Tin Quân Sự - Blog tin tức Quân sự Việt Nam

Paracel Islands & Spratly Islands Belong to Viet Nam !

Quần Đảo Hoàng Sa - Quần Đảo Trường Sa Thuộc Về Việt Nam !

Chủ Nhật, 19 tháng 5, 2013

>> Người Nga nhìn nhận thảm bại của B-52 Mỹ tại Việt Nam như thế nào ?

Bầu trời Hà nội tháng 12-1972 đã đi vào lịch sử chiến tranh như một cuộc chiến đấu trên không với sự tham gia của lực lượng không quân chiến lược mạnh nhất, sức hủy diệt cao nhất và vũ khí trang bị, phương tiện chiến tranh hiện đại nhất, cường độ tác chiến cao nhất tính từ sau Chiến tranh thế giới lần thứ II.

>> Triều Tiên có thể vít cổ B-52 như Việt Nam?

Trên bầu trời Miền Bắc Việt Nam ngày 18-31 tháng 12-1972, cả lực lượng tên lửa QĐND Việt Nam với các cố vấn Liên Xô, hệ thống tên lửa S-75, hai tập đoàn không quân hùng mạnh của Mỹ 7 và 8 (Seventh air force và Eighth air force) đã chịu đựng một cuộc thử thách vô cùng khắc nghiệt.

Trong rất nhiều các tài liệu của Nga đã viết về những trận đánh khốc liệt trên bầu trời Miền Bắc Việt Nam vào tháng 12-1972. (tạp chí VKO số. № 1, 2, 4 và 6 trong năm 2004). Điều đó cũng dễ hiểu vì đó là chiến dịch không tập và phòng không lớn nhất trong lịch sử chiến tranh giai đoạn giữa của thế kỷ 20.

Nhưng cũng có nhiều chi tiết cũng như nhiều sự kiện đã diễn ra ngoài tầm quan sát và nghiên cứu của các tác giả VKO trong chiến dịch Linebacker II. Bài viết này đề cập đến những chi tiết có ảnh hưởng đến các hoạt động tác chiến cụ thể của các phi đội máy bay B-52 thuộc lực lượng không quân Mỹ, được các phương tiện thông tin đại chúng Mỹ đăng tải.


Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com

Ngày 18-12-1972, căn cứ không quân Andersen trên đảo Guam của lực lượng không quân Mỹ. Trong suốt một giờ 43 phút, cả mặt đất, không gian và bầu trời rung chuyển bởi áp lực và tiếng gầm của động cơ phản lực công suất cực lớn. 87 'pháo đài bay' khổng lồ B-52 Stratofortress lần lượt cất cánh chiếm lĩnh vị trí trong đội hình hành tiến hướng về bầu trời miền Bắc Việt Nam. Sau đó là 42 máy bay B-52 Stratofortress từ căn cứ Utapao – Thái Lan cũng kết nối vào đội hình không kích.

Đội hình lực lượng không kích chủ công lớn nhất trong lịch sử chiến tranh đường không sẽ đổ một khối lượng khổng lồ bom xuống các sân bay Hòa Lạc, Kép, Phú Yên, nhà máy sửa chữa ô tô Kinh Nỗ, thuộc xã Uy Nỗ, Hải Dương. Nhà máy sửa chữa đầu máy, toa xe lửa tại Hà Nội, Ga đường sắt Yên Viên, Đài phát thanh tiếng nói Việt Nam tại trung tâm thủ đô Hà Nội. Mỗi chiếc máy bay B-52D cất cánh ở sân bay Utapao Thái Lan mang theo 108 quả bom 340 kg, B-52 D từ Guam mang theo 66 quả bom 340 kg, trên máy bay B-52G là 27 quả bom.

Đòn tấn công các mục tiêu đã nêu được chia thành 3 đợt dồn dập trút bom của B-52. Chỉ có máy bay “Nước” 02 “và Đỏ” 03 (cả hai đều là B-52G; theo quy định thông thường, phi chuẩn, biên đội máy bay 3 chiếc được đặt tên, số là vị trí số của máy bay trong biên đội). Đây cũng là câu trả lời hết sức mập mờ từ một nguồn giấu tên. Tốp máy bay này đã tiến hành tấn công các trận địa pháo phòng không và thoát ra khỏi lưới lửa an toàn. Nhưng tất cả 127 chiếcStratofortress còn lại sẽ được đón tiếp 'nồng hậu'.
Gặp gỡ với tử thần

Đợt tấn công dồn dập 1 bao gồm 48 chiếc Stratofortress 21 từ Utapao và 27 chiếc từ Andersen. 12 chiếc B-52D và 15 chiếc B-52G trong đợt dồn dập 1 có mặt trên các mục tiêu vào hồi 19h45 giờ Hà Nội. Tốp “Tuyết” đã trút 324 quả bom xuống đường băng của sân bay Hòa Lạc, phía Tây Nam ngoại thành Hà Nội.


Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com


20h03 chiếc B-52D từ tốp máy bay “Tử đinh hương – Cà tím ”03 số hiệu máy bay là 6768, sân bay Andersen đang chuẩn bị cắt bom xuống nhà máy sửa chữa ô tô sau 15 phút thì một quả tên lửa SA-75M nổ tung bên cạnh. Máy bay bị mảnh tên lửa xuyên thủng nhiều chỗ. Nhưng nó đã cố gắng lết đến sân bay Utapao – Thái Lan. Các tài liệu ghi lại hoàn toàn không rõ ràng số bom trên máy bay kíp lái đã trút đi đâu.

Mấy phút sau chiếc B-52G thuộc phi đội “Than” 01 (số hiệu 8201), đang bay ở độ cao 34 000 ft (10km) nổ tung do trúng 2 quả đạn tên lửa V-750 trước khi máy bay kịp trút bom xuống nhà ga xe lửa Yên Viên. Sau gần một phút chiếc pháo đài bay vỡ tung thành nhiều mảnh và rơi xuống địa phận Huyện Kim Anh, Vĩnh Phúc. 3 phi công trong kíp lái 6 người kịp nhảy dù, nhưng bị bắt làm tù binh và cũng là 3 tù binh đầu tiên thuộc lực lượng không quân chiến lược Hoa Kỳ. Tiêu diệt chiếc pháo đài bay này là tiểu đoàn tên lửa số 59 của Quân chủng Phòng không- không quân. Mảnh xác của chiếc máy bay này hiện đang nằm trong Viện bảo tàng Lịch sử quân sự Việt Nam ở Hà Nội.

Đợt tấn công thứ hai do 30 pháo đài bay B52D và G thuộc căn cứ Andersen. Thời gian là khoảng gần nửa đêm, mục tiêu vẫn là các điểm ném bom của đợt tấn công thứ nhất. Bay trên độ cao 38 500 ft (11.734km) “Cam”02 (B-52G số hiệu 8246) đã trút toàn bộ bom xuống mục tiêu và bắt đầu vòng lượn trở về thì một đầu đạn tên lửa V-750 phát nổ phía bên trái. Mảnh tên lửa xé nát cánh cản và chọc thủng thùng dầu trên cánh. Hai động cơ bị mảnh đạn băm thành nhiều mảng vỡ. Máy bay bốc cháy, nhưng cơ trưởng đã cố gắng giữ được lái, thoát khỏi vòng lửa và duy trì hướng bay về phía Thái Lan. Kíp lái nhảy dù rơi xuống vịnh Bắc bộ và được lực lượng cứu hộ của hải quân Mỹ vớt lên, đưa về Utapao, sau đó chuyển về Andersen - Guam.

Trong lúc kíp lái “Cam”02 nhảy dù, đợt tấn công thứ 3 của không quân Mỹ với 51 máy bay B-52 D và G. 21 chiếc từ Thái Lan tấn công khu trung tâm Thành phố Hà Nội.

Chiếc B-52 “Hoa hồng”01 (số hiệu 6608) cất cánh lúc 02.46 theo giờ Thái lan tại căn cứ Utapao. Vào 4h56 phút theo giờ Hà Nội đã thả 108 quả bom 340kg xuống thủ đô Hà Nội. Các máy bay B-52 bay ổn định như đang duyệt binh và trở thành mục tiêu tuyệt vời cho các chiến sĩ tên lửa. Các máy bay B-52D lọt vào khu vực hỏa lực của 11 tiểu đoàn tên lửa SA-75M. Hàng loạt bệ phòng đồng loạt phóng đạn diệt mục tiêu.

Trên máy bay, các xạ thủ súng 20 mm ở phía đuôi máy bay, có khả năng quan sát được toàn bộ vùng bán cầu phía sau máy bay, thấy rõ được các vệt quỹ đạo đường bay của tên lửa, đặc biệt khi tên lửa xuyên qua lớp mây dày. Một quả tên lửa bay giữa làn khói từ động cơ phía bên phải và đuôi máy bay Hoa hồng” 01, khi xạ thủ súng máy chỉ kịp báo cáo cơ trưởng (tên lửa bay quá gần..) thì đầu đạn tên lửa thứ hai, bay tiếp theo đầu đạn thứ nhất, nổ tung phía bên trái sườn B-52 khi chiếc này bắt đầu vòng lượn thoát hiểm.

Mảnh đạn tên lửa đã cắt toàn bộ các đường truyền trong thân máy bay, tạo ra hàng trăm lỗ thủng trên thân máy bay. Có những lỗ thủng có đường kính rất lớn, đến nỗi hoa tiêu có thể quan sát được các giá giữ bom dưới cách trái. Trong cabin phi công phát hỏa, Hoa hồng” 01 không vòng hết nổi ½ vòng, toàn bộ kíp lái vội vàng nhảy dù thoát thân. Máy bay rơi khoảng 9 km về phía tây nam thành phố Hà Nội, làng Thanh Oai (Hà Tây khi đó). 4 trong số sau phi công bị bắt ngay trong đêm, Mảnh vỡ máy bay được trưng bày tại viện bảo tàng Phòng không – Không quân tại Hà Nội.

Tháng giêng năm 1996, tổ chức tìm kiếm người Mỹ mất tích và các đồng nghiệp người Việt đã đào bới vị trí rơi của "Hoa hồng" 01, thu được hài cốt của trung sĩ Charlie Poole, xạ thủ súng tự động đuôi máy bay. Các tìm kiếm thu thập được tiến hành xét nghiệm tại phòng thí nghiệm trung tâm của căn cứ không quân Hikam trên quần đảo Ha oai.

Chiếc "Stratofortress" "Cầu vồng" 01 (B-52D, số hiệu 6583) bị thương do trúng tên lửa ở độ cao 34000 ft. (11km) khi đang trên đường tiếp cận mục tiêu – nhà máy sửa chữa xe lửa Gia Lâm Hà Nội, tuyến đường bay của chiếc Cầu vồng 01 đi qua khu vực xạ kích của 6 bệ phóng tên lửa SA-75M. Máy bay bị thương tổn nặng nề nhưng cố gắng lết về Utapao và hạ cánh. ...

Hiểm họa trong màn đêm

Các mục tiêu của đêm không kích thứ hai "Stratofortress" bao gồm thêm cả nhà máy sửa chữa ô tô Kinh Nỗ, Đài phát thanh tiếng nói Việt Nam tại Hà Nội, nhà ga Yên Viên, nhà ga trung chuyển ở Bắc Giang và nhà máy nhiệt điện Thái Nguyên (55km phía Tây Hà Nội). Các pháo đài bay tiến công theo 3 đợt công kích với 21, 36 và 36 máy bay mỗi đợt. Đội hình bay theo tốp 3 chiếc, khoảng cách mỗi tốp là 500 ft theo độ cao và giãn cách với máy bay dẫn đầu khoảng 1 dặm, khoảng cách giữa các máy bay cũng là 1 dặm.

Đợt tấn công thứ nhất bao gồm có 12 máy bay B-52D và 9 máy bay B-52G từ căn cứ Andersen, lúc 20h10 theo giờ Hà Nội các B-52 tiếp cận nhà máy sửa chữa ô tô và trút xuống một trận mưa bom 340 kg lên mục tiêu. Từ phía dưới hàng chục tên lửa S-75 được phóng lên nhưng không đạt hiệu quả, các máy bay B-52 an toàn thoát khỏi vùng lửa.

Đợt tấn công thứ 2 bao gồm có mục tiêu ga trung chuyển Bắc Giang và trung tâm thành phố Hà Nội, 36 máy bay B 52 với 21 máy nay B-52G từ Guam, 15 máy bay từ Thái lan. Theo kế hoạch chung sẽ gặp nhau và tổ chức đội hình chiến đấu ở ngoại vi thành phố Hà Nội.
Bắt đầu vào lúc 23h50 theo giờ Hà Nội, mưa bom rơi liên tục trong vòng 25 phút vào các mục tiêu đã được chỉ định. Và lực lượng phòng không tên lửa cũng đáp trả quyết liệt, các phi công B-52D đếm được 25 lượt phóng tên lửa. Kíp lái các máy bay tiếp sau cũng xác nhận được điều này. Nhưng phi đội "Xương voi" (B52D, căn cứ Utapao) có nhiệm vụ ném bom trung tâm thủ đô Hà Nội, khi thực hiện nhiệm vụ đã rơi vào vùng chiến đấu của gần 10 khẩu đội tên lửa SA-75M.

Một ghi chú nhỏ: Bộ tư lệnh lực lượng không quân Mỹ từ kinh nghiệm những đợt không kích bằng máy bay tiêm kích ném bom đã hiểu rõ, thông thường vùng sát thương, hủy diệt của tên lửa S-75 nằm cách vị trí phóng đạn khoảng tử 15 đến 18 km của phân đội tên lửa. Do đó, kíp lái B-52 được nhận mệnh lệnh vào thời điểm cách khu vực có khả năng có tên lửa SA-75M bật hết công suất tất cả các đài gây nhiễu và tác chiến điện tử, được sử dụng để chống lại radar dẫn bắn của tên lửa SNR-75, đồng thời không phá đội hình không kích...

Các máy bay của nhóm "Xương voi" trước khi tiếp cận mục tiêu trên đường bay chiến đấu vẫn giữ được đội hình của phi đội. Các kíp lái phát hiện có từ 25 đến 40 tên lửa SA -75M được phóng lên. Khoảng 10 giây sau khi trút hết 108 quả bom 340 kg trên độ cao 11,5km, B-52D “Xương voi”01 (số hiệu 6592) bắt đầu vòng ngoặt gấp thoát ly mục tiêu. Đây là thời điểm các trắc thủ tên lửa có điều kiện phát hiện rõ mục tiêu do khi bẻ lái, độ phản xạ hiệu dụng của B-52 là lớn nhất.

Không một phi công nào trên “Xương voi” 01 phát hiện ra tên lửa đang phóng tới máy bay. Khối nổ mảnh của tên lửa phát nổ ở khoảng cách 50 – 100 ft cách đuôi máy bay, gây chết máy động cơ, đồng thời mọi đường dẫn trong thân máy bay bị tổn thất nặng nề. Nhưng chiếc B-52 cố gắng thoát ly vòng lượn, “Xương voi” 01 nhận thêm 1 tên lửa nữa, nhưng vụ nổ xảy ra cao hơn máy bay, do đó không có tổn thất đáng kể, chiếc “Xương voi”01 lết được về đến căn cứ Nam Fong Thái Lan.

Ba chiếc B-52G, bay phía sau phi đội “Xương voi” nằm trong phi đội “Hạt dẻ” hai trong số 3 máy bay còn trang bị các máy gây nhiễu điện tử đời cũ hơn. Các máy bay hành tiến về phía đài phát thanh tiếng nói Việt Nam trên khoảng cách 9 dặm lệch hướng bên trái so với quỹ đạo đường bay đã được vạch ra. Khoảng 13 dặm đến vị trí ném bom, “Hạt dẻ” 03 (số hiệu 8254) trên độ cao 11.243km bị tên lửa SA-75 đánh trúng, đầu đạn V-750 khiến chiếc máy bay bị tổn thương nặng nề. Tai họa xảy ra khi máy bay phá vỡ đội hình bay của máy bay ném bom, lệch khỏi quỹ đạo vạch sẵn để hướng về phía mục tiêu, nên tách ra khỏi phông nền ngụy trang của nhiễu, đồng thời các thiết bị gây nhiễu sóng âm không đủ mạnh. Kết quả là các trắc thủ tên lửa đã xác định được B-52 trên nền nhiễu và bắn hạ.

Ngoài ra, phi đội "Hạt dẻ" còn hành tiến trong vùng xạ kích của nhiều khẩu đội tên lửa SA-75M. Cũng cần phải nhận xét: "Hạt dẻ”03 là máy bay B-52G duy nhất bị tổn thương bởi đầu đạn V-750 nổ ngay sát gần, rất may là các tổn thương không khiến cho B-52 rơi ngay tại chỗ.

Đợt tấn công thứ 3 của Stratofortress bao gồm có 15 B-52D và 6-B52G từ căn cứ không quân Andersen, 15 B-52D từ căn cứ Utapao. 9 chiếc B-52D cất cánh từ Guam có nhiệm vụ ném bom nhà ga Yên Viên, phía đông của Sông Hồng. Mục tiêu nhà ga đã bị không kích đến 1116 quả bom 340 kg, đến đó mất khoảng 8 phút. Các kíp lái không phát hiện ra tên lửa được phóng lên.

Khi những tiếng nổ trên khu vực Yên Viên sắp kết thúc, 27 chiếc B-52 chuẩn bị ném bom nhà máy nhiệt điện Thái Nguyên, 35 dặm (55km) cách Hà Nội. Kíp lái của một Stratofortress phát hiện đốm lửa của tên lửa SA-75 được phòng lên, nhưng không thấy vụ nổ. Chỉ khi máy bay bay về đến căn cứ, các thợ máy và phi công phát hiện ra chiếc “Cầu vồng” 01, thân và cánh bị các mảnh tên lửa V-750 xuyên thủng từ 30 – 35 lỗ.

Các phi công Mỹ ngày 19 tháng 12 ghi nhận được suốt trận đánh có 182 tên lửa được phóng lên. Nhưng chỉ có 2 máy bay B-52 bị thương, và không chiếc nào bị bắn hạ, điều đó làm cho bộ tư lệnh không quân và cơ quan điều hành tác chiến “Linebacker II’ quyết định vẫn bay theo đường bay đó vào tối ngày 20 tháng 12. Điều đó đã dẫn đến một thảm kịch đối với B-52, 4 chiếc B-52 G và 2 chiếc B-52D rơi tại chỗ, đồng thời 1 chiếc B-52D bị mảnh tên lửa SA-75 băm thủng lỗ chỗ khi hạ cánh xuống Utapao.

Thảm bại của 'pháo đài bay'

Sự kiện các tình huống chiến trường càng xấu đi với B-52. Ngày 20-12, 99 chiếc Stratofortress bay vào Việt Nam theo 3 đợt tấn công. Đợt tấn công thứ nhất gồm có 6 B-52D và 12 B-52G từ căn cứ Andersen, 15 chiếc từ căn cứ Utapao có nhiệm vụ ném bom nhà máy sửa chữa xe lửa Gia lâm ở Hà Nội. Hai phi đội 6 chiếc B-52 từ Guam ném bom xuống nhà máy, đã bay qua trận địa tên lửa của hàng chục khẩu đội SA-75M nhưng chỉ bị 4 quả tên lửa tấn công và không có tổn thất.

Nhưng sự kiện lại rất xấu đối với mục tiêu nhà ga xe lửa Yên Viên và tổng kho Ái Mỗ nằm cạnh đó. 27 chiếc B-52 được chia thành 9 tốp máy bay mỗi tốp 3 chiếc đã lao đầu vào 1 lưới lửa dày đặc tên lửa SAM-2, các kíp lái đếm được đến 130 quả tên lửa được phóng lên.

Xác 'pháo đài bay' B-52 bị bắn hạ trên bầu trời Hà Nội.

Phi đội “Chăn bông” 3 chiếc B-52 G, bay ở độ cao 35000 feet (10, 688km) là phi đội dẫn đầu, hai chiếc B-52 không có được các trang thiết bị gây nhiễu tốt nhất, “Chăn bông”03 (số hiệu 6496, đồng thời chiếc “Chăn bông”01 khi bắt đầu chuyển trạng thái từ hành trình sang chiến đấu xuất hiện những trục trặc với bộ phận tạo nhiễu radio, mặc dù vậy, các sensors tạo nhiễu cho các đài radar dẫn bắn tên lửa vẫn hoạt động ổn định, chiếc “Chăn bông” 02 tập trung toàn bộ công suất gây nhiễu trên tần số dẫn bắn và điều khiển tên lửa của đài phát sóng radar RSNA -75M.

Phi đội đã chọc thủng tuyến phòng thủ dày đặc của lực lượng tên lửa Việt Nam bảo vệ mục tiêu (xác định có 16 tên lửa được phóng lên). Các máy bay sau khi trút bom đã bẻ góc gấp để thoát ly chiến trường, “Chăn bông” 03 bị trúng tên lửa. 10 giây sau khi phi công ném bom đóng các cửa thả bom trên B-52, tên lửa phòng không đâm vào bên trái sườn máy bay. Áp lực trong các đường ống dẫn dầu điều khiển máy bay về tầm và hướng tụt xuống bằng 0. Tốc độ bay của máy bay lúc đó là 900 km/h. Máy bay tụt xuống độ cao 20000 feet (6km). Cơ trưởng ra lệnh nhẩy dù, 4 phi công bị bắt ngay khi chạm đất và được trả về vào tháng 3 năm 1973. Hai phi công bị chết khi tên lửa đâm vào máy bay. Xác của họ được trả về quê hương sau khi ký Hiệp định Paris.

Bốn phi đội pháo đài bay bay sau phi đội “Chăn bông” sau đó là phi đội “Đồng thau” 3 chiếc, trong đó chỉ có một chiếc B-52G được trang bị đầy đủ các thiết bị gây nhiễu. Phi đội bay lệch khỏi quỹ đạo đường bay quy định từ 4-7 dặm về phía trái, do các kíp lái nhìn đường bay của tên lửa đất đối không và cho rằng hỏa lực đang tập trung về phía mình nên đánh lệch hướng nhằm giảm bớt nguy cơ bị tiêu diệt. Khi phi đội đã ném bom lên mục tiêu, 40 giây sau, khi các máy bay bẻ lái thoát ly mục tiêu, đội hình chiến đấu bị phá vỡ do “Đồng thau”01 rời khỏi đội hình chiến đấu cách 6 dặm so với “Đồng thau”02, ngay tức khắc, “Đồng thau” 02 (số hiệu 6481) bị hai quả tên lửa SA-75 đánh trúng.

Khối nổ của tên lửa xé tan cánh bên phải của Stratofortress, quả tên lửa thứ hai nổ gần bên phải, phía đuôi của máy bay, Kíp lái, sau vụ nổ, khi quan sát phát hiện 4 động cơ của máy bay đã bị phá hủy. Tốc độ máy bay tụt xuống 250 knots (463km/h) đồng thời máy bay gặp gió cản với tốc độ rất lớn, 5 phút sau 2 động cơ tiếp tục bốc khói rồi chết hẳn. Cơ trưởng cố gắng đưa chiếc máy bay nặng nề vào chế độ bay hành trình theo động năng và cố gắng lết đến ngoại vi căn cứ Nam Phong của Thái Lan, ở ngoài biển kíp lái bỏ máy bay nhẩy dù và sau đó được lực lượng cứu hộ Hải quân Mỹ vớt, ngày hôm sau máy bay tiếp dầu KC-135 đưa các phi công trở về căn cứ Andersen. Trước lễ Giáng sinh, kíp lái được chuyển về căn cứ ở Mỹ.

Phi đội “ Cam” B-52D, cất cánh từ căn cứ Utapao bay ngay tiếp sau phi đội Đồng Thau, khi “Cam”01 và “Cam”02 đã kịp trút bom xuống ga Yên Viên và tiến hành bẻ góc gấp thoát ly mục tiêu, khi đó biểu đồ hướng của các sensors gây nhiễu điện từ trên máy bay không đủ khả năng chống lại các đài phát radar phát hiện mục tiêu RSNA – 75M và che cho chiếc “Cam” 03 số hiệu 6622. Máy bay vừa trút xong toàn bộ cơ số bom xuống mục tiêu và đang bay ở độ cao 35500 ft (10,082km) bị trúng cùng một lúc 2 quả tên lửa. Máy bay bốc cháy và quay vòng xung quanh, nổ tung. Các mảnh vỡ rơi xuống Xã Yên Thượng. Hai phi công nhảy dù khỏi máy bay lập tức bị bắt làm tù binh và được trao trả vào năm 1973. Số phận 4 phi công còn lại được cho là mất tích.

Cũng phải nhận xét rằng: Trên đường bay, các kíp lái B-52 phát hiện nhiều lần máy bay MiG, nhưng các MiG hầu như không tham chiến, theo ý kiến của các phi công B-52, MiG đóng vai trò máy bay trinh sát, chỉ quan sát, xác định đội hình, tốc độ, tầm cao, hướng bay của các phi đoàn B-52 cho Bộ chỉ huy quân chủng Phòng không – Không quân Việt Nam.

Tất nhiên, đợt tấn công thứ 2 không phải đã diễn ra không có sự quan tâm của các trắc thủ tên lửa Việt Nam. 9 chiếc B-52D, 18 B-52G (tất cả đều xuất kích từ sân bay Andersen) ném bom nhà ga Hà Nội, ga chung chuyển Bắc Giang và nhà máy nhiệt điện Thái Nguyên. Đội hình của đợt tấn công này không bị tổn thất nặng nề do giữ nguyên được đội hình chiến đấu. Sở chỉ huy và ban tham mưu chiến dịch ném bom của Không quân Mỹ nhận thấy không phải tất cả các máy bay B-52G đều được trang bị các trang thiết bị tác chiến điện tử, có đủ công suất để chống lại các đài phát radars dẫn bắn tên lửa của Phòng không Việt Nam. Vì vậy, 6 máy bay B-52G được sử dụng để che chắn gây nhiễu cho các máy bay còn lại ném bom, vì thế nên ở đợt tấn công thứ 2, các B-52 không bị tổn thất.

Nhưng đợt tấn công thứ 3, các pháo đài bay không được may mắn như đợt thứ 2, với 12 B-52G, 9 B-52D từ căn cứ Andersen, 18 B-52D từ căn cứ Utapao, trong 16 phút ném bom trên bầu trời Việt Nam đã chịu những tổn thấn nặng nề. 9 chiếc B-52D đã ném khối gang thép chết chóc xuống nhà ga Hà nội, chiếc B-52 thứ năm trên độ cao 35500 feet (10,822km) thuộc phi đội “Rơm” 02 (số hiệu 6669), kíp lái chiếc máy bay này vừa kịp thông báo có 4 tên lửa SA-75 bay trượt bên cạnh thì quả tên lửa thứ 5 nổ tung. Vụ nổ xảy ra vài giây sau khi chiếc máy bay xấu số vừa trút bom xuống mục tiêu và bắt đầu vòng lượt thoát ly mục tiêu.

"Rơm" 02 mất ngay hai động cơ, máy bay duy trì bay được khoảng 30 phút, điều đó giúp cho kíp lái lết được đến biên giới Việt Lào, toàn bộ kíp lái nhảy dù trước khi máy bay nổ tung. 5 trong số 6 phi công được máy bay trực thăng cứu hộ HH-53 cứu thoát, phi công radar –ném bom mất tích cho đến tận ngày nay, hoàn toàn có khả năng phi công này đã tử vong. Hoàn toàn không có khả năng cho rằng các phi công đã bị bắt, cho đến khi kết thúc chiến tranh, có hơn 500 người Mỹ mà dấu vết của họ biến mất. Kíp lái của “Rơm”02 xác nhận có đến 18 tên lửa SAM được phóng về phía máy bay.

Ba chiếc B-52G thuộc phi đội “ Oliu” tiến đến mục tiêu là nhà máy sửa chữa ô tô Kinh Nỗ vào lúc 23.12 theo giờ Hà Nội. Khoảng cách theo hướng bay giữa các máy bay là từ 2 đến 3 dặm. “Oliu” 01, số hiệu 8198 đang bay trên độ cao 35000 feet (10,6km). Chiếc B-52 này là máy bay dẫn đầu trong đợt tấn công, trút hết số lượng bom 750 bảng Anh (340kg), B-52 bẻ lái thoát ly gấp khỏi mục tiêu, ngay tức khắc bị trúng 1 tên lửa SA-75M. Điều đó xảy ra khi “Oliu” 03 đang ở điểm ném bom và cách “Oliu” 02 khoảng 2 dặm theo đường bay. Sử dụng các thiết bị gây nhiễu ngăn chặn chùm sóng radar xác định, khóa mục tiêu và radar dẫn bắn tên lửa. Cả “Oliu” 02 và 03 đều thông báo về phi đội đang bị chiếu xạ radar tên lửa RSNA-75 1 phút trước khi 01 bắt đầu ném bom. Theo xác định của các kíp lái, phi đội bị xạ kích bởi 7 khẩu đội tên lửa SA-75M, với 38 tên lửa đất đối không.

Nguyên nhân tử vong của “Oliu” 01 là không giữ được đội hình tác chiến khi tiến hành không kích, đồng thời góc ngoặt gấp của B-52 khi thoát ly mục tiêu. Ba phi công nhảy dù thành công và bị bắt, 2 phi công được trao trả vào tháng 3-1973. Sau khi kết thúc chiến tranh, Việt Nam đã trao trả nốt tro cốt của phi công thứ 3, đã tử vong trong giai đoạn ở trại giam.

8 phút sau phi đội “Oliu” là phi đội “Nâu xám” chiếc máy bay số 03 B-52G (số hiệu 8169) bay ở độ cao 36000ft (11km). Chiếc máy bay này quả thực không may mắn: Thứ nhất, máy bay không được trang bị các thiết bị tác chiến điện tử, gây nhiễu đã được nâng cấp mà vẫn phải tham gia không tập, khi cất cánh, radar mục tiêu bị hỏng. Khi không kích, chiếc máy bay này đã tách khỏi đội hình chiến đấu, nghiêng về phía bên phải so với quỹ đạo đường bay khoảng 4 dặm so với quy định.

“Nâu xám” 03 đang bay cách 2 thành viên còn lại của phi đội khoảng 6 dặm thì trúng tên lửa, vụ nổ của đạn V-750 đã xé tan toàn bộ máy bay. Thoát chết duy nhất là phi công hỏa lực đuôi máy bay, bằng một phép thần kỳ nào đó đã kịp bung dù. Phi công bị bắt và được trao trả vào tháng 3-1973.
Trong số các mục tiêu ở Hà Nội, theo kế hoạch sẽ bị ném bom vào ngày 20-12-1972, có kho xăng dầu Gia Thượng. Phi đội “Gạch” sẽ trút đợt bom cuối cùng trong đêm không kích. Khi ba máy bay B-52D bắt đầu lượn vòng thoát ly mục tiêu, 4 tên lửa SA-75M lao tới. Vụ nổ của đầu đạn tên lửa tạo ra hàng trăm lỗ thủng trên cánh phải của “Gạch” 02 (số hiệu 5067), đang bay ở độ cao 35000 feet (10, 6km). Kíp lái đã cố gắng kéo chiếc máy bay về đến căn cứ Utapao.

Ngày đen tối nhất của không quân Mỹ

...Ngày 20-12-1972 cho đến ngày nay được coi là một trong những blackday (ngày đen tối) của lực lượng không quân Mỹ, khi Mỹ đã mất một số lượng B-52 lớn nhất trong lịch sử chiến tranh chỉ trong một lần không tập.

Trên miền Bắc Việt Nam ngày 21-12-1972. Xuất phát từ sân bay Utapao là các máy bay B-52D, được trang bị các thiết bị tác chiến điện tử mới. 30 chiếc pháo đài bay nhằm các mục tiêu đã định trước là sân bay Quang Tề (6 chiếc) sân bay Bạch Mai (12 chiếc), khu kho hàng tại Văn Điển (12 chiếc) trong khu vực Hà nội vào khoảng lúc 3h33 - 3h48 theo giờ địa phương.

Tầm cao của hành trình bay cũng có thay đổi so với 3 đêm không kích đầu tiên. Ngày 21-12-1972 các đội hình bay của B-52 nằm trong khoảng 33500 ft đến 38000 ft (10, 21km – 11,58 km). Giãn cách thời gian giữa các phi đội được rút ngắn từ 4 phút bay đến 90 – 120 giây. Điều này cho phép các máy bay B-52 có điều kiện rút ngắn thời gian có mặt trên mục tiêu (có nghĩa là trong khu vực tác chiến của tên lửa) đến 15 phút thay vì 30 – 40 phút. Máy bay không tiến hành ngoặt gấp thoát ly mục tiêu mà tiếp tục bay thẳng theo đường bay ra Vịnh Bắc bộ, sau đó chuyển hướng về phía Thái Lan.

Vào lúc 3h33 chiếc máy bay đầu tiên B-52D bắt đầu trút bom xuống sân bay Quang Tề. Kíp lái thông bao có hai khẩu đội tên lứa phóng đạn nhưng không trúng mục tiêu. Sau vài phút 12 chiếc máy bay B-52D bắt đầu tấn công tổ hợp nhà kho ở Văn Điển. Lần này phi đoàn B-52 bị tấn công bằng nhiều tên lửa đất đối không, do B-52 nằm trong khu vực xạ kích của 12 khẩu đội tên lửa, nhưng các tên lửa không đạt hiệu suất tác chiến cao, 12 chiếc B-52 thoát ly an toàn.

Nhưng tốp máy bay đánh sân bay Bạch Mai thì không được may mắn như vậy. ở độ cao 36500 ft (11,12km) tại điểm chuyển trạng thái hành tiến sang tấn công, máy bay “Đỏ”01 số hiệu 55-0061 phát hiện hỏng hóc ở hệ thống radar kính ngắm mục tiêu. Tiến hành ném bom vào mục tiêu chính xác máy bay không thực hiện được. Để thực hiện ném bom cần có một máy bay B-52 khác trong phi đội làm điểm định vị bổ sung, “Đỏ” 01 thông báo sẽ chiếm vị trí ngay sau “Đỏ”02, do radar kính ngắm của máy bay 02 hoạt động tốt, có thể cho phép 01 ném bom chính xác.

Trong thời gian đó, theo đội hình “Đỏ”03 bay ngay phía sau 01 và 02 trên dãn cách 6 dặm, pháo phòng không bắn liên tục vào 01 và 02 (không có hiệu quả). Một trong những thiết bị phát xung của hệ thống tác chiến điện tử trên 03 bị hỏng, khi đó các sensors trên 01 và 02 thông báo, máy bay đang bị chiếu xạ bởi radar tên lửa RSNA-75M. Kíp lái của “Đỏ” trực tiếp nhìn thấy điểm và ánh lửa phóng tên lửa trên mặt đất. Phi công nhận định có đến 15 tên lửa V-750. Một tên lửa lao vào máy bay 03 và nổ tung vào lúc 3.43 theo giờ địa phương. “Đỏ” 03 không có đủ 60 giây bay đến mục tiêu và trút bom.

3 phi công của “Đỏ” 03 nhảy dù và bị bắt làm tù binh. Được trao trả vào tháng 3-1973. Ba phi công còn lại mất tích. Sau này Việt Nam trao trả hài cốt hai phi công. Số phận của phi công thứ 3 cho đến ngày nay không ai biết.

Sau 3 phút sau khi “Đỏ” tấn công mục tiêu, phi đội “Xanh” tiến đến mục tiêu, phi đội bay ở độ cao 34000ft (1,03km). Kíp lái "Xanh” B-52D số hiệu 55-0050 đã bay trong đòn tấn công đầu tiên của chiến dịch Linebacker II (trong biên chế của phi đội “Cam” ) khi đó máy bay của họ bay trước máy bay “Hoa hồng”01, máy bay này đã bị bắn cháy.

Trong khi chuẩn bị xuất kích, cơ trưởng “Xanh”01- trung tá John Yuill thông báo cho các phi công rằng Kíp lái "Hoa hồng" đã bị bắt. Quen thuộc và có nhiều kinh nghiệm với những tính năng đặc trưng của khi máy bay bốc lửa đã giúp cho viên trung tá Yuill ra quyết định đúng đắn, cứu sống toàn bộ kíp lái .

"Xanh" 01 tiếp cận mục tiêu ném bom, lập tức bị tấn công bởi 6-7 quả tên lửa S-75. Một đầu đạn tên lửa nổ tung dưới thân máy bay, Kíp lái được lệnh của cơ trưởng nhanh chóng nhẩy dù. Pháo đài bay bị bắn rơi trước thời điểm ném bom khoảng 30 giây.
Trên “Xanh" 01 có hai sensors của thiết bị tác chiến điện tử bị hỏng RE5. Nhưng các thiết bị còn lại (hơn 10 sensor) phát xung, 02 và 03 đã sử dụng thiết bị gây nhiễu tích cực ở mức độ tối đa. Các hai máy bay B-52 đều bật 3 sensor phát xung chế áp tần số sóng radar của đài phát tên lửa. Khi phi đội Xanh tiến đến gần mục tiêu ném bom đã thực hiện cơ động tránh tên lửa. Cả ba máy bay đều giữ vững đội hình chiến đấu và đang bay trên quỹ đạo tác chiến được vạch ra. Nhưng 01 bị tiêu diệt. Như vậy, động tác kỹ thuật cơ động tránh tên lửa có thể đã diễn ra quá gấp. Đồng thời, hành trình bay chiến đấu của "Xanh" đi qua vùng hỏa lực của gần 9 khẩu đội tên lửa SA-75M.
Kết quả và đánh giá
Suy ngẫm về những nguyên nhân dẫn đến thảm bại của lực lượng không quân Mỹ trên bầu trời Việt Nam, có thể rút ra những kết luận như sau: Từ 9 máy bay B-52 bị bắn hạ trong vòng 3 đêm không kích, 6 máy bay Stratofortress bị bắn hạ bởi tên lửa đất đối không khi đang thực hiện vòng lượn gấp thoát ly mục tiêu, bẻ góc 45o. Khi máy bay lượn vòng gấp, cường độ phát xung gây nhiễu của các trang thiết bị tác chiến điện tử, gây nhiễu của B-52 đối với đài radar dẫn đường mục tiêu RSNA-75 hạ xuống thấp nhất. 5 % trong số 7 máy bay B-52G bị bắn rơi, không được lắp các trang thiết bị tác chiến điện tử mới được nâng cấp.

Trong giai đoạn không kích, thời tiết và khí tượng cũng ảnh hưởng rất lớn, do tốc độ gió ngược rất cao (180km/h) trên độ cao 10 km, độ cao máy bay B-52 trong 3 đợt không kích cường độ cao, hiệu ứng của nhiễu thụ động giảm xuống rất thấp. Các máy bay tiêm kích – ném bom F-4 Fantom, có nhiệm vụ rải nhiễu thụ động. Nhưng gió mạnh đã thổi bay các đám mây nhiễu xạ kim loại. Điều đó giúp cho các đài radar điểu khiển của tổ hợp tên lửa SA-75M có điều kiện tốt hơn phát hiện máy bay B-52 trên nền nhiễu dầy đặc.

Để có thể tấn công chính xác mục tiêu bằng các loại bom rơi tự do không có điều khiển với thiết bị phụ trợ là máy ngắm radar. Máy bay B-52 bắt buộc phải giữ đường bay và độ cao chuẩn. Đây là điều kiện tuyệt vời cho các trắc thủ radar – tên lửa đối với 1 chiếc pháo đài bay khổng lồ, tốc độ hành trình dưới âm và tính cơ động rất thấp. Trên thực tế phải có tới 4 phi đội 3 chiếc máy bay mới có hiệu quả sử dụng máy gây nhiễu tích cực và thụ động đối với đài phát radar RSNA-75, các thiết bị gây nhiễu của máy bay B-52 chỉ có thể gây nhiễu hiệu quả nếu máy bay bay thẳng trực tiếp đến các phương tiện phòng không với giá trị các thông số bằng 0 và đang ở độ cao 10 -11 km.

Khi máy bay trút bom và vòng thoát ly khỏi mục tiêu, hiệu ứng của các trang thiết bị gây nhiễu tụt giảm. Đã có quyết định là khi phi đội bắt đầu vòng lượn thoát ly mục tiêu thì phi đội thứ 2 sẽ che chắn và gây nhiễu tăng cường cho phi đội đi trước. Đồng thời trong khi máy bay quay vòng hệ số phản xạ hiệu dụng của máy bay tăng lên và khả năng phát hiện và khóa bám mục tiêu tăng lên rõ rệt. Đồng thời, hệ số phản xạ hiệu dụng cũng tăng lên khi máy bay bắt đầu mở các cửa khoang chứa bom.

Vì vậy, tổn thất nặng nề máy bay ném bom B-52 buộc Bộ tổng tham mưu không quân Mỹ phải nghiên cứu lại chiến thuật sử dụng máy bay ném bom B-52. Sự tổn thất tiếp theo của loại máy bay đắt giá này là không thể chấp nhận được. Để tiếp tục không kích miền Bắc Việt Nam bằng máy bay ném bom B-52 cần có những thay đổi cơ bản trong khai thác sử dụng các pháo đài bay B-52.

Sau chiến dịch Linebacker II, các đợt không kích bằng máy bay B-52 từ căn cứ Andersen đã chấm dứt. B-52 chỉ tham gia tác chiến trong chiến dịch Arc Light, ném bom các mục tiêu trong khu vực Miền Nam Việt Nam. Số lượng các máy bay gây nhiễu tăng từ 8 đến 12 máy bay. Số lượng máy bay yểm trợ tác chiến tăng từ 39 đến 58.

Đấy là một số những diễn biến xảy ra trên boong của các máy bay B-52 trong thời gian ném bom Hà Nội, theo công nhận với giới báo chí của không quân Mỹ, đã có 15 máy bay B-52 bị bắn hạ và 11 máy bay chiến thuật khác chịu chung số phận. Tuy nhiên, theo công bố của Việt Nam, đã có 34 máy bay B-52 và 47 các loại máy bay khác bị bắn rơi. Hà Nội và Hải Phòng, cũng bị tổn thất nặng nề do bom đạn về người và cơ sở vật chất, bao gồm cả các nhà máy, bệnh viện, trường học, khu dân cư, công trinh dân sinh và dân sự.

>> Mỹ cũng từng có ý định tấn công hạt nhân Trung Quốc năm 1958

Trung tuần tháng 8/1958, 5 chiếc máy bay ném bom B-47 của không quân Mỹ bố trí tại căn cứ quân sự trên đảo Guam đã được đặt trong tình trạng sẵn sàng chiến đấu, chỉ cần nhận lệnh là vút lên trời bay đi thực hiện sứ mệnh hủy diệt nhằm vào khu vực Hạ Môn (Trung Quốc). Tuy nhiên, đến phút cuối, Tổng thống Mỹ khi đó là Dwight Eisenhower đã không đồng ý với đề xuất của Lầu Năm góc. Tại sao vậy.

>> Liên Xô từng có ý định tấn công hạt nhân Trung Quốc ? (Phần 1)

Trở lại với thời điểm tháng 8/1958, bóng mây chiến tranh vần vũ ở eo biển Đài Loan. Nhằm giáng đòn sấm sét vào cái gọi là "Hiệp ước phòng thủ chung" mà Oasinhtơn đã ký với nhà cầm quyền Đài Bắc, Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc đã tập kết một lượng lớn binh lực ở tiền tuyến Phúc Kiến.

17 giờ 30 phút ngày 23/8, hàng vạn khẩu pháo của Trung Quốc đồng loạt khai hỏa bắn phá dữ dội vào những mục tiêu quan trọng của quân Quốc dân Đảng như "Bộ tư lệnh phòng vệ Kim Môn" và trận địa pháo binh. Cả thế giới dồn sự quan tâm chú ý vào Kim Môn, nơi chỉ cách Hạ Môn (Trung Quốc) 18 hải lý (khoảng 33 km) về phía Tây.


Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Máy bay ném bom B-47 của Mỹ.

Việc Trung Quốc tấn công quần đảo Kim Môn làm cho Mỹ trở tay không kịp. Do trước đó, không quân Mỹ đã điều một lực lượng lớn đi ứng phó với cuộc khủng hoảng Libăng, nên không có cách nào bố trí binh lực ở khu vực biển Đài Loan theo hiệp ước đã ký với Tưởng Giới Thạch.

Trong bối cảnh đó, Chủ tịch Hội đồng tham mưu liên quân Mỹ, tướng không quân Nathan F. Twining (ảnh), người từng chủ trương sử dụng vũ khí hạt nhân cứu quân Pháp đang bị vây khốn ở Điện Biên Phủ (Việt Nam), đã ra sức cổ súy cho ý tưởng cực đoan: ra đòn hạt nhân nhằm vào Trung Quốc đại lục.

Trung tuần tháng 8/1958, 5 chiếc máy bay ném bom B-47 của không quân Mỹ bố trí tại căn cứ quân sự trên đảo Guam đã được đặt trong tình trạng sẵn sàng chiến đấu, chỉ cần nhận lệnh là vút lên trời bay đi thực hiện đòn đánh hạt nhân chiến thuật nhằm vào khu vực Hạ Môn (Trung Quốc).

Mệnh lệnh từ Bộ chỉ huy không quân chiến lược Mỹ chỉ rõ: một khi xung đột leo thang, 5 chiếc máy bay ném bom B-47 mang theo những quả bom hạt nhân chiến thuật tương đương lượng nổ khoảng 10.000-15.000 tấn thuốc nổ TNT thả xuống Hạ Môn.

Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Tướng Twining.

Tuy nhiên, trong cuộc họp với các quan chức chủ chốt của Nhà Trắng và Lầu Năm góc ngày 25/8, Tổng thống Eisenhower đã quyết định "không sử dụng vũ khí hạt nhân ở khu vực biển Đài Loan mà dùng sức mạnh vũ khí thông thường trợ giúp Đài Loan".

Bốn ngày sau, Eisenhower ra lệnh cho lực lượng tác chiến hỗn hợp không quân (CASF) chi viện cho vùng Viễn Đông và một lần nữa khẳng định lại với Twining rằng "cho dù Kim Môn có bị pháo kích ác liệt tới đâu, chúng ta cũng không phải vội vàng sử dụng vũ khí hạt nhân".

Tư tưởng chỉ đạo của Eisenhower đã gặp phải sự phản đối của nhiều tướng lĩnh Mỹ, trong đó có tướng không quân Lawrence Kuter, một trong những tác giả của bản kế hoạch tấn công hạt nhân. Tướng Lawrence Kuter cho rằng quyết định "phản ứng có giới hạn" (không sử dụng vũ khí hạt nhân) của Eisenhower là một "thảm họa", "hoặc là người Mỹ sử dụng loại vũ khí hiệu quả nhất của mình (vũ khí hạt nhân) hoặc là không nên can dự vào cuộc xung đột trên biển Đài Loan".

Tại sao Tổng thống Mỹ Eisenhower đưa ra một quyết định đi ngược lại ý muốn của những tướng lĩnh "diều hâu"?

Thứ nhất, truớc khi cuộc xung đột trên biển Đài Loan xảy ra, Liên Xô đã tuyên bố bắt đầu từ ngày 31/3/1958 sẽ đơn phương chấm dứt tất cả các hình thức thử nghiệm vũ khí hạt nhân. Muốn giành được thế chủ động trên mặt trận ngoại giao, đương nhiên, Mỹ phải hạn chế sử dụng vũ khí hạt nhân ở khu vực biển Đài Loan.

Bên cạnh đó, việc Mỹ sử dụng vũ khí hạt nhân tấn công Hạ Môn không chỉ gây thiệt hại cho Trung Quốc mà còn cho cả Đài Loan, đồng thời có thể dẫn đến khả năng leo thang xung đột hạt nhân trên toàn thế giới. Đặc biệt, sau khi chứng kiến những hậu quả khủng khiếp gây ra cho thường dân ở hai thành phố Hiroshima và Nagasaki (Nhật Bản), nhân loại cực lực lên án việc sử dụng loại vũ khí dã man, tàn bạo này.

Việc Mỹ một lần nữa sử dụng vũ khí hạt nhân triệt hạ đối phương sẽ chỉ làm cho làn sóng chống Mỹ cao thêm, gián tiếp trợ giúp Liên Xô giành được sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế.

Cuối cùng, vào năm 1958, tuy thời kỳ "trăng mật" trong quan hệ Xô-Trung sắp kết thúc, nhưng những chia rẽ giữa hai bên chưa công khai hóa. Ngày 31/7/1958, Bí thư thứ nhất Đảng Cộng sản Liên Xô Nikita Sergeyevich Khrushchev thăm Bắc Kinh. Kết hợp với việc Trung Quốc pháo kích Kim Môn, người ta cho rằng Mátxcơva ngầm ủng hộ Bắc Kinh tấn công Kim Môn.

Cho dù Eisenhower đã sớm vạch ra chiến lược trả đũa toàn diện trước mối đe dọa hạt nhân của Liên Xô, nhưng rõ ràng người Mỹ không có được 100% tin tưởng vào khả năng giành chiến thắng trong một cuộc chiến tranh hạt nhân với Liên Xô. Hơn nữa, ngày 7/9, Khrushchev đã gửi thư cho Eisenhower cảnh cáo rằng: "Trong thời đại của vũ khí hạt nhân, tên lửa siêu thanh và các loại vũ khí với uy lực chưa từng có, các hạm đội hải quân từng làm mưa làm gió trên biển về cơ bản chỉ thích hợp cho những chuyến thăm quan mang tính lễ tân, đó là chưa nói tới việc chúng sẽ trở thành mục tiêu tấn công của các loại tên lửa".

Rõ ràng, Khrushchev đang ám chỉ tới việc Eisenhower khi đó đã ra lệnh cho Hạm đội 7 tới eo biển Đài Loan "tuần tra". Khrushchev nhấn mạnh: "Trong bối cảnh sự lũng đoạn hạt nhân của Mỹ không còn, việc Mỹ vẫn còn có ý đồ sử dụng vũ khí hạt nhân đe dọa nước khác là hoàn toàn không có hy vọng". Vì vậy, cho dù Eisenhower muốn sử dụng vũ khí hạt nhân tấn công Hạ Môn thì cũng không thể không xem xét đến việc khi đó Trung Quốc và Liên Xô vẫn đang cùng một phe.

(Tổng hợp)

>> "Quân nhân Xô viết là thủy thủ anh hùng, các quân nhân Mỹ - các thủy thủ vô dụng" ?

Có lẽ đó là trường hợp chưa từng có với cả Liên Xô và Mỹ trong thời kỳ căng thẳng sau đại chiến thế giới lần thứ II. Hơn nữa, sự việc này đã diễn ra khi cuộc chiến tranh Lạnh giữa các cường quốc thế giới đã đến hồi kết.

>> Liên Xô từng có ý định tấn công hạt nhân Trung Quốc ? (Phần 1)

Câu chuyện của cuộc va chạm bắt đầu khi người Mỹ liều lĩnh xâm phạm lãnh hải của Liên Xô. Những chiến sĩ Hải quân Liên Xô thực sự đã dạy cho các tầu xâm lấn một bài học nhớ đời.

Đó là một cuộc đối đầu vũ trang thực sự ngoài khơi bờ biển bán đảo Crimea. Trong cuộc đối đầu này có sự tham dự của tàu tuần dương "Yorktown" và tàu khu trục "Caron" Mỹ, phía Liên Xô là chiến hạmchống ngầm loại lớn ""Bezzavetnyi – Quên mình" và khinh hạm tuần biển SKR-6.

Thủy thủ của hải quân Xô viết đã giành được thắng lợi cả về thực tế hoàn thành nhiệm vụ và ý chí tinh thần, theo đúngnghĩa của chiến thắng, xua đuổi những chiến hạm Mỹ đã xâm phạm biên giới biển của Liên Xô. May mắn cho tất cả, sự việc đã kết thúc bình yên, không nổ súng, mặc dù cuộc xung đột quân sự, có vẻ như trong một vài phút, có thể là không thể tránh được. Đạn đã được nạp vào buồng nòng của các pháo hạm với cả hai bên, tên lửa sẵn sàng trên bệ phóng, ngư lôi cũng đã được mở khóa an toàn ống phóng.


Sau sự cố này, báo chí Mỹ lần đầu tiên gọi quân nhân Xô viết là thủy thủ anh hùng, và các quân nhân Mỹ - các thủy thủ vô dụng.
Nhưng câu chuyện này không được bắt đầu vào năm 1988, mà hơn hai năm trước đó. Vào năm 1986, chiếc tàu tuần dương Mỹ "Yorktown" và tàu khu trục "Caron", đi qua eo biển Bosphorus và eo biểnDardanelles thuộc biển Địa Trung Hải, đã vượt qua hải phận trên vùng nước bờ biển của Liên Xô từ phía Feodosiya. Nhưng lúc đó Bộ tư lệnh Hải quân đã không có được sự kiên quyết cần thiết, hoặc sự nhạy bén tình huống để đuổi người Mỹ ra khỏi vùng biển Liên bang Xô viết .

Đô đốc Vladimir Tchernavin mới nhận nhiệm vụ là Tổng tư lệnh Hải quân được vài tháng, và có thể, lúc đó ông không có một chút kinh nghiệm trong sự kiện tầu chiến của Mỹ trắng trợn (không thể có cách nói nào khác) xâm phạm lãnh hải của Liên Xô, để có được các mệnh lệnh mạnh mẽ, quyết đoán điều hành các đơn vị thuộc quyền .

Nhưng khi lực lượng tình báo tối mật của Liên Xô thông báo về kế hoạch đầu năm 1988, Hải quân Mỹ sẽ lặp lại các cuộc xâm phạm lãnh hải Xô viết với mưu đồ kích động chính trị và gây bạo động , ông đã không ngần ngại báo cáo với Tổng bí thư Đảng CS Nga Mikhail Gorbachev: "Kế hoạch cần phải ngăn chặn một cách quyết liệt và không khoan nhượng".

Như đã được ghi lại trong các biên niên sử của thời gian đó, M. Gorbachev chỉ nhún vai, nhưng không nói một lời nào để trả lời. Nhưng cái nhún vai của ông ta được vị Tổng tư lệnh lực lượng Hải quân Xô viết hiểu như là một kiểu “carte blansh– tùy ý định liệu”. Và như vậy, tháng 2 năm 1988.

Những người bạn xấu xa cũ, chiếc tàu tuần dương "Yorktown" và tàu khu trục "Caron" lại xâm phạm Biển Đen, nhưng lần này từ hướng hải cảng quân sựSevastopol. Và cuộc xâm phạm lãnh hải của Xô viết diễn ra rất ngang ngược và phô trường, loại bỏbất kỳ nghi ngờ nào về những ý định tốt đẹp của các ông bạn bên kia đại dương mang đến vùng nước Liên xô.

Ở đây, có lẽ, điều đáng chú ý là Công ước quốc tế về Vận tải biển, được Chính phủ Liên Xô kỹ vào giữa những năm tám mươi, có cho phép các tầu quân sự đi qua vùng nước (phụ) thuộc lãnh hải của quốc ven biển. Nhưng chỉ trong trường hợp đặc biệt, với mục đích rút ngắn hải trình và bắt buộc phải thi hành hàng loạt những yêu cầu khắt khe. Có nghĩa không phải là để thực hiện nhiệm vụ trinh sát, tình báo, không cho phép các máy bay trên boong tầu được cất, hạ cánh, không tiến hành các hoạt động diễn tập (dù là không sử dụng đạn thật) và không có những hành vi làm cho các quốc gia ven biển phải nghi ngại. Nhưng Công ước chưa được Liên Xô phê chuẩn vào năm 1988, điều này chắc chắn các sĩ quan hải quân và lính thủy Mỹ biết rất rõ.

Tuyến đường hoạt động hai chiếc tầu chiến hiện đại của Mỹ trong vùng lãnh hải của Liên bang Xô viết thể hiện rất rõ ràng là đang tiến hành các hoạt động trinh sát, thăm dò. Hải quân Mỹ đang đi theo một lộ trình hoàn toàn không vì mục đích rút ngắn tuyến đường hải hành của họ mà thể hiện rõ ý đồ đi dọc theo vùng nước ven bờ biển một cách có ý thức.

Chiến hạm của Hạm đội Biển Đen tầu chống ngầm Dự án 1135 "Bezzavetnyi" vừa trở về từ một chuyến hải hành sáu tháng ở Địa Trung Hải. Thủy thủ đoàn đã được huấn luyện và rèn luyện kỹ càng, có kinh nghiệm cơ động trong các vùng nước ven biển của nhiều quốc gia nước ngoài. Tư lệnh trưởng lực lượng Hải quân của Liên Xô và tư lệnh Hạm đội Biển Đen quyết định giao nhiệm vụ cho "Bezzavetnyi": bám sát và theo dõi những hành động củahai tàu chiến Mỹ, hiểu rõ mục đích ý đồ của các chiến hạm này.


Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Chiến hạm chống ngầm Bezzavetnyi.

Cùng lái tầu song song với các chiến hạm Mỹ, nhiều lần tầu chiến của Liên Xô trên kênh thông tin quốc tế đã cảnh báo Mỹ: "Các ông đang vi phạm lãnh hải của Liên Xô". Các cảnh báo tương tự được lặp đilặp lại bằng tín hiệu semaphore được đánh bằng cờ hiệu.

Tầu chiến Mỹ trả lời một cách mơ hồ đại loại như, "Được rồi" và tiếp tục theo quỹ đạo của mình. Khi đó, sau khi báo cáo, thuyền trưởng của "Bezzavetnyi " Đại úy hạng 2 Vladimir Bogdashin nhận được mệnh lệnh: chèn đẩy các tàu Mỹ ra khỏilãnh hải của Liên bang Xô viết.

Chỉ đạo hành động, các lãnh đạo chỉ huy bộ tư lệnh hạm đội hướng dẫn phương án : để tạo ra va chạm lớn thậm chí nghiêm trọng và gây ra những thiệt hại đáng kể cho tàu chiếnMỹ, thả neo bên phải và giữ neo trong tình trạng treo lơ lửng trên xích neo dưới lỗ thả neo mạn phải. Nhưvậy, phần mũi tầu cao của "Bezzavetnyi" và cái neo treo lủng lẳng ở mũi tầu cơ bản sẽ xé tan và quét đitất cả những gì nằm trên boong và rơi vào tầm quét của neo tầu khi "Bezzavetnyi" chèn đè vào tầu tuần dương của Mỹ.

Sau đó, thuyền trưởng nhận được mệnh lệnh cụ thể và rõ nét: "Một lần nữa cảnh báo người Mỹ: hành vi xâm phạm vùng lãnh hải của Liên Xô là không thể chấp nhận được. Chúng tôi có lệnh đẩy chiến hạm của các ông, bao gồm cả sẵn sàng cho hành động va chạm và đâm tầu. Hãy cảnh báo tất cả nội dung bằng loa công suất lớn với hai thứ tiếng – Tiếng Nga và tiếng Anh...". Cảnh báo được phát đi với công suất lớn nhất, nhưng người Mỹ chỉ trả lời một câu gì đó khó hiểu, và tiếp tục theo hành trìnhcủa mình mà không thay đổi hướng.

Cũng phải nói thêm, lượng giãn nước của "Bezzavetnyi" ít hơn so với "Yorktown" tới 3 lần (3200 tấn so với 9600tấn). Chỉ một sai lầm nhỏ có thể dễ dàng bị tầu tuần dương của Mỹ đè bẹp như vỏ trứng.

Giải pháp trong tình huống này sẽ chỉ có một - giáng một loạt đòn đánh vào mạn tàu Mỹ. Lịch sử của Hải quân hiện đại chưa bao giờ có tình huống như thế này. Chiến hạm của Liên Xô xông thẳng vào va chạm mà không có giáp bảo vệ . Lúc đầu cả hai tầu chiến của Liên xô và Mỹ đều nằm trên hai đường hải trình song song.

Tuần dương "Yorktown" đã tăng vòng quay tạo ra làn sóng lớn, ngăn chặn chiến hạm Liên xô tiếp cận gần tầu của họ. "Bezzavetnyi " tăng tốc độ và nhanh chóng tiếp cận tầucủa Mỹ từ mạn bên trái. Theo đường thông tin nội bộ, thủy thủ đoàn của tàu " Bezzavetnyi " được thông báo tàu sẽ va chạm mạnh với tầu của Mỹ.

Trong tầu, tất cả các khoang ngăn cách được đóng kín. ... "Bezzavetnyi " bẻ lái phải và hạ neo bên phải xuống lơ lừng, các mỏ neo xòe ra bên ngoài tua tủa như móng vuôt. Sau này mới xác định được rằng, ban chỉ huy của tàu tuần dương Mỹ hoàn toàn không hiểu được hành động của các tàu Liên Xô, nhỏ hơn nhiều về kích thước và lượng giãn nước.

Những thủy thủ Mỹ không trực chiến và thực hiện nhiệm vụ tập trung ở thượng tầng cầu tầu, chụp ảnh, vẫy tay ​​và la hét gì đó vui vẻ. Nhìn sự ồn ào vô tư của thủy thủ Mỹ, sự thoải mái của họ, sự tự tin thái quá và thờ ơ kiêu căng đã khẳng định sự coi thường quá giới hạn đối với chiến hạm của Liên Xô. Cuộc đối đầu đạt đến cao trào. "Bezzavetnyi" đã tiếp cận được "Yorktown," còn tầu tuần biểnSKR-6 tiếp cận bên mạn phải của "Caron".

Để yểm trợ và tăng sức ép hơn nữa, hai chiếc máy bayTU-95 và máy bay BE-12 mang tên lửa chống tầu treo dưới cách được lệnh xuất kích. Trên "Yorktown"đài radar dẫn đường vẫn quay liên tục và đài radar giám sát hàng không vẫn hoạt động, thông báo tình huống nguy hiểm cho thuyền trưởng của tàu tuần dương. Nhưng cho đến khi đó các sĩ quan chỉ huy Mỹ vẫn không hiểu được, người Nga có khả năng làm được điều gì! "Yorktown" vẫn duy trì hướng lái tầu trên vùng nước lãnh hải của Liên xô.

Theo như một bài viết đã được đăng trên báo chí nước ngoài về sự cố hi hữu này cú tấn công đầu tiên " Bezzavetnyi " giáng thẳng vào "Yorktown" ở phần giữa, trên khu vực cầu thang. Toàn bộ lan can bị quét bay, cuốn vào nhàu nát, các thủy thủ"yorktauntsev" choáng váng vì tiếng sắt thép va chạm. Chiếc neo ba tấn, bị kéo lê trên cạnh boong của tàu tuần dương, gây lên những cú va quyệt và vết lõm sâu hoắm.

Một giây tiếp theo, chiếc neo nặng nề đứt xích và rơi xuống biển. Như bị gió thổi từ cầu tầu trên boong thượng, các thủy thủ Mỹ biến mất. Có thể nghe thấy được trên "Yorktown", rú còi báo động khẩn cấp, tất cả các thủy binh chạy về vị trí chiến đấu.

Sau cú đánh đầu tiên, thân tầu " Bezzavetnyi "bị đẩy sang trái, đuôi tầu đập mạnh vào mạn tầu tuần dương, nơi có các thùng container với tên lửa chống tàu "Harpoon", làm bẹp bốn container. Xuất hiện nguy cơ móp méo với các ống phóng ngư lôi của tầu “Bezzavetnyi”. Chuyển lái đột ngột vào vị trí “hết lái phải", " Bezzavetnyi " quay mũi tầu lạitấn công va chạm và húc chéo vào vùng khoang chiến đấu. Cú đánh thứ hai vào chiến hạm Mỹ thực sựrất mạnh.

"Yorktown" rung chuyển, và "Bezzavetnyi" trong một một thời điểm nào đó đã nghiêng mạn đến 13 độ. Độ chìm đuôi tầu đạt 4 độ. Trong thời điểm tiếp theo, thân tầu "Bezzavetnyi " tiếp tục quét sạchkhỏi "Yorktown" tất cả mọi thứ trên đường va chạm của nó: cột lan can, trụ buộc neo tầu, cổ ống thoát không khí, những tấm tôn lá đóng tầu và các phần nhô ra mạn tầu, biến tất cả thành phế liệu kim loại.

Dưới những chùm tia lửa hoa cà hoa cải do va chạm sắt thép bắn tóe ra, trong một vài giây nghe lạnh buốt ngực bới âm thanh của các cấu trúc bị phá hủy và rạn nứt.Có thể nhìn thấy các miếng sơn bay tung tóe ra khỏi sắt thép, khói bốc khét lẹt do ma sát – cho đến khi mũi tàu chiến Liên xô trượt xuống khỏi mạn tầu Mỹ. Sau cú va cham và đâm dữ dội vào tầu tuần dương, cuối cùngchỉ huy chiến hạm Mỹ mới đánh giá được mức độ vô cùng nguy hiểm của tình huống vừa xảy ra.


Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Sơ đồ hoạt động tác chiến của chiến hạm Liên Xô.

"Yorktown" lập tức chuyển lái phải và chạy hết tốc độ. Một lúc sau, tầu tuần dương của Mỹ đã thoát ra khỏi lãnh hải của Liên Xô vào vùng biển quốc tế. Tất cả hoạt động "chèn đè" đã diễn ra không quá mười lăm phút. "Yorktown" đã lấn sâu vào vùng biển thuộc lãnh hải Liên Xô khoảng 2,5 dặm, "Caron" - gần bảy dặm. Trong khi " Bezzavetnyi " chiến đấu với tầu "Yorktown," tàu tuần biển SKR-6 cũng tấn công đe dọa tương tự vào mạn tầu của "Caron", tuy nhiên, vì trọng lượng giãn nước nhỏ, nên không gây được tổn thất đáng kể.
Trên "Yorktown" khoảng các tầng ở giữa, xuất hiện một đám cháy, các thủy thủ Mỹ mặc áo chống cháy chạy hỗn loạn trên boong, kéo theo các đường ống phun nước, cố gắng dập một khu vực nào đó đang bốc lửa.

"Bezzavetnyi " hải hành thêm một khoảng thời gian nữa, không rời tầm nhìn khỏi các tàu chiến Mỹ.Sau đó lại tăng tốc độ và bơi một vòng "chiến thắng danh dự " xung quanh "Yorktown" và "Caron". "Yorktown" dường như đã chết - không còn một ai có mặt trên boong và cầu tầu. " Bezzavetnyi " kéo hết tốc độ, kiêu hãnh lướt qua các tầu của Mỹ, và, như không có chuyện gì xảy ra, hướng mũi tầu về quân cảng Sevastopol.

Theo tin từ các nguồn nước ngoài, sau khi vụ việc xảy ra, "Yorktown" phải neo đậu sửa chữa tại một xưởng đóng tàu vài tháng. Thuyền trưởng của tàu tuần dương đã bị sa thải và bị đưa về làm việc ở văn phòng do hành động thụ động và để cho ​​chiến hạm của Liên Xô dành quyền chủ động. Quốc hội Mỹ đã đóng băng gần nửa năm ngân sách của Lực lượng Hải quân Mỹ.

Gorbachev – dù trước đây đã tỏ ra yếu đuối - (sau khi nhận được báo cáo "đã điều chỉnh" của Tư lệnh trưởng Hải quân Chernavin) đã ca ngợi lòng dũng cảm của các thủy thủ hạm đội Biển Đen - một sự kiện chưa từng có. Sau này, thuyền trưởng "Bezzavetnyi" Vladimir Bogdashin, người đã giáng "một đòn choáng váng" vào tàu tuần dương Mỹ và cả hải quân Mỹ, được thăng chức và kết thúc sự nghiệp hải quân của mình với quân hàm chuẩn đô đốc. Tuy nhiên, ông đã nhận được danh hiệu đó tại thời điểm không còn là hải quân Liên Xô nữa, mà là Lực lượng Hải quân Liên bang Nga.

>> Khám phá chiến hạm Ticonderoga của Hải quân Mỹ

Tàu tuần dương mang tên lửa lớp Ticonderoga là lớp tàu chiến đầu tiên của hải quân Mỹ, được trang bị hệ thống thông tin điều hành tác chiến (CICS) Aegis và hệ thống radar AN/SPY-1.

>> Tìm hiểu tàu tên lửa đệm khí Bora của Nga
>> Khu trục hiện đại nhất hải quân Trung Quốc


Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Tàu tuần dương tên lửa Ticonderoga USS Port Royal (CG-73).

Chiếc tàu đầu tiên của loạt chiến hạm này được đặt hàng và phê chuẩn ngân sách tài chính vào năm 1978 theo yêu cầu là tàu khu trục mang tên lửa (DDG-47). Nhưng vào ngày 01.01.1980, khi đang trong quá trình đóng khung và vỏ tầu, đã được chuyển loại lại thành lớp tàu tuần dương mang tên lửa Ticonderoga (CG-47) và Yorktown (CG-47) do ứng dụng khí tài radars mới đã tăng cường đáng kể khả năng chiến đấu của tàu. Cơ sở căn bản để phát triển tàu tuần dương lớp Ticonderoga là khung sườn, vỏ tàu và hệ thống động lực trạm nguồn của tàu khu trục lớp "Spryuens."

Thiết kế siêu bền, siêu mạnh

Tàu tuần dương của "Ticonderoga" có hình dáng thon dài đặc trưng vươn xa tới mũi tàu dạng bán trụ, kéo dài đến 85% chiều dài của nó, mũi tàu hình nêm và đuôi tàu có mặt cắt thẳng đứng phía sau. Các đường viền thép dọc vỏ tàu được thiết kế nhằm giảm biên độ va đập của sóng biển vào mạng tàu và lườn tàu, đồng thời giảm ma sát của nước biển khi tàu chuyển động.

Trên cơ sở kinh nghiệm thiết kế tàu khu trục "Spryuens", Tổng chiều dài thân tàu bằng do kéo dài thêm phần mũi tàu nên đã tăng lên 1,1 m, trên phần mũi tàu được đặt một tấm lan can đặc biệt có chiều dài khoảng 40 m và chiều cao khoảng 1,4 m để giảm tác động của sóng trong điều kiện thời tiết mưa bão, biển động đối với ụ pháo - 127 mm AC và hệ thống OHR (hệ thống các hầm phóng tên lửa thẳng đứng). Cũng nhằm tránh rung lắc và va đập mạnh với sóng biển, thân tàu tuần dương được trang bị hệ thống ổn định rung lắc và các sống tàu trên mạn tàu.

Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com

Theo các thông số kỹ thuật thì tàu tuần dương lớp Ticonderoga có thể duy trì tốc độ hải trình đến 20 knots trong một thời gian dài khi biển đang động cấp 7. Các ống khói tàu được bố trí theo các boong thượng và dọc theo thân tàu. Phía sau đài chỉ huy và nằm ở giữa phần kiến trúc của boong tàu là các cột an ten song sắt hàn tam giác.

Trong cấu trúc của tàu được sử dụng các loại vật liệu siêu bền: (hợp kim nhôm, nhựa tổng hợp, các lớp phủ chịu mài mòn). Kho đạn hầm tàu được bảo vệ thép tấm có độ dày 25-mm. Phần quan trọng nhất của cấu trúc boong thượng tầng được bảo vệ bằng các tấm thép tổ ong. Tầng trên cùng được bọc bằng một lớp nhựa vinyl chống mòn, gỉ.

Ticonderoga trang bị 4 động cơ tuốc bin khí LM2500 cực khỏe, cho phép con tàu chạy với tốc độ tối đa 30 hải lý/giờ, tầm hoạt động hơn 10.000km.

Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com

Nếu so sánh cùng với các chiến hạm tuần dương khác của hải quân Mỹ, tuần dương hạm lớp Ticonderoga được tăng cường diện tích sinh hoạt thủy thủ đoàn, các khoang sinh hoạt được bổ trí ở khoảng giữa thân tàu và khoang trên boong thượng. Các gường tầng nhỏ được lắp thành các block có 6 gường, các block được ngăn bằng các vách ngăn mỏng. Các nhà thiết kế cũng lắp đặt các khoang nhỏ dành cho nghỉ ngơi và học tập.

Các tàu tuần dương Ticonderoga có khả năng hoạt động trong khu vực đối phương sử dụng vũ khí hủy diệt lớn. Trên các boong tầu và thân tầu không có cửa sổ. Các khoang làm việc, sinh hoạt được lắp đặt thiết bị lọc độc không khí.
Trên chiến hạm được lắp đặt các băng chuyền vận tải và thang máy để vận chuyển hàng hóa từ trên sàn tàu xuống hầm tàu và xếp đặt vào các khoang chứa hàng. Một trong những phương tiện vận chuyển đảm bảo di chuyển hàng trên toàn bộ mặt sàn, từ mũi tàu đến đuôi tàu. Trên phần mũi tàu và phần đuôi tàu được bố trí hai vị trí để tiếp nhận hàng hóa, được vận chuyển đến bằng máy bay trực thăng.

Các trang thiết bị được thiết kế theo dạng module cho phép sử dụng giải pháp sửa chữa các bộ phận riêng biệt bằng cách thay thế, nhanh chóng thay đổi các block bị hỏng hóc lực lượng theo biên chế trên tàu hoặc bằng lực lượng bảo dưỡng, sửa chữa của căn cứ Hải quân.

Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com

'Vệ sĩ' tàu sân bay, bắn hạ cả vệ tinh

Các chiến hạm Ticonderoga trang bị hệ thống chiến đấu Aegis tiên tiến. Aegis làm nhiệm vụ phát hiện, bám bắt mục tiêu, dẫn đường tên lửa đánh chặn và phá hủy máy bay, tên lửa hành trình, kể cả tên lửa đạn đạo.

Ticonderoga được trang bị kho vũ khí phòng không đồ sộ mà ít tàu chiến nước nào trên thế giới có được. Ticonderoga thiết kế 2 hệ thống ống phóng thẳng đứng Mk 41 (122 ống phóng) chứa hỗn hợp nhiều loại tên lửa bao gồm: Tên lửa đối không tầm trung SM-2MR Block IIIB có tầm bắn 74-170km, độ cao 24.400m, tốc độ hành trình Mach 3,5; Tên lửa đối không tầm xa SM-2ER Block IV có tầm bắn 120-190km, độ cao bay tiêu diệt mục tiêu 24.400m; Tên lửa đánh chặn SM-3 có tầm bắn siêu xa 500km, độ cao bay 160km, tốc độ bay 9.600km/h. SM-3 có khả năng đánh chặn tên lửa đạn đạo tầm trung, tầm ngắn; Tên lửa đối không tầm trung RIM-162 ESSM có tầm bắn 50km. Nó chuyên dùng để đánh chặn tên lửa hành trình đối hạm siêu âm có tính cơ động cao; Tên lửa đối không tầm xa SM-6 có tầm bắn 240km, độ cao bay 33km.

Các mục tiêu của kẻ thù nằm sâu trong đất liền cũng vẫn không thoát được vũ khí của Ticonderoga. Chiến hạm này trang bị tên lửa hành trình đối đất chính xác cao BGM-109 Tomahawk có tầm bắn tới 2.500km, tốc độ hành trình 880km/h. Kể từ cuộc chiến tranh vùng Vịnh 1991, chiến tranh ở Afghanistan, Lybya, tên lửa Tomahawk luôn mở đầu các chiến dịch của Mỹ với vai trò triệt hạ các mục tiêu quan trọng nhất, dọn dẹp chiến trường trước khi không quân và các lực lượng khác vào cuộc.

Ticonderoga cũng dễ dàng tiêu diệt kẻ địch ẩn nấp dưới lòng đại dương. Để chống ngầm, nó mang theo tên lửa săn ngầm RUM-139. Con tàu còn có sự hỗ trợ của 2 cụm máy phóng ngư lôi hạng nhẹ cỡ 324mm, 2 trực thăng săn ngầm SH-60B hoặc MH-60R. Tên lửa chống ngầm RUM-139 VL-ASROC có tầm bắn 22km. Loại vũ khí này không lắp đầu đạn thuốc nổ thường mà mang theo một ngư lôi săn ngầm.

Ticonderoga có khả năng mang tất cả các loại tên lửa trên, hoặc kết hợp 2-3 loại theo yêu cầu nhiệm vụ. Bên cạnh các vũ khí đối không, để tấn công đối phương, Ticonderoga vũ trang tổ hợp tên lửa hành trình đối hạm RGM-84 Harpoon (8 quả, tầm bắn 120km). Tàu còn có 2 pháo hạm 127mm, 2 tổ hợp pháo bắn nhanh 20mm, 2 pháo 25mm, 2-4 súng máy 12,7mm. Các vũ khí này dùng để tấn công mục tiêu tầm gần, cỡ nhỏ.

Ít có chiến hạm nào trên thế giới sánh được với sức mạnh kinh hoàng của Ticonderoga. Siêu chiến hạm này là thành phần không thể thiếu trong biên chế nhóm tàu sân bay xung kích Mỹ và thực sự là “lá chắn thép” bảo vệ các hàng không mẫu hạm. Từ lâu, Ticonderoga luôn đóng vai trò trụ cột và là niềm tự hào của hải quân Mỹ.

Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com

Từ năm 2000—2011 tất cả các tàu tuần dương Ticonderoga được hiện đại hóa để có thế lắp đặt các tên lửa RIM-161 Standard Missile 3. Các tên lửa này kết hợp với Hệ thống công nghệ thông tin điều khiển hỏa lực Aegis với Radar AN/SPY-1 có khả năng tiêu diệt mục tiêu trên thượng tầng khí quyển với khoảng cách là 500 km và trên tầm cao đến 160 km.

Ngày 21.02.2008 tàu tuần dương USS «Lake Erie» sử dụng tên lửa này đã đánh chặn và phá hủy vệ tinh mất điều khiển USA-193 trên khoảng cách 275 km.

Lực lượng Hải quân Mỹ đã đóng tất cả 27 chiếc tuần dương tên lửa lớp Teconderoga.

>> Khám phá sức mạnh tên lửa hàng đầu thế giới của Nhật

Hiện nay với khoa học kĩ thuật phát triển, ở châu Á Nhật Bản đang là nước sở hữu những hệ thống tên lửa hàng đầu thế giới.

>> Nhật khiến TQ 'rụng rời tay chân', Châu Á lo ngại
>> Tìm hiểu kho vũ khí khủng của Quân đội Nhật Bản


Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Ông Misa Sakurabayashi chuyên gia phân tích quốc phòng và an ninh Nhật Bản cho biết, công nghệ tên lửa của Nhật Bản có thể xếp vào loại hàng đầu thế giới, ngay cả chuyên gia quân sự Mỹ cũng phải thừa nhận điều đó.


Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Đầu tiên phải đề cập đến là loại tên lửa bờ đối hạm SSM-1. Nó không chỉ đơn thuần có tính năng chống hạm mà còn có thể tấn công đối đất, kể cả mục tiêu ở khu vực sơn địa và bán sơn địa. Bất kể là tấn công những hòn đảo có địa hình rừng núi phức tạp, cho đến những mục tiêu trên biển, nó đều có khả năng hành trình hết sức linh hoạt.

Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Đối với các mục tiêu cố định, nếu thiết lập vị trí mục tiêu chính xác và chi tiết, nó còn có khả năng vòng tránh cả chướng ngại vật và tấn công mục tiêu cực kỳ chính xác. Ngoài ra, nó còn có khả năng khóa và tấn công nhiều mục tiêu phân tán ở vị trí khác nhau.

Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
SSM-1 có chiều dài 5m, đường kính thân 0,35m, trọng lượng 660 kg (đầu đạn 270kg), bay ở độ cao trung bình 5-6m với vận tốc 1150km/h. Nó gồm 2 động cơ, bao gồm 1 động cơ đẩy nhiên liệu rắn và 1 động cơ Turbojet, điều khiển theo 2 phương thức là dẫn đường bằng quán tính và radar chủ động.

Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Tên lửa bờ đối hạm SSM-1 có tầm bắn gần 200km, trong khi đó khoảng cách từ quần đảo Senkaku đến đảo Miyako và đảo Ishigaki chỉ vẻn vẹn gần 170km nên loại tên lửa này có vai trò rất quan trọng và phát huy tác dụng rất tốt trong chiến lược phòng thủ biển đảo của Nhật Bản. (Trong ảnh: Hệ thống ra đa điều khiển của SSM-1)

Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Hiện Nhật đang tiếp tục phát triển loại tên lửa bờ đối hạm thế hệ mới Type 12, được phát triển trên cơ sở khung gầm của loại tên lửa đất đối không Type 03, có tầm bắn và uy lực lớn hơn rất nhiều. Tên lửa đất đối không tầm trung Type 03 của Nhật có khả năng phòng thủ chống lại sự xuyên phá của bất cứ loại tên lửa hàng đầu thế giới nào. (Trong ảnh: Hệ thống tên lửa Type 03)

Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Đây là sản phẩm tập trung những tinh hoa công nghệ và trí tuệ của nhiều tập đoàn công nghiệp hàng đầu Nhật Bản mà tập trung là 2 công ty thành viên Mitsubishi Heavy Industries và Mitsubishi Electric, trực thuộc gã khổng lồ công nghiệp Mitsubishi.

Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Type 03 được đưa vào thử nghiệm năm 2001 tại bãi thử White Sands ở bang New Mexico, Mỹ và triển khai năm 2002. Đến năm 2005, tổ hợp tên lửa phòng không Type 03 được đưa vào trang bị cho Cục Phòng vệ Nhật Bản. Thành phần của tổ hợp gồm bệ phóng, xe vận chuyển - nạp, trạm điều khiển hỏa lực, trạm radar đa năng.

Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Tất cả các phương tiện chiến đấu của tổ hợp tên lửa phòng không Type 03 được bố trí trên khung gầm xe ô tô có khả năng vượt địa hình cao (8x8). Trạm radar đa năng trang bị anten mạng pha chủ động, bảo đảm sục sạo và theo dõi đồng thời đến 100 mục tiêu trên không và cho phép đánh giá mức độ nguy hiểm.

Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Thông tin về tình hình trên không, thực trạng kỹ thuật của các thành phần tổ hợp và khả năng sẵn sàng phóng tên lửa được hiển thị trên màn hình bố trí tại trạm điều khiển hỏa lực.

Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com

Phần mềm hiện đại của tổ hợp bảo đảm cho tổ hợp tăng cường khả năng bắn, cho phép dự đoán vị trí của mục tiêu, bao gồm cả những thông tin đo vẽ địa hình sơ bộ về địa hình chiến trường và dẫn tên lửa đến điểm chạm dự tính. Tổ hợp được trang bị thiết bị kết nối liên lạc với các máy bay chỉ huy và cảnh báo sớm, cũng như các tàu có trang bị hệ thống vũ khí đa năng Aegis.

Thứ Năm, 16 tháng 5, 2013

>> Không quân - Hải quân và bài học cho Biển Đông

Máy bay chiến đấu mang các loại tên lửa và bom, ngư lôi có điều khiển khác nhau có khả năng tấn công các mục tiêu trên không, trên biển và trên đất liền từ rất xa...

>> Bí mật tác chiến tàu ngầm Kilo trên biển Đông
>> Phương án tác chiến của lực lượng ném bom chiến lược Mỹ

Máy bay chiến đấu mang các loại tên lửa và bom, ngư lôi có điều khiển khác nhau có khả năng tấn công các mục tiêu trên không, trên biển và trên đất liền từ rất xa...

Theo một số nguồn tin quân sự nước ngoài, song song với việc nhanh chóng đưa 3 quân binh chủng là hải quân, phòng không - không quân và thông tin liên lạc tiến thẳng lên hiện đại, Việt Nam đã bắt đầu tính tới việc đặt nền móng xây dựng lực lượng không quân hải quân riêng.

Đây là một xu thế phù hợp với chiến lược phát triển lực lượng hải quân trên thế giới hiện nay, nhằm nâng cao tính chủ động trong chiến đấu và sức mạnh phòng thủ. Việt Nam có bờ biển dài hơn 3.200 km và vùng đặc quyền kinh tế rộng cả triệu km2, nếu xây dựng được lực lượng không quân hải quân hiện đại, đủ mạnh sẽ góp phần bảo vệ vững chắc chủ quyền tổ quốc.
Chiến thuật và nghệ thuật tác chiến hải quân

Chiến thuật bao gồm nghiên cứu, phát triển, huấn luyện và triển khai các hoạt động tác chiến: tiến công, phòng ngự, phản công, đánh chặn và tổ chức biên chế các đơn vị tham gia tác chiến.v..v.

Trong các lực lượng vũ trang Liên bang Nga, chiến thuật đứng ở vị trí quan hệ phụ thuộc đối với nghệ thuật chiến dịch và chiến lược. Nghệ thuật chiến dịch xác định nhiệm vụ và hướng phát triển của chiến thuật, trên cơ sở năng lực tác chiến của các đơn vị hợp thành và các phân đội, tính chất và đặc thù các hoạt động tác chiến của các đơn vị.

Căn cứ vào thực tế yêu cầu nhiệm vụ, căn cứ vào sự phát triển của các hoạt động tác chiến cụ thể trên chiến trường, nghệ thuật tác chiến sẽ đề xuất những yêu cầu biên chế các phương tiện, bao gồm phát triển vũ khí hạt nhân, hoàn thiện và phát triển vũ khí trang bị công nghệ hiện đại, liên kết phối hợp giữa các lực lượng. Mối quan hệ giữa nghệ thuật chiến lược, chiến dịch, chiến thuật trở lên đa phương, đa chiều và biến động không ngừng.

Nghệ thuật tác chiến bằng vũ khí hạt nhân và vũ khí công nghệ hiện đại cho phép các chỉ huy trưởng đơn vị, mặt trận phát huy tính độc lập, sáng tạo và nhanh chóng hoàn thành được những mục tiêu được giao trong chiến đấu. Những thành công của hoạt động tác chiến chiến thuật trên thực tế là những kết quả đặt ra của yêu cầu chiến dịch.

Đồng thời, khi các bộ tư lệnh cấp chiến lược và chiến dịch ra những đòn tấn công quyết định (hạt nhân, vũ khí công nghệ cao) mang tính chiến lược hoặc chiến dịch vào nhưng mục tiêu quan trọng như các trung tâm quân sự, kinh tế hoặc các đòn tấn công vào các cụm tập trung binh lực quan trọng của đối phương nhằm giải quyết các nhiệm vụ mang tính chiến lược sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị binh chủng hợp thành, các phân đội binh chủng thực hiện tốt nhiệm vụ cấp chiến thuật.


Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Tên lửa chống hạm phóng từ tầu tuần duyên Slam

Nhiệm vụ của chiến thuật là nghiên cứu những hoạt động có tính quy luật, tính chất và nội dung của một trận đánh, nghiên cứu phát triển phương pháp huấn luyện tác chiến và tác chiến, nghiên cứu xác định những giải pháp sử dụng vũ khí trang bị tấn công tiêu diệt, phòng ngự và bảo vệ; nghiên cứu những tính chất kỹ chiến thuật của các đơn vị binh chủng hợp thành, các đơn vị binh chủng, các đơn vị có tổ chức biên chế phối hợp quân binh chủng, xác định rõ nhiệm vụ của các đơn vị và tổ chức đội hình tác chiến khi tiến hành các trận đánh và những phương pháp liên kết phối hợp giữa các đơn vị tham gia chiến đấu.

Nghiên cứu mục đích, vai trò của hỏa lực, phát triển những tư duy mới về điều hành tác chiếc các binh đoàn, các đơn vị hợp đồng chiến đấu, tính năng và khả năng tác chiến của các đơn vị quân binh chủng liên kết phối hợp, bảo đảm hậu phương chiến trường và bảo đảm hậu cần kỹ thuật; nghiên cứu binh lực và vũ khí trang bị và những phương pháp tiến hành tác chiến của đối phương.

Các lực lượng (Lục quân) (Không quân) (Hải quân), các đơn vị hợp thành, các binh chủng (hải quân trên tầu, hải quân đánh bộ, không quân hải quân) ; các đơn vị đặc nhiệm (thực hiện nhiệm vụ đặc biệt) những đơn vị hậu cần kỹ thuật (các đơn vị bảo đảm của hậu phương hoặc công binh, kỹ thuật quân binh chủng) giao thông vận tải đường bộ và đường sắt cũng có những chiến thuật riêng biệt, nghệ thuật tác chiến các đơn vị chuyên ngành đi sâu nghiên cứu những tính chất chiến thuật, năng lực chiến đấu của các đơn vị hợp thành, các đơn vị binh chủng và các chiến hạm, các phân đội của các binh chủng (hải quân đánh bộ, không quân hải quân), các lực lượng đặc nhiệm (đặc công thủy, lính thủy đánh bộ), khả năng sử dụng các lực lượng cụ thể trong tác chiến độc lập và tác chiến hợp đồng quân chủng, binh chủng.

Những quy luật chung và những quan điểm huấn luyện tác chiến và tác chiến của các binh đoàn hợp đồng tác chiến quân binh chủng, các đơn vị binh chủng hợp thành, các đơn vị binh chủng, các phân đội độc lập và các lực lượng đặc nhiệm hình thành những cơ sở lý luận cơ bản của chiến thuật. Nghiên cứu những điều kiện đa dạng, phức tạp của chiến trường, chiến thuật không đưa ra những chiến lệ có sẵn. Chiến thuật chỉ đưa ra những quan điểm và nguyên tắc quan trọng nhất, tuân thủ theo những nguyên tắc và quan điểm chiến thuật đó, người chỉ huy ra những quyết tâm chiến đấu độc lập, năng động và sáng tạo, căn cứ vào những điều kiện thực tế của chiến trường tại thời điểm xác định.

Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Tầu ngầm nguyên tử phóng tên lửa đạn đạo

Những thay đổi trong chiến thuật thông thường liên quan chặt chẽ đến sự phát triển của công nghiệp quốc phòng, những phát minh mới về vũ khí trang bị và phương tiện chiến tranh, sự phát triển của chung của xã hội và trạng thái tư tưởng chính trị tinh thần và tri thức của lực lượng vũ trang, sự phát triển của tư tưởng chiến lược và nghệ thuật chiến dịch, cơ cấu tổ chức của lực lượng vũ trang nói chung và các quân binh chủng nói riêng. Ảnh hưởng trực tiếp lên chiến thuật là con người và vũ khí trang bị.

Chiến thuật là thành phần năng động, liên tục thay đổi của nghệ thuật quân sự. Ảnh hưởng trực tiếp lên chiến thuật là tình hình phát triển và huấn luyện chiến đấu của đối phương (dự kiến), năng lực và phương thức tiến hành các hoạt động tác chiến của đối phương, vũ khí trang bị và những yếu tố quan trọng khác…. Những phương án tác chiến mới, được xây dựng trên cơ sở sử dụng vũ khí trang thiết bị hiện đại luôn luôn trong trạng thái đối kháng, mâu thuẫn với các phương thức tác chiến cũ hơn, mặc dù các phương thức tác chiến cũ đã không đáp ứng được yêu câu nhiệm vụ trong giai đoạn mơi, nhưng đã trở thành thói quen hoặc nếp suy nghĩ cũ, in sâu trong lý luận và thực tiễn chiến trường.

Chiến thuật không quân hải quân

Chiến thuật không quân hải quân, là một phần của chiến thuật lực lượng không quân, bao gồm lý luận và thực tế huấn luyện tác chiến của các đơn vị binh chủng hợp thành, các đơn vị không quân binh chủng, các phi đoàn, phi đội và máy bay tác chiến độc lập (trực thăng chiến đấu) Chiến thuật không quân hình thành và phát triển vào đầu thế kỷ 20, khi hình thành lực lượng không quân quân sự. Trong đại chiến thế giới lần thứ nhất, không quân thực hiện các nhiệm vụ trinh sát, tiêm kích, cường kích ném bom, căn cứ vào nhiệm vụ cụ thể của từng binh chủng không quân, nghệ thuật quân sự phát triển nghệ thuật tác chiến không quân.

Nghệ thuật quân sự không quân Xô Viết hình thành và phát triển vào thời gian nội chiến chống bạch vệ và can thiệp nước ngoài. Những nguyên tắc sử dụng không quân được ghi lại trong điều lệnh chiến trướng năm 1919 và các văn kiện quân sự khác. Lực lượng máy bay cường kích đánh chặn của Xô Viết phát triển năm 1926, lực lượng ném bom chiến lượng hạng nặng 1933. Không quân Xô Viết đã phát chiến nghệ thuật tác chiến không quân và phương thức sử dụng lực lượng không quân cho tác chiến các không gian chiến trường khác nhau.

Đến thời điểm đầu tiên của của cuộc Chiến tranh vệ quốc vĩ đại đã phát triển các phương án và kỹ thuật tác chiến độc lập và tác chiên không đoàn, tổ chức và triển khai các hoạt động phối hợp tác chiến, yểm trợ hỏa lực với Hải quân và Lục quân, đông thời tác chiến liên kết phối hợp các binh chủng của lực lượng không quân. Những lý luận và nghiên cứu thực tiễn cơ bản được thể hiện cụ thể trong điều lệnh tác chiến của binh chủng không quân tiêm kích (BUBA – 1940)

Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Sơ đồ tác chiến của phi đoàn máy bay IL2 tấn công đoàn congvoa quân sự của Đức trên vịnh Phần Lan.

Trong chiến tranh thế giới thứ II và cuộc chiến tranh vệ quốc, chiến thuật của không quân đã có sự phát triển vượt bậc trên tất cả các lĩnh vực. Đã xây dựng hệ thống dẫn đường cho máy bay tiêm kích dến mục tiêu. Để điều hành tác chiến, không quân đã sử dụng rộng rãi các đài ra đa, sân bay dã chiễn và các trạm chỉ huy không quân gần chiến trường.

Nhiệm vụ cơ bản của không quân tiêm kích là các phi đội, phi đoàn tham gia không chiến. Một đơn vị chiến đấu nhỏ nhất cũng bao gồm 2 máy bay tiêm kích, tác chiến trong đội hình chiến đấu chung của phi đội, phi đoàn, tác chiến độc lập của một máy bay tiêm kích rất hiếm sử dụng. Sử dụng radar dẫn đường cho phép giảm thiểu rất nhiều số lượng máy bay tiêm kích bay trực chiến trên bầu trời, thay bằng phương pháp trực sẵn sàng chiến đấu trên sân bay.

Tác chiến với các máy bay đơn lẻ hoặc các phi đội nhỏ của đối phương trên địa bàn hoạt động của địch thông thường sử dụng phương pháp " đi săn tự do". Máy bay cường kích ném bom tấn công các mục tiêu trên biển, trên đất liền theo phương pháp bổ nhào với góc phóng là 25 - 30° hoặc theo phương pháp thả rơi tự do. Đội hình tác chiến cơ bản nhất là đội hình 2 máy bay 1 trước, một yểm trợ. Để tăng cường thời gian chế áp đối phương, lực lượng máy bay cường kích thường tấn công nhiều đợt các mục tiêu được giao.

Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Sơ đồ tấn công của phi đoàn máy bay cường kích đánh chăn tấn công mục tiêu trong đại chiến thế giới lần thứ 2.

Trong chiến thuật tấn công bằng bom và ngư lôi của binh chủng không quân hải quân, phương thức tác chiến được áp dụng là sử dụng các đòn tấn công tập trung của các trung đoàn và phi đoàn máy bay ném bom, ngư lôi vào các mục tiêu quan trọng (các trung tâm chỉ huy, căn cứ quân sự, các chiến hạm lớn như tuần dương hạm, khu trục hạm, trong điều kiện thời tiết rất xấu và ban đêm. Các đòn tấn công theo từng đợt liên tiếp của các phi đội ( 8 – 12 máy bay ném bom), theo dây chuyền và từng chiếc máy bay ném bom. Phương án ném bom mới là tấn công bổ nhào với góc rơi là 50 - 60° từ chiều cao 2.000 đến 3.000m.

Trong chiến thuật, phương pháp trinh sát không ảnh đóng vai trò quan trọng trên chiến trường. không ảnh do máy bay trinh sát các loại thực hiện, từ trinh sát tầm cao đến trinh sát của máy bay không người lái. Không ảnh giúp cho người chỉ huy tác chiến nắm được thực địa vào thời điểm chuẩn bị tiến công, các mục tiêu trong ảnh và các mục tiêu trên bản đồ tác chiến. Đồng thời, máy bay trinh sát được che chắn và bảo vệ bởi máy bay tiêm kích.

Nửa cuối thế kỷ 20, không quân nói chung và không quân Hải quân nói riêng được trang bị các máy bay phản lực, có tốc độ cao (máy bay siêu thanh) tầm bay cao hơn, xuất hiện nhiều loại vũ khí của không quân có sức công phá và hủy diệt lớn hơn nhiều lần. Sự thay đổi phương tiện chiến tranh và vũ khí trang bị đã làm thay đổi hoàn toàn phương thức tác chiến không quân và phương thức tác chiến của binh chủng không quân Hải quân, các đơn vị trực thuộc binh chủng.

Máy bay chiến đấu mang các loại tên lửa và bom, ngư lôi có điều khiển khác nhau có khả năng tấn công các mục tiêu trên không, trên biển và trên đất liền từ rất xa, không bay vào khu vực phòng không bảo vệ mục tiêu của đối phương. Trinh sát không quân cũng có những thay đổi to lớn nhờ công nghệ hiện đại, tốc độ bay rất cao và trần bay tới của máy bay cũng rất lớn. Máy bay được trang bị các thiết bị chụp ảnh ngày đêm, thiết bị radar dạng pha tìm kiếm mục tiêu rất mạnh và công suất lớn, sử dụng công nghệ tàng hình (strealth) máy bay trinh sát có thể đơn độc bay vào khu vực phòng không bảo vệ của mục tiêu.

Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Sơ đồ đội hình tấn công của máy bay tàng hình F117.

Chiến thuật không quân hải quân bao gồm các nhóm chiến thuật nói chung gồm:

Tiêm kích hải quân, lực lượng các đơn vị máy bay tiêm kích có căn cứ bên bờ biển, trên hạm đội hoặc tiếm kích hải quân được hỗ trợ bằng lực lượng tiếp dầu trên không.

Cường kích chống hạm, lực lượng không quân đảm nhiệm những nhiệm vụ tấn công các hạm tầu của đối phương, sử dụng ngư lôi chống tầu ngầm và tầu nổi.

Cường kích đánh chặn: Các phi đoàn có nhiệm vụ tấn công các hạm đội, các đoàn congvoa quân sự trên biển, đảm nhiệm cả 2 nhiệm vụ chống tầu và không chiến. Được trang bị tên lửa chống tầu, tên lửa không đối không, bom điều khiển laser.
Cường kích tầm xa: Là những phi đội thực hiện các nhiệm vụ tấn công tầm xa, khí liên bang phát triển hệ thống tầu sân bay, lực lượng cường kích tầm xa có thể phối hợp với máy bay ném bom chiến lược thực hiện các nhiệm vụ ở khu vực chiến trường xa căn cứ.

Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Trực thăng săn ngầm KA-28 của Hải quân Nga

Máy bay trinh sát đa nhiệm (hệ thống các máy bay trực thăng trên boong tầu) có nhiệm vụ trinh sát quản lý vùng biển, tìm kiếm săn ngầm, thả bom chìm, bố trí bãi thủy lôi, đổ bộ các hải đoàn lính đặc nhiệm, chống khủng bố, biệt kích và tìm kiếm cứu hộ cứu nạn.v..v. Lực lượng trực thăng chiến đấu trên boong tầu tuần duyên, tuần biển thường được bố trí rất nhiều nhiệm vụ đa dạng, phức tạp. Được yểm trợ hỏa lực của chính tầu chở nó.

Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Sơ đồ tác chiến của máy bay tiêm kích Mig 29.

Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Sơ đồ phi đội không quân tấn công chiến hạm bằng bom 01.

Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Sơ đồ phi đội không quân tấn công chiến hạm bằng bom 02.

Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Sơ đồ phi đội không quân tấn công chiến hạm bằng ngư lôi

Về cơ bản, chiến thuật tác chiến của không quân hải quân cũng tương tự như chiến thuật của không quân tiêm kích và cường kích của lực lượng Không quân Liên bang, nhưng được bổ sung bằng những yếu tố đặc thù của không gian chiến trường. Nếu so với chiến trường mặt đất, chiến trường mặt biển có đặc thù phức tạp hơn về thời tiết, hướng gió, khí hậu và luồng hải lưu.

Không gian chiến trường rộng mở, khó có khả năng ẩn nấp trước hệ thống trinh sát đối phương. Đồng thời, bay trên biển gặp nhiều khó khăn do khi bay thấp tránh sự truy quét của radar và phương tiện quan sát đối phương, phi công gặp tâm lý khi bay sát mặt biển, trong quá trình tiếp cận mục tiêu với tốc độ cao, phi công phải đối phó với nhiều vũ khí phòng không đa dạng, có tốc độ tấn công rất cao, từ tên lửa phòng không tầm xa, tầm gần đến các loại hỏa lực như pháo phòng không đa nòng có tốc độ bắn rất cao, được điều khiển bằng radar và quang ảnh nhiệt.

Do đó, kỹ thuật bay biển và kỹ thuật tấn công ngấn tàu là kỹ thuật chiến đấu rất phức tạp, máy bay sẽ bay sát mặt biển với độ cao 50m so với mặt nước biển, tấn công bằng ngư lôi, tên lửa và bay thoát khỏi vùng bảo vệ của mục tiêu. Trong điều kiện công nghệ hiện đại, máy bay trên boong tầu phải là máy bay tàng hình sử dụng công nghệ (stealth) mới có khả năng thực hiện tác chiến ban đêm.

Không quân hải quân tác chiến trong điều kiện chiến trường hiện đại, để chống lại các phương tiện rà quét trinh sát và theo dõi mục tiêu, tránh được các máy bay tiêm kích của đối phương và tránh được hỏa lực phòng không cần đảm bảo làm được: Thứ nhất, đó là khả năng bay đêm; thứ hai, khả năng bay sát mực nước biển, thứ ba: Các đòn tấn công phải có tầm gần để tránh được khả năng cơ động tránh đòn và sử dụng tên lửa tầm gần, tên lửa cá nhân chống máy bay.

>> Tàu ngầm Ohio của Mỹ làm Trung Quốc "lạnh xương sống"

Mỗi tàu ngầm hạt nhân Ohio mang một lượng vũ khí có sức công phá bằng tất cả số bom đạn trong thế chiến thứ hai, đủ sức hủy diệt hoàn toàn một lục địa.

>> 'Kho tên lửa cơ động' khổng lồ dưới biển Nga
>> Tàu ngầm Trung Quốc lọt top 8

Năm 2012, khi cuộc tranh chấp bãi cạn Scarborough trên Biển Đông giữa Trung Quốc và Philippines diễn biến căng thẳng, Mỹ đã điều động một tàu ngầm hạt nhân chiến lược lớp Ohio cập cảng Philippines. Động thái có tính bênh vực này khiến báo chí Trung Quốc la lối om sòm và rõ ràng 'thần kinh' của đại lục cũng căng lên như dây đàn. Tại sao vậy?

Tàu ngầm hạt nhân chiến lược Ohio của hải quân Mỹ (class Ohio SSBN / SSGN) – Là loạt 18 tàu ngầm hạt nhân chiến lược của Mỹ thế hệ thứ III, được biên chế vào lực lượng hải quân Mỹ trong những năm 1981-1997.


Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com

Từ năm 2002, tầu ngầm hạt nhân Ohio là lớp tầu duy nhất mang tên lửa đạn đạo tầm xa phục vụ trong Hải quân Hoa Kỳ. Mỗi tàu ngầm Ohio được trang bị 24 tên lửa đạn đạo "Trident".

Loạt tầu ngầm hạt nhân đầu tiên lớp Ohio bao gồm 8 chiếc được trang bị tên lửa Trident I C-4 và đóng quân tại căn cứ hải quân (HMB), Kitsap, bang Washington, trên bờ biển Thái Bình Dương của Mỹ. Loạt tầu ngầm thứ hai, 10 chiếc tàu còn lại, được trang bị tên lửa Trident II D-5 đóng quân tại căn cứ hải quân tại Kings Bay, bang Georgia.

Năm 2003, để thực hiện hiệp ước cắt giảm vũ khí tiến công chiến lược. Hải quân Mỹ đã tiến hành chương trình chuyển đổi bốn tàu ngầm đầu tiên của dự án Ohio sang thành phương tiện mang tên lửa hành trình Tomahawk, chương trình kết thúc vào năm 2008. Mỗi tàu Ohio chuyển đổi mang 154 tên lửa hành trình Tomahawk tầm bắn 2.500 km.

Bốn tàu còn lại của loạt tàu đầu tiên được thay thế bằng tên lửa "Trident-2", tất cả các tên lửa "Trident-1" đã được tháo gỡ và ngừng thực hiện nhiệm vụ chiến đấu. Theo yêu cầu cắt giảm số lượng tàu mang tên lửa trên Thái Bình Dương, một phần tàu ngầm hạt nhân lớp Ohio đã được chuyển từ Đại Tây Dương sang Thái Bình Dương.

Các tàu ngầm lớp "Ohio" hình thành đơn vị chủ lực của lực lượng tấn công hạt nhân chiến lược Mỹ và thường xuyên thực hiện tuần tra sẵn sàng chiến đấu, thời gian các tàu ngầm hạt nhân Ohio có mặt trên biển chiếm 60% tổng thời gian hoạt động.

Tổng thống Mỹ Richard M. Nixon ngày 15.10.1973 đã ký bản ngân sách tài chính năm 1974, trong bản dự toán ngân sách này có một khoản dành cho chế tạo chiếc tàu ngầm hạt nhân mang hệ thống tên lửa chiến lược Trident. Ngày 25.07.1974. Hải quân Mỹ đã ký Hợp đồng với công ty General Dynamics nhằm chế tạo trên xưởng đóng tàu của Electric Boat chiếc SSBN đầu tiên, mang tên Bang Ohio.
Trong năm 1974 Hải quân Mỹ đã có chương trình đóng 10 chiếc tàu lớp Ohio. Đến năm 1981 chương trình được điều chỉnh tăng lên đến 15 chiếc, và tiếp tục tăng đến 20 chiếc tàu ngầm vào năm 1985. Đến năm 1989, hải quân Mỹ dự định sẽ đóng 21 chiếc tàu ngầm hạt nhân Ohio, kế hoạch sẽ đặt hàng đến 24 chiếc SSBN. Nhưng vào năm 1991, Thượng viện đã giới hạn chương trình chỉ được đóng có 18 chiếc tàu ngầm Ohio.

Cơ sở căn bản cho việc giới hạn này là hiệp ước cắt giảm vũ khí tiến công chiến lược START và đề nghị của chính quyền G. Bush Tất cả 18 chiếc tàu ngầm hạt nhân chiến lược lớp Ohio được đóng tại xưởng đóng tầu Electric Boat thuộc hãng General Dynamics tính từ năm 1976 đến năm 1997. 8 chiếc đầu tiên được trang bị hệ thống tên lửa Trident I C-4. Sau này 4 chiếc được thay thế bằng tên lửa Tomahawk và tất cả các tàu ngầm còn lại đều mang tên lửa Trident II D-5.

Tính năng kỹ chiến thuật tầu Ohio


Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com

Bên trong con tàu tỷ đô

Tàu ngầm Ohio là một kỳ quan công nghệ hết sức phức tạp gồm 1. Anten cầu của đài sonar; 2. Bồn nước dằn tầu chính; 3. Buồng công tác máy tính trung tâm; 4. Phòng công tác truyền thông tin liên lạc radio; 5. Vị trí công tác của trắc thủ sonar; 6. Trung tâm điều khiển; 7. Trung tâm điều hướng, hoa tiêu và dẫn đường; 8. Vị trí điều khiển phóng tên lửa; 9. Khoang máy động lực ; 10. Khoang lò phàn ứng hạt nhân; 11. Khoang các thiết bị phụ trợ № 1; 12. Đường thuát của thủy thủ đoàn; 13. Khoang các thiết bị phụ trợ № 2; 14. Khoang ống phóng ngư lôi; 15. Khu nghỉ của thủy thủ ; 16. Khu nghỉ của sĩ quan; 17. Khoang tên lửa.

Thân vỏ tầu được cấu tạo vững chắc, chịu được áp lực lớn của nước và chia thành 4 khoang và một vùng kín, được ngăn cách bằng vách ngăn không thấm nước.

Khoang thứ nhất (khoang mũi tầu): Trong khoang được bố trí bốn sàn công tác cho của ba khu vực làm việc có yêu cầu nhiệm vụ khác nhau: Khu vực Tác chiến: Trung tâm điều hành tác chiến, Phòng công tác điều khiển phóng tên lửa, Phòng công tác điều hướng và hoa tiêu dẫn đường, Khoang ống phóng ngư lôi – thủy lôi, Gian công tác truyền thông radio, Khoang trạm sonar thủy âm.

Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Trung tâm điều khiển tàu ngầm Ohio

Khu vực Đảm bảo kỹ thuật: Tổ hợp máy tính trên boong, Hệ thống quạt thông gió, Phòng chứa điều hòa không khí và các trang thiết bị phụ trợ, Buồng máy bơm, Buồng chứa bình ac quy. Khu vực sinh hoạt thường xuyên:


Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Bao gồm Khu phòng riêng của sĩ quan, Phòng nghỉ ngơi sinh hoạt, buffet, Bếp trên tầu, Phòng ăn của thủy thủ đoàn

Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Cabin sinh hoạt của sĩ quan và quản trị trưởng, Phòng y tế, Các phòng học chuyên dụng, Phòng trang thiết bị cứu hộ tập thể sử dụng (nằm giữa trung tâm điều hành và trạm sonar – thủy âm).

Khoang thứ 2 (khoang tên lửa). Đây là khoang có 4 sàn công tác và chiếm 1/3 không gian thân tầu được gia cố vững chắc. Trong khoang có: 24 ống phòng tên lửa được lắp đặt xuốt chiều cao của thân tầu đi qua cả 4 tầng công tác; Các trang thiết bị phóng tên lửa và hệ thống kiểm tra – kiểm soát phóng đạn; Phòng học chuyên dụng; Phòng ngủ cho kíp trắc thủ tổ hợp tên lửa.

Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Khoang tên lửa từ phía bên ngoài.

Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Khoang tên lửa Tomahawk chuyển đổi.

Khoang đặc dụng (kỹ thuật máy) Bảng điện phân phối; Thiết bị lọc và làm sạch không khí; Bơm nước và bơm thay đổi góc mũi và đuôi tầu (khi lặn – nổi); Khoang thứ 3 (Lò phản ứng hạt nhân).

Chiều dài của khoang khoảng 10 m, được lắp đặt các thiết bị bao gồm: Lò phản ứng hạt nhân; 2 máy phát điện hơi nước; 2 máy bơm lưu chuyển chất lỏng làm mát (nước); Máy nén tạo áp lực; Thiết bị kiểm soát và điều khiển các hoạt động của lò phản ứng hạt nhân. Khoang thứ tư là khoang động cơ tuabin.

Tầu ngầm Ohio có cấu trúc hình dáng tương đối phức tạp: Thân vỏ tầu ngầm được thiết kế vững chắc theo hình trụ tròn với hai phần đầu và cuối được kết nối liền mạch với hình nón và phần cuối là bán cầu lồi theo hình dáng thủy động học, phía trong gắn các bồn nước dằn tầu, khoang bán cầu lắp đặt anten sonar thủy âm và trục quay chân vịt.

Phía trong của thân vỏ tàu có cấu tạo vững chắc được bao phủ bằng một lớp vật liệu cách nhiệt, cách âm nhẹ, bao bọc và ngăn cách tất cả các khoang trong thân tầu như khoang chứa các ống phóng tên lửa, khoang trang thiết bị động lực đuôi tầu cùng với hệ thống radar anten thủy âm kéo theo đuôi tầu ở phía sau. Với một diện tích không lớn của phía trong thân tàu, tàu ngầm có thể coi là tàu có một khoang chính thông suốt.

Phương pháp thiết kế thân tàu như vậy, theo các chuyên gia đã giảm tối thiểu khả năng tạo tiếng ồn động thủy âm, đạt được tốc độ cơ động dưới ngầm cao nhất với tiếng ồm thấp nhất nếu so sánh cùng với các loại tầu ngầm có hai khoang chính. Các tấm vách ngăn cứng và chịu lực sẽ chia tầu thành các khoang thứ cấp, mỗi khoang thứ cấp sẽ chia khoang tàu ra làm nhiều sàn công tác.
Phần mũi tầu, phần khoang tên lửa và phần khoang đuôi tầu có các nắp cửa đóng mở để cung cấp hàng, cơ sở vật chất, đạn tên lửa và ngư lôi. Phần boong thượng được dịch chuyển lên phía trên mũi tàu, hai bên phía trên của boong thượng được lắp các cánh ổn định dạng cánh máy bay khí động học có hệ thống điều khiển để lái tàu, các cánh ổn định phía đuôi được thiết kế dạng chữ thập, trên các cánh đôi ổn định tàu nằm ngang có lắp các bánh lái điều khiển chuck - rods thẳng đứng.

Vỏ tầu được thiết kế có độ bền vững cao, được hàn từ các bộ phận (vỏ) định dạng hình trụ, hình nón và hình elip bằng thép có độ dày 75 mm. Vật liệu chính - thép cường lực mác HY-80/100 cho phép chịu được lực nén giao động trong khoảng từ 56-84 kgf / mm. Để tăng sức chịu lực nén của vỏ tầu đã gắn kết thêm các khung chịu lực hình khuyên nhau dọc theo chiều dài của thân tầu. Vỏ tầu được phủ lớp vật liệu chống ăn mòn từ nước biển.

Tổ hợp hệ thống động lực trạm nguồn của tàu ngầm Ohio bao gồm hai tổ hợp chính và tổ hợp phụ trợ. Các hệ thống máy và các bộ phận động lực được bố trí trong khoang số 5 và số 6.

Trong tổ hợp hệ thống động lực trạm nguồn bao gồm có: Lò phản ứng hạt nhân; Hai máy bơm đối lưu tuần hoàn; Máy nén tăng áp; Hai máy phát điện hơi nước, Hệ thống bảo vệ sinh học chống nhiễm xạ; Hai máy phát điện tur-bin; Hai bộ phận khí nén tua – bin hơi nước; Động cơ điện quay chân vịt tàu; Trang thiết bị điều khiển và kiểm soát các hoạt động của động lực trạm nguồn.
Lò phản ứng hạt nhân

Lò phản ứng hạt nhân - Là loại lò phản ứng 2 vòng đối ngẫu nước áp lực (PWR) loại S8G được phát triển bởi công ty General Electric, cấu tạo của lò phản ứng ba gồm các bộ phận tiêu chuẩn cho các loại của các lò phản ứng hạt nhân nước nhẹ - áp lực: Vỏ - thân lò phản ứng, vùng phản ứng hạt nhân trung tâm, các tấm phản xạ neutron, thanh điều khiển. Chất lỏng dẫn nhiệt - làm mát và làm chậm các phản ứng dây truyền – là nước tinh khiết (qua hai lần chưng cất).

Các thông số của vòng luân chuyển chính: Áp suất trung bình - 140 kgf / cm ² (14 MPa), nhiệt độ - 300-320 ° C. Lò phản ứng được bao quanh bởi một lớp tấm chắn chống phóng xạ, được thiết kế để bảo vệ thủy thủ đoàn chống lại bức xạ ion hóa và các vật liệu tổng hợp hình thành có khối lượng nguyên tử lớn. Đường kính của khoang lò phản ứng là 12,8 m, chiều dài lò phản ứng - 16,8 m, trọng lượng - 2750 tấn.

Vùng phản ứng hạt nhân chứa nhiên liệu hạt nhân - đồng vị Uranium 235 đã được làm giàu ở mức độ cao, Khối lượng nhiên liệu hạt nhân cho phép 100.000 giờ hoạt động liên tục, tương đương với khoảng 9 -11 năm khai thác sử dụng liên tục lò phản ứng hạt nhân với công suất cao nhất, tàu ngầm có thể cơ động trên khoảng 280 ngàn dặm với tốc độ cao, ở tốc độ tiết kiệm - 800.000 dặm (đối với tầu ngâm SSBN lớp "Lafayette" tương đương với 5 năm bơi liên tục với tốc độ tiết kiệm (trung bình) trên đoạn đường dài 345.000 dặm).

Hệ thống động lực trạm nguồn tuabin hơi nước bao gồm hai động cơ tua-bin hơi với công suất 30.000 mã lực. Bao gồm có: Hộp số giảm tốc, bình ngưng làm mát, bơm tuần hoàn và các đường ống hơi nước.

Hai tổ hợp máy tuabin hơi nước hoạt động trên một trục van, động cơ tua bin tốc độ cao truyền hộp số được giảm xuống còn 100 vòng / phút và thông qua khớp nối li hợp truyền tới trục chân vịt, quay bánh trục chân vịt bảy cánh có cấu tạo hình lưỡi liềm với đường kính 8 m với tốc độ giảm của vòng quay (cấu trúc thiết kế như vậy có thể giảm tối thiểu tiếng ồn thủy âm khi tầu đang chạy với tốc độ tuần kiểm sẵn sàng chiến đấu).

Hai máy phát điện đa cực tuabin tốc độ thấp có công suất 4.000 kW trên mỗi máy, cung cấp nguồn điện với điện áp 450 V và tần số 60 Hz, nguồn điện này thông qua thiết bị nắn dòng chuyển đổi điện xoay chiều thành điện một chiều cung cấp cho động cơ điện quay bánh trục chân vịt (trong trường hợp này, các tổ máy tuabin hơi nước không trực tiếp cung cấp động lực quay trục chân vịt).
Khi phát triển hệ thống động lực trạm nguồn đã áp dụng một số giải pháp để đảm bảo duy trì tiếng ồn thấp nhất ở tốc độ thấp và trung bình. Hệ thống động lực của tàu ngầm có chế độ đặc biệt tiếng ồn thấp do sự tuần hoàn tự nhiên nước hấp thụ nhiệt - làm mát ở vòng tuần hoàn chính trong đó vẫn duy trì tối đa công suất của lò phản ứng, chế độ sử dụng sự tuần hoàn tự nhiên này là chế độ cơ bản trong cơ động tuần tra chiến đấu.

Trong chế độ hoạt động thông thường, nhiệt năng từ lò phản ứng được truyền đến các tổ hợp khí nén hơi nước, hơi nước được đẩy vào các cánh quạt tua-bin, làm quay các cánh quạt và quay trục chính, động lực trục chính thông qua hộp giảm tốc truyền đến trục chân vịt và quay chân vịt. Trong chế độ hoạt động tiếng ồn thấp sơ đồ phức tạp hơn - hơi nước từ tổ hợp khí nén hơi nước được truyền vào trạm máy phát điện tua – bin hơi nước, cung cấp điện cho động cơ điện dẫn động quay trục chân vịt.

Trong trường hợp này đã khóa lại các bộ phận, các trang thiết bị gây tiếng ồn – các máy bơm tuần hoàn của các động cơ tua –bin khí hơi nước và lò phản ứng hạt nhân, nhưng làm giảm công suất của lò phản ứng hạt nhân và tổ hợp khí nén - hơi nước.

Chân vịt được quay bằng động lực của động cơ điện, và động cơ điện tiêu hao điện năng từ các trạm máy phát điện tua bin hơi nước. Do đó có thể loại trừ cả tiếng ồn phát sinh từ bộ giảm tốc, truyền động lực từ động cơ tua bin khí hơi nước ra trục chân vịt trong chế độ chạy hết công suất.

Giải pháp thiết kế Lò phản ứng hạt nhân đã được áp dụng trên tầu ngâm nguyên tử USS Narwhal (SSN 671) với công suất nhỏ hơn hai lần S5G. Các nhà thiết kế cũng tiến hành các nghiên cứu thử nghiệm khả năng tuần hoàn tự nhiên của nước dẫn nhiệt – làm mát trên lò phản ứng loại S6G, được lắp đặt trên tầu ngâm đa chức năng đa nhiệm "Los Angeles"

So với các tàu ngầm khác, lớp tàu ngầm Ohio có những đặc điểm thiết kế riêng biệt, đó là thân vỏ tầu được gắn kết thành một khoang chung đối xứng trục tâm, một đường trục truyền động lực, các bộ phận khác nhau được kết nối và bộ phận cách ly trục quay chân vịt, cách ly các đường ống dẫn, rất nhiều các hệ thống giảm xóc và lớp vật liệu cách âm phía bên trong khoang tầu, trong thiết kế hệ thống động lực thân tầu đã đưa chế độ giảm tiếng ồn vào các thiết bị, loại bỏ hoạt động của các máy bơm tuần hoàn , nghiên cứu chế tạo và đưa vào sử dụng chân vịt tốc độ thấp có cấu trúc đặc biệt. Với thiết kế cánh chân vịt kiểu mới đã giảm độ ồn xuống nếu so với các tàu ngầm SSBN lớp "Lafayette" 134-102 dB.

Hệ thống động lực phụ trợ là trạm nguồn diesel công suất 1400 kW và động cơ điện công suất 325 mã lực được chế tạo bởi công ty "Magnatek". Trạm nguồn diesel được sử dụng như thiết bị dẫn của hệ thống điều khiển lái tầu bằng điện hoặc trong trường hợp sự cố đối với động lực trạm nguồn chính. Hệ thống động lực được cất trong khoang kín của tàu và trong trường hợp cần sử dụng sẽ đẩy ra. Hệ thống nằm trên giá di chuyển và có thể quay 360o trên mặt phẳng ngang.

Theo các thông số kỹ thuật, tàu có thể cơ động dưới nước với tốc độ khoảng hơn 20 knots. Thực tế tàu ngầm Ohio có khả năng tăng tốc đến 25 knots

Một tàu Ohio có thể hủy diệt cả lục địa

Vũ khí chủ yếu của tàu ngầm lớp Ohio là tên lửa đạn đạo, được bố trí trong 24 hầm phóng thẳng đứng, phân ra thành hai hàng dọc theo thân tầu, ngăn cách nhau bằng các vách ngăn trượt. Các tàu đầu tiên được trang bị tên lửa đạn đạo Trident I С-4, trên cơ sở các tên lửa này đã chế tạo 8 chiếc Ohio đầu tiên, (SSBN-726 — SSBN-733), đôi khi còn được gọi là nhóm tàu ngầm thứ 1. Các tàu còn lại được trang bị tên lửa đạn đạo hiện đại hơn lớp Trident II D-5.

Vào năm 2003 theo các điều khoản của Hiệp ước cắt giảm vũ khí tiến công chiến lược, số lượng tàu mang tên lửa đạn đạo giảm xuống còn 14, bốn chiếc tàu thuộc nhóm 1 (SSBN-726 — SSBN-729) được chuyển loại sang mang tên lửa hành trình BGM-109 Tomahawk. Các tàu còn lại thuộc nhóm 1 được lắp đặt tên lửa Trident II D-5.

Trên các tàu tên lửa Trident I, lắp đặt hệ thống niêm cất và phóng tên lửa Mk35 mod 0, các tàu còn lại với tổ hợp Trident II — Mk35 mod 1. Hệ thống lưu giữ và phóng tên lửa bao gồm các hầm phóng, hệ thống thứ cấp đẩy tên lửa SLBM, hệ thống thứ cấp kiểm soát, điều khiển phóng đạn cũng như các thiết bị nạp cho tên lửa.

Hầm phóng đạn là một ống ca hình trụ bằng thép, được gắn chặt với thân của SSBN. Cùng với yêu cầu khả năng lắp đặt các hệ thống tên lửa Trident II , hầm phóng tên lửa trên tàu có kích thước lớn hơn so với các tàu ngầm lớp "Lafayette", (đường kích ống phóng là 2,4m, chiều cao là 14,8m). Hầm phóng có nắp đậy bằng hệ thống thủy lực. Nắp đậy có nhiệm vụ bịt kín, không để lọt nước hoặc không khí vào hầm phóng tên lửa. Nắp đậy cũng được chế tạo để chịu lực nén tương tự như thân tàu. Trên nắp có 4 cửa nhỏ để kiểm soát sự vận hành cũng như kiểm tra bên trong của hầm phóng tên lửa.

Hệ thống cơ khí đặc biệt có nhiệm vụ khóa nắm hầm bảo vệ và chống các xâm nhập trái phép vào hầm phóng, điều khiển đóng mở cửa hầm phóng với những yêu cầu về quyền truy cập mở cửa hầm phóng đạn.

Trong hầm phóng lắp đặt ca (hình trụ tròn) phóng đạn và thiết bị cung cấp hỗn hợp khí gas – hơi nước. Ống phóng đạn được đậy kín bằng lớn màng chắn nước dày, ngăn chặn khả năng lọt nước biển vào hầm phóng khi mở nắp đậy – cửa phóng tên lửa. Lớp màng bảo vệ có hình vòm và được chế tạo từ nhựa phenolic hoặc amiăng cường lực.

Khi phóng tên lửa, nhờ có các quả đạn hình cầu nạp chất nổ thường được lắp ở phía trong lớp màng phát nổ, xé rách tấm màng ở giữa và một số cạnh tấm màn chắn nước. Hầm phóng có các đầu giắc cắm kiểu mới, cho phép kết nối hầm phóng, tên lửa với các thiết bị điểu khiển phóng đạn, giắc cắm này sẽ tự động tuột ra vào thời điểm phóng đạn.

Trên tàu ngầm Ohio lắp hệ thống điều khiển phóng đạn loại Mk 98, hệ thống điều khiển chuẩn bị cho tất cả các tên lửa chuyển trạng thái từ thường xuyên lên tăng cường trong vòng 15 phút.

Trong thời gian trước khi phóng tên lửa, hệ thống điều khiển bắn sẽ tiền hành các tính toán về tầm bắn, nạp thông tin vào bộ nhớ máy tính tên lửa, tiến hành các hoạt động chuẩn bị phóng đạn, kiểm tra đạn trước khi phóng sẵn sàng tiến hành phóng tên lửa, Trong hệ thống điều khiển phóng tên lửa có máy tính đường đạn Mk 98, tổ hợp máy tính này có khả năng trước thời điểm chuẩn bị phóng nạp thông tin mục tiêu cho tất cả các tên lửa trong cùng một lúc.

Trước khi phóng tên lửa, trong hầm tàu được tăng cường áp lực khí nén. Trong mỗi hầm phóng để tạo ra hỗn hợp khí nén đã được lắp đặt bình bột tạo áp lực (PAD). Khí gas, thoát ra từ bình PAD, đi qua thùng chứa nước, một phần đã được làm nguội và tràn vào phía dưới của cốc phóng đạn hình trụ, đẩy tên lửa phóng lên với gia tốc khoảng 10g. Tên lửa bị đẩy ra khỏi hầm phóng với vận tốc 50m/s.

Khi tên lửa chi chuyển lên phía trên sẽ xé tan lớp màn chắn bảo vệ, và nước tràn vào hầm phóng. Cửa phóng tên lửa của hầm phóng tự động đóng lại sau khi tên lửa thoát ra, nước từ hầm phóng được máy bơm hút vào các bể dự bị đặc biệt. Để giữ được thăng bằng và độ sâu của tàu khi phóng tên lửa hệ thống ổn định thân tầu sử dụng tổ hợp con quay hồi chuyển để điều khiển các cánh ổn định đồng thời điều tiết lượng nước trong các bồn nước dằn tầu.

Tên lửa đạn đạo được phóng liên tục với giãn cách từ 15 – 20 s ở độ sâu đến 30m, tốc độ hải trình là 5 knots và biển động đến cấp 6. Tất cả các tên lửa đều có thể phóng trong cùng một loạt có giãn cách (thử nghiệm chưa bao giờ thực hiện phóng hết tất cả cơ số đạn mà thường chỉ thử nghiệm theo phương pháp ngẫu nhiên lựa chọn).

Dưới nước, tên lửa di chuyển không điều khiển, khi tên lửa thoát ra khỏi mặt nước, theo tín hiệu nhận được của sensor cảm biến gia tốc sẽ khởi động động cơ đẩy tầng thứ nhất. Theo chế độ tiêu chuẩn sẽ khởi động động cơ trên độ cao so với mặt nước biển là 10 – 30 m.

Độ chính xác của định vị vị trí tàu ngầm xác định bởi các thống số của hệ thống điều hướng – hoa tiêu dẫn đường từ hệ thông định vị vệ tinh Loran-C and NAVSTAR. Khai thác sử dụng các hệ thống này kết hợp với việc đưa vào sử dụng hệ thống ổn định ESGN con quay hồi chuyển với mô tơ điện treo tự do đã nâng khả năng xác định chính xác tọa độ vị trí của tàu lên từ 4 -6 lần so với các tàu ngầm thế hệ trước.

Tên lửa Trident II D-5 có thể được lắp đặt hai loại đầu đạn hạt nhân — W76 đương lượng nổ 100 kt và W88 đương lượng nổ 475 kt. Trong trường hợp tải trọng cao nhất tên lửa đạn đạo có thể mang tới 8 đầu đạn thứ cấp W88 hoặc 14 đầu đạn W76 trên tầm xa hỏa lực là 7360. Sử dụng các thiết bị định vị hàng không đồng bộ với việc nâng cao hiệu quả của các thiết bị dẫn đường đã giảm độ sai lệch so với trung tâm mục tiêu của W88 КВО còn 90—120 м.

Để tiêu diệt các hầm phóng tên lửa của đối phương, các trắc thủ tên lửa tàu ngầm sử dụng phương pháp xác định tọa độ “2 trong 1” nhằm vào một mục tiêu hầm phóng tên lửa là 2 đầu đạn từ 2 tên lửa Trident II khác nhau. Xác suất trúng mục tiêu đạt đến 0,95. Các đầu đạn thứ cấp W88 được chế tạo là 400 đơn vị. Do đó đại đa số các tên lửa được lắp đặt các đầu đạn W76. Trong trường hợp sử dụng các đầu đạn thứ cấp có đương lượng nổ thấp hơn, xác suất tiêu diệt mục tiêu hầm phóng tên lửa đạt đến 0,84.

Lượng tên lửa tàu Ohio mang theo được đánh giá có sức mạnh bằng tất cả số bom đạn được các phe sử dụng trong đại chiến thế giới thứ hai. Chỉ cần một tàu Ohio khai hỏa vũ khí hạt nhân cũng dư sức hủy diệt toàn bộ một lục địa.

Tại thời điểm hiện này, theo các điều khoản của Hiệp ước cắt giảm vũ khí tiến công chiến lược START trên mỗi tên lửa chỉ được mang không quá 8 đầu đạn thứ cấp. Để đạt được tầm bắn xa nhất trên mỗi tên lửa được lắp 6 đầu đạn W88 hoặc 8 đầu đạn W76. Chính vì vậy vào năm 2007 số lượng đầu đạn thứ cấp được lắp trên các tên lửa đạn đạo là 404 đơn vị W88 và 1712 đầu đạn W760. Theo thông bảo của Chuẩn đô đốc Hải quân Raymond G. Jones các đầu đạn W88 chỉ được lắp trên 4 tàu ngầm nhóm hai của lớp Ohio.

Mỗi chiếc tàu ngầm Ohio trong số 4 tàu nhóm 1 được lắp 154 tên lửa hành trình Tomahawk 22 trong số 24 hầm phóng được thiết kế lại để lắp các ống phóng đạn thẳng đứng của tên lửa hành trình. Mỗi hầm phóng tên lửa được thiết kế lại và lắp đến 7 ống phóng tên lửa hành trình thẳng đứng.

Hai hầm phóng gần với boong thượng được lắp hệ thống khoang đóng mở tự động ngầm. Trong các khoang này được lắp tàu ngầm mini ASDS ( Advanced SEAL Delivery System) hoặc các module thiết bị lặn DDS ( Dry Deck Shelter) để đưa lực lượng đặc biệt ra khỏi tàu ngầm hoặc quay về tàu, khi tàu đang ở trạng thái lặn ngầm.

Các khí tài này có thể được lắp đồng thời 2 chiếc, hoặc mỗi loại một chiếc, số lượng không quá 2. Khi lắp và khai thác sử dụng các thiết bị này, thông thường sẽ phải khóa một phần các hầm phóng tên lửa, đối với tàu ngầm mini, số lượng hầm phóng bị khóa là 3, đối với module khí tài lặn ngầm DDS ngắn hơn, hai hầm phóng đạn sẽ bị khóa.

Tàu ngầm Ohio có thể mang bổ xủng thêm 66 quân nhân thực hiện nhiệm vụ đặc biệt dưới nước của Lực lượng SEAL hoặc lính thủy đánh bộ. Trong các chiến dịch ngắn ngày, thời gian cơ động ngầm không quá dài, có thể tăng cường đến 102 người.

Ngư – thủy lôi

Tất cả các tàu ngầm đều được lắp đặt 4 ống phóng ngư lôi tự bảo vệ. Các ống phóng ngư lôi nằm ở phần mũi tàu với một góc nghiêng nhỏ so với mặt phẳng đường kính của tàu. Trong biên chế, cơ số ngư lôi là 8 đạn Mk-48, được sử dụng để chống tàu ngầm và tàu nổi.
Đài sonar trên tàu ngầm Ohio

Trong quá trình đóng tàu ngầm lớp Ohio, đã lắp đặt đài radar trinh sát thủy siêu âm AN/BQQ-6, một biến thể nâng cấp hiện đại của sonar AN/BQQ-5 được lắp đặt trong tàu ngầm đa mục đích. Trong các tàu ngầm, đài sonar hoạt động chủ yếu ở chế độ thụ động – thu các tín hiệu thủy siêu âm. Trong tổ hợp đài AN/BQQ-6 đã được lắp đặt một loạt các đài sonar thứ cấp khác.

Cơ sở căn bản của tổ hợp là đài sonar 2 chế độ chủ động và thụ động AN/BQS-13 nhưng có những hạn chế nhất định ở chế độ phát chủ động nếu so sánh với đài sonar AN/BQQ-5. Đài sonar có một anten hình cầu đường kính 4,6 m, được tạo thành bởi 944 hydrophone. Anten thu thụ động AN/BQR-23 là một khối bảo giác bao gjoomf có 104 hydrophones, bao bọc phía bên ngoài của chụp elip mũi tầu. Anten thu thụ động của đài sonar AN/BQR-15 là một an ten kéo theo tầu TB-29 có chiều dài là 47,7 m trên một đoạn cáp dài 670 m.

Các tín hiệu thu được từ đài sonar được xử lý bằng máy tính sonar công suất lớn AN/BQR-23. Khi cơ động hành quân anten được xếp gọn trên thân tầu phía trên về bên trái. Để thực hiện các nhiệu vụ hoa tiêu điều hướng và dẫn đường cho hải trình sử dụng đài sonar chủ động AN/BQR-19.

Trong các tình huống địa hình phức tạp như bơi ngầm dưới nước và các hoạt động chống mìn sử dụng anten chủ động tầm gần AN/BQS-15. Khi bơi trên mặt nước biển tàu ngầm Ohio sử dụng radar AN/BPS-15A (trên tàu ngầm SSBN 741—743 lắp đặt (AN/BPS-16).
Trong quá trình hiện đại hóa theo chương trình A-RCI (Acoustic Rapid COTS Insertion) tất cả các đài sonar của tàu ngầm Mỹ, bao gồm cả AN/BQQ-6 được hiện đại hóa theo phương án AN/BQQ-10. Từ 4 đài sonar riêng biệt đã sử dụng một đài chung COTS (commercial-off-the-shelf) với cấu hình thiết kế mở cho phép dễ dàng nâng cấp bằng các module.

Hệ thống cũng như khả năng như lập bản đồ bằng các tín hiệu thủy siêu âm (PUMA — Precision Underwater Mapping and Navigation), cho phép định dạng bản đồ thủy văn có khả năng xác định cao, khả năng xác định được cả những vật thể nhỏ như các loại thủy lôi, mìn đáy, đồng thời có khả năng hoạt động dạng Net, trao đổi thông tin với các hạm tàu khác. Tiến trình hiện đại hóa lần đầu tiên đã được thực hiện đối với tàu ngầm Alaska vào mùa thu năm 2000.

Để phát hiện khả năng bị chiếu xạ bằng sóng siêu âm sử dụng đài AN/WLR-10. Đồng thời đồng bộ với hoạt động trên tàu là đài trinh sát sonar AN/WLR-8(V)5 trên mặt biển cảnh báo sớm về hiện tượng chiếu xạ radar hoạt động ở dải tần số 0,5—18 GHz. SSBN được bố trí 8 ống phóng đạn gây nhiễu loại Mk2 nhằm chống bức xạ siêu âm và đài gây nhiễu và tác chiến điện tử sonar AN/WLY-1.
Đài hoạt động tự động tìm kiếm xác định chủng loại ngư lôi tấn công đồng thời xác định loại tín hiệu gây nhiễu thủy siêu âm để phá hủy ngư lôi hoặc đánh lạc hướng. Tàu ngầm còn được trang bị đạn giả định dạng tàu ngầm Mk70 MOSS (Mobile Submarine Simulator), được phóng ra từ ống phóng ngư lôi. Hiện nay, các loại đạn giả mô phỏng tàu ngầm được đưa lên lưu kho trên bờ trong thời gian vô hạn định.

Tàu ngầm lớp Ohio được trang bị kính tiềm vọng loại Kollmorgen Type 152 và Type 82.

'Kẻ hủy diệt' lang thang trên đại dương

Để phục vụ cho các tàu ngầm Ohio, đã hiện đại hóa hai căn cứ hải quân - một ở bờ biển Thái Bình Dương (căn cứ hải quân Bangor, bang Washington) và một trên Đại Tây Dương (căn cứ hải quân tại vịnh Kings, Bang Georgia). Mỗi cơ sở được thiết kế để cung cấp dịch vụ cho 10 tàu ngầm. Trên các căn cứ được xây dựng và lắp đặt trang thiết bị để tiếp nhận, cung cấp vũ khí, đạn, dịch vụ kỹ thuật bảo trì, bảo dưỡng và sửa chữa nhỏ các tàu ngầm. Đồng thời cũng xây dựng doanh trại cho các thủy thủ đoàn nghĩ ngơi và học tập.

Trên mỗi căn cứ đều có các trung tâm huấn luyện để tập huấn kỹ chiến thuật các thủy thủ đoàn. Trung tâm có thể tiếp nhận và huấn luyện trong năm đến 25.000 quân nhân. Các mô hình học cụ mô phỏng cho phép thủy thủ đoàn học điều khiển tàu ngầm trong mọi điều kiện thời tiết, môi trường và địa hình thủy văn, bảo gồm cả các tình huống phóng tên lửa và ngư lôi. Huấn luyện sĩ quan hải quân được thực hiện trên thành phố Groton.

Từ năm 1997 tàu ngầm Ohio là loại tàu ngầm duy nhất của Hải quân Mỹ mang tên lửa đạn đạo cấp chiến lược còn nằm trong biên chế sẵn sàng chiến đấu. Tất cả các tàu ngầm khác loại đều được đưa ra khỏi biên chế sẵn sàng chiến đấu của lực lượng Hải quân. Cũng năm 1997, Hải quân Mỹ tiếp nhận chiếc tàu ngầm lớp Ohio cuối cùng được chế tạo — USS Louisiana (SSBN-743).

Với số lượng hiện có là 18 tàu ngầm Ohio, SSBN tiến hành từ 3 -4 chuyến hải tuần trong một năm, chiếm 50 – 60% thời gian ngoài biển lớn theo thống kê số liệu năm 2008. Cũng trong năm 2008 , các tàu ngầm đã thực hiện 31 chuyến hải tuần với thời gian, thời gian mỗi chuyến là 60 – 90 ngày dưới biển.

Nằm trong bộ ba răn đe hạt nhân, để tránh không bị phát hiện, trừ số ít người liên quan, không ai biết các tàu ngầm hạt nhân Ohio đang lang thang ở đâu trên đại dương và chúng có thể nhận lệnh tấn công bất cứ lúc nào nếu Mỹ cảm thấy bị đe dọa.
Copyright 2012 Tin Tức Quân Sự - Blog tin tức Quân Sự Việt Nam
 
Lên đầu trang
Xuống cuối trang