đã hoàn toàn tránh né một phần quan trọng, đó là, với tư cách là hai nước lớn đang phát triển có dân số đông nhất, trong rất nhiều vấn đề quốc tế quan trọng như trật tự tài chính quốc tế, phản đối chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch, biến đổi khí hậu toàn cầu, Trung-Ấn tự nhiều có lợi ích chung và đã thực hiện hợp tác chiến lược quan trọng. Thứ hai, báo cáo nhấn mạnh “Ấn Độ phải coi châu Á là khu vực hàng đầu về cơ hội kinh tế, nhấn mạnh toàn cầu hóa “lợi nhiều hơn hại” đối với Ấn Độ. Bài báo cho rằng, thực ra, có một thực tế cơ bản nhất là "Trung Quốc phát triển nhanh chóng đã là một trong những nguồn gốc chủ yếu của “cơ hội kinh tế châu Á”, phát triển quan hệ kinh tế thương mại với Trung Quốc chính là một khía cạnh quan trọng của toàn cầu hóa kinh tế Ấn Độ". Theo bài báo thì, trên phương diện này, nhận thức của báo cáo rõ ràng lạc hậu với thực tế. Ấn Độ là một nước lớn về phần mềm, nhưng thiết bị máy tính phải mua nhiều từ Thâm Quyến; Ấn Độ thiếu điện nghiêm trọng là “nút cổ chai” lớn nhất trong phát triển kinh tế của họ, mà đó lại là các thiết bị nhiệt điện của Trung Quốc có sức cạnh tranh, chứ không phải là hợp tác điện hạt nhân với các nước phát triển, đang giúp Ấn Độ thoát khỏi hoàn cảnh khó khăn; mặc dù Ấn Độ lo ngại thiết bị của Trung Quốc có thể cài lẫn phần mềm gián điệp, nhưng các doanh nghiệp viễn thông chính của Trung Quốc vẫn thực sự chiếm thị phần tương đối lớn ở Ấn Độ. Tóm lại, thái độ của báo cáo đối với quan hệ kinh tế thương mại Trung-Ấn vốn có thể tích cực hơn một chút. Máy bay chiến đấu đa năng Su-30MKI của Không quân Ấn Độ. Hơn nữa, báo cáo đã đề cập: “Chính sách Tây Tạng của Ấn Độ cần đánh giá và điều chỉnh lại, thuyết phục Trung Quốc tìm cách hòa giải với Dalai Lama và những người Tây Tạng lưu vong có thể giúp giảm quan hệ căng thẳng Ấn-Trung”. Đây là một lĩnh vực rất nhạy cảm, trách nhiệm quan trọng hàng đầu của Chính phủ Ấn Độ là không cho phép người Tây Tạng lưu vong triển khai tại Ấn Độ bất cứ hoạt động chính trị chống Trung Quốc nào. Ngoài ra, khi phân tích về việc khó có thể cải thiện quan hệ với Pakistan, báo cáo cho rằng: “Chúng ta cần coi Pakistan là một phần thách thức lớn từ Trung Quốc”. Có thể nói, đầy là sai lầm có tính thành kiến từ tác giả đối với chính sách Nam Á tổng thể của Trung Quốc. “Mỹ là bạn chứ không phải là đồng minh” Những năm gần đây, “liên minh với Mỹ chống Trung Quốc” hầu như đã trở thành dòng chính của dư luận Ấn Độ, chính ở điểm này, báo cáo có phần lại đi ngược trào lưu. Báo cáo không hề viết sơ lược về vấn đề này: Báo cáo chỉ ra rằng, do đặc điểm bản sắc quốc gia và tính đa dạng về lợi ích của Ấn Độ quyết định, trên thế giới không có nhóm quốc gia “tự nhiên”, kể cả về chính trị, kinh tế hay địa-chính trị, hoàn toàn thích hợp với Ấn Độ. Ở cấp độ toàn cầu, hệ thống liên minh quốc tế của Mỹ bắt đầu trượt dốc rõ rệt. Nếu nói sức mạnh kinh tế và quân sự, hệ thống liên minh quốc tế, vị thế chi phối trong lĩnh vực tài chính và năng lượng từng là 4 trụ cột lớn của Mỹ, thì những trụ cột này hiện đã không ổn định, không đáng tin cậy nữa. Ấn Độ có sức hút đặc biệt đối với Mỹ, bởi vì Ấn Độ chỉ đứng sau nước mới nổi lớn nhất là Trung Quốc, quan hệ với Bắc Kinh lại rất phức tạp. Đối với chính quyền Bush và Obama, giá trị tạo nên của Ấn Độ thường vượt giá trị của bản thân Ấn Độ. Ấn Độ muốn tận dụng giá trị tạo nên này sẽ có rủi ro, một khi quan hệ Trung-Mỹ có chiều hướng tốt lên, quan hệ Ấn-Mỹ sẽ phải trả giá. Hơn nữa, hiện nay còn chưa hoàn toàn rõ ràng, nếu Trung Quốc xâm phạm lợi ích của Ấn Độ, Mỹ cuối cùng sẽ có phản ứng thế nào. Lịch sử chứng minh rằng, hễ nước Mỹ chính thức liên minh thường đều phát hiện thấy quyền tự chủ chiến lược của mình bị tổn hại. Ấn Độ và Mỹ là bạn chứ không phải đồng minh, sẽ phù hợp hơn với lợi ích của mỗi nước. Ấn Độ đặt mua máy bay tuần tra chống tàu ngầm P-8I Poseidon của Mỹ. Do Trung Quốc luôn nghi ngờ Ấn Độ phát triển quan hệ đối tác với các nước khác, đặc biệt sử dụng quan điểm “tổng bằng không” để nhìn mối quan Ấn-Mỹ, Ấn-Nhật được cải thiện, vì vậy, nhìn về lâu dài, cần xử lý rất thận trọng quan hệ ba bước Ấn-Trung-Mỹ. Tác giả cho rằng, đến đây có thể nói, đây chính là cốt lõi của chính sách không liên kết phiên bản mới của Ấn Độ, tức là coi trọng cả Mỹ và Trung Quốc. “Nước lớn về hải quân là mục tiêu của Ấn Độ” Mặc dù Trung Quốc nói rõ là “không hề tồn tại vấn đề Trung Quốc muốn “tấn công Ấn Độ”, “gây sức ép với Ấn Độ””, mặc dù Thủ tướng Ấn Độ tuyên bố tại Quốc hội rằng “Chính phủ không cho rằng Trung Quốc có kế hoạch tấn công Ấn Độ, biên giới Ấn-Trung về tổng thể là hòa bình”, mặc dù Cố vấn An ninh quốc gia tiền nhiệm Ấn Độ Narayanan (cựu Giám đốc Tình báo Ấn Độ) công khai nói rằng “ý nguyện tìm kiếm hòa bình và an ninh của Trung Quốc ở khu vực biên giới là chân thành”, mặc dù báo cáo cũng thừa nhận “biên giới Ấn-Trung nhiều năm qua cơ bản ổn định”, nhưng, trung tâm chính sách quốc phòng của Ấn Độ là sẵn sàng chiến tranh với Trung Quốc. Tàu ngầm hạt nhân Chakra của Ấn Độ, thuê của Nga, đã đi vào hoạt động. Điểm này có thể hiểu được, quân đội bất cứ nước nào đều cần sẵn sàng cho khả năng xấu nhất, chỉ có điều thường không nói rõ mà thôi. “Phần sức mạnh” của báo cáo đã bàn về hai khả năng dùng vũ lực quy mô nhỏ chiếm đóng ở biên giới và phát động tấn công quy mô lớn đối với Ấn Độ, đồng thời đề xuất, cho dù xuất hiện tình huống thế nào, mục tiêu chiến lược của Ấn Độ đều là “khôi phục hiện trạng”. Về khả năng Trung Quốc dùng vũ lực quy mô nhỏ chiếm đóng ở biên giới, báo cáo cho rằng, có khả năng nhất xảy ra ở đoạn còn nhận thức khác nhau đối với Tuyến kiểm soát thực tế. Sách lược ứng phó tốt nhất là “lấy gậy ông đập lưng ông”. Có vài đoạn, Ấn Độ chiếm ưu thế chiến thuật, cần xác định đó là khu vực có thể phát động tấn công hạn chế. Đối với vấn đề này, cần tăng cường xây dựng giao thông và doanh trại. Về khả năng Trung Quốc phát động tấn công quy mô lớn đối với Ấn Độ, báo cáo không chủ trương “ứng phó đối xứng” chính diện (proportionate response), đồng thời bày tỏ nghi ngờ về ý tưởng tăng cường và bố trí “lực lượng tấn công miền núi” phổ biến hiện nay, cho rằng “điều này chỉ có thể tái hiện tất cả những vấn đề mà lực lượng tấn công hiện có của chúng ta phải đối mặt, trong điều kiện địa lý và hậu cần khắc nghiệt”. Tàu sân bay Viraat của Hải quân Ấn Độ. Điều này có thể chỉ những vấn đề mà quân đội Ấn Độ phải đối mặt khi đối đầu với Pakistan ở Siachen Glacier hoặc xảy ra cuộc xung đột Kargil giữa Ấn Độ-Pakistan. Báo cáo đưa ra chiến lược ứng phó: Dùng 3 “khả năng phi đối xứng” lớn (asymmetric capabilities) buộc Quân đội Trung Quốc rút lui. Thứ nhất, tiến hành chiến tranh du kích ở khu vực bị chiếm đóng, đồng thời thâm nhập Tây Tạng cắt đứt tuyến đường giao thông tiếp tế của Trung Quốc. Thứ hai, đẩy nhanh xây dựng giao thông, thông tin, đẩy nhanh tiến trình hợp nhất khu vực biên giới và người dân khu vực này với nội địa Ấn Độ. Thứ ba, dốc sức phát triển hải quân, đảm bảo có khả năng tiến hành kiểm soát đối với Ấn Độ Dương. Đây là cốt lõi của “chiến lược phi đối xứng”. Báo cáo nhấn mạnh, về khả năng trên biển, hiện nay Ấn Độ chiếm ưu thế, nhưng Trung Quốc đuổi kịp rất nhanh. Trung Quốc hiện tập trung sức cho kiểm soát biển Hoàng Hải, eo biển Đài Loan, biển Hoa Đông và biển Đông, tầm quan trọng của Ấn Độ Dương đối với họ chiếm vị trí thứ hai. Tên lửa chống hạm siêu âm Brahmos do Ấn-Nga hợp tác sản xuất. Hành động chiến lược biển của Mỹ, Nhật Bản, Indonesia, Australia và Việt Nam đều có lợi cho việc làm chậm lại việc Trung Quốc điều động lực lượng hải quân đến Ấn Độ Dương. Ấn Độ cần tận dụng cơ hội này tăng cường xây dựng hải quân. Ngoại giao khu vực của Ấn Độ cũng cần phục vụ cho vấn đề này, cần phát triển quan hệ chặt chẽ hơn với các lực lượng “ngăn chặn” nói trên, bao gồm đạt được hiệp định hợp tác an ninh và triển khai diễn tập hải quân định kỳ với những nước này. Phóng viên cho rằng, một khi có sự kiện lớn, Ấn Độ sẽ cắt đứt tuyến đường vận chuyển dầu mỏ của Trung Quốc ở Ấn Độ Dương. Sau khi báo cáo được công bố, nhà phân tích chiến lược nổi tiếng Ấn Độ Raja Mohan có bài viết cho rằng, đây là chiến lược đối với Trung Quốc “giàu sức tưởng tượng”. |
Chủ Nhật, 8 tháng 4, 2012
>> Ấn Độ sẽ dùng chiến tranh du kích nếu chiến tranh Trung - Ấn xảy ra
>> Chống đổ bộ đường biển trong nửa đầu thế kỷ 21
Theo nhật xét của đại đa số các chuyên gia hàng đầu về lĩnh vực quốc phòng an ninh, trong nửa đầu thế kỷ 21, những nguy cơ tiềm ẩn làm mất ổn định sẽ hình thành trên các vùng nước ven bờ biển khoảng từ 200 – 300 km và các quần đảo, hải đảo. Không phải là tình cờ khi Lầu Năm góc quyết định tái cơ cấu các lực lượng vũ trang với nhiệm vụ sẵn sàng vô hiệu hóa mọi nguy cơ mất an ninh quốc gia từ hướng biển. Sự quan trọng trong nhiệm vụ bảo vệ vùng biển và hải đảo của Liên bang Nga không phải là vấn đề phải tranh luận, bởi vì phần lớn biên giới và lợi ích kinh tế của quốc gia chạy dài trên sóng nước của các đại dương.
Từ đại dương đến bờ biển. Nhiệm vụ chống đổ bộ đường biển và những vấn đề cấp thiết yêu cầu đổi mới.
Nếu tính đến những kinh nghiệm chiến trường trong chiến tranh Iraq, vào giai đoạn đầu tiên, khi chính quyền Thổ Nhĩ kỳ không đồng ý cho Mỹ mở đường bay cho máy bay quân Đồng minh trên không phận nước mình, còn Jordan thì không cho Mỹ được sử dụng các sân bay trên lãnh thổ, vì vậy, các chuyên gia chiến lược quân sự Mỹ đã tìm ra giải pháp, đóng những chiếc tầu dạng kho – cầu tầu nổi khổng lồ, có lượng giãn nước từ 62 – 68 nghìn tấn, có chiều dài lên đến 959 – 1011 ft và có khả năng cơ động với tốc độ 24 knots. Đây thật sự là một hòn đảo nhỏ biết bơi, mang trong mình nó kho tàng quân sự và các hầm chứa máy bay cất cánh thẳng đứng. nhưng chiếc tầu vận tải đổ bộ khổng lồ này thay thế các tầu vận tải thông thường phải bốc hàng lên tầu sớm trước thời gian, do các loại tầu vận tải đổ bộ này có rất nhiều khả năng công tác trên biển, rất ít phụ thuộc vào các căn cứ trên bờ biển và có thể đảm bảo năng lực tác chiến của các lực lượng viễn chinh tác chiến xa bờ ổn định và hiệu quả. Đồng thời, Lầu Năm góc cũng đặc biệt quan tâm đến khả năng cơ động tác chiến của các sư đoàn quân viễn chinh, đặt khả năng cơ động viễn chinh đến một quân đoàn lính thủy đánh bộ (150 nghìn sĩ quan và binh sĩ). Sơ đồ lực lượng lính thủy đánh bộ Mỹ trong chiến dịch đổ bộ Wonsan. Chiến tranh Triều Tiên năm 1950 Biên chế lực lượng Liên đoàn viễn chinh hỗn hợp tấn công ESG Liên đoàn viễn chinh hỗn hợp tấn công chủ lực binh chủng hợp thành (ESG) của hải quân Mỹ được triển khai trên biển Thái bình dương, Địa Trung hải và Ấn độ dương. Trong giai đoạn hiện nay người Mỹ có thể tổ chức 12 Liên đội viễn trinh hỗn hợp tấn công chủ lực ESG và 11 Liên đoàn tầu sân bay tấn công. Số lượng các liên đoàn của hạm đội có thể lên đến 37 – 38 dựa trên yêu cầu nhiệm vụ và mục đích biên chế Liên đoàn. Theo tính toán của các chuyên gia quân sự nước ngoài, để vận chuyển vượt biển một tiểu đoàn lính thủy đánh bộ cần khoảng 3-5 tầu đổ bộ và tầu vận tải, một lữ đoàn viễn chính lính thủy đánh bộ cần khoảng 46 tầu đổ bộ và tầu vận tải, trong số đó có từ 3-5 tầu đổ bộ vận tải – cầu tầu đa nhiệm có khả năng mang theo máy bay trực thăng chiến đấu, 4 tầu đổ bộ - cầu tầu, 10 tầu vận tải đổ bộ và 12 tầu vận tải hàng hóa, phương tiện có khả năng đổ bộ. Hiện nay, lực lượng lính thủy đánh bộ của hạm đội trên Đại Tây dương và Thái bình dương có 43 tầu đổ bộ, trong đó có 12 tầu đổ bộ đa nhiệm, 2 kỳ hạm, 11 tầu đổ bộ - cầu tầu có khả năng chuyên chở máy bay trực thăng chiến đấu, 15 tầu vận tải đổ bộ - cầu tầu (đối với tầu đổ bộ đa nhiệm, sức chở là 1700 đến 1870 người, tầu vận tải đổ bộ - cầu tầu có sức chứa là 840 đến 950 binh sĩ và sĩ quan, tàu vận tải đổ bộ có sức chứa là 366 – 500 người, tầu đổ bộ xe tăng có sức chứa 400 binh sĩ và sĩ quan lính thủy đánh bộ. Trung Quốc, với quân số hiện nay khoảng 2,480,000 người, trong giai đoạn sắp tới sẽ giảm biên chế xuống còn 500 000 quân tinh nhuệ, đồng thời tăng cương ứng dụng khoa học công nghệ cho tất cả các quân binh chủng lực lượng vũ trang, đặc biệt là Hải quân. Lực lượng lính thủy đánh bộ của Trung Quốc có 15 tầu đổ bộ hạng nặng chở xe tăng, 24 tầu hàng trung, 13 tầu đổ bộ hạng nhẹ, 44 xuồng đổ bộ và khoảng 10 tầu đổ bộ chạy trên đệm khí. Bản đồ chiến dịch đổ bộ của lính thủy đánh bộ Hồng quân Xô viết trong chiến dịch giải phóng Novorussia tháng 9 năm 1943 Bản đồ lực lượng lính thủy đánh bộ Liên bang Xô viết đổ bộ lên đảo Sumy thuộc quần đảo Kuriin Cũng trong giai đoạn hiện nay, cần phải nhận xét rằng, nước Nga hiện đại không đặt sự quan tâm nhiều lắm đến việc xây dựng đội ngũ chuyên gia chống các chiến dịch đổ bộ và các hoạt động đổ bộ của đối phương. Sẽ thật sự khó khăn để tưởng tượng, khi một sĩ quan mới tốt nghiệp Học viên khoa học quân sự cao cấp có thể tổ chức tiếp nhận, thu thập và xử lý thông tin liên kết phối hợp từ các đơn vị Biên phòng hoặc các đơn vị trinh sát, tuần tiễu ven biển, từ các sư đoàn phòng không, từ cơ quan trinh sát – tình báo hải quân của hạm đội và từ các đơn vị trinh sát của không quân trong một không gian thời gian thực.
Trên bản đồ nào người sĩ quan đó sẽ thể hiện tình huống? Nếu như chúng ta không nhìn trước được tất cả các phương tiện truyền thông, thông tin đa phương tiện hiện nay và tích hợp nó trên bản đồ tác chiến cấp chiến thuật! Đồng thời, phép đo vẽ địa hình và hải hình trên các bản đồ địa hình và hải đồ khác nhau về cơ bản topographic và khó có thể trùng khớp lên nhau.
Điều cơ bản là trong các cơ quan tham mưu của các đơn vị như các trung - lữ - sư đoàn bộ binh cơ giới, các sư đoàn không quân và phòng không, các lực lượng bộ đội biên phòng biển và bờ biển, lực lượng cảnh sát biển, các đơn vị và các hải đoàn của các hạm đội không có những sĩ quan tham mưu, chuyên nghiệp và sâu sắc trong lĩnh vực liên kết phối hợp các đơn vị trong một tổ chức hiệp đồng liên quân cấp chiến dịch - chiến thuật nhằm liên kết phối hợp thu thập thông tin, xử lý thống tin, đồng bộ hóa công tác điều hành tác chiến, thì mọi yêu cầu hoàn thành nhiệm vụ là không thể. Sẽ không thể tin được nếu có một sĩ quan tốt nghiệp Học viện sĩ quan công binh có thể khi chuẩn bị chiến đấu chống đổ bộ (trên biển và hải đảo) có thể đưa những thùng casset thủy lôi tấn công đáy tầu lên một chiếc phà kiểu "tankist” và lắp đặt được số mìn đó lên các bãi cát ngầm của vùng nước nông nhằm chống các tầu đổ bộ đổ quân lên bờ, nêu như người sĩ quan ấy không được học tập dù chỉ là ngắn ngày với một chương trình rút gọn.
Sa bàn diễn tập Lá chắn đồng minh - 2011 Nga - Khazastan Xe thiết giáp lội nước vượt vùng nước cận bờ BTP-70pb cập bờ trong diễn tập Lá chắn đồng minh - 2011 Kinh nghiệm thực tế cho thấy, các sĩ quan và các vị tướng chỉ có thể trở thành chuyên gia tổ chức hiệp đồng tác chiến phòng thủ chống đổ bộ đường biển và hiệp đồng tác chiến đổ bộ đường biển sau 3 -4 năm liên tục tự học và rèn luyện trong môi trường thực tế hoạt động và làm việc, trong các đợt diễn tập thực binh cấp chiến thuật, chiến dịch – chiến thuật và chiến dịch với sự tham gia của các quân chủng như Lục quân, các liên đoàn chiến hạm các binh chủng trong hạm đội của Hải quân, các lực lượng của không quân và lực lượng phòng không quân binh chủng (phòng không chiến trường của hải quân và lục quân), hiệp đồng tác chiến với lực lượng bộ đội biên phòng biển, cảnh sát biển và các lực lượng vũ trang bán vũ trang nội địa khác, bao gồm cả dân quân tự vệ biển.
Trong các đợt diễn tập chỉ huy và tập huấn tham mưu, ngay cả những tướng lĩnh và sĩ quan cao cấp, chỉ huy các quân đoàn, tập đoàn quân hoặc hạm đội, tổ chức điều hành một thế trận hiệp đồng quân binh chủng với khả năng phản ứng tức thời, nhanh chóng theo tình huống chiến trường thời gian thực là bất khả thi. Nhưng chương trình tập huấn chỉ huy, điều hành tác chiến trên bản đồ với các bộ tư lệnh quân binh chủng hoàn toàn không thể thay thế được những chương trình diễn tập đồng bộ hóa tác chiến phòng thủ chống đổ bộ và đổ bộ đường biển có sử dụng binh khí kỹ thuật và binh lực. Sự thiếu hụt giữa lý thuyết với thực hành tác chiến được thấy trong các đơn vị thuộc các quân binh chủng khác nhau, thực hiện nhiệm vụ trên các tuyến phòng thủ bờ biển, trên biển và trên các quần đảo, hải đảo, khi triển khai tổ chức nghiên cứu hiệp đồng tác chiến trong chiến dịch chống đổ bộ đường biển và đồng bộ hóa hoạt động tác chiến binh lực và hỏa lực, phương tiện chiến đấu của quân chủng Không quân, Hải quân, Lục quân, Biên phòng và cảnh sát biển.
Có nghĩa là những hiểu biết về lý luận và thực tiễn liên kết phối hợp, theo lý luận quân sự cần được nghiên cứu trong các học viện và nhà trường quân binh chủng hoàn toàn chưa được đề cập đến trong bất cứ một chương trình nào. Hiểu biết và nắm chắc được tính năng kỹ chiến thuật của hạm đội, của không quân hải quân, của lực lượng không quân, lực lượng biên phòng và lực lượng cảnh sát biển, cơ cấu biên chế tổ chức lực lượng và vũ khí trang bị phương tiện chiến đấu "trên mặt bằng” hiệp đồng tác chiến theo một nhịp độ chung, dưới sự chỉ huy của một nhạc trưởng trong chiến dịch chống đổ bộ trên tất cả các cấp độ của không gian chiến trường hoặc là chiến dịch đổ bộ đường biển của lính thủy đánh bộ phối hợp với lực lượng bộ binh cơ giới, tăng thiết giáp và các cụm pháo binh chiến trường, nếu không có những đợt diễn tập và huấn luyện thực binh với sử dụng binh khí trang bị kỹ thuật, thậm chí bắn đạn thật sẽ hoàn toàn không thực tế và không có tính khả thi.
Một điều tưởng chừng như rất vụn vặt là sự thiếu hiểu biết các thuật ngữ chuyên ngành cũng như ký tín hiệu của lực lượng Hải quân và ngược lại (những thuật ngữ cũng như kí tín hiệu của Lục quân), tạo ra những khó khăn trong công tác hiệp đồng tác chiến, liên kết phối hợp và hỏa lực tập trung từ nhiều hướng, đồng thời cũng gây khó khăn khi các tư lệnh trưởng và các chỉ huy trưởng đơn vị ra quyết tâm chiến đấu và liên kết phối hợp.
Hoặc một ví dụ khác: Trong giai đoạn ngày nay, chúng ta hoàn toàn không hi vọng rằng các loại tầu vận tải có lượng giãn nước khác nhau, hoặc một loại phương tiện vận tải cụ thể nào đó, tầu vận tải quy định theo biên chế động viên công nghiệp hoặc các loại tầu của các lực lượng bán vũ trang hoặc các đơn vị kinh tế…. được sử dụng để vận chuyển lực lượng binh chủng hợp thành của Hải quân trong các chiến dịch đổ bộ hoặc chuyển quân, sẽ được chuẩn bị sẵn sàng trong khoang tầu những bộ gá (theo quy định trước đây của Hội đồng bộ trưởng liên bang Xô viết theo pháp lệnh động viên công nghiệp) để có thể lắp đặt gường hoặc ghế cho lực lượng đổ bộ ngồi cũng như các bộ gá để lắp vũ khí trang thiết bị phục vụ đổ bộ.
Đương nhiên, dù có trong biên chế dự bị động viên và có thể sử dụng ngay tức khắc theo tình huống, nhưng những phương tiện này cũng không thể sử dụng cho đổ bộ hoặc tác chiến phòng thủ biển đảo được. Chúng ta hoàn toàn không thể đưa lên tầu vận tải một container tên lửa X-35 Bal – E nếu hệ thống radar trên tầu vận tải và những trang thiết bị trên tầu không đồng bộ và tương thích với hệ thống điều khiển hỏa lực tên lửa. Thực sự khó khăn khi một chỉ huy trưởng hoặc tư lệnh trưởng quân khu, vùng duyên hải có thể phối hợp với các lực lượng trên không, trên biển và lực lượng phòng thủ bờ biển tổ chức chuẩn một đoàn congvoa quân sự hải hành phục vụ mục đích tiếp cận mục tiêu đang bị uy hiếp trong thời gian chiến thuật cho phép.
Ngoài ra, sẽ rất khó tin rằng Cơ quan tham mưu lực lượng liên quân chủng với chỉ huy trưởng là đại diện của lực lượng Hải quân có thể phân phối quản lý mục tiêu đồng thời điều phối, đồng bộ hóa hỏa lực từ nhiều chiều, nhiều hướng nhằm tăng cường tối đa hỏa lực tiêu diệt mục tiêu giữa lực lượng không quân, các chiến hạm pháo binh – tên lửa của cụm tầu hỏa lực yểm trợ chi viện, tên lửa - pháo binh bảo vệ bờ biển, pháo binh tên lửa chiến trường của lục quân trong một chiến dịch đồng bộ hiệp đồng tác chiến chống đổ bộ đường biển hoặc tổ chức đổ bộ phản công đánh chiếm lại một khu vực duyên hải, một cụm đảo hoặc một đảo bị đánh chiếm bởi lực lượng đổ bộ đường biển của đối phương trong điều kiện hiện nay, khi các hoạt động diễn tập thực tế chỉ được thực hiện trên bản đồ với sự giới hạn của các cơ quan tham mưu các đơn vị quân binh chủng khác nhau nhưng khá đồng thuận trong báo cáo thành tích đạt được.
Chiến dịch đổ bộ (chống đổ bộ) được tiến hành theo nguyên tắc hiệp đồng tác chiến là nỗ lực của các đơn vị binh chủng hợp thành của Lục quân và Hải quân phối kết hợp chặt chẽ với các đơn vị và phân đội chiến đấu của lực lượng Không quân và lực lượng Phòng không các cấp. Trong giai đoạn đánh chặn đòn tấn công đổ bộ của đối phương là lực lượng bộ binh, lính thủy đánh bộ tại chỗ kết hợp với lực lượng Biên phòng, lực lượng cảnh sát biển và bao gồm cả lực lượng dân quân tự vệ biển. Phụ thuộc vào không gian chiến trường và quy mô của chiến dịch đổ bộ, thứ tự quy trình tiến hành chiến dịch bao gồm có : lên kế hoạch tác chiến, đưa lực lượng đổ bộ lên các tầu đổ bộ và tầu vận tải, cơ động vượt biển, có thể diễn tập thử đổ bộ khi có điều kiện, đổ bộ đường biển và tác chiến trên bờ biển. Tương tự như vậy, chiến dịch chống đổ bộ đường biển cũng diễn ra với trình tự: phát hiện mục tiêu lực lượng đổ bộ, lên kế hoạch phòng thủ bờ biển, triển khai lực lượng đánh chặn ngăn không cho địch phát triển, triển khai lực lượng bao vây chia cắt, đánh chặn đường lực lượng tiếp viện và yểm trợ hỏa lực, tập trung lực lượng tiêu diệt địch trên bờ và đánh tiêu diệt lực lượng hải quân đối phương trên vùng biển xâm nhập. Để tiến hành các chiến dịch đổ bộ đường biển, nước Nga chưa đủ số lượng các tầu đặc chủng dành cho đổ bộ đường biển và các tầu vận tải chuyên dụng. Theo thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng, cho đến nay, Liên bang Nga có khoảng 32 tầu đổ bộ. Nhưng cũng cần nhớ rằng , sự thiếu hụt các phương tiện đổ bộ đặc chủng cũng không làm cho Liên bang Xô viết gặp khó khăn khi tiến hành chiến dịch "Anadyr” vào năm 1961 giai đoạn từ 12 tháng 7 đến 22 tháng 10 thực hiện chuyến đổ bộ liên lục địa đưa cụm lực lượng liên quân đổ bộ lên Cuba với đầy đủ vũ khí trang bị trên các tầu vận tải dân sự. Cũng có những ví dụ khác: sư đoàn bộ binh cơ giới số 33 từ quân khu Danhevostoc, tác giả đã phục vụ trong sư đoàn vào năm 1979 đã tổ chức và thực hiện thành công cuộc đổ bộ trên các tầu vận tải của công ty vận tải biển Danhevostoc vào vịnh Olga thuộc vùng duyên hải Primorski. Tính toán các vấn đề có thể phát sinh trong nhiệm vụ đổ bộ và chống đổ bộ đối với chỉ huy trưởng đơn vị binh chủng hợp thành, cũng như tư lệnh trưởng Hạm đội Thái bình dương trong tiến trình lên kế hoạch đổ bộ, thực tế chuyển binh lực xuống tầu, hành quân vượt biển dưới sự uy hiếp và hỏa lực nhiều chiều, nhiều hướng của đối phương trong điều kiện tác chiến hiện đại và đổ bộ lực lượng bộ binh cơ giới trong các chương trình diễn tập bắn đạn thật, cho thấy có cơ sở lý luận và thực tiễn để thay đổi quan điểm về đào tạo, huấn luyện các chuyên viên - sĩ quan về các hình thức tác chiến đổ bộ đường biển và chống đổ bộ đường biển trong lực lượng lục quân và hải quân. Vấn đề đầu tiên và cũng là quan trọng nhất- tổ chức điều hành các cơ quan tham mưu tác chiến và các đơn vị quân binh chủng hợp thành, các phân đội thuộc quân binh chủng khác nhau trong chiến đầu. Vấn đề thứ hai – lập kế hoạch tổ hợp hỏa lực từ các phương tiện hỏa lực tiêu diệt mục tiêu trong các cấp độ của chiến dịch đổ bộ đường biển (tương tự như vậy đối với các cấp độ của chiến dịch chống đổ bộ đường biển). Thực tế các hoạt động trong diễn tập cho thấy rằng, chưa có căn cứ cho rằng các vấn đề đặt ra đã được giải quyết triệt để trong gian đoạn ngày nay. Hiệp đồng tác chiến giữa lực lượng Lục quân và Hạm đội được thực hiện chỉ trên lý thuyết. Các sĩ quan chỉ huy từ cấp trung đội đến cấp quân đoàn không nắm chắc được tính năng kỹ chiến thuật và năng lực tác chiến của lực lượng tác chiến liên kết phối hợp trong hoạt động tác chiến cụ thể. Chưa có được sự đồng bộ hóa và nhất thể hóa liên kết truyền thông giữa các lực lượng Hải quân, Không quân, Lục quân, sự thiếu hụt hệ thống nhận biết địch ta duy nhất tạo ra những vấn đề khó khăn nghiêm trọng cho công tác tổ chức hỏa lực tập trung tiêu diệt mục tiêu. Những thông tin trinh sát thu được từ hệ thống vệ tinh trinh sát và máy bay trinh sát các độ cao do thiếu hụt các trạm thu phát tín hiệu thông tin liên lạc trực tiếp trong các đơn vị của Lục quân và một số đơn vị ngay cả của Hải quân, của Biên phòng dẫn đến thông tin tiếp cận các đơn vị trực tiếp chiến đấu chậm đến hàng giờ và hàng ngày. Hệ thống radar trinh sát, cảnh báo sớm và theo dõi mục tiêu thông thường chỉ hoạt động cho những mục đích và phục vụ yêu cầu nhiệm vụ chủ yếu của Không quân và Phòng không, không có khả năng chuyển tải thông tin đến các đơn vị trực tiếp chiến đấu của Lục quân, Hải quân, Bộ đội biên phòng, Cảnh sát biển và tất nhiên, đến các đơn vị an ninh nội địa và dân quân tự vệ. Trong giai đoạn hiện nay, song hành cùng với bản đồ địa hình thông thường là bản đồ kỹ thuật số với rất nhiều các tính năng hiện đại, vượt trội, nhưng cả bản đồ địa hình, bản đồ vùng biển thông thường cũng như kỹ thuật số vẫn không tương thích và phù hợp lẫn nhau (trong khu vực tập kết lực lượng, đưa lực lượng đổ bộ lên tầu hoặc khu vực tiến hành chiến dịch đổ bộ) gây khó khăn cho công tác lên kế hoạch đổ bộ và điều hành chiến dịch. Trong lực lượng lính thủy đánh bộ, sự không đồng nhất các loại tầu đổ bộ làm tăng thêm thời gian đưa binh lực và vũ khí trang bị, phương tiện chiến đấu lên tầu. Những khó khăn đó xuất hiện trực tiếp trong nội dung tính toán kế hoạch đưa binh lực xuống các phương tiện vận tải thông thường, được điều động và chuẩn bị bởi các sĩ quan hậu cần, kỹ thuật của các sư đoàn và quân đoàn, do những bài giảng và huấn luyện về cơ động trên các phương tiện đổ bộ đường thủy thông thường hoàn toàn không được đưa vào chương trình trong các trường sĩ quan và học viện lục quân. Trong các cơ quan tham mưu của các đơn vị chiến đấu hầu như không thừa ra đội ngũ sĩ quan tham mưu – tác chiến chuyên nghiệp trong lĩnh vực tổ chức đồng bộ hóa liên kết phối hợp, hiệp đồng chiến đấu giữa các cụm đơn vị tham gia chiến dịch (ngay cả trong biên chế tổ chức của các tập đoàn quân binh chủng hợp thành, hoặc các liên đoàn chiến hạm binh chủng hợp thành của hải quân và hạm đội) chính vì vậy, công tác liên kết phối hợp, hiệp đồng tác chiến quân chủng thường được giao cho một sĩ quan bất kỳ. Nhưng vấn đề nghiêm trọng đó cũng xuất hiện đối với các đơn vị binh chủng hợp thành, các phân đội phòng thủ biển đảo và bờ biển. Phòng thủ và Phản công chống lại lực lượng đổ bộ đường biển đối phương (thông thường được chuẩn bị kỹ lưỡng và có thời gian huấn luyện, diễn tập thực binh, có vũ khí trang bị, phương tiện tác chiến mạnh và hỏa lực tập trung nhiều hướng, nhiều chiều đã được chuẩn bị kỹ lưỡng trong hiệp đồng quân binh chủng) được coi là một trong những nhiệm vụ vô cùng khó khăn và phức tạp từ nhiều góc độ khác nhau. Ví dụ các đơn vị binh chủng hợp thành được giao nhiệm vụ xây dựng tuyến phòng thủ nhiều tầng, nhiều lớp trong điều kiện thời binh, khu vực phòng thủ theo chiều dài và tầm xa tác chiến về hướng biển vô cùng phức tạp ngay cả trong trường hợp phòng thủ, không nói về khó khăn gặp phải khi ngăn chặn đối phương đổ bộ bám bờ. Hoàn toàn không có gì bí mật, vài trăm km bãi cát rộng ven biển hoặc đồi núi thấp – rừng cây ven bờ biển của vùng Viễn Đông, theo chỉ lệnh của Bộ quốc phòng và mệnh lệnh cấp quân khu trước đây, trên thực tế, hoàn toàn không thể che chắn được bằng hỏa lực của đơn vị được giao, chưa nói đến khả năng phòng thủ.
Đối với những hòn đảo hoặc quần đảo, điều đó càng thực sự khó khăn do hỏa lực đi cùng của các phương tiện phòng thủ không đủ để kiểm soát toàn bộ, hệ thống phòng thủ hoàn toàn nằm phơi trong tầm hỏa lực của vũ khí chính xác, khả năng tràn ngập của lực lượng đổ bộ đối phương hầu như không có phương án nào khả thi ngăn chặn được trong thời gian ngắn dưới sức ép hỏa lực tập trung của không quân hải quân đối phương, pháo hạm, pháo phản lực và tên lửa hải – đất liền. Kinh nghiệm các cuộc diễn tập cho thấy, các đơn vị binh chủng hợp thành của lục quân chỉ có thể phòng thủ ở nhưng khu vực xung yếu, có khả năng đổ bộ cao nhất của đối phương, các khu vực còn lại dọc bờ biển hầu như không có lực lượng đủ mạnh và hỏa lực đủ mạnh để ngăn chặn, tình huống trên cũng được đặt ra với những hải đảo, quần đảo, một số khu vực còn không có cả các đài quan sát, trinh sát radar hoặc các trạm quan sát bằng mắt thường. Tất nhiên, trong những điều kiện đó, khả năng có một tuyến phòng thủ biển đảo tin cậy và hiệu quả không thể đặt ra với bờ biển, hải đảo và quần đảo Liên bang. Hy vọng vào khả năng có được sự yểm trợ tích cực từ nhiều hướng trên không, trên biển, hỏa lực tên lửa - pháo bờ biển và pháo binh chiến trường là không thực tế.
Chính vì vậy, nếu tính đên số lượng không đáng kể lực lượng các đơn vị phòng thủ bờ biển và hải đảo trong khu vực Viễn Đông và các đảo nhỏ, những vấn đề khá nghiêm trọng đã nêu trên sẽ phải có giải pháp về công nghệ. Đó là hệ thống quản lý chiến trường ( Chỉ huy điều hành, kiểm soát, truyền thông, công nghệ thông tin, trinh sát cảnh báo sớm và hệ thống quản lý thông tin) dựa trên nền tảng của công nghệ thông tin, truyền thông kỹ thuật số đa phương tiện và hệ thống cảnh báo sớm đa nguồn tin, đa chức năng là điều kiện cấp thiết ngày nay. Song hành cùng với hệ thống điều hành tác chiến, yêu cầu cần có các trang thiết bị tự động hóa (thiết bị canh gác và cảnh báo sớm, máy bay trinh sát không người lái, hệ thồng trinh sát trên các phương tiện dân sự, đồng bộ với hiện đại hóa về công nghệ thông tin, trinh sát, chỉ thị mục tiêu cho lực lượng dân quân, tự vệ biển.
Từ những tổng kết khách quan thực tế về nhiệm vụ phòng thủ bờ biển và hải đảo. Những việc cấp thiết phải làm ngay: Thứ nhất là quyết định của Bộ trưởng bộ quốc phòng là chuẩn hóa, đồng bộ hóa cơ sở bản đồ địa hình vùng ven biển, lãnh hải và thềm lục địa, hệ thống bản đồ này là cơ sở đầu tiên cho nội dung công tác hiệp đồng quân binh chủng giữa các đơn vị lục quân phòng thủ bờ biển, các đơn vị lính thủy đánh bộ, các đơn vị hỏa lực của hạm đội và binh chủng pháo binh, tên lửa chiến trường trên cả công nghệ in ấn thông thường topographic và bản đồ kỹ thuật số digital. Chuẩn hóa hệ thống ký tín hiệu, nhận dạng mục tiêu và phân biệt địch ta trên cơ sở ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông đa phương tiện cho tất cả các lực lượng tham gia bảo vệ bờ biển và hải đảo: Lục quân, không quân, hải quân, bộ đội biên phòng, cảnh sát biển và lực lượng dân quân tự vệ biển đảo.
Thứ ba, trong điều kiện hiện nay, thực hiện đồng bộ hóa trên nền tảng kỹ thuật số quản lý chiến trường, việc cơ cấu biên chế lại các cơ quan tham mưu cấp đơn vị binh chủng hợp thành sẽ gặp nhiều khó khăn, nhưng sẽ là không thừa nều biên chế một sĩ quan tham mưu được huấn luyện và chuẩn bị tốt, thực hiện thuần thục, nhuần nhuyễn nhiệm vụ hiệp đồng tác chiến với các lực lượng quân chủng khác trên hướng biển. Thứ tư là thực tế chiến tranh tương lai gần cho thấy, cần phải có một chương trình đầy đủ nhằm đào tạo và huấn luyện các sĩ quan – chuyên gia chuyên sâu trong lĩnh vực đổ bộ đường biển và chống đổ bộ không – biển.
Những biến động phức tạp của quan hệ kinh tê – chính trị - quân sự hải dương không có điều kiện cho bất cứ một thời gian nghiên cứu và thử nghiệm. Mọi hành động chuẩn bị cho thực tế xung đột và chiến tranh giới hạn trong khu vực nhằm bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia, dân tộc sẽ phản ánh mạnh mẽ trên tình hình địa chính trị khu vực lợi ích. Sẽ không có thời gian cho những bài học kinh nghiệm chiến trường. Những bài học phải được rút ra ngay từ tình hình thực tế chuẩn bị của các cường quốc biển và những hoạt động thực tế sẵn sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang Liên bang trên biển và hải đảo. Đồng bộ hóa công tác quản lý chiến trường biển đảo và nâng cao năng lực hiệp đồng tác chiến của các Quân chủng và lực lượng vũ trang, đó là nhiệm vụ khẩn cấp mà Hội đồng quốc phòng, Bộ quốc phòng liên bang với các quân chủng, các lực lượng vũ trang phải thực hiện hôm nay. "Phà" Tankist thuốc hạm đội Biển Caspia ngày 18.11.42 bị nổ khi vận chuyển thuốc nổ, thùng thuốc nổ đã phá hủy toàn bộ con phá và 6 chiến sĩ hy sinh. (Anatoly Tsyganok. Giám đốc Trung tâm dự báo quân sự, thạc sĩ Khoa học quân sự) (Theo nguồn tech.edu) |
Thứ Bảy, 7 tháng 4, 2012
>> Chỉ vì Iran mà Israel bị cả thế giới ghét ?
Theo đuổi chiến lược ngăn chặn hạt nhân, Israel không ngừng kêu gọi tấn công Iran để ngăn nước này sở hữu vũ khí hạt nhân, đe dọa sự tồn vong của Nhà nước Do thái. Tuy nhiên, đã đến lúc Israel phải nghĩ đến chuyện sống chung với một nhà nước hạt nhân Iran. >> Israel có tấn công Iran? >> Các kịch bản xung đột Iran-Israel (kỳ 1) >> Chiến tranh Iran - Israel gần kề? >> Nếu Israel tấn công Iran: Khó đến mức nào? Tư duy mâu thuẫn Những năm 1960, Israel chủ trương phát triển khả năng hạt nhân với mục đích cuối cùng là đảm bảo an ninh. Trong trường hợp sự tồn vong của đất nước bị đe dọa, vũ khí hạt nhân sẽ là lựa chọn cuối cùng để Israel chống lại kẻ thù. Chiến lược này được gọi là “Lựa chọn Samson" – chiến lược răn đe bất cứ quốc gia nào có ý định tấn công đe dọa đến sự tồn vong của Nhà nước Do thái sẽ lãnh hậu quả là sự đáp trả quyết liệt bằng tên lửa, hạt nhân từ phía Israel. "Lựa chọn Samson" được đặt theo tên một anh hùng trong kinh thánh của người Do thái, chấp nhận chết chung với kẻ thù bằng hành động giật sập ngôi đền Philistine. Tuy nhiên, cũng trong thời gian này, người Israel bị chi phối bởi niềm tin rằng bất cứ đối thủ nào của họ phát triển vũ khí hạt nhân cũng đều là mối đe dọa đối với sự tồn vong của Nhà nước Do thái và do đó, phải bị ngăn chặn bằng mọi giá. Niềm tin này là cơ sở để hình thành Học thuyết Begin với phát súng mở màn là sự kiện Thủ tướng Israel Menachem Begin quyết dùng vũ lực để ngăn chặn chương trình hạt nhân của Iraq năm 1981. Israel cho rằng bất cứ đối thủ nào của họ chủ trương phát triển vũ khí hạt nhân đều là mối đe dọa đến sự tồn vong của Nhà nước Do thái nên phải bị ngăn chặn bằng mọi giá. Ảnh minh họa: bikyamasr. Song một nghịch lý là: "Lựa chọn Samson” chủ trương tìm kiếm và phát triển các lợi thế tiềm năng cơ bản cho Israel để răn đe các kẻ thù sở hữu vũ khí hạt nhân của họ. Trong khi đó, Học thuyết Begin lại chủ trương ngăn chặn bất cứ tham vọng phát triển vũ khí hạt nhân nào từ các đối thủ của họ. Cuộc tranh luận mãi vẫn chưa có hồi kết về chương trình hạt nhân của Iran rõ ràng đã làm lộ ra những mâu thuẫn trong tư duy chiến lược của Israel. Có vẻ như, Học thuyết Begin xuất phát từ việc Israel không tin tưởng vào khả năng ngăn chặn hạt nhân của họ. Mặc dù “Lựa chọn Samson” của Israel ủng hộ cho Học thuyết Hủy diệt lẫn nhau (MAD) để ngăn chặn chiến tranh hạt nhân giữa các quốc gia, giới lãnh đạo Israel ngày nay lại không tin vào chiến lược này. Họ cho rằng, việc để yên cho kẻ thù phát triển các khả năng hạt nhân chính là hành động “nối dáo cho giặc”, đẩy Israel vào tình thế nguy hiểm. Cảm giác bất an, nỗi sợ hãi bị tấn công – kết quả của giả định rằng Nhà nước Do thái luôn phải chống chọi với các mối đe dọa sinh tồn – trở thành lý do để Israel tìm kiếm sự bảo đảm an ninh tuyệt đối. Cốt lõi trong chiến lược của người Israel chính là khái niệm rằng họ chỉ có thể tồn tại trong trường hợp họ giành được ưu thế vượt trội hơn kẻ thù về mặt quân sự. Do đó, Israel luôn muốn giữ thế độc quyền hạt nhân trong khu vực. Điều này giải thích tại sao Israel tiến hành các cuộc không kích vào các cơ sở hạt nhân bí mật của Iraq năm 1981 và vào Syria năm 2007 nhằm bảo đảm thế độc quyền về khả năng hạt nhân của họ. Trong khi chương trình hạt nhân là một chiến lược để tìm kiếm sự bảo đảm cuối cùng cho kịch bản ngày tận thế trong trường hợp tất cả kẻ thù liên minh lại với nhau và dốc toàn lực tấn công, đe dọa hủy diệt Nhà nước Do thái thì những đối thủ truyền thống của Israel lại chẳng màng đến chiến lược ngăn chặn hạt nhân của nước này. Bằng chứng là, chiến lược ngăn chặn hạt nhân của Israel không ngăn được việc Syria và Ai Cập tấn công xâm lược Israel năm 1973 và việc Iraq phóng tên lửa vào lãnh thổ nước này năm 1991. Ngoài ra, một bằng chứng dễ thấy nhất chính là tình trạng bạo lực leo thang liên tục ở dải Gaza dẫn đến việc Israel phải hứng chịu các trận mưa rocket do các nhóm vũ trang Hezbollah hoặc Hamas tiến hành nhằm vào các khu dân cư đông đúc của Nhà nước Do thái trong suốt thập kỷ qua. Đáng nói là, các nhóm vũ trang này tấn công chống lại Israel bất chấp việc nước này luôn là lực lượng chiếm ưu thế trên chiến trường. Theo sử gia Avner Cohen, chương trình hạt nhân của Israel đã được khởi động mà không có những phân tích cẩn thận về các mục tiêu chiến lược lâu dài, cách thức áp dụng và các vấn đề liên quan khác đến khả năng răn đe của nó. Càng cố chống Iran, Irael càng bị chán ghét Thực tế là, ngày nay, phần lớn chiến lược gia của Israel theo đuổi Học thuyết Begin: ngăn chặn các đối thủ sở hữu vũ khí hạt nhân bằng mọi giá. Tuy nhiên, việc kích động một cuộc chiến chống lại Cộng hòa Hồi giáo nhằm ngăn chặn nước này sở hữu vũ khí hạt nhân chứng tỏ rằng Israel nghi ngờ khả năng ngăn chặn một nhà nước hạt nhân Iran theo như chiến lược hạt nhân của họ. Nói cách khác, họ không có đủ niềm tin vào chiến lược ngăn chặn hạt nhân - “Chọn lựa Samson” dựa trên Học thuyết hủy diệt lẫn nhau (MAD) bằng tên lửa, hạt nhân. Không ít người mù quáng cho rằng giới lãnh đạo Iran - bị thúc đẩy bởi hệ tư tưởng tôn giáo cứu thế sai lầm – sẽ sử dụng vũ khí hạt nhân để tiêu diệt Israel, bất kể cái giá phải trả là gì. Những người khác thì lại lập luận thậm chí, trong trường hợp các nhà hoạch định chính sách Iran là những người có lý trí, thì thế giới quan bí ẩn cộng với quan hệ lạnh nhạt với Israel có thể sẽ khiến Tehran, vì một hiểu nhầm nào đó mà có thể khởi động cho sự leo thang hạt nhân mang lại những hậu quả khôn lường. Một lập luận phổ biến khác chống lại MAD xuất phát từ quan ngại Iran sở hữu vũ khí hạt nhân sẽ dẫn đến sự phổ biến loại vũ khí hủy diệt trên khắp Trung Đông. Đáng bận tâm là, giới lãnh đạo Israel ngày nay cũng không ủng hộ MAD – cốt lõi của chiến lược “Chọn lựa Samson” của họ. Giới chức Israel cho rằng, để yên cho kẻ thù phát triển các khả năng hạt nhân chính là hành động “nối dáo cho giặc”, đẩy Israel vào thế nguy hiểm. Giới lãnh đạo Israel cho rằng để yên cho kẻ thù phát triển vũ khí hạt nhân là hành động "nối giáo cho giặc". Ảnh minh họa: news4u. Điều này giải thích tại sao Israel tiến hành các cuộc không kích vào các cơ sở hạt nhân bí mật của Iraq năm 1981 và vào Syria năm 2007 nhằm để đảm bảo thế độc quyền về khả năng hạt nhân của họ. Tuy nhiên, hành động kích động cho một cuộc chiến chống lại Iran hiện nay của Israel cũng tiềm ẩn rất nhiều rủi ro và chỉ khiến hình ảnh của Nhà nước Do thái trong mắt cộng đồng quốc tế ngày càng xấu xí đi. Thậm chí, nó kích động tình cảm chống Nhà nước Do thái phổ biến rộng rãi hơn trên phạm vi thế giới. Nicky Larkin, một nhà làm phim người Ireland nhấn mạnh: “Chống Israel được coi là một phần bản sắc Ireland của chúng tôi, giống như việc chúng tôi ghét người Anh vậy”. Thêm vào đó, cách đây không lâu, tờ Economist chạy bài xã luận tiêu đề “Nỗi ám ảnh Auschwitz”, cáo buộc căng thẳng và bất ổn ở Trung Đông mãi không dứt chính là do nỗi sợ hãi bị tấn công mù quáng của người Israel - sinh ra từ sau vụ tàn sát người Do thái thời Đức Quốc xã. Vì sợ hãi, Israel bị ám ảnh về một bóng ma hạt nhân Iran, do đó, biến Iran thành kẻ thù số 1 của họ. Bài xã luận “Nỗi ám ảnh Auschwitz” nhấn mạnh rằng “người Israel về mặt tâm lý đã chuyển căn nguyên gây ra nỗi lo sợ của họ vào một đối tượng không mấy liên quan: Iran”. Nhưng trong khi một cuộc tấn công Iran sẽ khiến Israel đối mặt với không ít rủi ro, đe dọa đến sự tồn vong của họ, thì thực tế, chính phủ nước này còn phải đối mặt với câu hỏi quan trọng khác. Đó là liệu theo đuổi một cuộc tấn công nhằm vào Cộng hòa Hồi giáo có thể chấm dứt khát vọng sở hữu vũ khí hạt nhân của họ hay không. Đây là câu hỏi mà Nhà nước Do thái cần phải trả lời trước khi đưa ra bất cứ hành động liều lĩnh nào. Đã đến lúc, Israel cần cân nhắc một cách nghiêm túc về việc sẽ tiếp tục ngăn chặn một nhà nước hạt nhân Iran hay sống chung với họ. Rõ ràng, nếu Học thuyết Begin thất bại, không còn cách nào khác Israel sẽ phải tính chuyện làm thế nào để sống chung với một nhà nước hạt nhân Iran. Israel thề sẽ ngăn chặn Cộng hòa Hồi giáo đạt được giấc mơ hạt nhân nhưng có vẻ như họ lại chưa chuẩn bị cho những gì sẽ xảy ra nếu họ thất bại để đạt được mục tiêu này. Cho đến nay, các nhà hoạch định chính sách của Israel vẫn tránh thảo luận công khai để tìm ra chiến lược chung sống với một nhà nước hạt nhân Iran. Lý do là, họ sợ bàn về vấn đề này sẽ tác động tiêu cực đến chiến lược ngăn chặn hạt nhân của họ và gây ra sự lầm tưởng rằng họ chấp thuận để Iran sở hữu vũ khí hạt nhân. Tuy nhiên, thực tế là, các cuộc tranh luận công khai về vấn đề này có khả năng sẽ làm tăng nhận thức và hiểu biết về việc làm thế nào để Israel có thể thực thi chiến lược ngăn chặn hạt nhân của họ hiệu quả nhất và để tránh bất cứ sự leo thang nguy hiểm nào liên quan đến vấn đề này. Đồng thời, nó giúp điều chỉnh, xóa bỏ các mâu thuẫn trong chiến lược hạt nhân của nước này. |
>> Tìm hiểu tổ hợp radar VERA-E
Trong cuộc chiến tranh Nam Tư, Tamara (thế hệ trước của VERA) đã góp phần phát hiện và bắn rơi F-117 khiến Mỹ sửng sốt.
Theo nguồn tin từ Bộ Quốc phòng Cộng hòa Séc (CH Séc), trong chuyến thăm vừa qua tới Việt Nam của Bộ trưởng Quốc phòng Vondra, hai bên đã thảo luận về việc cung cấp một số hệ thống giám sát thụ động tiên tiến VERA-E.
>> Việt Nam sắp mua radar VERA mà Trung Quốc mơ ước Hệ thống radar thụ động VERA (CH Séc gọi là Věra) hay gọi chính xác hơn là hệ thống giám sát thụ động (PSS) VERA do Công ty kỹ thuật ERA của Cộng hòa Séc chế tạo. Hệ thống cho phép đo đạc sự chênh lệch thời gian (TDOA) của các xung điện từ do mục tiêu phát ra tới bốn trạm cảm biến trên mặt đất để phát hiện và theo dõi những vật thể phát xạ trên không, trên biển và cả trên đất liền. Qua đó tính toán, xác định tọa độ của mục tiêu về cả khoảng cách, góc phương vị, độ cao để liên kết với các hệ thống điều khiển hỏa lực tên lửa tiến hành tiêu diệt mục tiêu, kể cả tất cả các loại máy bay tàng hình tiên tiến như B-2, F-117 và thậm chí F-22, F-35, chứ đừng nói gì tới J-20. VERA hoạt động như một nguồn thu thập các thông tin độc lập về mọi động thái, hoạt động, sự di chuyển của tất cả các mục tiêu trên không, trên biển và trên đất liền để có thể thực hiện nhiệm vụ giám sát và hỗ trợ cho các hệ thống radar của Trung tâm Giám sát Không phận Cộng hòa Séc. Đài trinh sát thụ động của hệ thống VERA S/M. Sự ra đời của nó đã góp phần cải thiện hiệu quả, hỗ trợ hoạt động của các hệ thống giám sát thụ động trước đó như hệ thống Tamara và Tacan mà CH Séc đang sử dụng. Các cuộc thử nghiệm chứng minh rằng, hệ thống VERA (bản nội địa) có khả năng hoạt động với tầm xa từ 400 - 500 km. Phần mềm hệ thống hiện nay có khả năng tự động và theo dõi đồng thời lên tới 300 máy bay/mục tiêu khác nhau trong thời gian thực. Người Séc khẳng định VERA có thể phát hiện máy bay tàng hình B-2 của Mỹ từ cự li rất xa, khoảng 250km. Lịch sử phát triển Hệ thống VERA ngày nay được bắt nguồn từ là hệ thống giám sát thụ động PRP-1 Kopáč, PSS đầu tiên được phát triển cho quân đội Liên Xô từ năm 1963, có thể theo dõi 6 mục tiêu khác nhau. Nối tiếp sau đó là hệ thống KRTP-81 Ramona (NATO gọi là Soft Ball) được phát triển vào năm 1979, có thể phát hiện và theo dõi đồng thời 20 mục tiêu. Năm 1987, hệ thống được phát triển lên thành KRTP-86 Tamara (định danh NATO là Trash Can), có thể phát hiện 23 mục tiêu radar và 48 mục tiêu IFF (nhận dạng bạn thù). Khi đó, Cộng hòa Séc nằm trong khối XHCN ở Đông Âu nên các hệ thống giám sát thụ động trên đều được xuất khẩu rộng rãi trong khối. Sau biến cố chính trị năm 1989, các kỹ sư và quan chức lãnh đạo của Tesla đã thành lập công ty mới là Era ở Pardubice, chuyên sản xuất các dòng cảm biến thế hệ tiếp theo của hệ thống VERA. PSS VERA là sự phát triển mới nhất trong bề dày lịch sử phát triển hệ thống ESM TDOA của Cộng hòa Séc, và là sự kế thừa của hệ thống trinh sát thụ động tinh vi Tamara. Năm 1995, hệ thống giám sát thụ động VERA đã được thử nghiệm thành công trong mọi điều kiện thời tiết và được vận hành liên tục bởi một nhóm các chuyên gia đến từ Trung tâm Các hệ thống Thụ động Lực lượng Không quân và từ Bộ Tư lệnh Phòng không của Quân đội Cộng hòa Séc. Nguyên mẫu hệ thống VERA đầu tiên đã được CH Séc triển khai lắp đặt và bố trí ở một khu vực có độ cao 1.000 m để phát huy được khả năng giám sát tất cả các động thái đang xảy ra trên bầu trời và trên mặt đất của đất nước. Tháng 10/2006, Tổng công ty Rannoch tuyên bố mua lại ERA, tháng 2/2007 chính thức đổi tên thành Tổng công ty ERA, tháng 7/2008 ERA được mua lại bởi SRA International. Và gần đây nhất, tháng 11/2011, ERA Pardubice lại được mua lại bởi công ty xuất nhập khẩu vũ khí thương mại Omnipol của CH Séc. Nguyên lý hoạt động, đặc điểm kỹ - chiến thuật của PSS VERA-E Biến thể xuất khẩu của PSS VERA là VERA-E, tất cả các thành phần của hệ thống đều được đặt trên xe cơ động để thuận tiện trong quá trình di chuyển, ẩn náu và triển khai. Hệ thống được triển khai điển hình bao gồm 3 đài thu ESM bố trí theo hình tam giác đều (trường hợp lý tưởng), mỗi đài bao quát một vùng quạt rộng 120 độ (3 đài là 360 độ) và một đài thu trung tâm được đặt ở giữa (gồm thiết bị xử lý tín hiệu và máy thu ESM thực hiện vai trò như một đài thu thứ cấp, đồng thời cũng là trạm thu tín hiệu tổng hợp do 3 đài thứ cấp truyền về). Mô phỏng cách thức triển khai và khả năng tác chiến của hệ thống VERA-E. Cảm biến thế hệ đầu của hệ thống VERA chỉ có thể phát hiện và theo dõi các xung điện từ phát ra từ mục tiêu dựa vào phương pháp đo khoảng thời gian trễ nhận được xung. Đài thu hoạt động ở dải tần rất rộng, từ 1 - 18 Ghz và thường tận dụng các hệ thống thu phát của radar giám sát thứ cấp (SSR) như, radar trên không, radar thời tiết, hệ thống thu phát dẫn đường chiến thuật hàng không (TACAN), hệ thống dẫn đường có các thiết bị đo xa (DME), tín hiệu truyền thông số và các tín hiệu nhiễu xung do đối phương phát ra để tính toán tọa độ mục tiêu. Các đài thu thứ cấp sẽ thu tín hiệu nhận được do mục tiêu phát ra và truyền về trung tâm theo đường truyền sóng vi ba kiểu điểm - điểm (point - to - point). Trung tâm xử lý sẽ tính toán độ trễ của các xung từ ba trạm thu truyền về để tính ra TDOA (khoảng chênh lệch thời gian tới) của các xung ở mỗi đài thu. TDOA của một xung từ một đài thu bên cạnh và đài thu trung tâm sẽ xác định vị trí mục tiêu dựa vào việc lấy giao của các mặt hipeboloit. Trạm thu con thứ hai sẽ cung cấp TDOA của nó và tạo ra một hipeboloit thứ hai. Giao của hai hipeboloit sẽ xác định mục tiêu trên một đường thẳng, cung cấp một tọa độ 2D về mục tiêu (khoảng cách và góc phương vị). Khi đó, giao của hipeboloit do trạm thu thứ ba sẽ tạo ra tọa độ về độ cao mục tiêu, cung cấp một tọa độ vị trí đầy đủ dạng 3D. Máy tính trung tâm sẽ tổng hợp giao hội mọi tín hiệu thu về, theo phương pháp định vị "vi sai thời gian tới của tín hiệu" trên các tam giác, sẽ xác định được rất nhanh tọa độ mục tiêu. Đồng thời ngay khi tọa độ mục tiêu được xác định, thông tin về mục tiêu sẽ được truyền về các đài radar hoả lực của tên lửa phòng không, nhờ thế cũng có thông số bắn ban đầu, đạn được phóng lên, bám sát liên tục máy bay và tiêu diệt ở cự ly thích hợp. Mô phỏng tọa độ mục tiêu trên không gian 3 chiều. Trạm radar đa năng Theo một số nguồn tin, đài trinh sát thụ động VERA-E có thể kết hợp liên thông tín hiệu với các phân đội hoả lực tên lửa SAM của Việt Nam hiện nay như S-125, S-300... để có thể tấn công phá hủy mục tiêu bằng tên lửa. Đây là một đặc điểm khá quan trọng của hệ thống trong việc liên kết thành một mạng lưới phòng không tích hợp, chống lại mọi đòn tấn công đường không của đối phương. PSS VERA hoạt động chính xác hơn ở dải sóng cực ngắn, bộ đo thời gian vốn có của hệ thống phụ thuộc phần lớn vào trạm thu trung tâm. Trong thực tế, khoảng cách giữa các trạm thu con ở càng xa nhau thì độ chính xác càng cao, nhưng người ta thường triển khai hệ thống từ 3 - 4 trạm, khoảng cách các trạm con tới trạm trung tâm từ 15 - 40 km (cực đại là 50 km) để đảm bảo được cả hai yêu cầu về độ chính xác và cự li phát hiện mục tiêu. Đặc điểm quan trọng khác của PSS VERA là nguyên lý hoạt động của hệ thống có thể phát hiện ra tín hiệu bức xạ và xác định được vị trí của các đài radar chủ động khác của đối phương mà không hề bị phát hiện. Các mục tiêu trên mặt đất như xe tăng, xe trinh sát, rađar, các mục tiêu trên biển như tàu chiến, radar trên tàu... đều có thể phát hiện và tính toán được chính xác tọa độ, để hỗ trợ cho các đơn vị phòng thủ bờ biển, pháo binh... Tại trung tâm xử lý, kíp vận hành hệ thống chỉ đơn giản gồm 2 người (1 lính cộng với 1 sỹ quan) với các thiết bị điện tử trong xe xử lý tín hiệu trung tâm rất hiện đại. Theo các chuyên gia, PSS VERA là một hệ thống hiệu quả, bổ sung và hỗ trợ cho những hệ thống radar chủ động đang tồn tại trong việc giám sát không phận của bất kỳ một quốc gia nào. Thông số kỹ thuật của PSS VERA-E. + Thông tin đầu ra của máy tính xử lý trung tâm có tốc độ cập nhật vị trí mục tiêu có thể điều chỉnh từ 1 - 5 giây. + Độ nhạy máy thu của trạm thu thứ cấp rất cao (-100 dBm) + An ten thu của trạm thứ cấp có kích thước lớn, dài 1,3 m, rộng 0,9m, nặng 120 kg. Nguồn công suất 24 V DC/250 W. + Anten thu tín hiệu đường truyền điểm - điểm có đường kính 600 mm (400 mm), nặng 24 kg, chùm sóng tín hiệu rất hẹp 1,26 độ, sử dụng nguồn công suất thấp 24V DC/20 W. + Dải tần hoạt động cơ bản từ 1 - 18 Ghz, có thể lựa chọn thêm hai dải tần hoạt động khác là 0,1 - 1 Ghz và 18 - 40 Ghz. + Khả năng phát hiện và theo dõi đồng thời 200 mục tiêu khác nhau. Bao gồm tất cả các mục tiêu như radar, các hệ thống phát đáp TACAN, đài gây nhiễu, các điểm truyền sóng vô tuyến trong dải tần. + Mức độ tự động hóa rất cao. +) Yêu cầu bảo dưỡng không quá cầu kỳ. Trung tâm xử lý tín hiệu của toàn hệ thống được đặt trên xe cơ động. radar thụ động VERA-E không phát sóng mà chỉ thu tín hiệu dựa trên nguyên lý, trong một môi trường không gian đồng nhất, bất kỳ một “xao động” nào của vật thể bay cũng tạo ra các sóng điện từ trường, tuỳ theo mức độ ít nhiều. Khắc tinh của máy bay tàng hình Máy bay tàng hình (MBTH) có nhiều cách “giấu mình”, đã tạo ra rất ít sự bộc lộ đó. Nhưng suốt hành trình bay, MBTH cũng phải liên lạc và phải mở thiết bị xác định độ cao, phải mở khoang vũ khí… Có MBTH gặp mưa, tác dụng tàng hình bị giảm…lúc này, máy thu, cảm biến của radar thụ động có thể thu liên tục tất cả các dấu hiệu ấy để tính toán tọa độ chính xác về mục tiêu, hỗ trợ tên lửa phòng không tiêu diệt MBTH. Đài thu tín hiệu thụ động thứ cấp của hệ thống VERA-E. Một nhược điểm của radar chủ động là, xung phát đi, nếu gặp máy bay tàng hình, sóng bị hấp phụ hoặc tán xạ ra nhiều hướng làm cường độ tín hiệu quay trở lại máy thu quá yếu, máy thu coi như bị "mù". Đó là chưa kể một số máy bay có thiết bị “cảm nhận” đang bị “bắt sóng”, và đối phó bằng các tên lửa chống radar. Tuy nhiên, với nguyên lý hoạt động của các hệ thống radar thụ động, khả năng sống còn cao hơn gấp nhiều lần. Các cuộc chiến tranh ngày nay đều diễn ra bằng các đòn đánh "phủ đầu" sử dụng sức mạnh không quân, MBTH "luồn lách" qua các hệ thống radar phòng không chủ động của đối phương và "vô hiệu hóa" chúng. Chính vì vậy, lúc này các hệ thống radar thụ động sẽ là đòn đáp trả "tương xứng", luôn sẵn sàng bắt bám mục tiêu MBTH để cho tên lửa phòng không tiêu diệt. Xu hướng phát triển công nghệ quân sự hiện nay đang tập chung chủ yếu vào các giải pháp tàng hình, vì thế, các phương pháp "chống tàng hình" cũng đang được rất nhiều quốc gia chú trọng. Các đài radar thụ động cũng đang được nhiều nước như Israel, Đức, Nga, Mỹ... tích cực nghiên cứu chế tạo. Tuy nhiên, các chuyên gia cho rằng, VERA cùng với Kolchuga mới thực sự là hai hệ thống trinh sát thụ động có khả năng phát hiện MBTH tốt nhất thế giới. Các biến thể Nhà sản xuất cung cấp hệ thống cũng đã tạo ra các cấu hình VERA khác nhau, gồm: VERA - P3D, đã được thương mại hóa, phạm vi hoạt động ngắn hơn và được dùng để giám sát các thiết bị phát đáp của các phương tiện mặt đất ở các cảng hàng không. VERA - AP, giám sát không lưu tầm xa cho dân sự và chỉ hoạt động trong dải tầm từ 1030 - 1090 Mhz. VERA - E, biến thể từ hệ thống ESM của quân đội, và dành riêng cho xuất khẩu. Như vậy, có thể khẳng định Việt Nam sẽ mua hệ thống VERA-E. VERA S/M biến thể cơ động cho riêng quân đội CH Séc sử dụng. Ngoài ra còn một số biến thể cho các nhiệm vụ khác nhau như VERA - ADSB, VERA - HME, VERA ASCS và BORAP. Chiến tích trên chiến trường và thương trường Nam Tư đã sớm có hệ thống radar thụ động Tamara (thế hệ trước của VERA), cùng với các loại radar khác, góp phần phát hiện và bắn hạ tại chỗ 1 máy bay F-117 của Mỹ trong bảo vệ vùng trời Kosovo năm 1999. Chính vì vậy, Tamara mà sau này là VERA đã được rất nhiều nước trên thế giới rất quan tâm đến. Máy bay tàng hình F-117, một máy bay mà không quân Mỹ vẫn cho là “trong suốt điện từ” nhưng lại bị bắn hạ bởi một hệ thống tên lửa SA-3 đã lỗi thời với sự hỗ trợ của hệ thống Tamara. Có thể chính vì vậy, tháng 8/2005, quân đội Mỹ đã từng gửi một nhóm chuyên gia quân sự của mình đến thành phố Pardubice, phía Đông Bohemia để tiếp quản một đài radar thụ động VERA do CH Séc sản xuất từ nhà xuất khẩu vũ khí Thomas CZ. Tại đây, nhóm chuyên gia quân sự Mỹ đã được huấn luyện cách vận hành hệ thống VERA mà sau này, một hệ thống như vậy đã được CH Séc cung cấp cho Mỹ nhằm mục đích nghiên cứu. Từ đó đến nay, có nhiều dư luận đánh giá, bàn luận về loại radar thụ động này của CH Séc, với nhiều thông tin đáng chú ý. F-117 Nighthawk của Không quân Mỹ được cho là đã bị hệ thống Tamara phát hiện và cung cấp tham số bắn cho tên lửa S-125 của Nam Tư bắn rơi năm 1999. Ở CH Séc, lần đầu tiên, hai hệ thống giám sát thụ động, biến thể di động của hệ thống VERA S/M đã được bàn giao cho Trung đoàn số 53, thuộc Trung tâm Giám sát Thụ động đóng ở České Budějovice vào ngày 7/12/2004. Theo báo cáo năm 2005 của Mỹ, Việt Nam, Pakistan, Malaysia và Ai cập đã thể hiện sự quan tâm đến PSS VERA của CH Séc. Tuy nhiên, tại thời điểm đó mới chỉ có Estonia là có được hệ thống này sau CH Séc, Mỹ là nước quốc gia nước ngoài thứ hai mua hệ thống VERA. Năm 2004, thông qua công ty xuất nhập khẩu quân sự Omnipol, Trung Quốc đã đặt mua của Cộng hòa Cezch tất cả 6 hệ thống Vera-E trị giá 55,7 triệu USD. Tuy nhiên Mỹ đã gây sức ép với Thủ tướng Séc không được bán loại vũ khí này cho Trung Quốc, vì vậy hợp đồng đã không được thực hiện. Theo đài truyền hình CT của CH Séc, việc nước này bán vũ khí công nghệ cao cho Việt Nam, điển hình là hệ thống giám sát thụ động VERA sẽ không gặp phải trở ngại nào. Trong khi đó, Trung Quốc vẫn tiếp tục bị “cấm vận” đối với loại vũ khí phi sát thương này. (ĐVO) |
>> Siêu tên lửa Brahmos
Tên lửa hành trình mới sẽ có tốc độ nhanh gấp 5-7 lần vận tốc âm thanh, đó là tiết lộ của ông ông Praveen Pathak về dự án hợp tác phát triển tên lửa mới giữa Nga và Ấn Độ.
Tại triển lãm vũ khí Defexpo cuối tháng 30/3, ông Praveen Pathak, người đứng đầu chương trình phát triển tên lửa hành trình BrahMos, khẳng định: "Vũ khí mới sẽ có khả năng bay ở tốc độ hành trình "siêu vượt âm" (hypersonic) Mach 5 - Mach 7, ông nói.
"Chúng tôi muốn tạo ra một vũ khí có thể sẽ không khác nhiều so với loại tên lửa BrahMos đang được chế tạo về trọng lượng và kích thước, để có thể sử dụng được các bệ phóng đã được triển khai trên tàu và hay các bệ phóng di động. Cách lựa chọn này sẽ không mất quá nhiều việc để chuyển đổi hệ thống như vậy lên siêu vượt âm", ông Pathak nói thêm. "Nga đã có kinh nghiệm lâu dài trong việc phát triển vũ khí tốc độ cao và động cơ phản lực siêu âm, đây là một chương trình Nga - Ấn có thể hoàn thành", ông Pathak nói với Douglas Barrie, nhà phân tích của Viện nghiên cứu chiến lược Quốc tế có trụ sở tại London, Anh. "Thiết kế của một tên lửa siêu thanh chính hãng có khả năng sẽ "mới hơn” loại tên lửa 3M55 Onyx/BrahMos đang sử dụng hiện nay. Tên lửa sử dụng động cơ phản lực mới để duy trì tốc độ bay siêu âm trong toàn hành trình của nó", ông Pathak nói. Dựa trên tên lửa BrahMos, Nga và Ấn Độ sẽ tạo ra một số biến thể tên lửa mới có những ưu điểm vượt trội. Trước đây, Cơ quan phát triển và nghiên cứu quốc phòng DRDO của Ấn Độ từng giới thiệu mô hình thí nghiệm công nghệ siêu vượt âm ở một triển lãm hàng không. NPO Mashinostroeniye, đối tác của Ấn Độ trong chương trình BrahMos, đã phát triển một tên lửa siêu vượt âm có tên 3M25 Meteorit, tuy nhiên họ chưa một lần nào trưng bày loại tên lửa này. Cùng thời điểm này, một số tuyên bố của Nga và Ấn Độ cho biết, hai nước sẽ hợp tác phát triển một biến thể mới của tên lửa hành trình siêu âm BrahMos có khả năng tấn công tàu sân bay. Tuy nhiên hai tuyên bố này có thể không phải là một, do dự án phát triển biến thể chống tàu sân bay của tên lửa BrahMos chỉ có tốc độ siêu âm Mach 2,5 - 2,9. Ấn Độ cũng sẽ tiến hành bắn thử nghiệm lần đầu đối với biến thể tên lửa hành trình siêu âm BrahMos phóng từ máy bay Su-30MKI của họ vào cuối năm 2012 "Chúng tôi hy vọng vào cuối năm 2012 sẽ tiến hành phóng thử lần đầu từ một máy bay. Nó sẽ là một vụ phóng từ trên không", ông nói. Công việc tích hợp biến thể tên lửa BrahMos phóng từ trên không cho máy bay Su-30MKI đang được thực hiện cho Không quân Ấn Độ. Trong đó đã có một vài máy bay Su-30MKI được thay đổi cấu hình để mang được tên lửa BrahMos. Lực lượng Không quân Ấn Độ đã sẵn sàng nhận được đủ các bệ phóng tên lửa BrahMos (biến thể đất - đối - đất) để trang bị cho hai tiêu đoàn tên lửa. Những tên lửa này sẽ được triển khai ở những căn cứ gần biên giới của Ấn Độ để có thể tấn công các căn cứ không quân, các đơn vị phòng không và các trạm radar của kẻ thù, ông Pathak cho biết. Trong tháng 3/2012, Ấn Độ đã bắn thử thành công một tên lửa hành trình siêu âm BrahMos (biến thể đất - đối - đất, cải tiến lên Block III). "Tên lửa đã bay đạt tầm bắn cực đại, 290 km. Ở giai đoạn cuối đã bay bổ nhào xuống độ cao thấp. Đây là một yêu cầu của lực lượng mặt đất", ông nói thêm, một cuộc tấn công theo kiểu “bổ nhào” là cần thiết đối với những mục tiêu ở địa hình đồi núi. BrahMos, được phát triển từ loại tên lửa hành trình hải quân 3M55 Yakhont bởi hãng NPO Mashinostroeniye của Nga, là một vũ khí có khả năng nhất trong các loại tên lửa cùng lớp, tên lửa có tầm bắn xa tới 290 km, tốc độ siêu âm cực đại Mach 2,8, trang bị đầu đạn lên tới 250 kg, có mặt cắt tiết diện phản xạ radar thấp và hành trình tấn công có thể thay đổi, bao gồm các độ cao bay thấp nhất là 10 m và có thể bay cao tới 14.000 m. Tên lửa hoạt động theo nguyên lý bắn vào quên. Biến thể BrahMos phóng từ mặt đất có trọng lượng phóng lên tới 3 tấn. |
>> Australia là "tài sản chiến lược" của Mỹ
Gần đây, Mỹ-Australia đã thảo luận về nhiều vấn đề hợp tác quốc phòng, một báo cáo của Australia còn đề nghị cho tàu sân bay Mỹ neo đậu. Quần đảo Cocos của Australia (Vòng màu đỏ. Ảnh từ Internet). Ngày 28/3, quan chức Chính phủ Australia thừa nhận, đã thảo luận với quan chức Mỹ về khả năng máy bay Mỹ đến đồn trú ở quần đảo Cocos trên Ấn Độ Dương, nhưng là ý tưởng lâu dài. Đóng quân ở quần đảo Cocos là “khả năng lâu dài” Ngày 27/3, tờ “Bưu điện Washington” dẫn lời của một số quan chức Mỹ và Australia, hai bên cho rằng, quần đảo Cocos có thể trở thành căn cứ lý tưởng cho máy bay trinh sát (do thám) và máy bay không người lái Global Hawk của quân Mỹ. Hải quân Mỹ đang nghiên cứu phát triển “Global Hawk” phiên bản cải tiến, được gọi là “máy bay do thám trên biển khu vực rộng không người lái”, dự kiến trang bị vào năm 2015. Ngày 28/3, Bộ trưởng Quốc phòng Australia Stephen Smith cho biết, triển vọng máy bay Mỹ đóng ở quần đảo Cocos “rất xa vời”. Ông cho biết, qua thảo luận, quan chức hai bên cho rằng, công trình trên đảo cần cải tạo quy mô lớn, nâng cấp sân bay dự kiến cần khoảng 75-100 triệu đô la Úc (khoảng 78-104 triệu USD). Stephen nói: “Tôi và đồng nghiệp Mỹ không thảo luận bất cứ chi tiết nào, cho dù là với Robert Gates (cựu Bộ trưởng Quốc phòng) hay Leon Panetta (Bộ trưởng Quốc phòng đương nhiệm)”. “Đây là khả năng lâu dài, cần phải nhìn như vậy”. Máy bay do thám không người lái Global Hawk Mỹ. Thủ tướng Australia Julia Gillard cho biết, Australia và Mỹ thảo luận về mở rộng hợp tác quốc phòng tại khu vực này, bao gồm cả khả năng sử dụng quần đảo Cocos. Bà không phủ nhận thông tin của tờ “Bưu điện Washington”, nhưng đồng thời nói rằng, về rất nhiều vấn đề thảo luận với Mỹ vào tháng 11/2011, “không có bất cứ sự tiến triển thực chất nào”. Quần đảo Cocos cách bờ biển phía tây Australia khoảng 3.000 km, nằm ở vùng biển phía nam Indonesia, do một loạt các rạn san hô tạo thành. Hiện nay, Quân đội Mỹ đang có căn cứ liên hợp hải-không quân ở đảo Diego Garcia – cách Ấn Độ khoảng 1.600 km về phía nam. Quan chức Mỹ cho biết, căn cứ này đã hoạt động hết công suất, khả năng mở rộng thêm nhỏ, hơn nữa thỏa thuận cho thuê sẽ hết hạn vào năm 2016. Tìm kiếm hợp tác quốc phòng Chiến lược quân sự mới của Tổng thống Mỹ Barack Obama xác định khu vực châu Á-Thái Bình Dương là trọng tâm chiến lược. Tháng 11/2011, Australia và Mỹ đã đạt được thỏa thuận, tìm cách tăng cường hợp tác quốc phòng. Bộ trưởng Quốc phòng Australia Smith cho biết, 3 trọng điểm hợp tác hiện nay là lực lượng Lính thủy đánh bộ Mỹ đóng tại Darwin-Australia, tăng các chuyến bay của máy bay Mỹ ở miền bắc Australia, và tàu chiến Mỹ sử dụng căn cứ hải quân Stirling ở thành phố Perth-Australia. Tàu sân bay USS George Washington - Hải quân Mỹ. Theo thỏa thuận, lực lượng Lính thủy đánh bộ Mỹ sẽ thay phiên nhau đóng tại Darwin, tốp 250 binh sĩ đầu tiên đã đến, cuối cùng quân đồn trú sẽ lên tới 2.500 binh sĩ. Tờ “Washington Post” cho biết, một bản báo cáo căn cứ quân sự gần đây của Australia đề nghị tăng cường đóng quân ở duyên hải phía bắc và phía tây, xem xét lợi ích an ninh của Mỹ, đưa ra phương án căn cứ. Báo cáo cho biết, căn cứ Sterling “có thể giúp cho Hải quân Mỹ triển khai và hành động ở Đông Nam Á và Ấn Độ Dương”, cần cải tạo quy mô lớn, từ đó tiếp nhận tàu sân bay, tàu chiến mặt nước cỡ lớn khác và tàu ngầm hạt nhân tấn công của quân Mỹ. Một số quan chức Quân đội Mỹ cho biết, vị trí của Perth xa xôi, nhưng có thể địa điểm tiếp tế và bảo trì quan trọng của Hải quân Mỹ ở khu vực Ấn Độ Dương. Họ cho biết, quân Mỹ chỉ dự định “làm khách” ở Australia, không tìm cách xây dựng căn cứ. Một số quan chức Australia cho biết, sẽ không vội vã đưa ra quyết định về tương lai của căn cứ Stirling, nhưng gần đây sự quan tâm của Quân đội Mỹ đối với căn cứ này tăng lên, Phó Tham mưu trưởng Hải quân Mỹ Mark Ferguson tháng 2 đã thăm Australia, Bộ trưởng Hải quân Ray Mabus trong tháng này dự kiến đến thăm Perth và Darwin. Tàu ngầm hạt nhân tấn công Seawolf của Quân đội Mỹ. Trong một lần phỏng vấn, Mabus cho biết: “Australia luôn là đồng minh lâu đời nhất, đáng tin cậy nhất của chúng tôi. Có thể nói, chúng tôi sẽ luôn quan tâm tới các hành động và quan điểm của Australia”. Ngoài Perth và quần đảo Cocos, Australia còn đề xuất xây thêm một căn cứ hải quân ở thành phố bờ biển phía đông Brisbane. Mỹ quan tâm đến quan điểm này. Một quan chức cấp cao của Quân đội Mỹ giấu tên cho biết: “Australia là đồng minh duy nhất của chúng tôi ở Ấn Độ Dương”. “Chúng tôi cho rằng, chúng tôi cần bỏ thêm nhiều thời gian hơn ở Ấn Độ Dương. So với Tây Thái Bình Dương, quốc gia chúng tôi có quan hệ tốt ở khu vực này ít”. Một quan chức Australia nói với phóng viên tờ “Bưu điện Washington” rằng: “Nói về ảnh hưởng tổng thể của các bạn ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương, trọng tâm chiến lược của các bạn (Mỹ) đang chuyển xuống phía nam. Trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh (thế kỷ trước), Australia (vị trí) xem ra không quan trọng như vậy. Nhưng, khi các bạn (Mỹ) thực sự cuốn hút bởi các hòn đảo ở khu vực Đông Nam Á, tầm quan trọng của Australia xem ra được nâng lên rất nhiều”. “Australia trở thành tài sản chiến lược của Mỹ” Đảng Xanh Australia phản đối máy bay Mỹ vào đóng ở quần đảo Cocos, lý do là máy bay không người lái của Mỹ tập kích đường không có thể làm chết rất nhiều dân thường. Người phát ngôn các vấn đề quốc phòng của Đảng Xanh nói: “Đối với một số người, theo dõi, giám sát nghe ra thì dường như vô hại. Nhưng, căn cứ này sẽ làm cho quân Mỹ có thể dễ dàng phát động cuộc tấn công chí tử hơn. Nếu nói chúng ta học được gì trong 40 năm qua, thì chúng ta chắc chắn phải cẩn thận, không nên trở thành đồng lõa cho những việc làm rủi ro này”. Australia trở thành "tài sản chiến lược" của Mỹ khi chuyển trọng tâm chiến lược đến châu Á-Thái Bình Dương. Trong hình là các bang của Australia. Quần đảo Cocos có khoảng 600 dân, họ lo ngại vườn nhà của họ biến thành căn cứ của Quân đội Mỹ. Từ năm 1966-1971, để đem lại “proton” cho căn cứ quân Mỹ ở đảo Diego Garcia, nhà cầm quyền Anh và Mỹ yêu cầu tất cả người dân trên đảo phải di dời. Doanh nhân John Clunies sống 30 năm ở đảo Cocos. Ông nói với phóng viên Công ty Phát thanh Australia rằng, nghị sĩ Công đảng Warren Snowdon hồi đầu tháng này đã đến thăm quần đảo Cocos, cho biết, “đời này của chúng ta” sẽ không thấy xuất hiện của Quân đội Mỹ. Nhưng, “khó có thể yêu cầu họ đưa ra bảo đảm. Họ cơ bản không muốn thảo luận vấn đề này”. Chủ nhiệm Trung tâm Nghiên cứu Quốc phòng và Chiến lược, Đại học Quốc lập Australia Hugh White cho biết, trọng tâm chiến lược của Mỹ chuyển tới châu Á-Thái Bình Dương, có nghĩa là sau Chiến tranh Việt Nam, lần đầu tiên Mỹ coi Australia là “tài sản chiến lược” cạnh tranh với nước khác. Báo chí Trung Quốc bình luận Australia nếu tham gia chiến lược quân sự mới của Mỹ, sẽ là sai lầm, có thể bị cuốn vào cuộc tranh chấp giữa Mỹ với nước khác. |
>> Cụm tàu sân bay TQ cần 4 tàu khu trục loại 052D
Tàu khu trục Type 052D có lượng choán nước 8.000-9.000 tấn, đưa vào hoạt động năm 2016-2020. >> Khu trục hạm Type 052C của Hải quân Trung Quốc Mạng tin tức công nghiệp quốc phòng Nga cho biết, những năm gần đây, Trung Quốc nỗ lực đạt được đột phá trong lĩnh vực chế tạo tàu khu trục hiện đại lớp Aegis tương tự như Mỹ. Trung Quốc hy vọng thông qua hệ thống phòng thủ tên lửa trên biển trên tàu khu trục Type 052 liên tục được cải tiến tương tự như Hải quân Mỹ để tiến hành phòng không và phòng thủ tên lửa cho cụm chiến đấu tàu sân bay trong tương lai. Chuyên gia quân sự Nga cho rằng, tàu khu trục Type 052C mới nhất của Trung Quốc (được gọi là Aegis Trung Hoa) hiện đã bước vào giai đoạn sản xuất hàng loạt. Khi tàu sân bay đầu tiên của Trung Quốc sắp được trang bị, Trung Quốc có kế hoạch tiếp tục chế tạo 2 tàu 052C, để thực hiện nhiệm vụ phòng không của cụm chiến đấu tàu sân bay trong tương lai. Tàu khu trục 052C là một loại tàu khu trục trang bị radar mảng pha quét điện tử và thiết bị phóng tên lửa thẳng đứng, nó đã tăng cường rất lớn khả năng phòng không cho Hải quân Trung Quốc, theo đó Hải quân Trung Quốc cũng đã có khả năng xây dựng hệ thống phòng không và phòng thủ tên lửa mang tính khu vực. Tin cho biết, Trung Quốc còn có kế hoạch chế tạo 4 tàu khu trục Type 052D có lượng choán nước 8.000-9.000 tấn, dự kiến đi vào hoạt động năm 2016-2020. Khi đó, Hải quân Trung Quốc sẽ có khả năng tiến hành phòng không và phòng thủ tên lửa cho cụm chiến đấu tàu sân bay. Tàu 052C tiếp tục sử dụng thiết kế cơ bản thân tàu 052B, hệ thống động lực và công nghệ tàng hình thân tàu của nó tương đồng với tàu 052B. Kết cấu phía trên được cải tạo chút ít, tháp ở mũi tàu sử dụng radar mảng pha quét điện tử cao hơn 052B, thân tàu áp dụng chế tạo modul hóa để rút ngắn thời gian chế tạo. Lượng choán nước của tàu tăng mấy trăm tấn so với 052B, mớn nước tăng 0,1 m, lượng choán nước đầy khoảng 7.000 tấn. Kết cấu kho chứa máy bay tuy rộng như thân tàu, nhưng chỉ bố trí một kho chứa máy bay, sức chứa chủ yếu dùng để lắp hệ thống phóng thẳng, máy bay trực thăng chống tàu ngầm của nó vẫn lựa chọn Ka-28 do Nga chế tạo. Báo Nga cho biết, hiện nay trong lĩnh vực hệ thống phòng không và phòng thủ tên lửa trên biển, trình độ của Trung Quốc đã đạt trình độ của các nước châu Âu. Cùng với việc tàu khu trục Type 052C đi vào hoạt động với số lượng lớn, trình độ của Hải quân Trung Quốc đã cùng một cấp độ với Nga, Pháp, Anh, Đức. Nhưng, hiện nay trình độ của Trung Quốc vẫn không thể đuổi kịp Mỹ, trước hết là còn có khoảng cách với Mỹ về độ cao và khoảng cách do thám mục tiêu, tốc độ xử lý thông tin. Ngoài ra, lượng choán nước tương đối nhỏ của tàu Type 052C làm cho đơn vị phóng thẳng đứng của nó giảm, hỏa lực liên tục rõ ràng không đủ. Nhưng, Trung Quốc tin rằng, sau khi tàu 052D đưa vào biên chế sẽ xóa bỏ khoảng cách với Mỹ. Tàu khu trục 052C Lan Châu. Tàu khu trục 052C Lan Châu. Ý tưởng biên đội tàu chiến - Hải quân Trung Quốc. Tàu khu trục tên lửa 052D (ý tưởng của dân mạng) |
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)
Chuyên mục Quân Sự
Hải quân Trung Quốc
(263)
Hải quân Mỹ
(174)
Hải quân Việt Nam
(171)
Hải quân Nga
(113)
Không quân Mỹ
(94)
Phân tích quân sự
(91)
Không quân Nga
(83)
Hải quân Ấn Độ
(54)
Không quân Trung Quốc
(53)
Xung đột biển Đông
(50)
Không quân Việt Nam
(44)
tàu ngầm
(42)
Hải quân Nhật
(33)
Không quân Ấn Độ
(16)
Tàu ngầm hạt nhân
(15)
Hải quân Singapore
(12)
Xung đột Iran - Israel
(12)
Không quân Đài Loan
(9)
Siêu tên lửa
(8)
Quy tắc ứng xử ở Biển Đông
(7)
Tranh chấp biển Đông
(7)
Xung đột Trung - Mỹ
(4)
Xung đột Việt-Trung
(2)