Tin Quân Sự - Blog tin tức Quân sự Việt Nam

Paracel Islands & Spratly Islands Belong to Viet Nam !

Quần Đảo Hoàng Sa - Quần Đảo Trường Sa Thuộc Về Việt Nam !

Thứ Năm, 18 tháng 8, 2011

>> Tìm hiểu khinh hạm lớp Gepard



Trong những năm 1980, với mục đích phát triển dòng tàu hộ tống (khinh hạm) mới phục vụ theo yêu cầu của hải quân Nga và xuất khẩu, Viện Thiết kế Zelenodolsk (ZPKB) tại thành phố Zelenodolsk, nước CH Tatarstan, Liên bang Xô viết, đã cho ra mắt khinh hạm đa nhiệm hạng nhẹ mới thuộc đồ án 1166.1 và một vài biến thể của nó.



http://nghiadx.blogspot.com

Toàn cảnh một chiến hạm lớp Gepard

Các chiến hạm thuộc đồ án nói trên được đặt tên theo một loài mãnh thú đồng cỏ là báo đốm châu Phi (Gepard). Trong biên chế hải quân Nga, khinh hạm lớp Gepard sẽ thay thế cho các lớp tàu hộ tống cỡ nhỏ lớp Koni Parchim và Grisha.

Được thiết kế theo phong cách hoàn toàn mới so với các chiến hạm cùng lớp của hải quân Xô viết trước đó, khinh hạm lớp Gepard có tiêu chuẩn tương đương với các tàu hộ tống hiện đại ở khả năng săn ngầm, hải chiến, phòng không một cách tương đối. Thiết kế của lớp tàu chiến này được áp dụng công nghệ “tàng hình” nhằm nâng cao khả năng tác chiến trên biển.

Thiết kế

Khinh hạm lớp Gepard dài 102,2 m, rộng 13,1 m, mớn nước 3,8 m. Lượng choán nước của lớp tàu này đạt gần 2.000 tấn khi trang bị đầy đủ vũ khí, trang bị. Khinh hạm lớp Gepard có kết cấu 10 khoang kín tách biệt để nâng cao khả năng sống sót trong trường hợp một vài khoang bị thủng hoặc ngập nước.

Khả năng “tàng hình” của chiến hạm lớp Gepard nằm ở kết cấu thân tàu được làm từ thép có độ từ tính thấp và hệ thống khung chịu lực của tàu làm từ hợp kim nhôm- magiê không bị ăn mòn bởi nước biển. Cùng với đó, hầu hết trang bị vũ khí được đặt ở các khoang kín phần phía sau của tàu để giảm bề mặt phản xạ radar hiệu dụng ở mặt trước và hai bên.

Ngoài ra, lớp sơn phủ đặc biệt cũng có tác dụng hấp thụ tín hiệu radar và giảm khả năng bị quan sát bởi các thiết bị quan sát hồng ngoại và quang học của đối phương.

Hệ thống động lực

Nhờ hai động cơ gas-turbin M-88 có tổng công suất 10.000 mã lực và một động cơ diesel 61D 8.000 mã lực theo dạng CODOG, khinh hạm lớp Gepard có thể đạt tốc độ tối đa tới 26 hải lý/giờ và cự ly hoạt động tới 5.000 hải lý (với vận tốc 10 hải lý/giờ).

Với dự trữ hành trình trên biển trong 20 ngày đêm, khinh hạm lớp Gepard rất phù hợp với các nhiệm vụ tuần tra lãnh hải, bảo vệ vùng biển đặc quyền kinh tế trong các vùng biển kín, vịnh.

Hệ thống cảm biến và radar

Khinh hạm thuộc đồ án 1166.1 được trang bị radar hoa tiêu Sigma/OC-11661, radar trinh sát-cảnh giới mặt nước Positive/Cross Dome và radar dẫn đường Kivach.

Để điều khiển hệ thống vũ khí trên tàu, khinh hạm thuộc đồ án này sử dụng các hệ thống radar khác như: radar MR-123/176 Vympel/ BASS TILT cho tổ hợp hải pháo, radar dẫn bắn tên lửa đối hạm Harpoon-Ball/BAND STAND, radar dẫn bắn tên lửa phòng không 2R33/POP GROUP.


http://nghiadx.blogspot.com

Tổ hợp tên lửa phòng không tầm ngắn 4K33 Osa-MA2


Với nhiệm vụ săn ngầm, chiến hạm lớp Gepard trang bị hệ thống sonar thủy âm tích hợp vào thân tàu MGK-335ME-03 và thiết bị sonar thủy âm rời kéo dưới nước Zmey có thể hoạt động ở nhiều độ sâu khác nhau.

Khả năng đối kháng điện tử và gây nhiễu của chiến hạm lớp Gepard là hệ thống ASOR-11661 và mồi bẫy PK-10.

Hệ thống vũ khí

Sức mạnh tấn công chính của khinh hạm lớp Gepard là 8 đạn tên lửa đối hạm cận âm Kh-35 Uran 3M24UD (tên NATO - SS-N-25 Switchblade) có tầm bắn 250 km. Đây là dòng tên lửa có độ chính xác cao tương đương như dòng tên lửa AGM-84 Harpoon của hải quân Mỹ.


http://nghiadx.blogspot.com

Tên lửa đối hạm cận âm Kh-35 Uran


Tên lửa Uran sử dụng phương thức dẫn đường bán chủ động pha đầu, pha giữa dẫn đường quán tính và sử dụng radar chủ động tự thân tìm kiếm và tấn công mục tiêu ở pha cuối. Tốc độ của dòng tên lửa này đạt Mach (tốc độ âm thanh) 0,9 và khả năng bay sát mặt biển ở pha cuối để giảm khả năng bị đánh chặn. Tên lửa Uran có khả năng tiêu diệt và vô hiệu hóa các chiến hạm có lượng choán nước tới 5.000 tấn với đầu nổ lõm phá mảnh nặng 145 kg.

Trang bị hải pháo trên khinh hạm lớp Gepard là pháo bắn nhanh AK-176 76 mm có tốc độ bắn khoảng 60-120 viên/phút để tiêu diệt các mục tiêu trên mặt nước và trên không. Tầm “hỏa lực” của loại vũ khí này đạt 15 km.



http://nghiadx.blogspot.com

Hải pháo AK-176


Khả năng tác chiến phòng không của lớp tàu chiến này là 2 tổ hợp pháo phòng không bắn nhanh (CIWS) AK-630M tầm bắn đạt 5 km với 2.000 viên đạn và tổ hợp tên lửa phòng không tầm ngắn 4K33 Osa-MA2 (SA-N-4) có tầm bắn từ 200-15.000 m, tầm cao 10-12.000 m với 20 đạn tên lửa 9M33M3. Các tổ hợp phòng không nói trên tạo ra lớp phòng thủ cứng bảo vệ khinh hạm lớp Gepard trước các mục tiêu bay và xuồng cao tốc của đối phương, trong đó gồm cả tên lửa đối hạm.



http://nghiadx.blogspot.com

Pháo CIWS AK-630M


Để phục vụ tác chiến săn ngầm, khinh hạm lớp Gepard được 2 tổ hợp ống phóng lôi cỡ 533 mm trang bị nhiều loại đạn ngư lôi khác nhau, trong đó có ngư lôi siêu khoang VA-111 Shkval.


http://nghiadx.blogspot.com

Ngư lôi siêu khoang Shkval


Đây là dòng ngư lôi tên lửa sử dụng công nghệ siêu bọt khí của Nga với khả năng đạt tốc độ tới 200 hải lý/giờ. Phiên bản phổ thông của ngư lôi Shkval được trang bị đầu nổ nặng 210 kg đảm bảo khả năng tiêu diệt các chiến hạm cỡ lớn của đối phương với chỉ một đạn ngư lôi.

Khả năng phòng thủ và săn ngầm của khinh hạm lớp Gepard còn được củng cố nhờ một tổ hợp rocket chống ngầm, ngư lôi RBU-6000AS (con số 6.000 tương đương với tầm bắn tối đa của tổ hợp này đạt 6 km) với 12 ống phóng.


http://nghiadx.blogspot.com

Rocket chống ngầm RBU-6000AS


Ngoài ra, khinh hạm lớp Gepard còn có thể mang theo 12-20 thủy lôi tùy theo nhiệm vụ tác chiến.


>> Lainer - Tên lửa "siêu khủng" mới của Hải quân Nga



Trung tâm tên lửa quốc gia mang tên Makeyev (GRTS) đã chế tạo thành công tên lửa chiến lược hải quân Lainer có sức công phá vượt trội hơn tên lửa đạn đạo triển vọng bố trí trên tàu ngầm R-30 Bulava gấp 2 lần.



http://nghiadx.blogspot.com

Tên lửa Sineva của Nga (Theo cách gọi của NATO là Skiff)

Báo chí Nga cho biết, tên lửa chiến lược Lainer đã được thử nghiệm lần đầu tiên vào ngày 20/5/2011 và được các chuyên gia đánh giá rất thành công.

Theo thông tin từ nhà sản xuất, nếu đưa tên lửa Lainer vào trang bị sẽ cho phép gia hạn sử dụng nhóm tàu ngầm dự án 677 BDRM đang trong biên chế hoạt động đến năm 2025-2030.

Về các đặc tính chi tiết của tên lửa Lainer hiện vẫn chưa được công bố. Chỉ biết rằng, tên lửa này có khả năng mang từ 6 đến 12 khối tác chiến với sức công phá nhỏ hoặc 4 khối tác chiến với sức công phá trung bình.

Trong khi đó, theo GRTS, tên lửa Bulava, dự kiến được đưa vào biên chế cuối năm nay cũng chỉ có thể mang đến 6 khối tác chiến với sức công phá nhỏ.

Theo thông báo trước đây, Tên lửa R-30 Bulava có thể được trang bị từ 6 đến 10 khối hạt nhân, mỗi khối có sức công phá đến 15 kilotons. Ngoài ra, Lainer cũng có khả năng mang tải chiến đấu hỗn hợp, gồm các khối tác chiến khác nhau.


http://nghiadx.blogspot.com

Tên lửa Bulava được phóng từ tàu ngầm nguyên tử Dmitry Donskoy


Vụ thử nghiệm đầu tiên tên lửa Lainer được tiến hành ngày 20/5/2011, tuy nhiên khi đó theo thông báo, Hải quân Nga tiến hành phóng kiểm tra tên lửa đạn đạo Sineva, là vũ khí chủ lực của tàu ngầm dự án 667BDRM “Delphin”.

Tên lửa được phóng từ boong tàu ngầm nguyên tử K-84 “Ekaterinburg”. Sau đó mới biết tên lửa được phóng vào ngày 20/5 vừa qua là tên lửa Lainer.

Theo đánh giá của các chuyên gia, rất có thể tên lửa Lainer là biến thể cải tiến của tên lửa Sineva.



http://nghiadx.blogspot.com

Tên lửa Lainer được thử nghiệm ngày 20/5/2011 và được đánh giá rất thành công


Tên lửa Sineva là tên lửa nhiên liệu lỏng, được đưa vào biên chế năm 2007. Chiều dài gần 15m, đường kính 1,9m, trọng lượng phóng hơn 40 tấn.

Tổ hợp tên lửa cho phép tiến hành phóng riên lẻ hoặc đồng thời khi tàu cơ động với tốc độ đến 7 hải ly/h và ở độ sâu đến 55m.

Tên lửa Sineva có khả năng mang từ 4 đến 8 khối chiến đấu, cự ly hoạt động khoảng 8.300km. Theo thông báo trước đây, tên lửa này sẽ được sử dụng trong trong biên chế Hải quân Nga tối thiểu đến năm 2030.


>> Hệ thống tên lửa Bastion-P



Trung tâm tên lửa quốc gia mang tên Makeyev (GRTS) đã chế tạo thành công tên lửa chiến lược hải quân Lainer có sức công phá vượt trội hơn tên lửa đạn đạo triển vọng bố trí trên tàu ngầm R-30 Bulava gấp 2 lần.Tổ hợp tên lửa phòng thủ bờ biển di động K300P Bastion-P được thiết kế để tiêu diệt tàu chiến và các mục tiêu trên bờ trong tầm bắn tới 300km.

http://nghiadx.blogspot.com


Sơ đồ, cấu hình của một hệ thống tên lửa phòng thủ ven bờ Bastion-P

Cấu hình cơ bản của một tổ hợp K300P Bastion-P gồm: 4 xe chở bệ phóng tự hành K340P SPU, mỗi xe mang 2 ống phóng TPS chứa đạn tên lửa, 1 tới 2 xe điều khiển K380P MBU có thể chuẩn bị chiến đấu chỉ trong vòng 3 đến 4 phút; một xe đảm bảo sẵn sàng chiến đấu MOBD,

4 xe chở đạn K342P TZM được trang bị cần cẩu có trọng tải 5,9 tấn dùng để tiếp đạn cho xe K340P; các thiết bị hỗ trợ kỹ thuật và huấn luyện chiến đấu.

Ngoài cấu hình cơ bản, khách hàng có thể lựa chọn cấu hình tổ hợp với số lượng xe mang phóng, xe điều khiển và xe chở đạn tùy theo nhu cầu.

Bên cạnh cấu hình tổ hợp nêu trên, khách hàng có thể đặt mua thiết bị hỗ trợ ngắm bắn như hệ thống ra-đa ngắm bắn bờ biển tự hành Monolit-B hay hệ thống ngắm bắn đường không 1K130E (gồm ra-đa Oko băng sóng đề-xi-mét gắn trên máy bay trực thăng Ka-31).


http://nghiadx.blogspot.com

Xe chở dàn phóng tên lửa

Ống phóng TPS dạng kín có chiều dài 8,90m, đường kính 0,71 m, có tổng trọng lượng cả đạn là 3.900 kg.

Đạn tên lửa hành trình siêu âm của hệ thôngK300P Bastion-P dùng động cơ phản lực tĩnh K310 Yakhont có tổng chiều dài tính từ chóp mũi là 8,6 m, đường kính thân 0,67 m, với các cánh ổn hướng/điều hướng gấp gọn trong ống phóng và trọng lượng chờ phóng 3.000 kg.

Khi nhận lệnh phóng, đạn tên lửa K310 kích hoạt buồng đốt thuốc phóng rắn để thoát khỏi ống phóng trước khi mở hệ thống cánh ổn hướng/điều hướng, đồng thời các van điều hướng luồng phụt tại phần đáy đạn và hệ thống tạo luồng phụt tại chóp mũi đạn giúp đạn tên lửa tự ổn định và xoay theo hướng phóng dự kiến.


http://nghiadx.blogspot.com

Tên lửa


Khi đạn tên lửa đã nằm đúng hướng phóng, phần chóp mũi che cửa thu khí động cơ phản lực tĩnh của đạn sẽ bị loại bỏ và đạn tiếp tục sử dụng buồng đốt thuốc phóng rắn để hành trình cho tới ngưỡng tốc độ đủ để vận hành động cơ phản lực tĩnh.

Khi tới ngưỡng tốc độ này, phần buồng đốt thuốc phóng rắn bố trí trong lòng buồng đốt phản lực tĩnh và hệ thống van điều hướng luồng phụt phía đáy đạn sẽ bị loại bỏ để nhường chỗ cho buồng đốt phản lực tĩnh T6 dùng nhiên liệu Kerosene vận hành.

http://nghiadx.blogspot.com


Tại thời điểm này, đạn tên lửa có chiều dài 8,1m, sải cánh ổn hướng là 1,25m, sải cánh điều hướng là 0,96 m và trọng lượng đầu nổ 200 kg.

Tên lửa đối hạm Yakhont có hiệu quả tác chiến cao nhờ tốc độ nhanh, hành trình bay đa dạng, diện tích phản xạ ra-đa nhỏ do được bọc một lớp vật liệu có tính năng hấp thụ sóng radar, cùng hệ thống dẫn đường quán tính ở pha giữa và đầu tự dẫn ra-đa chủ động/thụ động ở pha cuối.


http://nghiadx.blogspot.com


Với tính năng “bắn rồi quên”, đạn tên lửa công kích mục tiêu hoàn toàn tự động sau khi nhận phần tử bắn từ hệ thống trinh sát/điều khiển của tổ hợp.

http://nghiadx.blogspot.com


http://nghiadx.blogspot.com


http://nghiadx.blogspot.com


Thông số kỹ thuật cơ bản

Tầm bắn hiệu quả tối đa:
Hành trình cao thấp hỗn hợp: tới 300km
Hành trình toàn thấp: 120km
Độ cao:
Hành trình cao thấp hỗn hợp (pha phóng/pha cuối): 14,000m/10-15m
Hành trình toàn thấp: không quá 10-15m
Tốc độ tối đa:
Hành trình cao thấp hỗn hợp (pha phóng/pha cuối): 750m/s / 680m/s
Hành trình toàn thấp: 680m/s
Trọng lượng:
Đạn tên lửa chờ phóng: 3.000 kg
Ống phóng dạng kín đã chứa đạn: 3.900 kg
Kích thước ống phóng:
Dài: 8.900mm
Đường kính: 710mm
Đầu đạn: 200kg
Giãn cách phóng giữa các tên lửa khi bắn loạt: 2,5 giây
Cự ly tự phát hiện mục tiêu bằng ra-đa của đạn tên lửa: 50 km
Hạn sử dụng của đạn tên lửa trong ống phóng: 3 năm
Giá bán ước tính:
Tên lửa Yakhont: 3 triệu USD
Toàn bộ hệ thống (với 12 xe mang phóng, 24 tên lửa):125 triệu USD


>> Xu hướng phát triển tên lửa chống hạm hiện đại



Lần đầu tiên, vũ khí tên lửa xuất hiện với tư cách vũ khí tấn công chủ yếu trên các tàu chiến Liên Xô vào cuối những năm 1950 - đầu những năm 1960.



http://nghiadx.blogspot.com

Tên lửa Uran E phóng từ tàu chiến.

Ban đầu, tên lửa chống hạm không được các quốc gia khác đánh giá đúng mức. Tình thế đã thay đổi hẳn sau tháng 10/967,khi một tàu tên lửa lớp Komar của Ai Cập được trang bị các tên lửa chống hạm Liên Xô đã tấn công tiêu diệt khu trục Eilat của Hải quân Israel trong cuộc chiến tranh 6 ngày giữa các nước Arab và Israel.

Sự kiện này có thể xem như điểm xuất phát cho trào lưu do các quốc gia hàng hải hàng đầu mở một mặt trận rộng lớn phát triển loại vũ khí chiến thuật hải quân này.

Chính hồi đó, các hệ thống tên lửa chống hạm nổi tiếng nhất thế giới đã được chế tạo: Đó là tên lửa Exocet của Pháp (bắt đầu phát triển vào năm 1968) và Harpoon của Mỹ (bắt đầu phát triển vào năm 1969-1972). Có thể liệt vào thời kỳ này những thiết kế tên lửa chống hạm tương tự đầu tiên của Nga là 3M-24E (loại tương tự trang bị cho máy bay là Kh-35E).

Điều thú vị là xét về ý tưởng kỹ thuật quân sự, cả 3 mẫu tên lửa này hầu như giống nhau. Khi thiết kế các tên lửa này, chiếm ưu thế là cách tiếp cận hợp lý đối với việc xác định các tính năng kỹ - chiến thuật của tên lửa chống hạm được quy định bởi nguyên tắc bảo đảm sự dung hòa hợp lý giữa khả năng chiến đấu của tên lửa và giá cả.

Tên lửa chống hạm loại này dùng để tiêu diệt các mục tiêu trên biển đông đảo nhất đó là các tàu vận tải, tàu chiến trọng tải nhỏ và vừa. Bên cạnh đó, các thông số kích thước - trọng lượng và mức độ tự hoạt của các hệ thống tên lửa hạm tàu sử dụng các tên lửa chống hạm này phải cho phép sử dụng chúng trên các tàu nhỏ (dạng xuồng tên lửa cho đến tàu corvette - hộ tống hạm).

Ngoài ra, người ta cũng đã bắt đầu chế tạo các tên lửa chống hạm chuẩn hóa cho các loại phương tiện mang, không chỉ cho tàu chiến mà cho cả các hệ thống trên bờ và trên máy bay.

Các tên lửa này cũng giống nhau về nguyên lý dẫn tới mục tiêu. Chúng đều dùng hệ dẫn quán tính kết hợp với thiết bị đo cao vô tuyến chính xác cao và đầu tự dẫn radar chủ động (sau này còn sử dụng hệ dẫn vệ tinh, nhiều mẫu sử dụng các phương pháp dẫn thụ động).

Các thuật toán làm việc của đầu tự dẫn radar chủ động bảo đảm độ bí mật tối đa cho bức xạ vô tuyến của đầu tự dẫn. Đối phương gặp khó khăn trong việc phát hiện tên lửa chống hạm chủ yếu do tên lửa bay ở tốc độ dưới âm cao (Mach 0,85-0,93) và ở độ cao cực nhỏ (5-3m).

"Trường phái" tên lửa chống hạm Nga

Trong khi, Mỹ, Pháp và nhiều nước khác phát triển và sản xuất các tên lửa chống hạm dưới âm đầu tiên. Từ giữa những năm 1970, Liên Xô đã phát triển thành công các tên lửa có điều khiển có tính năng bay - kỹ thuật cao hơn. Đó là hệ thống tên lửa chống hạm trang bị cho hạm tàu Moskit-E (tên lửa 3М-80Е có tốc độ bay gần 800 m/s), cũng như tên lửa không - đối hạm cao tốc Kh-31A (có tốc độ bay 1.000m/s).

Nhờ có tốc độ cao, thời gian tên lửa nằm trong phạm vi sát thương của các hệ thống phòng thủ tên lửa đối phương giảm đi nên bảo đảm khả năng sống còn cao cho tên lửa.

Các chuyên gia đánh giá các công trình sư của các tên lửa này đã thực hiện được cú đột phá công nghệ thực sự và điều đó có được chủ yếu là nhờ áp dụng hệ thống động cơ hỗn hợp mới vốn bao gồm động cơ phản lực - không khí dòng thẳng và tầng khởi tốc nhiên liệu rắn.

Cho đến nay, chưa có hãng nước ngoài nào làm chủ được công nghệ này của Nga. Pháp hiện nay mới chỉ nghiên cứu để áp dụng nó cho các mẫu tên lửa tương lai. Bên cạnh đó, việc thay thế động cơ tên lửa nhiên liệu rắn bằng động cơ phản lực - không khí dòng thẳng cũng có thể làm tăng gấp đôi tầm bắn của tên lửa.

http://nghiadx.blogspot.com

Tên lửa hành trình đối hạm siêu âm Yankhont.



Ngày nay, Nga đang xúc tiến thành công cả 2 hướng phát triển tên lửa chống hạm là các tên lửa dưới âm cỡ nhỏ và các tên lửa siêu âm.

Gần đây, dòng tên lửa chống hạm siêu âm đã được bổ sung một số mẫu của Nga. Đó là các hệ thống tên lửa chống hạm Club với các tên lửa 3M-54E (TE), 3M-14E (TE) của Viện OKB Novator và Yakhont với tên lửa chống hạm 3M-55E của Liên hiệp NPO Mashinstroenia. (>> xem thêm)

Xét về khả năng chiến đấu, các hệ thống này là lớp vũ khí chống hạm chiến dịch - chiến thuật. Cần lưu ý là khi nghiên cứu chế tạo các tên lửa chống hạm mới nhất, Nga đã áp dụng hàng loạt các giải pháp kỹ thuật độc đáo, cho phép coi trường phái thiết kế tên lửa chống hạm Nga vẫn là mạnh nhất thế giới.

Liên quan đến tên lửa chống hạm 3M-24E (Kh-35E), sau khi vượt qua chặng đường bay thử và hoàn thiện bị kéo dài do cuộc khủng hoảng những năm 1990, tên lửa này đã xuất hiện trên nhiều phương tiện mang và cho thấy nó là một vũ khí hiệu quả và vạn năng.

Hiện nay, hệ thống tên lửa hạm tàu Uran-E với tên lửa chống hạm 3M-24E trong khuôn khổ hợp tác kỹ thuật quân sự được cung cấp cho nhiều quốc gia. Các chiến hạm Nga cũng đang được trang bị hệ thống này.


http://nghiadx.blogspot.com

Tổ hợp tên lửa bờ Bal-E khai hỏa.


Hệ thống tên lửa bờ biển cơ động Bal-E với tên lửa này sau những kết quả thử nghiệm tuyệt với đã bắt đầu được đưa vào trang bị cho Hải quân Nga. Một trong những hệ thống đầu tiên được đưa đến làm nhiệm vụ bảo vệ bờ biển Caspie. Theo đánh giá của các chuyên gia, Bal-E có triển vọng xuất khẩu tốt và một số nước đã bắt đầu đặt hàng hệ thống này.

Biến thể trang bị cho máy bay là Kh-35E cũng đã được thử nghiệm trên nhiều loại máy bay. Tên lửa này nằm trong thành phấn vũ khí của các tiêm kích trên hạm MiG-29K và MiG-29KUB sẽ được trang bị cho tàu sân bay Vikramaditya (tàu Đô đốc Gorshkov hiện đại hóa) của Ấn Độ.

Hiệu quả của các hệ thống tên lửa chống hạm đã được thể hiện trong nhiều chiến dịch quân sự nửa cuối thế kỷ 20. Những trận đánh nổi bật nhất của tên lửa chống hạm diễn ra trong cuộc xung đột quân sự Anh - Argentina tranh giành quần đảo Falklands (Malvinas) năm 1982, khi Không quân Argentina dùng các tên lửa АМ-39 Exocet đánh đắm tàu khu trục Sheffield và tàu chở container Atlantic Conveyor của Anh.

Trong chiến tranh Iran - Iraq, từ tháng 2/1983 đến tháng 7/1984 đã ghi nhận 112 trường hợp tên lửa chống hạm Iraq bắn trúng các tàu mặt nước. Trong đó, gần 60% trường hợp các tàu bị tấn công bị đắm hoặc hỏng nặng.

Tương lai của tên lửa chống hạm

Trong những thập niên gần đây, tên lửa chống hạm không lập công xuất sắc ở đâu nữa. Nhưng điều đó có nghĩa là chúng không còn là loại vũ khí khủng khiếp. Vậy triển vọng phát của triển tên lửa chống hạm là như thế nào?

Từ khi Liên Xô sụp đổ và kết thúc chiến tranh lạnh, học thuyết hải quân của các quốc gia hàng đầu bị xem xét lại. Đáng chú ý là những khía cạnh mới của chiến lược hải quân Mỹ Sea Power 21.

Theo đó, thay cho “chiến tranh trên biển”. Nói một cách khác, ngày nay các tàu xuồng đối phương ở vùng biển ven bờ, các mục tiêu trên bờ biển và các mục tiêu nằm sâu trong lãnh thổ đối phương cần tấn công từ biển được xem là những mục tiêu hàng đầu của các chiến dịch trên biển có thể xảy ra.

Hiện nay, Mỹ đã đóng các chiến hạm gọi là tàu chiến vùng nước nông dùng để tiến hành các chiến dịch ở vùng ven bờ.

Những thực tiễn chính trị - quân sự mới không thể không tác động đến sự phát triển vũ khí, trong đó có tên lửa chống hạm. Trước hết, sự phát triển các hệ thống vũ khí chống hạm bắt đầu đi theo hướng mở rộng các chủng loại mục tiêu. Từ một phương tiện tác chiến trên biển, tên lửa chống hạm đang biến thành phương tiện tác chiến ở các khu vực ven bờ và bờ biển.

Những thiết kế tên lửa chống hạm mới nhất của Nga và nước ngoài có khả năng tác chiến tốt không chỉ chống hạm tàu ở ngoài khơi mà cả các hạm tàu đang nằm trong cảng, cũng như nhiều loại mục tiêu bờ, kể cả các mục tiêu ở cách xa bờ biển và bị che khuất bởi bề mặt gấp địa hình. Các tên lửa đó thường được trang bị hệ thống dẫn đường vệ tinh.


http://nghiadx.blogspot.com

Tên lửa không đối hạm AM-39 Exocet từng là "nỗi sợ hãi" đối với các tàu chiến Anh trong cuộc chiến Anh - Argentina 1982.



Họ tên lửa Exocet cũng đang được phát triển theo hướng này, trong đó biến thể cải tiến mới Block III được nâng cấp chuyên để tấn công mục tiêu bờ.

Trong những mẫu mới nhất của Harpoon Block II Plus có sử dụng phần mềm hỗ trợ để bảo đảm quỹ đạo bay và biên dạng bay ở độ cao cực nhỏ, bay bám địa hình. Tên lửa Harpoon 21 (Harpoon Block III) thì được trang bị đầu tự dẫn 3 chế độ và các phương tiện nhận dạng mục tiêu.

Ngày nay, có thể nói đến sự xuất hiện của một lớp tên lửa hải quân mới với điểm khác với các tên lửa chống hạm thông thường là chúng có thể được xem là vũ khí tiêu chuẩn hóa theo mục tiêu.

Một trong những mẫu tên lửa đầu tiên của Nga thuộc lớp này là 3M-14E (TE). Ở cấu hình dùng để tiêu diệt mục tiêu bờ, tên lửa được trang bị phần chiến đấu thiết kế riêng cho mục tiêu này. Đầu tự dẫn của tên lửa có thể phân biệt trên phông địa hình bên dưới không chỉ các mục tiêu có tương phản vô tuyến mà cả các mục tiêu nhỏ, khó phát hiện.

Các thiết kế tên lửa chống hạm Nga không những không thua kém các mẫu tốt nhất của phương Tây và còn vượt trội so với chúng về tính độc đáo và chiều sâu các giải pháp kỹ thuật.

Những chi tiết mới của các chiến lược hải quân hiện đại nâng cao đáng kể vai trò của các hệ thống tên lửa bờ biển cơ động vạn năng, có khả năng tiêu diệt hạm tàu đối phương đang ở các giai đoạn khác nhau của một chiến dịch tiến công, cũng như tấn công các lực lượng đổ bộ và các mục tiêu bờ biển và khu vực lãnh thổ do đối phương chiếm giữ.

Các hệ thống tên lửa bờ biển có các phẩm chất như khả năng cơ động, khả năng ẩn giấu trong các nếp gấp địa hình và có cơ số đạn lớn, có khả năng bảo vệ hiệu quả các vùng lãnh thổ ven bờ mà không tốn phí quá lớn. Hệ thống tên lửa bờ biển Bal-E được thiết kế để đảm nhiệm chính các chức năng đó. Nhóm các công trình sư của Tập đoàn “Vũ khí tên lửa chiến thuật” (KTRV) tham gia phát triển Bal-E đã được tặng thưởng các phần thưởng nhà nước theo sắc lệnh của Tổng thống Nga.


http://nghiadx.blogspot.com

Tên lửa Kh-35UE.


Liên quan đến việc tiếp tục phát triển tên lửa chống hạm Kh-35E (3M-24E) của Nga thì hiện nay, hãng thiết kế là KTRV tuyên bố sẵn sàng sản xuất tên lửa mới là Kh-35UE. Về các tính năng kỹ - chiến thuật cơ bản, tên lửa này vượt trội 2-2,5 lần so với mẫu cơ sở.

Hiển nhiên là biến thể tên lửa chống hạm mới này có sử dụng những thành tựu mới nhất của ngành chế tạo tên lửa Nga và có tính đến các xu hướng phát riển vũ khí đối hạm đặc trưng cho những mẫu vũ khí mới nhất của các công ty hàng đầu thế giới.

Việc phân tích các xu hướng phát triển tên lửa chống hạm thế giới cho thấy rằng, loại vũ khí này không hề mất đi tầm quan trọng của mình. Việc hoàn thiện vũ khí này trong thời gian sắp tới sẽ đi theo hướng mở rộng chủng loại mục tiêu có thể tiêu diệt, cũng như tiêu chuẩn hóa tối đa theo các phương tiện mang.

Liên quan đến việc lựa chọn các chế độ bay tính toán thì hiện nay, đều đang thực hiện thành công như nhau các chế độ bay:

- Tốc độ bay dưới âm cao kết hợp độ cao bay tối thiểu;
- Tốc độ siêu âm kết hợp độ cao bay tối thiểu có thể;
- Bay tới mục tiêu theo biên dạng hỗn hợp sử dụng các tốc độ dưới âm và siêu âm.

Dường như để hoàn thành tốt nhiệm vụ liên quan đến các chiến dịch ở vùng ven bờ, các tên lửa dưới âm có thể có ưu thế nhất định nhờ có độ bộc lộ nhỏ hơn (kích thước), khả năng cơ động cao hơn và cơ số đạn trên phương tiện mang lớn hơn.

Liên quan đến việc phát triển các hệ thống phòng thủ bờ biển, hướng nghiên cứu này vẫn là cấp thiết đối với Nga. Hiện nay, hệ thống tên lửa bờ biển Bal-E mới được đưa vào trang bị kết hợp với các hệ thống tên lửa bờ chiến dịch - chiến thuật Bastion (sử dụng tên lửa 3M-55E) hay Club-М (sử dụng tên lửa 3M-54KE và 3M-14KE) có khả năng giải quyết nhiệm vụ này với điều kiện mua sắm số lượng đủ lớn có xét đến các khu vực bờ biển nguy hiểm tiềm tàng.


>> Tan giấc mộng 'MiG-23 made in China'



Từng định sao chép MiG-23 và F-111 để tạo ra thiết kế riêng mang tên Q-6 nhưng do năng lực công nghiệp quốc phòng Trung Quốc hạn chế, dự án đã thất bại hoàn toàn.



http://nghiadx.blogspot.com


Những năm 1970, loại cường kích duy nhất có mặt trong Không quân Trung Quốc là Q-5 nhưng chúng có bán kích chiến đấu ngắn, hệ thống điện tử lạc hậu.

Yêu cầu bức thiết

Năm 1974, Hải quân Trung Quốc từng dự định triển khai 115 máy bay để thực hiện 401 phi vụ hỗ trợ chiến đấu. Nhưng thực tế không có bất kỳ máy bay nào đảm đương được nhiệm vụ. Không quân Trung Quốc và Không quân Hải quân Trung Quốc không có khả năng thực hiện nhiệm vụ hỗ trợ đánh biển.

Nguyên nhân được xác định do Trung Quốc thiếu hệ thống điện tử hiện đại và cơ sở hạ tầng để hỗ trợ cuộc chiến tranh trên không hiện đại. Trung Quốc tự nhận ra rằng các chiến đấu cơ trong kho vũ khí của họ không đủ khả tham gia nhiệm vụ hỗ trợ trận đánh trên biển:

- Các máy bay tiêm kích đánh chặn J-5 (sao chép MiG-17), J-6 (sao chép MiG-19), J-7 (sao chép MiG-21) và J-8 thiếu khả năng cường kích mặt đất, bán kính tác chiến ngắn.
- Máy bay cường kích mặt đất Q-5 có bán kính tác chiến ngắn, tải trọng vũ khí nhỏ.
- Máy bay ném bom H-5 (sao chép Il-28) và H-6 (sao chép Tu-16) có tốc độ thấp, thiếu tính năng tự phòng vệ.

Trước tình hình trên, Trung Quốc quyết định phát triển máy bay mới đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đánh biển cho Hải quân Trung Quốc.

Sau năm 1974, Không quân và Không quân Hải quân Trung Quốc đệ trình yêu cầu về cường kích cơ mới lên Bộ số 3 (Cơ quan Trung ương Trung Quốc giám sát công nghiệp hàng không).

Sau khi nghiên cứu chi tiết, dựa theo năng lực hiện có của công nghiệp quốc phòng Trung Quốc, Bộ số 3 nhận thấy không thể phát triển song song 2 kiểu máy bay trong cùng thời gian. Thay vào đó, Bộ số 3 quyết định chỉ phát triển một máy bay nhưng có nhiều biến thể đáp ứng yêu cầu cho Hải quân và Không quân Trung Quốc.

Năm 1976, đại diện các nhà máy chế tạo máy bay của Trung Quốc đã tụ họp ở Bắc Kinh để thảo luận về dự án mới. Theo đó, Nhà máy chế tạo máy bay Thẩm Quyến đưa ra bản thiết kế JH-8 – biến thể J-8II. Nhà máy chế tạo máy bay Nanchang đưa ra thiết kế Q-6 và Nhà máy Tây An đưa ra JH-7.

Cả 2 mẫu thiết kế JH-8 và JH-7 đều không khả thi, cuối cùng Trung Quốc lựa chọn mẫu Q-6 làm ứng cử viên cho chương trình phát triển máy bay cường kích mới trang bị cho Không quân và Không quân Hải quân Trung Quốc.

Vẫn "đi theo" Liên Xô

Nếu như các chiến đấu cơ chủ lực của Trung Quốc J-6, J-7 đều là thiết kế sao chép công nghệ máy bay Liên Xô thì Q-6 không phải là ngoại lệ.

Trước khi chính thức bắt đầu chương trình, Trung Quốc đã thu mua thành công 2 chiếc tiêm kích đánh chặn cánh cụp cánh xòe MiG-23BN và MiG-23MS từ Ai Cập.

http://nghiadx.blogspot.com

Tiêm kích đánh chặn cánh cụp cánh xòe MiG-23.(*)

Dựa trên kết quả nghiên cứu MiG-23, Trung Quốc quyết định đi theo hướng phát triên máy bay cường kích với kiểu cánh cụp cánh xòe. Nhà thiết kế chính dự án cường kích Q-5 Lục Hiếu Bành (Lu Xiaopeng) được chỉ định đảm nhận dự án Q-6.

Kế hoạch ban đầu thiết kế Q-6 dựa trên MiG-23BN – biến thể cường kích mặt đất của MiG-23. Nhưng Quân đội Trung Quốc lại yêu cầu mẫu cường kích phải có khả năng không chiến, tự phòng vệ. Nếu như vậy, yêu cầu mẫu máy bay không chiến cần phải có radar (biến thể cường kích không cần radar), Nanchang quyết định thiết kế Q-6 dựa theo MiG-23MS.

Ba nhân tố dẫn tới “cái chết” của Q-6

Một trong những bộ phận quan trọng cho chiến đấu cơ mới là động cơ, các nhà khoa học Trung Quốc trong quá trình nghiên cứu chỉ ra rằng động cơ phản lực không đáp ứng yêu cầu cung cấp lực đẩy cần thiết hoạt động không chiến, vì thế họ quyết định phát triển động cơ tuốc bin phản lực cánh quạt đẩy.

Động cơ mới mang tên WS-6 bắt đầu phát triển năm 1964. Sau 17 năm nghiên cứu, tới tháng 10/1980 thì tham số động cơ cơ bản đã đáp ứng yêu cầu. Mặc dù đã được nhận giấy phép sản xuất năm 1981, nhưng dự án này vẫn tiếp tục nghiên cứu. Lý do được nêu ra là, lực đẩy động cơ WS-6 mới chỉ đạt 71 kN chưa đủ sức mạnh cần cho Q-6 trong không chiến.

Năm 1983, biến thể WS-6G xuất hiện, cung cấp lực đẩy khoảng 138 kN, nhưng do hạn chế ngành công nghiệp quốc phòng Trung Quốc thời điểm đó, nên động cơ này không đáng tin cậy về mọi mặt, thậm chí tuổi thọ của động cơ chỉ khoảng 50 giờ. Đây là nhân tố thứ nhất dẫn tới sự chết yểu cuả dự án Q-6.

Về hệ thống điện tử trang bị cho Q-6, việc Trung Quốc lựa chọn MiG-23MS là mẫu thiết kế phát triển Q-6 là muốn tận dụng loại radar RP-22 Sapfir-21. Nhưng loại radar này thiếu tính năng hỗ trợ không chiến ngoài tầm nhìn, điều đó tiếp tục cản trở dự án Q-6.

http://nghiadx.blogspot.com

Hình họa mô tả kiểu dáng Nanchang Q-6.

Theo một số nguồn tin, Trung Quốc có thể đã nhận được xác máy bay cường kích cánh cụp cánh xòe F-111 mà quân dân miền bắc Việt Nam bắn hạ trong cuộc chiến tranh phá hoại mà Mỹ tiến hành ở Việt Nam.

Trong quá trình “mổ xẻ”, các nhà thiết kế Nanchang đã phát hiện ra những ưu điểm về loại radar trang bị trên F-111. Vì thế, họ chế tạo loại radar tương tự loại sử dụng trên F-111 gồm radar quét mặt đất AN/APQ-13 (tích hợp dễ dàng chế độ không đối không) và radar bám bề mặt địa hình AN/APQ-10 (dùng trong tiến công độ cao thấp). Chúng sẽ được đặt trong mũi Q-6 tương tự cách đặt ở F-111 (radar AN/APQ-10 đặt dưới radar AN/APQ-13).

Tuy nhiên, ý tưởng đề ra là rất khả thi nhưng năng lực công nghiệp sản xuất vi mạch điện tử thời điểm đó của Trung Quốc còn hạn chế nhiều. Trung Quốc chưa thể đủ khả năng sản xuất mạch điện tử thể rắn.

Họ tìm kiếm các vật liệu thay thế, cuối cùng Trung Quốc chế tạo được hệ thống radar nhưng khối lượng và kích thước tăng lên. Điều đó ảnh hưởng tới thiết bị điện tử khác: radar cảnh báo sớm, đo xa laze, thiết bị liên lạc và hệ thống hạ cánh.

Vấn đề cuối cùng là vật liệu chế tạo thân máy bay, trình độ Trung Quốc chưa thể sản xuất được vật liệu composite cần thiết cho khung máy bay. Trong giai đoạn phát triển, Trung Quốc sửa đổi thiết kế MiG-23, họ cho rằng cửa hút khí mở ở hai bên máy bay không hiệu quả trong không chiến thay vào đó là dùng cửa hút đặt dưới bụng máy bay (như kiểu F-16 hay J-10) sau này.

Năm 1989, chương trình phát triển Q-6 chính thức hủy bỏ. Giới tướng lĩnh Trung Quốc cho rằng cường kích cánh cụp cánh xòe Q-6 không thích hợp cho cuộc chiến tranh hiện đại, kiểu cánh như vậy sẽ mở rộng tiết diện phản xạ radar nhiều lần và do đó làm cho nó không thể sống sót trên chiến trường.

Thực tế, Trung Quốc bắt buộc hủy bỏ dự án Q-6 do năng lực công nghiệp quốc phòng không đủ sức để phát triển các động cơ, thiết bị điện tử hiện đại. Nanchang đã sản xuất 3 nguyên mẫu và đều dùng để nghiên cứu thử nghiệm nhưng không có chiếc nào cất cánh.

(*) MiG-23 là tiêm kích cánh cụp cánh xòe do cục thiết kế Mikoyan - Gurevich phát triển. MiG-23 đại diện cho lớp máy bay chiến đấu thế hệ thứ 3 của Liên Xô. Kể từ khi bắt đầu sản xuất vào năm 1970, đã có khoảng 5.000 chiếc MiG-23 ra lò. Ngày nay, chúng phục vụ hạn chế ở một số quốc gia trên thế giới với vai trò tiêm kích, cường kích.

MiG-23 trang bị một động cơ tuốc bin phản lực cho phép đạt vận tốc gấp hơn 2 lần vận tốc âm thanh, bán kính chiến đấu khoảng 500-600km. MiG-23 mang các tên lửa đối không tầm ngắn, tầm trung trên 6 giá treo.




>> Tàu sân bay Trung Quốc có tác động tới biển Đông ?



Khi đã sở hữu một tàu sân bay, Trung Quốc sẽ làm gì với nó, mục đích thực sự của việc sở hữu tàu sân bay là gì?



http://nghiadx.blogspot.com

Tàu sân bay Thi Lang với chuyến thử nghiệm đầu tiên bằng tàu kéo.

Các chuyên gia quân sự nước ngoài đã tập trung giải mã câu hỏi, Trung Quốc sẽ làm gì với tàu sân bay này. Mục đích thực sự của việc sở hữu tàu sân bay là gì, chiến lược của Trung Quốc sẽ thay đổi như thế nào sau sự kiện này.

Biểu tượng cho sự lớn mạnh

Sự xuất hiện của tàu sân bay Thi Lang cũng tương tự như các sự kiện chứng minh cho sự lớn mạnh không ngừng của Trung Quốc. Giống như sự kiện khánh thành đập Tam Điệp, đập thủy điện lớn nhất thế giới, chiếc cầu vượt biển dài nhất thế giới nối Thanh Đảo và Haiwan. Đường sắt cao tốc dài nhất thế giới.

Tàu sân bay Thi Lang là biểu tượng vô cùng mạnh mẽ cho sự lớn mạnh không ngừng của quân đội Trung Quốc nói chung và hải quân nói riêng. Sự hoàn thiện khả năng chiến đấu đã có trước đó như các hệ thống vũ khí chiến lược như tên lửa đạn đạo liên lục địa, tên lửa chống hạm tầm siêu xa, hệ thống vệ tinh và tác chiến không gian mạng.

Khả năng thực sự của tàu sân bay là gì?

Theo thông báo của Trung Quốc, tàu sân bay Thi Lang là một bản thiết kế lỗi thời, và sẽ được sử dụng cho mục đích đào tạo và nghiên cứu khoa học. Điều này có lẽ là khá chính xác.

Nhà phân tích hải quân Andrew Erickson và Gabriel Collins mô tả rằng, tàu sân bay Varyag đã được thông báo khá rộng rãi là sẽ được đổi tên thành Thi Lang, được sử dụng như một tàu sân bay cho mục đích đào tạo, thật khó để tưởng tượng nó được sự dụng như một vũ khí chiến tranh. Trong khi đó, tiêm kích được dự định sử dụng trên tàu sân bay này là J-15 đang trong giai đoạn phát triển.


http://nghiadx.blogspot.com

Mục đích sử dụng của tàu sân bay này có thể làm thay đổi toàn bộ tình hình an ninh châu Á.


Dean Cheng một nhà nghiên cứu tại Trung tâm Heritage Foundation của Mỹ ước tính rằng. Cột mốc cho tiêm kích J-15 hoàn thành công tác phát triển cần một khoảng thời gian ít nhất là 18 tháng nữa.

Công tác đào tạo phi công thực tế trên tàu sân bay sẽ là một công việc cực kỳ khó khăn và tốn kém. Ông Cheng cảnh báo rằng “Họ sẽ phải hứng chịu những thất bại và mất mát cả phi công lẫn máy bay”.

Cần 3 tàu sân bay để chấm dứt sự thống trị của Mỹ, Ấn?

Điều này thực sự là không rõ ràng, đang có tin đồn là Trung Quốc đang xây dựng 2 tàu sân bay nội địa tại nhà máy đóng tàu Thượng Hải và Giang Nam. Mục tiêu của chương trình này đang nhắm đến năm 2015.

Điều này giả định rằng, Trung Quốc có thể khắc phục các vấn đề khó khăn trong đóng tàu thông qua kinh nghiệm tân trang tàu sân bay Varyag. Thiết kế của tàu sân bay mới sẽ tiết lộ nhiều vấn đề, kích thước, khả năng hoạt động, hệ thống đẩy thông thường hay năng lượng hạt nhân, sử dụng đường băng kiểu nhảy cầu hay sử dụng máy phóng.

Tuy nhiên các kỹ sư Trung Quốc gần như không có kinh nghiệm trong việc phát triển máy phóng, cũng như các công nghệ liên quan.

Ông Cheng tính toán rằng, Trung Quốc đã cải tạo Thi Lang trong một thời gian dài, vì vậy họ đã suy nghĩ về phương thức sử dụng tàu sân bay trong một thời gian dài. “Trung Quốc có thể xây dựng 2 tàu sân bay sau đó dừng lại, vì không có trong lịch sử việc xây dựng lớn lực lượng hải quân, ngoại trừ các tàu tuần tra và tàu tấn công".

Tuy nhiên, Stacy Pedrozo, một thành viên của Hội đồng quan hệ đối ngoại Mỹ cho rằng “Trung Quốc có ý định sử dụng tàu sân bay để chấm dứt sự thống trị của Mỹ tại Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương trong khoảng thời gian từ năm 2020-2040. Để đạt được điều này bạn cần ít nhất là 3 tàu sân bay trên biển”

Tác động đối với Biển Đông

Việc sở hữu tàu sân bay sẽ là suy yếu lập luận của Trung Quốc, rằng chiến lược xây dựng quân đội của họ hoàn toàn mang tính chất phòng thủ. một tàu sân bay không thể và không bao giờ được dùng cho mục đích phòng thủ.

Điều này làm các nước trong khu vực đặc biệt là ASEAN trở nên cảnh giác hơn, rất nhiều hệ thống tên lửa chống hạm tối tân và tàu ngầm mới xuất hiện tại đây, đó sẽ là vấn đề cho hạm đội tàu sân bay của Trung Quốc.

Biển Đông là một vùng nước khá sâu, đây là điều kiện lý tưởng cho hoạt động của tàu ngầm. Nếu Trung Quốc không đạt được sự tiến bộ về khả năng chống ngầm trong thời gian tới, tàu sân bay Thi Lang sẽ không nhận được sự tha thứ trong xung đột vũ trang.

Giáo sư Carlyle Thayer tại Học viện quốc phòng Australia cho rằng: “Trung Quốc chưa bao giờ thông tin một cách rõ ràng về những gì mà tàu sân bay sẽ làm, điều này làm tăng các vấn đề nhạy cảm trong tranh chấp chủ quyền tại biển Đông, điều mà Trung Quốc đang hướng tới cùng với một tàu sân bay là gì”.

Giáo sư William Murray tại ĐH Chiến tranh Hải quân Mỹ cho biết “Trung Quốc sẽ mất một thời gian dài khó khăn để thuyết phục các nước láng giềng về vai trò của tàu sân bay”.

Tàu sân bay của Trung Quốc có vẽ lỗi thời cũng như các hệ thống vũ khí khác, do đó Trung Quốc có thể chứng minh khả năng của mình bằng các vũ khí phi đối xứng đã được phát triển cho đến nay. Học thuyết quân sự của Trung Quốc có thể sẽ thay đổi khá nhiều sau khi tàu sân bay Thi Lang được đưa vào vận hành.


Thứ Tư, 17 tháng 8, 2011

>> Nga ngừng sản xuất hệ thống S-300



Nga đã ngừng sản xuất hệ thống tên lửa phòng không S-300, đồng chủ tịch của Hội đồng tư vấn về hàng không vũ trụ quốc phòng, Igor Ashurbeyli thông báo với RIA Novosti .



http://nghiadx.blogspot.com

http://nghiadx.blogspot.com
Tổ hợp S-300.


Ông Ashurbeyli nhấn mạnh, “Các tổ hợp S-300PM cuối cùng được sản xuất cho quân đội Nga là vào khoảng năm 1994. Kể từ đó, Nga chỉ sản xuất những tổ hợp S-300 dành cho xuất khẩu, nhưng đơn hàng xuất khẩu mới đối với S-300 hiện tại đã ngưng”.

S-300 bắt đầu được sản xuất từ năm 1978. Tùy thuộc vào biến thể, tổ hợp này có khả năng đánh chặn các đối tượng bay ở khoảng cách 47-150 km, tốc độ của tên lửa có thể đạt 1.300-2.800 m/giây, có khả năng phát hiện nhiều mục tiêu trên không ở phạm vi 120-300 km.

http://nghiadx.blogspot.com
Tổ hợp S-300 của Không quân Hy Lạp


Hệ thống Radar của tổ hợp S-300 có khả năng theo dõi tới 300 mục tiêu cùng một lúc. Ngoài Nga, S-300 đang được biên chế trong lực lượng vũ trang của 18 quốc gia trên thế giới, bao gồm Armenia, Azerbaijan, Belarus và Trung Quốc…

Bộ Quốc phòng Nga dự định nâng cấp tổ hợp S-300 lên tổ hợp tên lửa S-400. Hiện nay, Nga đã có hai trung đoàn S-400 và trong chương trình vũ khí nhà nước giai đoạn 2011-2020 dự kiến ​​mua 56 tiểu đoàn S-400.

Từ năm 2015 lực lượng vũ trang Nga sẽ nhận tổ hợp tên lửa mới S-500, cùng với S-400 sẽ xát nhập vào một hệ thống phòng thủ hàng không vũ trụ thống nhất và sẽ đảm bảo khả năng phòng không và phòng thủ tên lửa.

Ngoài ra, tổ hợp tên lửa phòng không siêu hiện đại S-500 cũng sẽ đảm đương nhiệm vụ bảo đảm phòng không và phòng thủ riêng. Để củng cố thêm khả năng tác chiến cho lực lượng phòng không vũ trụ, Nga cũng sẽ trang bị cả các hệ thống tên lửa phòng không Morpheus và Knight.


http://nghiadx.blogspot.com


http://nghiadx.blogspot.com


Tổ hợp tên lửa Knight & Mopheus dự kiến thay thế cho S-300.


Mặc dù ngừng sản xuất tổ hợp tên lửa S-300, song dẫu sao Nga vẫn có thể cung cấp một số lượng nhất định tổ hợp tên lửa loại này cho các nhà đặt hàng dễ tính từ nguồn dự trữ của Bộ Quốc phòng.

Vấn đề đặt ra đối với Tập đoàn Almaz-Antey khi ngừng sản xuất tổ hợp tên lửa S-300 là phải duy trì các cơ sở sản xuất của mình bằng các hợp đồng sản xuất tổ hợp tên lửa S-400 mới. Tuy nhiên, đến nay, các hợp đồng này vẫn chưa có, trong khi chủ trương của Bộ Quốc phòng Nga là trong tương lai gần sẽ thay thế tổ hợp S-300 bằng các tổ hợp tên lửa mới, trong đó có S-400 Triumf và Knight.


http://nghiadx.blogspot.com

Tổ hợp tên lửa phòng không S-400 Triumf phát triển từ S-300PMU.


http://nghiadx.blogspot.com

Tổ hợp tên lửa phòng không S-500 sẽ được biên chế năm 2015.

>> Triển lãm MAKS-2011



Ngày 16/8/2011, triển lãm hàng không lớn nhất trong năm MAKS-2011 đã chính thức bắt đầu.

Trước đó, các máy bay nước ngoài đã lần lượt tới Zhukovsky, địa điểm diễn ra triển lãm để phục vụ cho công tác chuẩn bị.

Các đội bay biểu diễn cũng đang nỗ lực luyện tập không ngừng. Sau đây là một số hình ảnh chuẩn bị cho triển lãm:


http://nghiadx.blogspot.com

Màn nhào lộn điêu luyện của máy bay tiêm kích Mig-35.



Máy bay Mig-35 là phiên bản máy bay tiêm kích siêu hiện đại, được trang bị radar Zhuk-AE và động cơ có miệng phụt chỉnh hướng 3D.



Máy bay trong hình là chiếc Mig-35 đầu tiên được sản xuất, có số hiệu 156.





Nó xuất hiện lần đầu tại triển lãm hàng không Ấn Độ năm 2007.



Máy bay tiêm kích đa năng Su-35S. Đây là loại máy bay hiện đại nhất phát triển từ máy bay Su-27 hiện nay.



Máy bay Airbus A-380 hạ cánh xuống phi trường Zhukovski.



Đây là lần thứ hai loại máy bay chở khách khổng lồ này bay tới Nga.



Là loại máy bay chở khách lớn nhất hiện nay, Airbus A-380 có khả năng chở theo 555 hành khách.



Hành trình tối đa của A-380 lên tới 15.400 km.



Hiện giá trung bình một chiếc Airbus A-380 là 375,3 triệu USD.



Máy bay Su-27 của phi đội bay biểu diễn Ruskiy Vityaz



Chúng đang tập luyện cùng những chiếc Mig-29 của phi đội Strizhi.




"Ngôi sao" của triển lãm MAKS-2011.



Máy bay thế hệ thứ năm mới nhất của Nga Sukhoi T-50 PAK-FA đang được kéo ra đường băng.



Mẫu thử thứ hai của chiếc Sukhoi T-50 PAK-FA mang số hiệu 051. Phần đuôi của chiếc máy bay này được thiết kế chứa dù ổn định để phục vụ các bài thử thất tốc của máy bay.



Hai chiếc Sukhoi T-50 PAK-FA số hiệu 051 (dưới) và 052 (trên) cất cánh cùng nhau.



Thủy phi cơ cứu hỏa Beriev Be-200 Altairs đang tập luyện phun màn nước theo hình quốc kỳ Nga.



Máy bay chở khách hiện đại Superjet-100 của Sukhoi.
Chiếc máy bay này có thể chở được 95 hành khách và nhắm vào phân khúc máy bay chở khách giá rẻ.



Hiện nay trên thế giới đã có 15 hãng hàng không của 11 nước đặt mua tổng cộng gần 300 chiếc Superjet-100. Giá trung bình một chiếc Superjet-100 khoảng 35 triệu USD.



Máy bay chở khách Tupolev Tu-204SM.



Phiên bản hiện đại hóa của máy bay Tu-204 với khả năng chở 210 hành khách.



Máy bay vận tải của Airbus chở máy bay đến tham gia triển lãm hàng không MAKS-2011. Trong triển lãm này, Airbus dự tính họ sẽ ký hợp đồng bán được khoảng 400 máy bay các loại.

Copyright 2012 Tin Tức Quân Sự - Blog tin tức Quân Sự Việt Nam
 
Lên đầu trang
Xuống cuối trang